Read more
(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)
Osho Tự Truyện
(Cuộc Đời Luận Sư Osho)
Chương 7. Diễn Đạt Cái Bất Khả Diễn Đạt:
Những Khoảng Im Lặng Giữa Những Lời Nói
Nghe hoặc Tải MP3 'Osho Tự Truyện' ê
Trong 35 năm, tôi đã
liên tục nói mà không có mục đích gì cả. Với việc nói chuyện nhiều như vậy, tôi
đã có thể trở thành một vị tổng thống, một thủ tướng; không có gì khó cả. Với
việc nói chuyện nhiều như thế, tôi đã có thể làm một cái gì đó. Nhưng mà tôi đã
đạt được cái gì?
Trước hết, tôi không
nhằm vào lợi lộc – tôi ưa thích công việc của mình. Đây là hội họa của tôi, đây
là ca khúc của tôi, đây là thi ca của tôi. Ngay những khoảnh khắc đó, khi tôi
đang nói, và tôi cảm thấy sự giao cảm xảy ra, những khoảnh khắc khi mà tôi thấy
đôi mắt bạn bừng sáng lên, khi tôi thấy rằng bạn đã hiểu điều mấu chốt… chúng
cho tôi niềm vui quá lớn lao đến nỗi tôi nghĩ, nó tràn đầy quá rồi, không cần
thêm gì vào nó nữa.
Bạn không biết về hằng
ngàn những người chứng ngộ, họ đã sống và chết đi, bởi vì họ không có tài năng
gì đặc biệt, để người bình thường thấy được họ. Có thể họ đã có một cái gì đó độc
đáo; chẳng hạn, có thể họ đã đạt tới một "trạng thái" im lặng bao la,
nhưng cái đó thường không được lưu ý nhiều.
Tôi biết một người chứng
ngộ tại Bombay khi tôi ở đó, và tài năng duy nhất của ông là làm những bức tượng
đẹp bằng cát. Tôi chưa bao giờ thấy những bức tượng đẹp như thế. Suốt ngày ông
thường làm chúng trên bãi biển, và hằng ngàn người thấy chúng và ngạc nhiên. Họ
đã nhìn thấy tượng Phật Gautama, Krishna, Mahavira, nhưng không có sự so sánh.
Và ông không đang làm việc trên cẩm thạch, chỉ bằng cát biển. Người ta thường
ném những đồng rupee; ông không hề bận tâm. Tôi đã nhìn thấy những người khác lấy
đi những đồng bạc đó; ông cũng không bận tâm về chuyện đó. Ông quá bị hút vào
việc nắn những bức tượng. Nhưng những bức tượng đó không tồn tại lâu. Chỉ một
làn sóng biển đến, và vị Phật cát biến đi.
Trước khi chứng ngộ,
ông sinh sống bằng cách đó, di chuyển từ thành phố này sang thành phố nọ và làm
những bức tượng cát. Và chúng quá đẹp, đến nỗi không thể không tặng ông một cái
gì đó. Ông kiếm đủ sống, đủ cho một người.
Bây giờ ông đã chứng
ngộ – nhưng ông chỉ có một tài năng duy nhất, làm tượng cát. Dĩ nhiên, ông sẽ
làm những bức tượng cát, chúng trỏ về phía sự chứng ngộ, nhưng đó là sự hiến tặng
duy nhất mà ông có thể làm. Sự hiện hữu sẽ sử dụng cái đó. Những bức tượng của
ông đều toát lên chất thiền. Chỉ đơn giản ngồi bên cạnh những bức tượng cát của
ông, bạn có thể cảm thấy rằng, ông đem đến cho bức tượng một sự cân đối, một
hình thể nào đó, một khuôn mặt nào đó, nó tạo ra một cái gì đó bên trong bạn.
Tôi hỏi ông, "Tại
sao ông tiếp tục làm tượng Phật Gautama, Mahavira? Ông có thể làm tượng Rama,
ông có thể làm tượng Krishna. Ông có thể kiếm được nhiều hơn – bởi vì đất nước
này không phải là nước Phật giáo, và có rất ít người Jaina..."
Nhưng ông nói,
"Chúng sẽ không phục vụ cho mục đích của tôi; chúng không chỉ mặt trăng.
Chúng sẽ là những bức tượng đẹp – tôi đã làm tất cả những bức tượng đó trước
đây – nhưng bây giờ, tôi chỉ có thể làm cái mà nó là một lời giáo huấn, cho dù
nó sẽ không khả thị đối với hằng triệu người, hầu như đối với tất cả mọi người."
Vào thời gian tôi đến
sống thường trú tại Bombay, ông đã mất, nhưng trước đó, bất cứ khi nào tôi đến
đó, tôi tự nhủ, thế nào cũng phải đến viếng thăm ông. Ông làm việc trên bãi biển
Juhu vào thời điểm đó. Suốt ngày nơi đó im lặng, người ta chỉ đến vào buổi chiều
và vào lúc đó, những bức tượng đã sẵn sàng. Suốt ngày, không có sự quấy rầy
nào.
Tôi nói với ông,
"Ông có thể làm những bức tượng, tại sao ông không dùng cẩm thạch? Chúng sẽ
tồn tại mãi mãi."
Ông nói, "Không
có gì thường hằng cả" – đó là một câu trích dẫn từ đức Phật – "và những
bức tượng cát này tái hiện đức Phật tốt hơn bất cứ bức tượng cẩm thạch nào. Một
bức tượng cẩm thạch có một sự thường hằng nào đó, còn những bức tượng này thì
phù du – chỉ một cơn gió mạnh, và chúng biến đi, một làn sóng biển, và chúng biến
đi. Một đứa trẻ chạy đến vấp vào bức tượng, và nó biến đi."
Tôi nói, "Ông
không cảm thấy tiếc hay sao – khi ông
làm việc suốt ngày, và bức tượng chỉ sắp xong, và rồi một cái gì đó xảy ra và
công trình của một ngày biến mất?"
Ông nói, "Không.
Tất cả mọi hiện hữu đều phù du; không có vấn đề phẫn chí. Tôi ưa thích việc tạo
ra nó, và nếu một làn sóng biển ưa thích việc phá hủy nó, thì cả hai chúng tôi
đều thích thú! Tôi thích thú tạo ra nó, làn sóng thích thú phá hủy nó. Do vậy,
trong hiện hữu luôn có những niềm vui kép, cả hai cùng vui – thì tại sao tôi lại
phải phẫn chí? Làn sóng có nhiều quyền lực đối với cát như tôi có; có lẽ có nhiều
hơn."
Khi tôi đang nói chuyện
với ông, ông nói, "Anh hơi kỳ lạ một chút, bởi vì không có ai nói chuyện với
tôi. Người ta chỉ ném những đồng rupee. Họ ưa thích những bức tượng, nhưng không
ai ưa thích tôi. Nhưng khi anh đến, tôi cảm thấy quá phúc lạc, vì có một ai đó
ưa thích tôi, một ai đó không chỉ quan tâm đến bức tượng, mà còn quan tâm đến
cái ý nghĩa bên trong của nó, đến việc tại sao tôi đang làm nó. Tôi không thể
làm bất cứ cái gì khác. Suốt đời tôi vẫn chỉ làm những bức tượng; đó là nghệ
thuật duy nhất mà tôi biết. Và bây giờ tôi phó thác cho sự hiện hữu; bây giờ sự
hiện hữu có thể sử dụng tôi."
Những người này sẽ vẫn mãi không được nhận ra. Một vũ công có thể là một vị Phật, một ca sĩ có thể là một vị Phật, nhưng những người này sẽ không được nhận ra, vì lý do đơn giản là những sự việc mà họ làm không thể trở thành một lời dạy. Nó không thể giúp người ta thực sự tỉnh dậy khỏi giấc ngủ của mình. Nhưng họ đang cố hết sức; bất cứ cái gì họ có thể làm, họ đang làm.
Số rất ít người mà trở thành đạo sư, là những người trong nhiều kiếp đã thủ đắc một biện tài nào đó, một tri kiến sâu sắc về từ ngữ, ngôn ngữ, âm của từ, sự đối xứng và thi ca của ngôn ngữ. Nó là một điều hoàn toàn khác. Nó không phải là vấn đề ngôn ngữ học hay ngữ pháp; đúng hơn, đó là vấn đề tìm ra trong ngôn ngữ bình thường một thứ âm nhạc phi thường nào đó, là vấn đề tạo ra phẩm chất của thi ca vĩ đại trong văn xuôi bình thường. Họ biết cách chơi với từ ngữ, để mà có thể giúp bạn vượt lên từ ngữ.
OSHO
Không phải là họ đã
chọn việc làm đạo sư, và cũng không phải là sự hiện hữu đã chọn họ làm đạo sư.
Đó chỉ đơn giản là một trùng hợp ngẫu nhiên: trước khi chứng ngộ, họ đã là những
"giáo thụ" vĩ đại và họ trở nên đạo sư bởi vì họ đã chứng ngộ. Bây giờ
họ có thể biến việc dạy của họ thành một "thiện nghệ” – và chắc chắn đó là
cái phần khó khăn nhất.
Những ai mà vẫn cứ im
lặng và biến mất một cách bình an, mà không ai biết đến họ, những người đó có một
con đường dễ dàng; nhưng một người giống như tôi, không thể có một con đường dễ
dàng. Nó không dễ dàng khi tôi là "giáo thụ" – làm thế nào nó có thể
dễ dàng khi tôi là một đạo sư? Nó nhất thiết là phải khó khăn.
Vấn đề nảy sinh cho hầu
hết mọi người, là cái cách tôi nói chuyện thì khá kỳ lạ. Không có diễn giả nào
trên thế giới nói giống như tôi – về mặt kỹ thuật, nó sai; nó phải mất gần như
gấp đôi thời gian! Nhưng những diễn giả đó có một mục đích khác hẳn – mục đích
của tôi thì hoàn toàn khác với mục đích của họ. Họ nói bởi vì họ được chuẩn bị
cho việc đó; họ chỉ đơn giản lặp lại một cái gì đó mà họ đã diễn tập. Thứ hai,
họ đang nói để áp đặt một ý thức hệ nào đó, một ý tưởng nào đó lên bạn. Thứ ba,
đối với họ, nói là một nghệ thuật – họ tiếp tục tinh luyện nó.
Trong trường hợp của
tôi, thì tôi không phải là cái mà họ gọi là một diễn giả, hay một nhà hùng biện.
Đối với tôi, nó không phải là một nghệ thuật, hay là một kỹ thuật; về mặt kỹ
thuật, tôi tiếp tục trở nên càng ngày càng tệ! Nhưng những mục đích của tôi và
của họ thì hoàn toàn khác nhau. Tôi không muốn gây ấn tượng lên bạn, để
"thao túng" bạn. Tôi không nói với mục đích là để thuyết phục bạn.
Tôi không nói để "cải đạo" bạn thành người Kytô giáo, thành người
Hindu giáo, hay Hồi giáo, thành một người hữu thần hay vô thần – đây không phải
là những mối quan tâm của tôi.
Việc nói năng của tôi
thực sự là một trong những "thủ thuật” của tôi cho việc thiền định. Việc
nói năng chưa bao giờ được sử dụng trong cách này: tôi nói không phải để trao
cho bạn một thông điệp, mà để làm cho tâm trí của bạn ngừng vận hành.
Tôi không nói điều gì
đã được chuẩn bị trước – chính tôi không biết cái từ kế tiếp sẽ là từ nào; do vậy,
tôi không bao giờ phạm một sai lầm nào. Người ta phạm sai lầm nếu người ta được
chuẩn bị. Tôi không bao giờ quên bất cứ cái gì, bởi vì người ta quên nếu người
ta vốn hằng nhớ nó. Do vậy, tôi nói với một sự tự do mà có lẽ không ai khác từng
có khi nói.
Tôi không quan tâm về
việc mình có nhất quán hay không, bởi vì đó không phải là mục đích của tôi. Một
người mà muốn thuyết phục bạn, và thao túng bạn qua việc nói của y, thì y phải
nhất quán, phải hợp logic, phải chinh phục lý trí của bạn. Y muốn thống trị qua
lời nói.
Một trong những cuốn
sách rất nổi tiếng của Dale Carnegie là về việc nói và gây ảnh hưởng trên mọi
người, xem đó là một nghệ thuật – nó được bán chạy chỉ sau Kinh Thánh – nhưng
tôi sẽ rớt những kỳ thi của ông. Ông thường điều hành những khóa học tại Mỹ để
huấn luyện những nhà truyền giáo, những giáo sư đại học, và những nhà hùng biện.
Tôi sẽ rớt trên nhiều phương diện. Trước hết, tôi không có động cơ muốn cải đạo
bạn; tôi không có ước muốn "gây ấn tượng" trên bạn, ở bất cứ nơi đâu.
Và tôi không nhớ tôi đã nói gì ngày hôm qua, cho nên tôi không thể bận tâm về
việc phải nhất quán – cái đó gây ra quá nhiều lo lắng. Tôi có thể tự mâu thuẫn
một cách dễ dàng, bởi vì tôi không đang cố truyền thông với cái tâm trí mang
tính tri thức, hợp lý tính của bạn.
Mục đích của tôi thì
quá “đặc biệt” – tôi đang dùng những từ ngữ chỉ để tạo ra những khoảng trống im
lặng. Những từ ngữ thì không quan trọng, cho nên tôi có thể nói bất cứ điều gì
mâu thuẫn, bất cứ điều gì phi lý, bất cứ điều gì không ăn nhập, bởi vì mục đích
của tôi chỉ là tạo ra những khoảng trống. Những từ ngữ là thứ yếu; những khoảng
im lặng giữa những từ ngữ đó mới là chủ yếu. Đây chỉ là một "thủ thuật"
để cho bạn một thoáng nhìn về thiền định. Và một khi bạn biết rằng nó là điều
khả dĩ đối với bạn, thì bạn đã đi xa về hướng bản thể của riêng bạn.
Hầu hết mọi người
trên thế giới không nghĩ rằng tâm trí có thể im lặng. Bởi vì họ không nghĩ rằng
nó có thể, họ không cố. Làm thế nào để cho người ta nếm một chút thiền vị – đó
là lý do căn bản của tôi, tại sao tôi nói chuyện; do vậy, tôi có thể tiếp tục nói
chuyện vĩnh viễn – tôi nói cái gì, điều đó không quan trọng. Cái quan trọng, là
tôi cho bạn một ít cơ hội để im lặng, một điều mà bạn thấy khó khăn khi ban đầu
bạn thực tập một mình.
Tôi không thể cưỡng
bách bạn im lặng, nhưng tôi có thể tạo ra một "thủ thuật", trong đó một
cách tự phát, bạn buộc phải im lặng. Tôi đang nói, và giữa một câu, khi bạn
đang mong đợi một từ khác theo sau, thì không có gì theo sau, ngoài một khoảng
trống im lặng. Tâm trí bạn đang chăm chú để lắng nghe, chờ đợi một cái gì đó theo
sau, và không muốn bỏ sót nó – tự nhiên nó trở nên im lặng. Cái tâm trí đáng
thương có thể làm gì? Nếu nó biết rõ tại những điểm nào tôi sẽ im lặng, nếu bạn
được thông báo rằng, tại những điểm như thế , như thế, tôi sẽ im lặng, thì bạn
có thể xoay xở để suy nghĩ – bạn sẽ không im lặng. Rồi bạn biết: "Đây là
cái điểm nơi mà ông ấy sắp im lặng, bây giờ mình có thể tán gẫu một chút với
chính mình." Nhưng bởi vì nó đến một cách hoàn toàn bất ngờ… Chính tôi
không biết tại sao tôi ngừng lại tại những điểm nhất định nào đó.
Bất cứ cái gì giống
như thế này, ở bất cứ một nhà hùng biện nào trên thế giới, sẽ bị chỉ trích. Bởi
vì một nhà hùng biện mà cứ ngừng lại nhiều lần, thì có nghĩa là anh ta không được
chuẩn bị tốt, anh ta đã không làm "bài làm ở nhà". Nó có nghĩa là,
trí nhớ của anh ta là không đáng tin cậy, là đôi khi anh ta không thể tìm ra
cái từ thích hợp phải dùng. Nhưng bởi vì nó không phải là hùng biện, tôi không
quan tâm về những người mà sẽ chỉ trích tôi – tôi quan tâm đến bạn.
Và nó không chỉ ở
đây, mà ở chốn xa xôi… bất cứ nơi nào trên thế giới mà ở đó người ta sẽ lắng
nghe băng ghi hình hay ghi âm của tôi, thì họ sẽ đi tới cùng một sự im lặng
tương tự. Thành công của tôi không phải là việc thuyết phục bạn, thành công của
tôi là cho bạn nếm một chút thiền vị thực thụ để mà bạn có thể trở nên tin chắc
rằng, thiền định không phải là một hư cấu; rằng trạng thái "vô–trí"
không phải chỉ là một ý tưởng triết học, mà nó là một thực tại; rằng bạn có khả
năng hành thiền, và nó không cần bất cứ điều kiện chuyên môn đặc biệt nào.
Có thể bạn là một kẻ
tội lỗi, có thể bạn là một vị thánh – cái đó không thành vấn đề. Nếu kẻ tội lỗi
có thể trở nên im lặng, hắn ta sẽ đạt tới cùng một "sự tỉnh thức" như
vị thánh.
Sự hiện hữu thì không
quá hà tiện, quá keo kiệt như các tôn giáo vẫn hằng dạy bạn. Sự hiện hữu thì
không giống như KGB hay FBI – quan sát mọi người để xem bạn đang làm cái gì, để
xem bạn có đang đi xem phim với chính vợ bạn không, hay với vợ ai khác. Sự hiện
hữu không quan tâm chút nào cả. Đó chỉ là một vấn đề nhân tạo. Trong sự hiện hữu,
không có cái gì giống như hôn nhân. Bất kể là bạn đang ăn cắp tiền, lấy từ két
sắt của một ai đó, hay từ chính két sắt của mình, sự hiện hữu không và không thể
quyết định sự khác biệt. Bạn đang lấy tiền từ két sắt – đó là một sự kiện –
nhưng két sắt thuộc về ai, đó hoàn toàn không phải là mối quan tâm của sự hiện
hữu.
Một lần George
Bernard Shaw được hỏi, "Một người có thể sống một cách quá lười biếng, chỉ
đơn giản thọc tay vào túi mình và hưởng thụ không?" Shaw trả lời,
"Vâng, chỉ có điều, đó phải là cái túi của một ai khác!"
Thọc tay vào túi của
riêng mình, bạn không thể sống sót! Và sự kiện là, hầu hết mọi người đều thọc
tay vào túi của một ai khác. Và cái gã đó có thể thọc bàn tay của hắn vào túi của
một ai khác, cho nên hắn không thể ngăn chặn bạn, bởi vì, bằng cách ngăn chặn bạn,
hắn sẽ bị ngăn chặn. Do vậy, hắn phải chấp nhận nó, và nếu hắn thọc bàn tay
mình vào một cái túi "nặng"
hơn, thì hắn không quan tâm về bạn: "Hãy cứ tiếp tục làm bất cứ cái gì mà bạn đang làm,
chỉ đừng tạo ra một sự rối loạn."
Sự hiện hữu không có
một "đạo đức tính" như thế – nó là "phi luân". Đối với sự hiện hữu, không có gì sai và không
có gì đúng. Chỉ có một điều đúng – việc bạn tỉnh giác và "tỉnh thức". Rồi thì bạn được phúc lạc.
Thật kỳ lạ, rằng
không có tôn giáo nào định nghĩa "cái đúng" như là phúc lạc, hay định
nghĩa "đức hạnh" như là phúc lạc.
Nếu họ định nghĩa nó y hệt như cách tôi đang định nghĩa nó, thì họ sẽ gặp
khó khăn – bởi vì họ lo ngại khi thấy rằng, trên thế giới, những người mà họ
nghĩ là những kẻ tội lỗi, thì lại có vẻ như hạnh phúc hơn những người mà họ
nghĩ là những vị thánh! Những vị thánh nom có vẻ hoàn toàn bất hạnh. Và nếu họ
nói rằng sự phúc lạc là tiêu chí để phân biệt đúng hay sai, thì họ sẽ phá hủy
toàn bộ cái siêu cấu trúc của họ. Những vị thánh sẽ nom có vẻ giống như những kẻ
tội lỗi, và những kẻ tội lỗi sẽ nom giống như những vị thánh.
Nhưng cái này là tiêu
chí của tôi, bởi vì tôi không quan tâm về những kinh điển, tôi không quan tâm về
những nhà tiên tri, tôi không quan tâm về quá khứ – đó là việc của họ, vấn đề của
họ. Tôi có đôi mắt của riêng mình để nhìn, tại sao tôi lại phải lệ thuộc vào
đôi mắt của ai khác? Và tôi có "ý thức" của riêng tôi, mà tôi phải nhận
biết, thì tại sao tôi lại phải lệ thuộc vào Phật Gautama, hay Bồ Đề Đạt Ma, hay
Jesus Christ? Họ sống đời họ theo sự hiểu biết và thị kiến của họ; tôi sống đời
tôi theo sự hiểu biết và thị kiến của tôi.
Nỗ lực của tôi ở đây
– khi nói chuyện với bạn – là trao cho bạn một cơ may để thấy rằng bạn có khả
năng trở thành một "vô–trí" như Phật Gautama – rằng, nó không phải là
một phẩm chất đặc biệt ban cho một ít người, rằng nó không phải là một tài
năng. Mọi người không thể là một họa sĩ và mọi người không thể là một nhà thơ –
đó là những tài năng. Mọi người không thể là một thiên tài – đó là những phẩm
chất được ban cho từ lúc chào đời. Nhưng mọi người đều có thể chứng ngộ – đó là
điều duy nhất mà về nó chủ nghĩa cộng sản có lý. Và thật khá kỳ lạ, đó là cái
duy nhất mà chủ nghĩa cộng sản phủ nhận.
Sự chứng ngộ là điều
duy nhất, kinh nghiệm duy nhất, nơi mà mọi người đều bình đẳng – có khả năng
ngang nhau . Và nó không tùy thuộc vào những hành vi của bạn, nó không tùy thuộc
vào những lời cầu nguyện của bạn, nó không tùy thuộc vào việc bạn có tin Thượng
đế hay không. Nó chỉ tùy thuộc vào một điều, và đó là nếm một chút hương vị –
và đột nhiên bạn trở nên tin chắc rằng bạn có khả năng thực hành nó. Việc nói
chuyện của tôi chỉ là để trao cho bạn sự tin tưởng. Do vậy, tôi có thể kể một
câu chuyện, tôi có thể buông ra một lời nói đùa – hoàn toàn không ăn nhập!
Mọi người trí thức sẽ
chê bai tôi; họ nói, "Đây là loại ‘thuyết giảng’ gì thế?" Nhưng mà
anh ta đã không hiểu mục đích của tôi; nó không phải là một bài diễn thuyết. Nó
chỉ là một "dụng cụ" để mang niềm tin tưởng đến cho bạn và trái tim bạn,
rằng bạn có thể im lặng. Bạn càng trở nên tin tưởng, bạn sẽ càng có năng lực để
làm điều đó. Không có việc nói chuyện của tôi, bạn sẽ bắt đầu tự mình tìm kiếm
những dụng cụ. Chẳng hạn, bạn có thể tiếp tục lắng nghe những con chim – chúng
đột nhiên ngừng lại, chúng đột nhiên cất tiếng hót. Hãy lắng nghe… không có lý do tại sao con quạ
này gây ra những tiếng ồn, rồi ngừng lại. Nó chỉ đơn giản trao cho bạn một cơ hội.
Bạn có thể tìm thấy những cơ hội này, một khi bạn biết cách – thậm chí tại nơi
họp chợ, nơi mà có quá nhiều sự ồn ào, mọi sự đang diễn ra, điên rồ.
Việc nói chuyện của
tôi không có tính chất hùng biện; nó không phải là một học thuyết mà tôi đang
rao giảng cho bạn. Nó chỉ là một dụng cụ võ đoán, để cho bạn nếm một chút, để
biết "hương vị" của sự im lặng là gì, và để làm cho bạn xác tín rằng,
nó không phải là một tài năng – rằng nó không thuộc về những người có chuyên
môn đặc biệt nào, rằng nó không thuộc về những sự khổ hạnh lâu dài, rằng nó
không thuộc về những người tự gọi mình là đức hạnh. Nó thuộc về mọi người,
không có điều kiện nào cả; bạn chỉ phải nhận biết nó. Đó là toàn bộ mục đích của
tôi trong việc nói chuyện với bạn.
Một khi bạn đã chắc
chắn rằng bạn có thể im lặng, thì toàn bộ tiêu điểm của bạn sẽ thay đổi. Nó
không phải là một vấn đề kỷ luật, nó không phải là một vấn đề cầu nguyện, không
phải là vấn đề tin vào Thượng đế và mọi loại vớ vẩn. Nó là vấn đề cảm nhận
chính khả tính của bạn, và một khi đã biết khả tính đó và trở nên xác tín về
nó, thì toàn bộ nhãn quan của bạn sẽ có một mầu sắc khác.
Kinh nghiệm của riêng
tôi là, bạn có thể im lặng, và nếu bạn có thể vượt lên tâm trí, và "tâm thức"
của bạn có thể tăng trưởng, thì không quan trọng vấn đề bạn đang làm cái gì; những
hành động của bạn không được tính đến một chút nào, chỉ "tâm thức" của
bạn mới là quan trọng. Hành động chỉ là những chuyện rất nhỏ, nhưng cho đến
nay, mọi tôn giáo đều vẫn đang xem trọng những hành động của bạn, chứ không phải
"tâm thức" của bạn. Các tôn giáo đã và đang huấn luyện bạn cách nào để
hành động đúng, và cái gì cần phải tránh. Nhưng không ai đang nói rằng, trừ khi
“sự tỉnh thức” của bạn khởi lên, bạn sẽ không có tính tôn giáo đích thực.
Nhưng một điều ngạc
nhiên với tôi, là, khi bạn trở nên im lặng,
khi bạn trở nên có tỉnh thức, tỉnh giác hơn, thì những hành động của bạn bắt đầu
thay đổi – chứ không phải ngược lại. Bạn có thể thay đổi những hành động của
mình, nhưng cái đó sẽ không làm cho bạn tỉnh thức hơn. Khi bạn trở nên tỉnh thức
hơn, thì hành động của bạn sẽ thay đổi – cái đó là hoàn toàn đơn giản và khoa học.
Bạn đang làm một cái gì đó xuẩn ngốc; nhưng khi bạn trở nên tỉnh giác hơn, và
nhiều tỉnh thức hơn, bạn không thể làm nó.
Đó không phải là một
vấn đề thưởng và phạt. Chính sự tỉnh thức của bạn, sự im lặng của bạn, sự bình
an của bạn, là cái khiến cho bạn nhìn thật xa và thật sâu sắc vào trong mọi sự
mà bạn làm. Bạn không thể làm hại bất cứ ai; bạn không thể bạo động, bạn không
thể giận dữ, tham lam, bạn không thể tham vọng. "Sự tỉnh thức” của bạn đã
cho bạn quá nhiều phúc lạc… sự tham lam có thể cho bạn cái gì ngoài những lo
âu? Lòng tham vọng có thể cho bạn cái gì? Chỉ là một cuộc đấu tranh liên tục để
lên cao trên một chiếc thang nào đó.
Khi "tâm thức"
của bạn trở nên càng ổn định, thì tất cả mọi mẫu mực sống của bạn sẽ thay đổi.
Cái mà những tôn giáo đã gọi là tội lỗi, sẽ biến đi từ cuộc đời bạn, và cái mà
chúng gọi là đức hạnh, sẽ tự động tuôn chảy từ bản thể của bạn, từ những hành động
của bạn. Nhưng các tôn giáo đã và đang làm ngược lại: trước hết, thay đổi những
hành vi. Nó như thể là bạn đang ở trong một ngôi nhà tối tăm và bạn đang té vấp
vào đồ đạc, và bạn được bảo rằng, trừ khi bạn ngừng vấp té, thì không thể có
ánh sáng. Cái mà tôi đang nói, là: hãy mang đến ánh sáng, và sự vấp té sẽ biến
đi, bởi vì khi có ánh sáng, thì tại sao bạn lại vấp té vào đồ vật chứ? Mỗi lần
mà bạn vấp té, mỗi lần mà bạn đụng đầu vào tường, nó gây đau đớn. Tự nó là một
sự trừng phạt – một hành vi sai tự nó là một sự trừng phạt; không có ai đang
ghi chép những hành vi của bạn cả. Và mọi hành động đẹp đẽ, tự nó là một phần
thưởng. Nhưng trước hết, hãy mang ánh sáng vào cuộc đời bạn.
Thiền định là một nỗ
lực mang lại ánh sáng, niềm vui, sự im lặng và phúc lạc, và từ thế giới đẹp đẽ
này của thiền định, bạn không thể làm bất cứ điều gì sai.
Do vậy, tôi đã thay đổi
nó một cách hoàn toàn. Những tôn giáo đang nhấn mạnh trên hành động; sự nhấn mạnh
của tôi là trên "sự tỉnh thức” – ý thức và sự tỉnh thức chỉ tăng trưởng
trong im lặng. Im lặng là miếng đất thích hợp cho sự "tỉnh thức". Khi
bạn ồn ào, bạn không thể rất tỉnh giác và "tỉnh thức." Khi bạn tỉnh
thức và tỉnh giác, bạn không thể ồn ào – chúng không thể đồng hiện hữu.
Do vậy, việc nói chuyện
của tôi không nên được đưa vào một phạm trù với bất cứ loại hùng biện nào. Nó
là một "thủ thuật" cho thiền định, để mang đến sự tin tưởng trong bạn,
sự tin tưởng mà đã bị những tôn giáo lấy mất. Thay vì là sự tin tưởng, chúng đã
cho bạn mặc cảm tội lỗi, nó kéo bạn xuống và kềm giữ bạn trong nỗi buồn. Một
khi bạn đã trở nên tin tưởng rằng, những điều vĩ đại đang ở trong tầm tay của bạn,
bạn sẽ không cảm thấy tự ty, bạn sẽ không cảm thấy tội lỗi – bạn sẽ cảm thấy
phúc lạc. Bạn sẽ cảm thấy rằng, sự hiện hữu đã chuẩn bị cho bạn trở thành một
trong những đỉnh cao của “sự tỉnh thức”.
Phải mất một ít thời
gian để đạt tới sự tin tưởng – đó là lý do tại sao tôi đã và đang nói, sáng chiều,
liên tục trong gần 30 năm. Có lẽ 2 – 3 lần trong 30 năm này, tôi đã ngừng lại bởi
vì tôi không được khỏe; nếu không thế, thì đã không có sự đứt quãng. Nhưng bởi
vì tôi không thể tiếp tục nói suốt ngày để giữ cho bạn ở trong những khoảnh khắc
thiền định, tôi muốn bạn trở nên có trách nhiệm. Chấp nhận rằng bạn có khả năng
im lặng, cái đó sẽ giúp bạn khi bạn thiền định một mình. Biết được năng lực của
bạn… và người ta đi tới chỗ biết năng lực của mình chỉ khi nào người ta thể
nghiệm nó. Không có cách nào khác.
Hãy chú ý nhiều hơn đến
nó, đến việc tại sao bạn trở nên im lặng. Đừng bắt tôi chịu trách nhiệm hoàn
toàn về sự im lặng của bạn, bởi vì điều đó sẽ tạo ra một khó khăn cho bạn. Một
mình, bạn sẽ làm gì? Rồi thì nó trở thành một loại nghiện ngập, và tôi không muốn
bạn bị "nghiện" tôi. Tôi không muốn mình là một loại ma túy đối với bạn.
Những người mệnh danh
là đạo sư và "giáo thụ" của những tôn giáo trên toàn thế giới – tôi
đã gặp hầu hết mọi loại và mọi phạm trù các vị giáo thụ – đều muốn đệ tử của
mình "nghiện" họ, lệ thuộc vào họ. Đó là cái "cái ngáng quyền lực"
của họ. Tôi không muốn cái "ngáng quyền lực" nào cả. Tôi yêu mến bạn,
bất luận bạn có ở cùng tôi hay không. Tôi muốn bạn độc lập, và xác tín rằng, bạn
có thể đạt tới những khoảnh khắc quý giá này, một cách tự mình.
Nếu bạn có thể đạt tới chúng với tôi, thì không có lý do gì mà bạn lại không thể đạt tới chúng mà không có tôi, bởi vì tôi không phải là cái nguyên nhân tạo ra chúng. Bạn phải hiểu cái gì đang xảy ra: lắng nghe tôi, bạn đặt tâm trí bạn sang một bên. Lắng nghe đại dương, hay lắng nghe tiếng sấm của những đám mây, hay lắng nghe tiếng mưa đang rơi nặng hạt, chỉ đơn giản đặt cái ego của bạn sang một bên, bởi vì nó không cần thiết. Đại dương không định tấn công bạn, cây cối không định tấn công bạn – không cần phải tự vệ chút nào. Để cho mình mở ra – dễ bị tổn thương – với cuộc đời như nó là thế, với sự hiện hữu như nó là thế, bạn sẽ có được những khoảnh khắc này một cách liên tục – chẳng bao lâu, nó sẽ trở nên chính cuộc đời bạn.
Xem Tiếp Chương 8 – Quay Về Mục Lục