Chương 2. Tình yêu là người bạn duy nhất

Chương 2. Tình yêu là người bạn duy nhất

Price:

Read more

Osho - Bí mật của những bí mật (Tập 2)
Chương 2. Tình yêu là người bạn duy nhất
Ngày 28 tháng 8 năm 1978, buổi sáng tại thính đường Phật

Câu hỏi 1
Osho ơi,
Trong khi trong trị liệu bản thân tôi, tôi đã dành nhiều thời gian cho cầu nguyện. Qua nhiều năm tôi cảm thấy tốt hơn. Tôi chưa bao giờ biết liệu đó là liệu pháp hay lời nguyện. Là nhà trị liệu tôi muốn thôi thúc người khác cầu nguyện nhưng cảm thấy lúng túng.
Sadananda, yêu là liệu pháp, và không có liệu pháp nào khác trên thế giới ngoại trừ yêu. Bao giờ cũng là yêu chữa lành, bởi vì yêu làm cho bạn thành toàn thể, yêu làm cho bạn cảm thấy được đón chào trong thế giới, yêu làm cho bạn thành một phần của sự tồn tại. Nó phá huỷ xa lạ. Thế thì bạn không còn là người ngoài ở đây, nhưng hoàn toàn được cần tới. Yêu làm cho bạn cảm thấy được cần, và được cần là nhu cầu lớn nhất. Không cái gì khác có thể hoàn thành được nhu cầu lớn đó. Chừng nào bạn chưa cảm thấy rằng bạn đang đóng góp cái gì đó cho sự tồn tại, chừng nào bạn chưa cảm thấy rằng không có bạn sự tồn tại sẽ kém đi một chút, rằng bạn sẽ không bị bỏ qua, rằng bạn là không thể bị thay thế, bạn sẽ không cảm thấy mạnh khoẻ và toàn thể.
Và lời nguyện là dạng cao nhất của yêu. Nếu yêu là hoa, thế thì lời nguyện là hương thơm. Yêu là thấy được, lời nguyện là không thấy được. Yêu là giữa người này và người khác, lời nguyện là giữa một sự hiện diện vô nhân và sự hiện diện vô nhân của cái toàn thể. Yêu là bị giới hạn, lời nguyện là vô giới hạn. Nếu bạn có thể nguyện, không liệu pháp nào khác được cần.
Liệu pháp được cần trong thế giới bởi vì lời nguyện đã biến mất. Con người chưa bao giờ cần tới liệu pháp khi lời nguyện còn sống, tuôn chảy, khi mọi người nhảy múa trong lòng biết ơn lớn lao, ca bài ca trong lời ca ngợi Thượng đế, cực lạc chỉ vì hiện hữu, vì hiện hữu ở đây, đã biết ơn chỉ vì sự sống. Khi nước mắt chảy từ mắt họ - của tình yêu, của niềm vui - và khi có bài ca trong tim họ, không có nhu cầu về liệu pháp. Liệu pháp là nhu cầu hiện đại, cái thay thế nghèo nàn cho lời nguyện.
Phân tâm là cái thay thế nghèo nàn cho tôn giáo, rất nghèo. Nhưng khi bạn không thể có được cái tốt nhất, thế thì bạn bằng lòng với cái tốt thứ hai hay cái tốt thứ ba, hay bất kì cái gì sẵn có. Bởi vì đền chùa đã trở nên mục nát, nhà thờ đã trở thành chính trị, tôn giáo đã trở nên bị ô nhiễm bởi các tu sĩ, con người bị bỏ lại một mình - không được chăm nom, không ai hỗ trợ cho con người. Chính nền tảng trên đó con người đã từng trụ trong nhiều thế kỉ đã biến mất. Con người đang ngã vào vực thẳm, cảm thấy bị mất gốc rễ. Phân tâm tới như một cái thay thế: nó cho bạn chút ít bắt rễ, nó cho bạn chút ít nền tảng để bám giữ.
Nhưng nó không là gì khi so với lời nguyện. Bởi vì bản thân nhà phân tâm cũng đang cần, bản thân ông ấy cũng ốm như bệnh nhân, không có mấy khác biệt giữa nhà phân tâm và bệnh nhân. Nếu có khác biệt gì, khác biệt đó là về tri thức - và điều đó không tạo ra khác biệt chút nào. Nó không khác biệt về hiện hữu. Nếu có khác biệt nào đó là về định lượng, nó không phải là khác biệt về chất lượng, và số lượng không tạo ra mấy khác biệt. Nhà phân tâm và bệnh nhân của ông ta cả hai đều trên cùng một con thuyền.
Ngày xưa đã có một loại người khác di chuyển trên thế giới, người tôn giáo - Phật, Christ. Chính sự hiện diện của ông ấy đã chữa lành. Bởi vì ông ấy đã được chữa lành và là toàn thể, tính toàn thể của ông ấy lây lan. Cũng như bệnh tật có tính lây nhiễm, mạnh khoẻ cũng vậy. Cũng như bệnh có thể bị lây từ người khác, vậy bạn có thể bắt được cái gì đó của năng lượng chữa lành từ người khác. Nhưng để có điều đó, nhà phân tâm sẽ chẳng giúp ích gì mấy. Ông ấy có thể giúp chút xíu để giải quyết vấn đề của bạn, về mặt trí tuệ. Ông ấy có thể tìm ra nguyên nhân của vấn đề của bạn - và khi bạn biết nguyên nhân bạn cảm thấy khá hơn chút ít, bạn không trong dốt nát. Nhưng chỉ bởi việc biết nguyên nhân chẳng cái gì được giúp cả. Bạn khổ: nhà phân tâm sẽ chỉ ra rằng bạn đang khổ bởi vì mẹ bạn, vì giáo dục của bạn, vì thời thơ ấu của bạn. Điều đó làm cho bạn cảm thấy thoải mái chút ít: vậy là không phải bạn là nguyên nhân, đấy là do mẹ bạn, hay bao giờ cũng có cái gì đó khác bạn có thể đổ trách nhiệm lên. Phân tâm học dịch chuyển trách nhiệm, làm cho bạn cảm thấy bớt trọng lượng đi chút ít, đỡ nặng gánh, nhưng vấn đề không được giải quyết. Chỉ bởi việc biết nguyên nhân, nguyên nhân không biến mất.
Tôn giáo có xu hướng khác toàn bộ: nó không dịch chuyển đổ lỗi lên người khác. Thực ra, nó làm cho bạn cảm thấy trách nhiệm lần đầu tiên trong đời bạn. Do đó phân tâm là một loại hối lộ. Nó là một loại dầu bôi trơn, nó là một loại giúp đỡ trong bản ngã của bạn, làm mạnh cho bản ngã của bạn, đổ lỗi lên người khác. Nó là trò chơi rất nguy hiểm bởi vì một khi bạn bắt đầu đổ lỗi lên người khác bạn sẽ không bao giờ được biến đổi, bởi vì bạn sẽ không bao giờ cảm thấy có trách nhiệm. Đây là một trong những thảm hoạ lớn nhất mà có thể xảy ra cho thời đại này.
Marx nói rằng chính xã hội chịu trách nhiệm cho mọi ốm yếu mà bạn đang chịu đựng. Bạn không chịu trách nhiệm: chính do xã hội phân chia giai cấp, chính do cấu trúc kinh tế. Freud nói không phải cấu trúc kinh tế mà do ước định đã được trao cho bạn từ bố mẹ bạn, từ xã hội, từ giáo dục, từ các tu sĩ, từ nhà thờ. Nó là ước định, đó là lí do tại sao bạn khổ. Bạn không chịu trách nhiệm.
Đây là trò chơi cũ. Trong quá khứ nó được gọi là ‘trò chơi số phận’: số phận chịu trách nhiệm, bạn không chịu trách nhiệm. Đây là cùng trò chơi được chơi với những cái tên mới và nhãn mới, nhưng thủ đoạn là ở chỗ bạn không chịu trách nhiệm. Tất nhiên, người ta cảm thấy hạnh phúc hơn một chút, nhưng chẳng cái gì thay đổi. Sớm hay muộn hạnh phúc đó biến mất bởi vì nguyên nhân vẫn còn ở chỗ nó ở, vết thương vẫn còn: có thành vấn đề gì ai đã làm bạn bị thương? Chỉ bằng việc biết rằng mẹ bạn đã làm tổn thương bạn hay bố bạn hay xã hội hay nhà thờ, làm sao nó thành vấn đề được? Vết thương có đó, đầy mủ, phát triển, trở nên to hơn mọi ngày. Bạn có thể cảm thấy khá hơn chút ít trong một khoảnh khắc, không nặng gánh: vậy là bạn không chịu trách nhiệm, bạn chỉ là nạn nhân. Bạn có thể thông cảm với bản thân bạn, bạn có thể cảm thấy thương hại bản thân bạn và bạn có thể cảm thấy giận người khác, những người đã tạo ra vết thương. Nhưng đây không phải là cách biến đổi. Vết thương có đó và vết thương sẽ tiếp tục phát triển, vết thương không bận tâm về điều bạn nghĩ về nó. Việc nghĩ của bạn không tạo ra khác biệt gì cho vết thương.
Tôn giáo là cách tiếp cận khác toàn bộ: nó làm cho bạn cảm thấy có trách nhiệm. Nó chống lại bản ngã của bạn. Nó nói, “Chính bạn! Chính trách nhiệm của bạn đã chọn hình mẫu sống nào đó. Mọi hình mẫu đều sẵn có, không hình mẫu nào đã được áp đặt lên bạn.”
Phật đã được sinh ra trong cùng xã hội mà trong đó những người khác bị khổ, địa ngục khổ, và ông ấy đã đạt tới ở đây-và-bây giờ, trạng thái phúc lạc tối thượng. Cho nên xã hội không thể chịu trách nhiệm. Christ đã được sinh ra trong cùng xã hội trong đó Judas được sinh ra, trong đó mọi người khác đã được sinh ra, nhưng ông ấy đã đạt tới Thượng đế.
Tôn giáo làm cho bạn cảm thấy có trách nhiệm và tự do. Tự do và trách nhiệm là hai mặt của cùng một đồng tiền. Nếu bạn không sẵn sàng cảm thấy trách nhiệm, bạn sẽ không bao giờ được tự do. Bạn sẽ vẫn còn trong tù túng, trong tù túng của người khác.
Phân tâm làm cho bạn cảm thấy trong tù túng. Nó không thể giúp đỡ thực sự. Lời nguyện làm cho bạn tự do. Lời nguyện nghĩa là tôn giáo. Lời nguyện nghĩa là: bạn chịu trách nhiệm, bạn đã chọn một cách sống nào đó. Bây giờ không cần làm om sòm về nó. Nếu bạn không thích nó, bỏ nó đi! Điều đó là tuỳ ở bạn, nó là tuyệt đối tuỳ vào bạn. Và bạn có thể bỏ nó trong một khoảnh khắc của nhận biết. Đó là điều satori là gì, samadhi là gì: bỏ toàn bộ điều vô nghĩa, trong một khoảnh khắc hiểu biết, thấy ra vấn đề rằng “Mình đang mang nó và nếu mình không muốn, không cần mang nó. Không ai có thể áp đặt nó lên mình được - không số phận, không xã hội, không nhà thờ.”
Nó có thể bị bỏ đi bởi vì điều tinh tuý bên trong của bạn vẫn còn tự do với nhân cách của bạn. Nhân cách cũng giống như quần áo: bạn có thể bỏ nó, bạn có thể trần trụi vào bất kì khoảnh khắc nào. Điều tinh tuý của bạn có thể được lột trần vào bất kì lúc nào. Và khi điều tinh tuý được lột trần, bạn được chữa lành - bởi vì điều tinh tuý không biết tới ốm bệnh. Điều tinh tuý bao giờ cũng ở trạng thái lành mạnh, ở trạng thái toàn thể.
Lời nguyện là cách tối thượng để bỏ mọi nhân cách - người Ki tô giáo, người Hindu, người Jaina, Phật tử, người Ấn Độ, người Đức, người Anh. Lời nguyện là cách để gạt sang bên toàn thể vật liệu của nhân cách và chỉ hiện hữu, thuần khiết, hồn nhiên. Trong sự thuần khiết và hồn nhiên đó người ta bắt đầu cúi mình. Bạn có thể không tin vào Thượng đế, không cần tin vào Thượng đế; người tin không phải là người tôn giáo. Nhưng khi bạn hoàn toàn trần trụi trong điều tinh tuý của bạn, khi bạn đã vứt bỏ mọi quần áo - bạn đã vứt bỏ mọi điều đã từng được trao cho bạn, bạn đã gián đoạn bản thân bạn với điều được học, từ mọi điều bạn đã học, điều được dạy, điều được trau dồi - đột nhiên bạn ở trong sự sáng tỏ tinh khôi, như bạn đã từng ở từ trước việc sinh của bạn. Mặt nguyên thuỷ của bạn có đó. Nó tươi như giọt sương buổi ban mai, sáng lên như sao trong đêm, với mọi sự vĩ đại của hoa và cây, và với mọi sự giản dị và hồn nhiên của trẻ em, con vật, chim chóc.
Trong khoảnh khắc đó bạn cảm thấy vui thế, từ niềm vui bạn cúi mình - không phải với một Thượng đế. Nhớ lấy, không cần tin vào một Thượng đế. Bạn đơn giản cúi mình từ lòng biết ơn, không có đối tượng trong việc cúi mình của bạn. Bạn đơn giản cúi mình bởi vì thấy niềm vui vô hạn như thế trút xuống bạn chẳng bởi lí do nào cả - và bạn không xứng đáng, bạn không xứng với nó, bạn chưa bao giờ kiếm nó - làm sao bạn có thể vẫn còn đấy mà không bày tỏ lời cám ơn tận tâm với sự tồn tại? Đầu bạn cúi xuống, bạn buông xuôi. Bạn nằm ra trên đất trong im lặng hoàn toàn, tim bạn đập rộn ràng, đập cùng cực lạc. Việc thở của bạn có nhịp khác cho nó, giai điệu khác cho nó. Toàn thể năng lượng của bạn đang nhảy múa, tuôn chảy. Bạn đã rơi vào trong hài hoà với sự tồn tại. Đây là điều tôi gọi là lời nguyện, không phải là điều đang diễn ra trong nhà thờ và đền chùa. Điều đó là tựa như vẹt, nó là hình thức. Nó chẳng liên quan gì với lời nguyện thực. Và lời nguyện này chữa lành, lời nguyện này là liệu pháp thực.
Sadananda, bạn đúng. Câu hỏi này nảy sinh trong bạn là có ý nghĩa vô cùng: liệu bạn đã được chữa lành bởi liệu pháp hay lời nguyện? Bạn đã được chữa lành bởi lời nguyện. Liệu pháp đã không giúp cho bất kì ai. Nhiều nhất, liệu pháp có thể làm cho bạn được điều chỉnh theo xã hội. Lời nguyện giúp bạn rơi vào hoà điệu với bản thân sự tồn tại.
Xã hội là nhân tạo, giá trị của nó là nhân tạo, do đó chúng là khác nhau ở mọi nơi. Ở Ấn Độ có các giá trị khác, ở phương Tây có các giá trị khác. Cái gì đó hoàn toàn được ở phương Tây là tuyệt đối sai ở phương Đông, và ngược lại. Các giá trị này là do con người tạo ra.
Bạn sống trong xã hội, bạn phải điều chỉnh theo xã hội. Liệu pháp tâm lí là việc phục vụ cho xã hội bạn đang sống trong. Khi bạn bắt đầu đi ra khỏi xã hội, bạn bắt đầu trở nên có tính nổi dậy chút ít: xã hội chộp lấy bạn và tuyên bố bạn ốm bệnh. Đây là thủ đoạn cổ điển, một trong những thủ đoạn nguy hiểm nhất mà xã hội đã chơi trên bạn. Bất kì khi nào bạn không đứng vào hàng với xã hội, xã hội bắt đầu kết án bạn. Trong quá khứ nó thường gọi bạn là 'tội nhân', và thế rồi nó chuẩn bị địa ngục cho bạn. Bây giờ, ngôn ngữ đó lạc hậu rồi: nó gọi bạn là 'ốm', 'ốm tâm thần', 'ca tâm thần'. Đó là kết án mới.
Ở nước Nga xô viết, bất kì khi nào ai đó khác biệt với chủ nghĩa cộng sản, có ý tưởng riêng của mình về cuộc sống, sự tồn tại, xã hội, người đó lập tức bị tuyên bố là bệnh tâm thần, ca tâm thần. Một khi người đó bị tuyên bố là ca tâm thần, bây giờ xã hội có khả năng thao túng bạn. Bạn có thể cho người đó sốc điện, sốc insulin, ma tuý, bạn có thể buộc người đó sống trong nhà thương điên. Và mọi điều người đó đã làm là: người đó đã làm chút ít suy nghĩ. Tội của người đó là ở chỗ người đó không vâng lời theo mệnh lệnh chính thức của xã hội; người đó đã không vâng lời. Chừng nào xã hội còn chưa buộc người đó quay lại, cho người đó tẩy não, buộc người đó trở lại hàng, người đó sẽ bị giữ trong bệnh viện và sẽ bị đối xử như người ốm. Điều này là làm nhục, hạ giá trị, làm mất tính người, nhưng đó là điều đã từng được làm trên khắp thế giới, ít hay nhiều: bất kì khi nào một người khác với bạn, muốn sống cuộc sống khác, muốn được tự do khỏi tù túng mà bạn đã tạo ra nhân danh xã hội, bạn tuyên bố người đó là điên.
Jesus bị tuyên bố là thần kinh, Mansoor bị tuyên bố là điên, Socrates bị tuyên bố là nguy hiểm cho thanh niên của xã hội: “Giết họ bây giờ!” Bây giờ xã hội có thể giết họ mà không bị cắn rứt lương tâm. Thực ra, xã hội đang làm điều đúng: đầu tiên kết án ai đó, dán nhãn lên người đó. Nếu bạn giết ai đó mà không dán nhãn lên người đó, bạn sẽ cảm thấy mặc cảm; để tránh mặc cảm tuyên bố người đó là điên và thế thì giết là dễ dàng thế, phá huỷ là dễ dàng thế. Bây giờ chúng ta có công nghệ nữa, để phá huỷ tâm trí, để cho tâm trí việc tẩy não hoàn toàn, và để buộc người này nói có với mệnh lệnh chính thức, dù nó là bất kì cái gì: cộng sản, tư bản, phát xít.
Liệu pháp, cái gọi là liệu pháp, là để phục vụ cho xã hội đã được thiết lập. Nó là trong phục vụ cho chết, cho quá khứ. Lời nguyện không phục vụ cho ai cả. Lời nguyện là tự do. Lời nguyện là các giao cảm với cái toàn thể, và giao cảm với cái toàn thể là linh thiêng.
Bạn nói, “Trong khi trong trị liệu bản thân tôi, tôi đã dành nhiều thời gian cho cầu nguyện. Qua nhiều năm tôi cảm thấy tốt hơn. Tôi chưa bao giờ biết liệu đó là liệu pháp hay lời nguyện.”
Nó chắc chắn là lời nguyện.
“Là nhà trị liệu tôi muốn thôi thúc người khác cầu nguyện nhưng cảm thấy lúng túng.”
Tôi có thể hiểu, Sadananda. Lời cầu nguyện đã trở thành từ bẩn thỉu. Nói về lời cầu nguyện là lúng túng, nói về Thượng đế là lúng túng: mọi người nghĩ bạn có chút ít lập dị, dở hơi hay cái gì đó. Nhưng đừng sợ. Vứt bỏ cái lúng túng này đi, thu lấy dũng cảm. Nói về lời nguyện - không chỉ nói về lời nguyện, rơi vào trong lời nguyện khi bệnh nhân ở cùng với bạn. Để cho bệnh nhân cảm thấy bầu khí hậu của lời nguyện.
Có lần một đệ tử của Jesus hỏi ông ấy, “Lời nguyện là gì?” Ông ấy đơn giản quì xuống, bắt đầu nguyện, với nước mắt chảy từ mắt. Mắt ông ấy ngước lên trời, và ông ấy bắt đầu nói với Cha ông ấy - điều chỉ là biểu tượng. Ông ấy bắt đầu gọi, “Abba.” Ông ấy tạo ra bầu khí hậu: đó là cách duy nhất để biểu lộ lời nguyện là gì. Không có cách khác.
Nếu ai đó hỏi, “Yêu là gì?”, thì bầy tỏ yêu đi: ôm ghì người đó, cầm tay người đó, để cho tình yêu của bạn chảy tới người đó. Đó là cách duy nhất để nói yêu là gì. Đây là cách duy nhất để định nghĩa cái không thể định nghĩa được.
Rơi vào trong lời nguyện trong khi bạn đang giúp bệnh nhân đi. Quì xuống. Lần đầu tiên bệnh nhân có thể cảm thấy kì lạ, chút ít kì dị - "Cái gì đang xảy ra?" - vì người đó đã tới với ý tưởng nào đó rằng người đó sẽ phải nằm trên tràng kỉ Freud và người đó sẽ nói đủ mọi thứ vô nghĩa, và nhà phân tâm sẽ lắng nghe một cách rất chăm chú, dường như người đó đang chuyển giao phúc âm hay khải lộ. Người đó đã tới với mong đợi nào đó; người đó sẽ không có khả năng tin vào điều đang xảy ra.
Nhưng nếu lời nguyện có đó thì nó nhất định có hiệu quả: nó là lực tiềm năng thế. Bất kì khi nào có một người nguyện, người đó tạo ra rung động của lời nguyện quanh người đó. Và bệnh nhân đặc biệt là những người rất nhạy cảm - đó là lí do tại sao họ đã trở thành bệnh nhân. Nhớ điều đó! Họ thông minh hơn là số đông bình thường, do đó họ mới bị ốm! Số đông bình thường là không nhạy cảm thế, đờ đẫn thế, da dầy thế, nó liên tục mang mọi loại vô nghĩa mà không bị quấy rối bởi chúng. Nó liên tục sống cái gọi là cuộc sống vô nghĩa mà không bao giờ trở nên nhận biết về cái vô nghĩa của nó, cái ngu xuẩn và ngớ ngẩn hoàn toàn của nó. Bao giờ cũng nhớ rằn bệnh nhân là người nhạy cảm hơn số đông bình thường, tỉnh táo hơn, có nhiều tâm hơn để cảm. Do đó người đó thấy khó điều chỉnh được theo xã hội.
Xã hội tồn tại cho cái thấp nhất vì nó tồn tại cho số đông, cho quần chúng, cho đám đông. Xã hội là hiện tượng bầy đàn. Bất kì khi nào có ai đó thông minh hơn một chút, có chỉ số IQ cao hơn một chút, có thêm chút tiềm năng nào đó cho yêu và cho thơ ca, người đó sẽ cảm thấy bị điều chỉnh sai chút ít, người đó sẽ không cảm thấy như ở nhà. Thấy người ăn xin trên phố người đó sẽ khổ, thấy mọi loại khai thác đang diễn ra người đó sẽ khổ; thấy trạng thái nhân loại và việc xuống cấp người đó sẽ khổ - và tất cả những điều này sẽ trở thành quá nhiều. Người đó sẽ bắt đầu rạn nứt dưới gánh nặng này.
Nhớ rằng bệnh nhân là thông minh hơn, nhạy cảm hơn, mong manh hơn - do đó người đó mới là bệnh nhân. Nếu bạn tạo ra bầu không khí của lời nguyện quanh người đó, có thể lần đầu tiên người đó sẽ nghĩ bạn có chút lập dị, nhưng đừng lo. Mọi người đều biết rằng các nhà phân tâm đều có chút lập dị.
Tôi đã nghe...
“Tôi bị mất ngủ thực tệ,” nhà trị liệu tâm lí phàn nàn với bác sĩ điều trị.
“Mất ngủ,” bác sĩ nói, “là mất ngủ thôi. Làm sao nó có thể tệ được? Ông ngụ ý gì, ‘mất ngủ thực tệ’?”
“Thế này,” nhà trị liệu tâm lí nói. “Tôi bị nó thực tệ. Tôi thậm chí không thể ngủ được khi đến giờ dậy!”
Hay chuyện này:
Một bác sĩ trẻ đang học để là nhà phân tâm tiến tới giáo sư và hỏi một cách điều trị đặc biệt. Khi họ còn một mình trong văn phòng của giáo sư, anh thanh niên để lộ rằng anh ta có khá nhiều rắc rối với một số bệnh nhân của mình. Dường như là trong đáp ứng với câu hỏi của anh ta, các bệnh nhân này đưa ra lời đáp mà anh ta không thể nào hiểu được hoàn toàn.
“Được,” người già hơn nói, “giả sử anh hỏi tôi một số trong những câu hỏi này.”
“Sao vậy, chắc chắn,” bác sĩ trẻ đồng ý. “Câu hỏi thứ nhất là, cái gì là cái mặc chiếc váy và từ người đó cái môi đưa tới vui thích?”
“Sao vậy,” giáo sư nói, “dễ thế. Đó là một người Scotsman thổi kèn túi.”
“Đúng,” bác sĩ trẻ nói. “Bây giờ câu hỏi thứ hai. Cái gì là cái có đường cong mượt mà và vào những khoảnh khắc bất ngờ trở thành không kiểm soát nổi?”
Bác sĩ già nghĩ một thoáng, và thế rồi nói, “Aha! Tôi không nghĩ rằng điều đó là quá khó không trả lời được. Nó là cầu thủ bóng chầy liên đoàn ngoại hạng.”
“Đúng,” anh thanh niên nói. “Bây giờ, thưa giáo sư, thầy không phiền mà nói cho tôi thầy nghĩ gì về hai cánh tay trượt quanh vai thầy?”
“Một cú cản phá bóng đá,” giáo sư đáp.
“Lại đúng,” bác sĩ trẻ nói. “Nhưng thầy sẽ ngạc nhiên với những câu trả lời ngu xuẩn tôi đang nắm.”
Cho nên, Sadananda, đừng lo. Bạn có thể cầu nguyện, bạn có thể đi vào trong lời nguyện. Lần đầu tiên, có thể bệnh nhân sẽ nghĩ bạn hơi chút dở hơi. Và trong mầu cam, và với mala, bạn dở hơi rồi! Đừng lo nghĩ! Bạn được phép làm bất kì cái gì một khi bạn là một sannyasin: đây là chứng nhận.
Nhưng nếu bạn có thể tạo ra bầu khí hậu về lời nguyện, chẳng mấy chốc bạn sẽ thấy bệnh nhân tham gia cùng bạn. Người đó có thể cảm thấy, lần đầu tiên, cái gì đó của cái không biết và cõi bên kia. Và nếu người đó có thể lại cảm thấy cái gì đó của cái không biết, cuộc đời của người đó sẽ bắt đầu có nghĩa, ý nghĩa. Nếu người đó có thể có chút ít tiếp xúc với cái siêu việt, chỉ chút ít tiếp xúc thôi, cuộc đời của người đó sẽ không bao giờ như cũ nữa. Chỉ chút ít lối mở vào cõi bên kia, chút ít cửa sổ, và ánh sáng vào và bầu trời và mây và sao - chỉ chút ít cửa sổ và bạn đã biến đổi toàn thể con người của người đó.
Dùng liệu pháp của bạn nữa, nhưng giúp đỡ thực sẽ tới từ lời nguyện. Dùng liệu pháp như bàn đạp cho lời nguyện đi.
Câu hỏi 2
Tôi đang trong yêu, và tôi cảm thấy như một con bướm đang chết trong ngọn lửa nến. Tôi có được ngụ ý bằng cách nào đó thoát ra khỏi bản thân tôi và nhận biết và một mình, hay chết đi trong ngọn lửa này. Trong vui, trong đau, nó cứ tới mãi...
Madhuri, chết đi! vì chết trong yêu là được tái sinh. Nó không phải là cái chết, nó là bắt đầu của sống thực. Chết mà không yêu là chết. Sống mà không yêu là chết. Ở trong yêu là biết tới cái gì đó về Thượng đế, vì như Jesus nói, “Thượng đế là tình yêu.” Tôi thậm chí đã cải tiến nó; tôi nói: Yêu là Thượng đế.
Chết đi, Madhuri, chết đi. Hoàn toàn. Bỏ bản thân bạn đi. Mất đi.
Không cần bảo vệ bản thân bạn chống lại yêu, bởi vì yêu không phải là kẻ thù. Yêu là người bạn duy nhất, Đừng bảo vệ bản thân bạn. Đừng trốn tránh khỏi yêu. Đừng sợ yêu. Khi tình yêu gọi, đi cùng nó. Dù nó dẫn tới bất kì chỗ nào, đi cùng nó, đi trong tin cậy.
Vâng, sẽ có những khoảnh khắc cả đau đớn, vì chúng bao giờ cũng có đó khi có khoảnh khắc của cực lạc. Chúng tới cùng nhau. Nó là một gói, cũng như ngày và đêm, hè và đông, chúng tới cùng nhau. Nhưng khi có cực lạc của yêu, người ta sẵn sàng trả giá - dù bất kì đau khổ nào nó đem lại, người ta hạnh phúc trả giá.
Và nhớ, không cái gì là cho không cả. Chúng ta phải trả giá cho mọi thứ. Bạn càng có thể trả nhiều, bạn sẽ càng nhận nhiều. Nếu bạn muốn đi tới những đỉnh cao nhất của Himalayas, bạn nhận rủi ro ngã vào trong thung lũng. Những người không thể nhận rủi ro của việc ngã vào trong vực thẳm sâu bao quanh các đỉnh Himalaya sẽ không bao giờ biết niềm vui của việc vươn lên ngày càng cao hơn.
Yêu là đỉnh cao nhất của tâm thức, đỉnh Everest của tâm thức, và thỉnh thoảng người ta trượt và ngã. Và một cách tự nhiên, khi bạn đi lên đỉnh cao, bạn ngã rất sâu, đau đấy. Khi bạn biết ánh sáng và bạn rơi và bóng tối sâu, đau đấy. Nhưng một khi bạn đã biết những đỉnh đó, bạn sẵn sàng đi vào trong bất kì thung lũng nào cho những đỉnh đó. Một khoảnh khắc của cực lạc là đủ: người ta có thể chịu khổ vì nó trong địa ngục vĩnh hằng, thế thì điều đó nữa cũng là đáng có.
Suy ngẫm về những lời này của Kahlil Gibran:
Khi yêu vẫy tay ra hiệu, đi theo nó đi,
Cho dù con đường của nó là gian nan và dốc đứng.
Và khi cánh nó ôm bạn, nhường nó đi,
Cho dù kiếm giấu trong lông nó có thể làm bạn bị thương.
Và khi nó nói cho bạn, tin vào nó đi,
Mặc dầu tiếng của nó có thể làm tan nát giấc mơ của bạn
Vì gió bấc đè rạp tàn phá khu vườn.
Nhưng nếu trong sợ
bạn sẽ tìm chỉ an bình của yêu và vui thú của yêu,
Vậy tốt hơn cả là bạn che đậy sự trần trụi
và đi qua va đập của yêu,
Vào trong thế giới không mùa nơi bạn sẽ cười,
Nhưng không phải toàn tiếng cười,
Và khóc,
Nhưng không toàn nước mắt.
Yêu không cho gì ngoài bản thân nó và không lấy gì
ngoài chính nó.
Yêu không sở hữu không bị sở hữu:
Vì yêu là đủ cho yêu.
“Khi yêu vẫy tay ra hiệu, đi theo nó đi” - đi theo tới tận cùng, đi theo tới điểm bạn biến mất hoàn toàn. Trở thành con thiêu thân. Vâng, yêu là ngọn lửa và người yêu là con thiêu thân. Học nhiều từ con thiêu thân, nó có bí mật: nó biết cách chết. Và biết cách chết trong yêu, trong cực lạc, nhảy múa, là biết cách được tái sinh trên bình diện cao hơn. Và mỗi lúc bạn chết đi một bình diện cao hơn được đạt tới.
Khi bạn có thể chết đi một cách tối hậu và hoàn toàn, không giữ lại cho dù chút ít của bản thân bạn, thế thì cái chết đó đưa bạn vào Thượng đế. Điều đó là phục sinh.
Câu hỏi 3
Tại sao thầy không nhất quán trong phát biểu của thầy?
Tôi không thể thế được. Mục đích của các phát biểu của tôi là khác toàn bộ với phát biểu thông thường. Tôi không nói chân lí, vì chân lí không thể được nói. Thế thì tôi đang làm gì ở đây?
Nếu bạn coi các phát biểu của tôi là đúng hay không đúng, bạn sẽ bỏ lỡ toàn thể vấn đề. Tôi đang dùng các phát biểu để đánh thức bạn. Chúng không đúng mà cũng không không đúng. Chúng không hữu dụng hay vô dụng. Nhưng chúng chẳng liên quan gì tới chân lí. Chúng có tính tiện dụng nào đó.
Nó cũng giống như bạn ngủ say và tôi bắt đầu rung chuông, chẳng có gì là chân lí hay không chân lí trong việc rung chuông. Hỏi câu hỏi sẽ hoàn toàn không liên quan. Nhưng có cái gì đó hữu dụng trong nó: nếu nó giúp cho bạn thức dậy, nó đã là hữu dụng.
Phật tương truyền đã nói, “Chân lí là cái có tính tiện dụng.” Chân lí là một phương cách, nó không nói gì về sự tồn tại cả. Nó chỉ là phương cách để khêu gợi cái gì đó đang ngủ say trong bạn.
Bây giờ tôi không thể nhất quán được, bởi vì tôi phải khích nhiều người thế - các kiểu tâm trí khác nhau, các kiểu ngủ khác nhau có đó. Tôi có thể rung chuông: nó có thể giúp cho ai đó thức dậy, với ai đó khác nó có thể có vẻ như lời ru và người đó có thể rơi vào giấc ngủ thậm chí còn sâu hơn. Với ai đó nó có thể là khích vào sự nhận biết, với ai đó khác nó có thể đơn giản cho giấc mơ đẹp: rằng người đó đang ở trong đền chùa và chuông đang ngân và người đó tận hưởng, và lời nguyện đang diễn ra và hương đang cháy. Người đó đã tạo ra giấc mơ, người đó đã không ra khỏi giấc ngủ. Người đó sẽ cần cái gì đó khác - có thể là cú đánh lên đầu, hay nước lạnh dội lên người đó, hay việc lay mạnh. Người khác nhau cần cách tiếp cận khác nhau để được khêu gợi, được thức tỉnh.
Phát biểu của tôi không phải là về chân lí. Tôi không phải là triết gia! Tôi không cố cho bạn triết lí nào. Tôi chỉ cố mọi khả năng có thể để đánh thức bạn. Nếu khả năng này thất bại, tôi thử khả năng khác - nhưng tôi không thể bỏ bạn một mình. Cho nên một ngày nào đó tôi sẽ nói điều này, ngày khác tôi có thể nói điều khác. Bạn bỏ lỡ vấn đề nếu bạn không hiểu mục đích phát biểu của tôi.
Mới hôm nọ tôi đã trả lời hai câu hỏi của Habib về Carl Gustav Jung. Anh ấy đã bỏ lỡ toàn thể vấn đề. Tôi cảm thấy tiếc cho Habib: anh ấy đã bỏ lỡ toàn thể vấn đề, anh ấy cảm thấy bị xúc phạm. Và anh ấy thậm chí không thể đợi và suy ngẫm trong vài giờ: tôi kết thúc lúc 9:45 và anh ấy viết bức thư lúc 9:55. Anh ấy không thể đợi được một phút để suy ngẫm về nó. Anh ấy đã nghĩ tôi chống lại Jung. Sao tôi phải chống lại Jung? - ông ấy đã không làm gì sai với tôi cả.
Nhưng Habib đáng thương; anh ấy đã bỏ lỡ vấn đề. Anh ấy tưởng tôi chống lại Jung, cho nên anh ấy phải bảo vệ Jung. Anh ấy đã viết trong thư rằng anh ấy muốn có thảo luận công cộng hay riêng tư với tôi, cuộc tranh cãi.
Bây giờ bạn không thể thảo luận được với người điên! Điều đó sẽ hoàn toàn vô dụng, Habib. Điều đó sẽ là vô ích. Nó sẽ làm cho bạn phát rồ.
Tôi đã nghe...
Ngày xửa ngày xưa, một vị vua Ai Cập phát điên. Ông ấy là một người chơi cờ vua giỏi. Mọi thuốc đều đã được thử, mọi lương y đã làm việc trên ông ấy, những chẳng được gì, chẳng ích gì. Và ông ấy cứ chìm mãi chìm mãi vào điên khùng.
Thế rồi một sư khổ hạnh tới, một nhà huyền môn Sufi, và ông ấy nói, “Đợi đã! Nếu các ông có thể đem tới một người chơi cờ giỏi, điều đó sẽ có ích lắm. Người đó phải chơi cờ với nhà vua điên này.”
Bây giờ ai muốn chơi cờ với người điên? Nhưng nhà vua sẵn sàng trả nhiều tiền như được yêu cầu. Một người chơi cờ sẵn sàng - nhiều tiền thế! Và nhà huyền môn này cũng đúng: sau một năm nhà vua hoàn toàn lành mạnh. Nhưng người chơi cờ phát điên.
Cho nên nếu bạn có thảo luận với tôi, thận trọng vào - bạn sẽ phát điên! - bởi vì tôi không phải là người nhất quán, tôi không logic nữa. Tôi ngớ ngẩn.
Và Habib bỏ lỡ vấn đề. Nếu anh ấy mà là một người theo Freud tôi chắc đã công kích Freud rồi, nếu anh ấy là người Mác xít tôi chắc đã công kích Marx rồi, và nếu anh ấy là người theo Osho, tôi chắc đã công kích Osho rồi!
Vấn đề không phải là Jung! Jung chả tới đâu trong nó cả. Việc công kích là vào bản ngã của Habib! Bởi vì bản ngã này là về tính Jung, cho nên Jung đáng thương phải bị công kích.
Bây giờ nếu ngày mai ai đó tới và người đó theo Freud, và tôi sẽ công kích Freud. Và tôi sẽ nói, “Ông ấy chẳng là gì khi so với Jung - người lùn!” Và thế thì một cách tự nhiên tôi trở thành không nhất quán, vì bạn bỏ lỡ toàn thể vấn đề! Tôi chả liên quan gì tới Freud hay Jung. Ai chăm nom? Nỗ lực của tôi là khích bạn, chỉ ra cho bạn vấn đề. Không phải là Habib cảm thấy bị xúc phạm bởi vì tôi đã phê bình Jung đâu; anh ấy cảm thấy bị xúc phạm vì bản ngã anh ấy bị tổn thương. Nếu anh ấy có thể thấy điều đó, thế thì phát biểu của tôi là hữu dụng. Nếu anh ấy không thể thấy được điều đó, thế thì mũi tên bắn trượt điểm nhắm. Thế thì tôi sẽ phải dùng phương cách khác nào đó.
Tôi phải phá huỷ cấu trúc bản ngã của bạn. Do đó, đừng hỏi đi hỏi lại tôi tại sao phát biểu của tôi là không nhất quán. Tôi chỉ có một nhất quán: đó là việc không nhất quán. Tôi nhất quán với việc không nhất quán, đó là nhất quán duy nhất mà tôi có. Và tôi có tự do vô hạn bởi vì người nhất quán không thể có tự do vô hạn được. Tôi có thể chơi, tôi có thể đùa, tôi có thể tận hưởng làm tan nát bản ngã của bạn, phá huỷ cấu trúc của bạn. Tôi không nghiêm trang về những điều này. Tôi dám chơi, thử điều này đầu tiên, thế rồi điều khác. Phát biểu của tôi giống như diễn viên trên sân khấu: để cho chúng mâu thuẫn nhau đi; chúng không có đó để nói lên chân lí, nhưng để khích bác, để khám phá nó.
Và tôi muốn nói với bạn nữa: đừng làm gì đơn thuần chỉ vì nhất quán. Đó là chỗ trú cho người ngu và triết gia - thì cũng là cùng loại người thôi. Đừng bao giờ làm gì chỉ vì nhất quán. Điều này là không mong muốn vì nó giới hạn thực nghiệm và thám hiểm. Hành động, sao cho nhất quán với quá khứ, phát triển thành việc nghiện chương trình. Nó làm đông cứng bạn trong tình trạng ngưng trệ, dừng bước đi tiến hoá của việc trở thành. Bạn phải giữ lại mọi sức mạnh qua hành vi hiện thời. Không cái gì phải được nhường cho quá khứ. Hành động nhất quán với cái đi trước là một dạng của chết và phá huỷ mọi tiềm năng để trưởng thành trong hiểu biết.
Nhớ lấy, nhất quán là gì? Nó có nghĩa hôm nay của tôi phải vâng theo hôm qua của tôi - đó là nhất quán. Hiện tại của tôi phải tuân theo quá khứ của tôi - đó là nhất quán. Nhưng thế thì làm sao tôi sẽ trưởng thành được? Thế thì làm sao tôi sẽ di chuyển được? Nếu tôi vẫn còn nhất quán với quá khứ, thế thì không trưởng thành nào là có thể.
Trưởng thành nghĩa là không nhất quán: hôm nay của bạn phải đi ra ngoài hôm qua của bạn, phải không nhất quán với nó, phải dùng nó như bàn đạp, phải không bị giới hạn bởi nó, và ngày mai của bạn phải đi ra ngoài hôm nay của bạn. Nếu từng ngày bạn cứ đi xa khỏi quá khứ của bạn, bạn sẽ trưởng thành, bạn sẽ đạt tới những đỉnh cao hơn.
Người nhất quán là người ngu. Cuộc đời của họ tù đọng. Họ bốc mùi của chết, họ giống như cái xác: họ cứ mục nát ra, họ không sống. Sống về căn bản không phải là hiện tượng logic mà là hiện tượng biện chứng. Biện chứng nghĩa là chính đề, phản đề, tổng hợp: hôm qua của bạn là chính đề, hôm nay của bạn sẽ là phản đề và ngày mai của bạn sẽ là tổng hợp. Lần nữa ngày mai của bạn sẽ tạo chính đề và ngày tiếp lại phản đề và rồi tổng hợp - và cứ thế nó diễn ra. Bạn liên tục đi theo cách biện chứng.
Sống là quá trình biện chứng; nó không là quá trình tuyến tính, logic.
Sống là quá trình mâu thuẫn. Đó là lí do tại sao tôi không thể xác định được bản thân mình - bởi vì định nghĩa của hôm nay sẽ không áp dụng được cho ngày mai. Tôi không thể xác định được bản thân tôi vì nó giống như xác định mây hay đại dương hay cây đang lớn hay như đứa trẻ. Tôi thường xuyên thay đổi, bởi vì thay đổi là chính linh hồn của sống. Ngoại trừ thay đổi, chẳng cái gì là vĩnh hằng.
Tôi cam kết với thay đổi. Thay đổi là Thượng đế của tôi, bởi vì đó là hiện tượng không đổi duy nhất trong sống. Do đó tôi gọi nó là Thượng đế. Mọi thứ khác đều thay đổi: sống thay đổi, chết thay đổi - chỉ thay đổi còn lại. Tôi tôn thờ thay đổi. Tôi ở trong tình yêu với nó. Tôi không thể xác định được bản thân tôi một lần cho mãi mãi. Tôi phải xác định bản thân tôi từng khoảnh khắc của đời tôi; và người ta chẳng bao giờ biết khoảnh khắc tiếp sẽ đem tới cái gì.
Ở cùng tôi là ở trong dòng chảy thường xuyên, trong chuyển động thường xuyên. Những người không đủ can đảm, sớm hay muộn phải bỏ dở cuộc hành trình mà tôi đang đem bạn đi. Những người không đủ dũng cảm và người không có bạo dạn để chấp nhận tương lai không biết và vẫn còn sẵn có cho điều không thể biết và điều huyền bí, và người đang vội vàng có giáo điều, hệ thống niềm tin, triết lí - để cho họ có thể dừng trưởng thành, để cho họ có thể níu bám lấy giáo điều, để cho họ có thể trở thành cuồng tín về giáo điều - những người thường xuyên tìm kiếm chính thống nào đó trong đó chẳng cái gì sẽ thay đổi, đây là những người chết, hèn nhát. Họ không thể trở thành người của tôi được.
Tôi đang mang bạn tới một loại tôn giáo khác toàn bộ. Nó chưa bao giờ xảy ra trước đây trong thế giới. Mọi tôn giáo trên thế giới đều là người tin vào thường hằng, tôi tin vào thay đổi. Mọi tôn giáo của thế giới đều theo giáo điều, tôi tuyệt đối phi giáo điều, phản giáo điều. Mọi tôn giáo của thế giới đều thu về các phát biểu triết lí. Khi tôi sẽ mất đi, tôi sẽ để cho bạn một đống lộn xộn thế, không ai sẽ bao giờ có khả năng thu gọn lại điều tôi đã nói, thực sự. Không ai sẽ có khả năng thu nó vào trong một giáo điều.
Bạn không thể xác định được tôi, bạn không thể cố định được tôi. Tôi không phải là một vật. Tôi là sông, là mây thường xuyên thay đổi hình dạng của nó. Ý tưởng của tôi về nhất quán được bắt rễ trong sự thay đổi liên tục này, điệu vũ năng động này được gọi là sống. Vâng, với tôi Thượng đế là một vũ công: chuyển động thường xuyên, đó là cái đẹp của Thượng đế. Thực ra tôi không thích gọi Thượng đế là vũ công mà là bản thân điệu vũ, bởi vì ngay cả từ 'vũ công' cũng sẽ là sai. Nó cho ý tưởng về một thực thể nào đó. Nhưng chỉ điệu vũ, chỉ mây...
Có một chuyên luận huyền môn của Ki tô giáo cổ đại, Mây không biết. Không cuốn sách nào khác có tiêu đề hay thế: ‘Mây không biết’. Đó là định nghĩa về Thượng đế: ‘mây’ và ‘không biết’.
Bạn không thể làm ra tri thức từ kinh nghiệm về Thượng đế. Thực ra, bạn càng kinh nghiệm Thượng đế, bạn sẽ càng biết ít hơn. Cái ngày Thượng đế đã xảy ra cho bạn một cách toàn bộ, bạn sẽ không được tìm thấy ở đó: người biết đã mất rồi, biến mất rồi, giọt sương đã trượt vào đại dương, hay... đại dương đã trượt vào trong giọt sương.
Tôi không bị nặng gánh bởi hôm qua của tôi. Nó đã bị thay đổi bởi hôm nay. Tôi tin vào hiện tại bởi vì không có cách khác để sống. Mọi cách khác đều là cách của chết.
Cho nên xin bạn, đừng hỏi về nhất quán. Bạn phải học, bạn phải hiểu cái không nhất quán của tôi. Bạn phải hiểu mâu thuẫn của tôi. Điều cơ sở là ở chỗ các phát biểu của tôi không nói gì về chân lí cả. Phát biểu của tôi chỉ là lời khích. Tôi thôi thúc bạn khám phá, tôi không chuyển giao cho bạn chân lí! Chân lí không phải là thứ được trao cho bạn, nó không phải là món hàng. Nó là không thể truyền trao được. Tôi đơn giản tạo ra ham muốn và khao khát, một khao khát mãnh liệt trong bạn để tìm và kiếm và thám hiểm. Nếu tôi rất nhất quán, bạn sẽ dừng tìm kiếm.
Bạn sẽ nghĩ, “Cần gì? Osho biết rồi, mình có thể tin vào ông ấy.” Đó là điều Ki tô giáo đã từng làm, Phật giáo đã từng làm, Jaina giáo đã từng làm. “Phật biết rồi, vậy cần gì? Chúng ta có thể tin. Ông ấy không lừa dối, ông ấy không thể nói dối được. Ông ấy đã phát biểu chân lí. Chúng ta sẽ khám phá chân lí nào thêm nữa? Ông ấy đã nói ra chân lí; chúng ta có thể tin vào nó.” Bạn không cần lo nghĩ về thám hiểm riêng của bạn. Và đây là một trong những điều nền tảng nhất về chân lí: rằng chừng nào nó chưa là của bạn, nó không phải là chân lí. Chân lí của tôi không thể là chân lí của bạn. Không có cách nào. Chân lí của tôi không thể được truyền cho bạn.
Chân lí có tính cá nhân tuyệt đối. Mọi điều chư phật đã muốn trao nó cho bạn, tôi muốn nó được trao cho bạn, nhưng không có cách nào. Mọi điều có thể được làm là khích lệ việc truy hỏi trong bạn, một ham muốn vô cùng để biết rằng bạn bỏ mọi hành lí, hành lí không cần thiết, và bạn bắt đầu đi vào trong cuộc hành trình, rằng bạn thu lấy dũng cảm để đi ra khỏi an ninh, thuận tiện, ý thức hệ, triết lí, chính thống của bạn; rằng bạn thu lấy dũng cảm để đi ra khỏi tâm trí bạn và đi vào trong cái không biết. Mây của sự tồn tại, người ta phải biến mất vào trong nó.
Cho nên tôi sẽ không ép buộc bạn bằng việc cho bạn giáo điều. Không. Tôi sẽ cứ mâu thuẫn với bản thân tôi từng ngày, mọi khoảnh khắc. Dần dần, dần dần bạn sẽ thấy chẳng ích gì mà bám lấy bất kì ý tưởng nào của tôi. Và trong chính khoảnh khắc đó bạn sẽ trở nên nhận biết: không cần níu bám lấy bất kì ý tưởng nào về bất kì cái gì - của tôi, của Phật, của Jesus, của bất kì ai. Mọi ý tưởng đều phải bị vứt bỏ.
Và khi không có ý tưởng trong tâm trí bạn, bạn sẽ thấy Thượng đế ở đó. Khi mọi triết lí đã biến mất, thế thì tôn giáo trào lên trong bản thể bạn như dòng suối.
Câu hỏi 4
Tại sao khó hỏi câu hỏi thật thế? Và tại sao tôi cảm thấy ngu xuẩn thế về điều này và bất kì câu hỏi nào khác?
Bhagwato, câu hỏi thực không thể được hỏi. Chỉ câu hỏi không thực mới có thể được hỏi. Đó là lí do tại sao bất kì khi nào bạn hỏi một câu hỏi bạn sẽ cảm thấy chút ít ngu xuẩn - bởi vì sâu bên dưới bạn sẽ biết nó là không thực. Và chỉ cái không thực mới có thể được hỏi! Câu hỏi thực không thể được hỏi. Tại sao? - bởi vì tìm ra câu hỏi thực bạn sẽ phải đi sâu thế vào trong bản thể bạn, bạn sẽ phải đi tới chính trung tâm của bản thể bạn. Câu hỏi không thực tồn tại chỉ trên ngoại vi, câu hỏi không thực có cả triệu. Câu hỏi thực chỉ có một, nhưng nó tồn tại ở trung tâm. Nếu bạn muốn hỏi câu hỏi thực bạn sẽ phải đi vào trung tâm của bản thể bạn. Và vấn đề là: khi nào bạn ở trung tâm của bản thể bạn, bạn biết câu hỏi thực, nhưng ngay lập tức bạn biết câu trả lời thực nữa.
Câu hỏi thực chứa câu trả lời thực trong nó. Chúng là tức khắc, cùng nhau, đồng thời chúng xảy ra. Cho nên đó là lí do tại sao câu hỏi thực không bao giờ có thể được hỏi. Nếu bạn không biết câu hỏi thực, làm sao bạn có thể hỏi được? Nếu bạn biết câu hỏi thực ngay lập tức bạn biết câu trả lời thực nữa. Chúng không phải là hai điều tách rời mà là hai mặt của cùng một đồng tiền: mặt bên này là câu hỏi thực, mặt bên kia là câu trả lời thực.
Nhưng người ta phải hỏi nhiều câu hỏi không thực trước khi trở nên nhận biết về điều này, Bhagwato. Bạn nên cảm thấy được phúc lành rằng bạn đã nhận biết về hiện tượng rằng câu hỏi thực là khó hỏi thế, không thể nào hỏi được. Đây là dấu hiệu tốt, một cột mốc. Ngay cả hỏi “Tại sao khó hỏi câu hỏi thực thế?” đã chỉ ra rằng bạn đang đi theo hướng tới câu hỏi thực. Nó chỉ ra rằng bây giờ bạn có thể xác định ngay lập tức khi nào bạn bắt gặp câu hỏi giả. Bạn đã trở nên có khả năng biết cái giả là cái giả; đây là bước đầu tiên hướng tới biết cái thực là cái thực. Trước khi người ta có thể biết chân lí, người ta sẽ phải biết cái phi chân lí, hoàn toàn và tuyệt đối.
Và đó là lí do tại sao bạn nói, “Và tại sao tôi cảm thấy ngu xuẩn thế về điều này và bất kì câu hỏi nào khác?”
Mọi câu hỏi đều là câu hỏi ngu xuẩn. Nhưng tôi không nói đừng hỏi chúng. Chỉ bởi việc không hỏi bạn sẽ không trở nên khôn ngoan đâu. Câu hỏi ngu xuẩn phải được hỏi để cho chúng có thể bị loại bỏ, và việc bỏ câu hỏi ngu xuẩn là bỏ tính ngu xuẩn. Và dần dần, dần dần, người ta trở nên nhận biết rằng “Mọi câu hỏi của mình đều vô dụng. Tại sao mình hỏi? Cho dù mình có được câu trả lời, làm sao nó sẽ làm thay đổi cuộc đời mình?”
Có lần tôi ở lại trong một làng. Hai ông già tới tôi - một người là người Hindu, người kia là người Jaina. Người Jaina không tin vào sự tồn tại của Thượng đế. Cả hai đều là bạn, gần như bạn cả đời. Cả hai phải đã gần bẩy mươi, và cả hai đã cãi nhau trong cả đời họ - liệu Thượng đế có tồn tại hay không? Người Hindu khăng khăng rằng ngài tồn tại và sẽ trích dẫn Vedas và Upanishads và Gita, còn người Jaina sẽ khăng khăng rằng ngài không tồn tại và sẽ trích dẫn Mahavira và Neminath và Parshwanath và các tirthankaras của người đó. Và họ tranh cãi không kết thúc, bởi vì những câu hỏi này là vô nghĩa thế, vô tích sự thế, bạn có thể cứ cãi nhau mãi - đến vô hạn, không có chấm dứt cho nó. Không ai có thể chứng minh được một cách tuyệt đối, không ai có thể bác bỏ được một cách tuyệt đối. Các câu hỏi là vô dụng hoàn toàn thế. Không cái gì có thể được chứng minh một cách dứt khoát cách này hay cách nọ, cho nên câu hỏi cứ treo đó.
Nghe thấy rằng tôi đang ở nhà khách bên ngoài làng, họ tới gặp tôi. Và họ nói, “Cả đời chúng tôi đã trong xung đột. Chúng tôi là bạn bè, trong mọi cách chúng tôi đều là bạn bè, nhưng về vấn đề Thượng đế này chúng tôi lập tức bắt đầu cãi nhau. Và chúng tôi đã cãi nhau cả đời rồi. Bây giờ ông ở đây: cho chúng tôi một câu trả lời dứt khoát đi để cho việc cãi nhau này có thể được dừng lại, và chúng tôi ít nhất có thể chết trong thoải mái.”
Tôi hỏi họ, “Nếu điều được chứng minh một cách dứt khoát rằng có Thượng đế, làm sao nó sẽ thay đổi được đời các ông?”
Họ nhún vai. Họ nói, “Chúng tôi sẽ sống như chúng tôi vẫn đang sống thôi.”
“Hay, nếu điều được chứng minh,” tôi bảo họ, “rằng Thượng đế dứt khoát không tồn tại, làm sao nó sẽ thay đổi đời sống của các ông?”
Họ nói, “Nó sẽ không thay đổi cuộc sống của chúng tôi chút nào, bởi vì cả hai chúng tôi đều sống đích xác cùng một cuộc sống. Chúng tôi là đối tác trong kinh doanh. Ông ấy tin vào Thượng đế, tôi không tin vào Thượng đế, nhưng khi có liên quan tới cuộc sống chúng tôi, chúng tôi có cùng hình mẫu. Thượng đế của ông ấy không tạo ra khác biệt gì, không Thượng đế của tôi cũng chẳng tạo ra khác biệt gì.”
Thế rồi tôi nói, “Đây là câu hỏi vô tích sự.”
Câu hỏi nào là vô tích sự? Câu hỏi có câu trả lời không làm thay đổi trong cuộc sống của bạn, nó là vô dụng. Mọi người hỏi, “Ai tạo ra thế giới?” Làm sao nó sẽ thay đổi cuộc sống của bạn? Bất kì ai - A, B, C, D - bất kì ai; làm sao nó sẽ làm thay đổi cuộc sống của bạn? “Có cuộc sống sau cái chết không?” - làm sao nó sẽ làm thay đổi cuộc sống của bạn?
Bạn không thể thấy những người hữu thần và người vô thần tất cả đều sống cùng loại cuộc sống, cùng loại cuộc sống mục ruỗng sao? Bạn không thể thấy người Cơ đốc giáo và người cộng sản sống cùng loại cuộc sống - cùng dối trá, cùng giả dối, cùng mặt nạ sao? Bạn không thể thấy người Tin lành và người Cơ đốc giáo sống cùng cuộc sống đó sao? Bạn không thể thấy người Hindu và người Mô ha mét giáo sống cùng cuộc sống, không khác biệt chút nào đó sao? Mọi khác biệt đều chỉ trên lời nói. Không khác biệt lời nói nào tạo ra bất kì khác biệt gì trong sự tồn tại của họ. Họ đã từng thảo luận về những câu hỏi vô dụng.
Nhưng tại sao mọi người hỏi các câu hỏi vô dụng? - để né tránh đi vào trong. Họ giả vờ rằng họ là người truy hỏi lớn: họ quan tâm tới Thượng đế, họ quan tâm tới kiếp sau, họ quan tâm tới cõi trời và địa ngục. Và điều thực là ở chỗ họ không quan tâm tới bản thân họ: để né tránh điều đó, để né tránh việc nhìn sự kiện này, rằng “Tôi không quan tâm tới bản thể riêng của tôi,” họ đã tạo ra mọi câu hỏi này. Những câu hỏi này là chiến lược của họ để né tránh câu hỏi trung tâm: “Tôi là ai?”
Tôn giáo thực bao gồm trong câu hỏi: “Tôi là ai?” Và không ai khác có thể trả lời được nó. Bạn sẽ phải đào ngày càng sâu hơn vào bản thể bạn. Một ngày nào đó, khi bạn đã đạt tới chính cội nguồn cuộc sống của bạn, bạn sẽ biết. Ngày đó, câu hỏi thực và câu trả lời thực sẽ xảy ra đồng thời.
Câu hỏi 5
Tôi thường có khả năng đạt tới trạng thái này - hay dường như giống trạng thái này - điều thầy gọi 'là cây tre hổng' - im lặng, quan sát, trống rỗng. Vấn đề duy nhất là ở chỗ không có phúc lạc trong trống rỗng đó: nó chỉ là cái không. Tôi có thể mong đợi cái gì đó để lấp vào nó một trong những ngày này không?
Mariel Strauss, chính bởi vì ý tưởng này mà bạn đang bỏ lỡ toàn thể cái đẹp của tính không rồi: ham muốn này để lấp đầy nó. Bạn không thực là cây tre hổng đâu, bởi vì trong cây tre hổng này ham muốn này vẫn có đó. Và ham muốn này là đủ để lấp đầy cây tre hổng, để chắn cái trống rỗng của nó. Ham muốn này để lấp đầy nó một ngày nào đó, mong đợi này rằng, “Một ngày nào đó, Thượng đế sẽ tới và rót đầy trống rỗng của tôi,” chính ý tưởng này đang ngăn cản bạn khỏi thực sự trở thành cây tre hổng. Vứt ham muốn này đi, quên tất cả về việc rót đầy cây tre hổng của bạn đi - thế thì bạn mới là cây tre hổng. Và khi bạn là cây tre hổng, nó lập tức tràn đầy Thượng đế. Nhưng không phải là bạn phải ham muốn nó. Nếu bạn ham muốn nó, bạn sẽ cứ bỏ lỡ nó.
Đây là một trong những điều ngược đời cơ bản cần được hiểu về cuộc truy hỏi tôn giáo. Hiểu nó sâu sắc nhất có thể được đi, để cho nó chìm sâu vào trong tim bạn, bởi vì đây không chỉ là vấn đề của Mariel Strauss đâu, đây là vấn đề của mọi người. Bất kì ai đi vào trong việc tìm chân lí, bản thể, Thượng đế, hay bất kì cái gì bạn gọi nó, sẽ phải bắt gặp nó.
Bạn có thể cảm thấy rằng bạn là trống rỗng, nhưng sâu bên dưới, lẩn khuất đâu đó là ham muốn này, hi vọng này, mong đợi rằng “Bây giờ, Thượng đế ở đâu? Đang muộn rồi và tôi vẫn còn là cây tre hổng lâu thế. Phỏng có ích gì? Đây chỉ là cái không.”
Có kết án khi bạn nói “Đây là chỉ là cái không.” Bạn không hạnh phúc với tính tre hổng này, bạn không hạnh phúc với cái trống rỗng này. Có kết án. Bạn đã xoay xở bằng cách nào đó, bởi vì bạn đã nghe tôi nói đi nói lại rằng khoảnh khắc bạn là cây trẻ hổng Thượng đế sẽ giáng xuống trong bạn: “Trở thành trống rỗng và bạn sẽ trở thành tràn đầy.” Bạn muốn trở thành đầy, cho nên bạn nói, “Được, chúng tôi sẽ trở thành trống rỗng. Nếu đó là cách duy nhất để trở thành tràn đầy, chúng tôi thậm chí sẽ cố điều đó.” Nhưng đây không phải là trống rỗng thực. Bạn đã không hiểu vấn đề.
Tận hưởng trống rỗng, yêu mến nó, nuôi dưỡng nó đi. Để cho trống rỗng của bạn trở thành điệu vũ, việc mở hội. Quên tất cả về Thượng đế đi - tới hay không tới là việc của ngài. Sao bạn phải lo nghĩ? Để chuyện đó cho ngài đi! Và khi bạn đã hoàn toàn quên về Thượng đế ngài tới, ngay lập tức ngài tới. Ngài bao giờ cũng tới khi bạn hoàn toàn vô nhận biết về việc tới của ngài, bạn thậm chí không nghe thấy tiếng bước chân của ngài. Khoảnh khắc này ngài không có đó, và đột nhiên khoảnh khắc khác ngài có đó. Nhưng trống rỗng của bạn phải là toàn bộ. Và trống rỗng toàn bộ nghĩa là không mong đợi, không tương lai, không ham muốn.
Bạn nói, “Tôi thường có khả năng đạt tới trạng thái...”
Bạn phải ép buộc nó rồi, bạn phải cố gắng vất vả, bạn phải trau dồi nó, bạn phải tưởng tượng nó. Nó là việc tưởng tượng, nó không phải là thật.
“... hay điều dường như là trạng thái...”
Và sâu bên dưới bạn cũng biết rằng nó không phải là trạng thái thực. Bạn đã xoay xở bằng cách nào đó để tạo ra một loại trống rỗng bên trong bản thân bạn. Nó là trống rỗng bị bắt buộc.
“... điều thầy gọi ‘là cây tre hổng’ - im lặng, quan sát, trống rỗng...”
Nó không phải là điều tôi gọi là trạng thái của việc là cây tre hổng đâu. Nó không phải vậy. Nếu mà nó vậy, thế thì đã không có ham muốn về Thượng đế rồi, bởi vì không có ham muốn. Không thành vấn đề bạn ham muốn gì. Thượng đế, tiền, quyền, danh, điều đó không thành vấn đề. Ham muốn là ham muốn, vị của nó bao giờ cũng là một: ham muốn dẫn bạn đi xa khỏi hiện tại, khỏi ở đây bây giờ vào trong tương lai, ở đâu đó khác; ham muốn không cho phép bạn thảnh thơi trong khoảnh khắc này. Nó đem bạn đi xa khỏi bản thể bạn.
Cho nên điều bạn ham muốn không thành vấn đề: bạn có thể ham muốn quyền tổng thống của một nước, hay bạn có thể ham muốn tiền, hay bạn có thể ham muốn tính thánh thiện, hay bạn có thể ham muốn Thượng đế, bạn có thể ham muốn chân lí - ham muốn là ham muốn. Ham muốn nghĩa là bạn bị giằng ra giữa cái bạn đang là và cái bạn muốn là. Nỗi đau khổ này, nỗi lo âu này, và nỗi lo âu này sẽ không cho phép bạn trở thành cây tre hổng.
Là cây tre hổng nghĩa là: trạng thái vô ham muốn. Thế thì bạn hoàn toàn trống rỗng, và thế thì cái trống rỗng đó có sáng tỏ trong nó, thế thì cái trống rỗng đó có huy hoàng trong nó, thuần khiết trong nó. Thế thì cái trống rỗng đó có phẩm chất linh thiêng cho nó. Nó thuần khiết, nó hồn nhiên tới mức bạn sẽ không gọi nó là ‘chỉ trống rỗng’ hay ‘chỉ cái không’. Cái trống rỗng đó là bản thân Thượng đế! Một khi bạn trống rỗng, một khi bạn ở đây bây giờ, không ham muốn đem bạn đi xa khỏi thực tại của bạn, Thượng đế hiện hữu. Thượng đế nghĩa là ‘cái đang vậy’.
Thượng đế đã là hoàn cảnh rồi; tâm trí ham muốn của bạn không cho phép bạn nhìn thấy nó. Tâm trí ham muốn của bạn làm cho bạn thành con khỉ: bạn cứ nhảy từ cành nọ sang cành kia. Bạn cứ nhảy, bạn chưa bao giờ trong trạng thái nghỉ ngơi. Ham muốn này và ham muốn kia, và ham muốn này tạo ra ham muốn khác, và nó là sự liên tục.
Khi không có ham muốn bạn có thể đi đâu? Khi không có ham muốn tương lai ở đâu? Khi không có ham muốn thời gian ở đâu? Quá khứ ở đây? Khi không có ham muốn tâm trí ở đâu? Kí ức ở đâu? Tưởng tượng ở đâu? Tất cả đều mất! Cứ chặt một cái rễ là rễ chính của cây tâm trí mà xem: chặt ham muốn, và chỉ hiện hữu. Trong trạng thái đó của hiện hữu bạn là cây tre hổng. Và khoảnh khắc bạn là cây tre hổng, thực tại bùng phát lên bạn! Dường như nó bao giờ cũng chờ đợi nhưng bạn lại không sẵn có cho nó: nó làm ngập lụt bạn!
Câu hỏi 6, câu hỏi cuối cùng.
Sống chẳng phải kì lạ hơn hư cấu sao?
Nó vậy đấy. Nó phải vậy, bởi vì hư cấu chỉ là phản xạ bộ phận của sống, một phản xạ rất hữu hạn của sống. Sống là phức tạp vô hạn. Sống không có bắt đầu, không kết thúc; nó bao giờ cũng tiếp diễn, nó sẽ cứ tiếp diễn mãi. Nó là cuộc hành hương không mục đích.
Hư cấu chỉ là phản xạ của một phần nhỏ của nó. Hư cấu giống như cửa sổ nhỏ trong phòng bạn. Vâng, khi trời đầy sao, bạn thấy một phần của bầu trời qua cửa số, nhưng bầu trời trở nên bị đóng khung bởi cửa sổ. Bản thân trời không có khung cho nó - nó là vô hạn, nó không biết tới biên giới - nhưng cửa sổ của bạn cho nó cái khung. Hư cấu là một phần có khung của bầu trời. Dù hư cấu có thể kì lạ, bí ẩn, không tin được đến thế nào, nó vẫn rất mờ nhạt khi so với cuộc sống thực.
Cuộc sống thực là bí ẩn của các bí ẩn... chưa bao giờ có thể giải thích được nó. Và hư cấu nảy sinh ra từ tâm trí con người. Tâm trí là tấm gương: nó phản xạ vài thứ. Nếu bạn có gương tốt, gương sáng tạo, bạn có thể tạo ra thơ ca, bạn có thể tạo ra âm nhạc, bạn có thể tạo ra hư cấu, bạn có thể viết, bạn có thể vẽ. Nhưng mọi điều bạn sẽ vẽ và mọi điều bạn sẽ tạo ra và mọi điều bạn sẽ viết sẽ vẫn còn là một phần nguyên tử rất tí hon của thực tại - và không thực là một phần mà chỉ là phản xạ của một phần, trong tâm trí bạn.
Nhìn cuộc sống như nó vậy, là thổi bay tâm trí. Nhìn cuộc sống như nó vậy, là phiêu diêu. Nhìn cuộc sống như nó vậy, là trở nên được mở rộng trong tâm thức.
Hư cấu phải bắt đầu ở đâu đó. Do sự cần thiết, nó phải bắt đầu ở đâu đó. Nó sẽ phải có trang đầu và ở đâu đó nó phải có kết thúc, nó không thể tiếp diễn mãi được. Bạn có thể kéo dài nó, làm cho nó thành rất dài, như Chiến tranh và Hoà bình của Tolstoy. Và nó rất rất mệt mỏi và dài dòng. Nhưng dầu vậy một khoảnh khắc tới khi bạn phải đặt dấu chấm hết cuối cùng. Bạn không thể tiếp tục mãi mãi được.
Nhưng cuộc sống cứ diễn ra mãi mãi. Con sóng này biến thành con sóng khác, cây này tạo ra cây khác, người này cho sinh ra con cái - việc đó tiếp diễn: không có bắt đầu và không có kết thúc.
Nghệ thuật chỉ là việc bắt chước nghèo nàn. Do đó nghệ sĩ vẫn còn trong tưởng tưởng, nghệ sĩ vẫn còn trong mơ. Người đó là người mơ, người mơ giỏi - người mơ mơ theo mầu sắc, không chỉ đen trắng - nhưng dẫu sao vẫn là người mơ.
Nhà huyền môn là người đã vứt bỏ mọi giấc mơ, người đã ném đi tấm gương này của tâm trí và là người nhìn thẳng vào cuộc sống, không có can nhiễu trung gian nào. Thế thì người đó thấy tiến bộ vĩnh hằng, thế thì trong một khoảnh khắc người đó thấy mọi thứ đều có tính vĩnh hằng, và trong một nguyên tử người đó có thể thấy cái toàn thể được phản ánh.
Nghĩ mà xem: bạn chứa mẹ bạn, bố bạn, bố của bố bạn, mẹ của mẹ bạn, vân vân và vân vân. Bạn chứa Adam và Eve - nếu như có lúc khi mọi sự bắt đầu... Tôi không nghĩ có lúc mọi sự bắt đầu. ‘Adam và Eve’ lại là hư cấu, hư cấu tôn giáo. Mọi sự không bao giờ bắt đầu, mọi sự bao giờ cũng là vậy.
Bạn chứa toàn thể quá khứ. Mọi mơ của bố bạn và mẹ bạn được chứa trong các tế bào của bạn, và mọi mơ của bố họ và và mẹ họ, vân vân và vân vân - mọi mơ về toàn thể nhân loại đã đi trước bạn. Và không chỉ nhân loại mà mọi con vật đã từng đi trước nhân loại, và không chỉ mọi con vật mà mọi cây đã từng đi trước mọi con vật, và không chỉ cây mà mọi đá và mọi núi và mọi sông đã từng đi trước cây - bạn chứa mọi cái đó trong bạn. Bạn là bao la!
Và đấy cũng là hoàn cảnh với tương lai - bạn chứa toàn thể tương lai nữa: trẻ em sẽ được sinh ra và bài thơ sẽ được viết - không chỉ Shakespeares của quá khứ mà cả Shakespeares của tương lai nữa, những giấc mơ đã từng được thấy và những giấc mơ sẽ được thấy. Mọi nhà thơ và mọi hoạ sĩ đều trong bạn, sẵn sàng được sinh ra, mọi nhà khoa học, mọi nhà huyền môn - toàn thể tương lai, tương lai vĩnh hằng.
Cho nên bạn chứa toàn thể quá khứ, bạn chứa toàn thể tương lai. Cái toàn thể hội tụ vào khoảnh khắc tí hon, nhỏ bé này. Và đấy cũng là trường hợp với không gian, như nó là vậy với thời gian: bạn chứa toàn thể không gian trong bạn, mọi cây và mọi sao.
Nhà huyền môn vĩ đại người Ấn Độ, Swami Ramateerth, khi đạt tới chứng ngộ, bắt đầu nói những điều có vẻ điên. Mọi người bắt đầu nghĩ rằng ông ấy đã thành kì quặc, vì ông ấy bắt đầu nói, “Ta thấy các vì sao chuyển động cùng ta; không ở bên ngoài, nhưng ở bên trong. Khi ta thấy mặt trời sáng mọc lên, ta thấy nó mọc trong ta, không ở ngoài.”
Bây giờ điều này có vẻ giống như một loại điên khùng. Nó không phải vậy. Ông ấy đang nói cái gì đó cực kì có ý nghĩa. Ông ấy nói: Ta là một phần của cái toàn thể và cái toàn thể là một phần của ta. Cho nên mọi thứ ở bên trong là ở bên ngoài, và mọi thứ ở bên ngoài là ở bên tron. Mọi điều đã xảy ra đều trong ta, và mọi điều sẽ xảy ra là ở trong ta, và mọi điều đang xảy ra là ở trong ta.
Cảm thấy điều này, thấy điều này, là ở trong lời nguyện, trong kính nể, trong ngạc nhiên. Bạn chẳng lẽ không biết ơn được là một phần của sự tồn tại huyền bí này sao? Bạn chẳng lẽ không biết ơn là có cái gì đó liên quan tới sự huy hoàng này sao? Bạn chẳng lẽ không cảm thấy biết ơn, cám ơn về mọi điều bao quanh bạn và mọi điều được chứa trong bạn sao?
Thấy sự tồn tại huyền bí này, cảm thấy nó trong cốt lõi sâu nhất của trái tim bạn, và lập tức lời nguyện nảy sinh - lời nguyện không có lời cho nó, lời nguyện mà là im lặng, lời nguyện mà không nói gì nhưng cảm thấy một cách vô cùng, lời nguyện nảy sinh ra từ bạn như hương thơm, lời nguyện giống như nhạc không lời, nhạc tinh tú, hay điều Pythagoras thường gọi ‘sự hài hoà của các vì sao’, giai điệu của cái toàn thể. Khi âm nhạc đó nảy sinh trong bạn, đó là điều Bí mật của Hoa Vàng tất cả là gì: đột nhiên đoá hoa nở tung trong bạn, hoa sen vàng. Bạn đã đạt tới, bạn đã về nhà.
Đây là điều tôi đang khích lệ bạn hướng tới, đây là điều tôi đang cố đánh thức trong bạn - ham muốn này, khao khát này, cơn khát này, thèm ăn này. Một khi bạn bị sở hữu bởi cơn đói này, lần đầu tiên bạn sẽ trở nên nhận biết về phúc lành và cái đẹp của sự tồn tại. Bạn sẽ không cảm thấy vô nghĩa, bạn sẽ không cảm thấy ngẫu nhiên. Bạn sẽ không cảm thấy chút nào như Jean-Paul Sartre nói, rằng “Con người là niềm đam mê vô dụng”; không, không chút nào. Bạn sẽ cảm thấy bản thân bạn cực kì có ý nghĩa, bởi vì bạn là một phần của ý nghĩa vô hạn, và bạn đang đóng góp cái gì đó bởi sự hiện hữu của bạn ở đây.
Bạn sẽ trở nên có tính sáng tạo, bởi vì đó là cách duy nhất để thực sự cám ơn Thượng đế - có tính sáng tạo, làm cho sự tồn tại này đẹp lên chút ít hơn là bạn đã thấy nó vậy. Ngày bạn ra đi, đây sẽ là mãn nguyện duy nhất của bạn: nếu bạn đã làm cho sự tồn tại đẹp hơn chút ít.
Khi vị phật ra đi ông ấy ra đi trong sự mãn nguyện vô cùng vì ông ấy biết ông ấy đang để lại sự tồn tại đằng sau với chút ít thơ ca hơn trong nó, với chút ít nhận biết hơn trong nó, với chút ít lời nguyện hơn trong nó.
Nhớ rằng khi bạn rời khỏi thế giới, bạn có thể chết theo cách mãn nguyện chỉ nếu bạn đã làm cho thế giới này đáng sống hơn chút ít, nhiều nghĩa hơn chút ít, nhảy múa, mở hội hơn chút ít. Nếu bạn đã thêm chút ít lễ hội vào cho nó, chút ít tiếng cười, chút ít cảm giác khôi hài, nếu bạn đã có khả năng thắp sáng ngọn đèn nhỏ và bạn đã có khả năng xua tan chút ít bóng tối khỏi thế giới, bạn sẽ chết trong vui vẻ hoàn toàn - bạn được hoàn thành, cuộc đời bạn đã kết quả và nở hoa. Bằng không mọi người chết đi trong khổ.
Jean-Paul Sartre là đúng cho đa số mọi người, nhưng đa số đó đang sống trong dốt nát, vô ý thức. Đa số đó không thực sự có khả năng tuyên bố tính người của nó. Duy nhất một Phật hay một Krishna hay một Zarathustra hay một Jesus có thể nói rằng họ là con người. Họ là con người vì họ đã nở hoa: toàn thể bản thể họ đã trở thành việc nở hoa. Bây giờ không cái gì còn lại, mọi thứ đều được hoàn thành.
Tạo ra niềm khao khát này đi, cơn khát này. Bạn có hạt mầm, mọi điều bạn cần là cơn khát. Cơn khát đó sẽ trở thành cơ hội cho hạt mầm đâm chồi. Bạn có tiềm năng, mọi điều bạn cần là niềm khao khát vô cùng. Nếu bạn trở thành ngọn lửa với niềm khao khát bạn sẽ được làm thuần khiết. Kim loại cơ sở của đời bạn sẽ được biến đổi thành kim loại cao hơn, thành vàng. Đây là mọi điều giả kim thuật là gì. Và Bí mật của Hoa Vàng là bản luận giả kim thuật.
Đủ cho hôm nay.

Ads Belove Post