Chương 7. Ý nghĩ về vô ý nghĩ

Chương 7. Ý nghĩ về vô ý nghĩ

Price:

Read more

Yoga: Alpha và Omega (Tập 3)
Chương 7. Ý nghĩ về vô ý nghĩ

Những samadhis này nảy sinh từ thiền về một đối thể là samadhis có hạt mầm, và không cho tự do khỏi vòng tái sinh. Khi đạt tới sự thuần khiết cao nhất của giai đoạn nirvichara của samadhi, có việc hừng lên của ánh sáng tâm linh. Trong nirvichara samadhi, tâm thức được trút đầy với chân lí.
Suy tư không phải là thiền. Có khác biệt bao la, và không chỉ về lượng mà về chất. Chúng tồn tại trên các bình diện khác nhau. Chiều hướng của chúng là khác lẫn nhau; không chỉ khác, mà đối diện đối xứng.
Đây là điều đầu tiên cần được hiểu. Suy tư liên quan tới đối thể nào đó; nó là việc chuyển động của tâm thức hướng tới cái khác. Suy tư là chú ý đi ra, đi tới ngoại vi, ra đi khỏi trung tâm. Thiền là đi hướng về trung tâm, xa khỏi ngoại vi, xa khỏi ‘cái khác’. Suy tư được nhắm tới cái khác; thiền, nhắm tới bản thân người ta. Trong suy tư, nhị nguyên tồn tại. Có hai, người suy tư và cái được suy tư. Trong thiền, chỉ có một.
Từ tiếng Anh ‘meditation’ là không hay lắm, không cho nghĩa thực của dhyana hay samadhi, bởi vì trong chính từ ‘meditation’ dường như là bạn đang suy nghĩ về cái gì đó. Cho nên cố hiểu: suy tư là nghĩ về cái gì đó; thiền không phải là thiền về cái gì đó - chỉ là bản thân người ta, không di chuyển khỏi trung tâm, không di chuyển chút nào... chỉ là bản thân mình toàn bộ tới mức thậm chí không một rung rinh, ngọn lửa bên trong vẫn còn không lay động. Người khác đã biến mất; chỉ bạn hiện hữu. Không một ý nghĩ. Toàn thế giới đã biến mất. Tâm trí không còn đó; chỉ bạn hiện hữu, trong sự thuần khiết tuyệt đối của bạn. Suy tư giống như tấm gương soi cái gì đó; thiền đơn giản là việc soi gương, không soi cái gì - chỉ là năng lực thuần khiết của tấm gương, nhưng thực tế không soi gương cái gì.
Với suy tư bạn có thể đạt tới nirvichara samadhi - ‘samadhi vô ý nghĩ’ - nhưng trong nirvichara một ý vẫn còn lại, và đó là ý nghĩ về vô ý nghĩ. Điều đó nữa cũng là ý nghĩ, ý nghĩ cuối cùng, chính cái cuối cùng, nhưng nó còn lại. Người ta nhận biết rằng có vô ý nghĩ, người ta biết rằng có vô ý nghĩ. Nhưng việc biết này về vô ý nghĩ là gì? Thay đổi bao la đã xảy ra, ý nghĩ đã biến mất, nhưng bây giờ bản thân vô ý nghĩ đã trở thành đối thể. Nếu bạn nói rằng “Tôi biết trống rỗng,” thế thì nó không phải là trống rỗng; ý nghĩ về trống rỗng có đó. Tâm trí vẫn vận hành - vận hành theo cách rất, rất thụ động, tiêu cực, nhưng vẫn vận hành. Bạn nhận biết rằng có trống rỗng. Bây giờ bạn nhận biết trống rỗng này là gì? Nó là ý nghĩ rất tinh tế, tinh tế nhất, cái cuối cùng mà bên ngoài nó đối thể biến mất hoàn toàn.
Cho nên bất kì khi nào một đệ tử tới một Thiền sư rất sung sướng với thành đạt của mình và nói, “Tôi đã đạt tới trống rỗng,” thầy nói, “Đi và vứt cái trống rỗng này đi. Đừng đem nó tới cho ta lần nữa. Nếu ông thực sự trống rỗng thế thì không ý nghĩ nào về trống rỗng.”
Đây là điều đã xảy ra trong câu chuyện nổi tiếng về Subhuti. Ông ấy ngồi dưới gốc cây không ý nghĩ, thậm chí không vô ý nghĩ. Đột nhiên, hoa mưa xuống. Ông ấy ngạc nhiên - “Cái gì xảy ra?” Ông ấy nhìn quanh; hoa và hoa từ trên trời.
Thấy điều đó ông ấy ngạc nhiên, các thần bảo ông ấy, “Đừng ngạc nhiên. Chúng ta đã nghe buổi thuyết giảng vĩ đại nhất về trống rỗng hôm nay. Ông đã giảng nó. Chúng ta làm lễ hội, và chúng ta ném những hoa này lên ông như biểu tượng, ca ngợi và mở hội buổi giảng của ông về trống rỗng.”
Subhuti phải đã nhún vai và nói, “Nhưng tôi đã không nói.”
Các thần nói, “Vâng, ông đã không nói, chúng ta đã không nghe - đó là buổi thuyết giảng vĩ đại nhất về trống rỗng.”
Nếu bạn nói, nếu bạn thốt ra, “Tôi là trống rỗng,” bạn đã bỏ lỡ vấn đề. Lên tới ý nghĩ về vô ý nghĩ, thế thì nó là nirvichara samadhi, ‘không suy tư’. Nhưng dầu vậy phần cuối cùng... con voi đã đi qua; cái đuôi vẫn còn lại - phần cuối cùng - và thỉnh thoảng cái đuôi lớn hơn con voi bởi vì nó tinh tế thế. Ném đi các ý nghĩ là dễ dàng. Làm sao ném đi trống rỗng? Làm sao ném đi vô ý nghĩ? Điều đó là rất, rất tinh tế; làm sao hiểu thấu nó? Đó là điều đã xảy ra khi Thiền nhân nói với đệ tử, “Đi và vứt cái trống rỗng này đi!” Đệ tử nói, “Nhưng làm sao vứt trống rỗng?” Thế rồi thầy nói, “Thế thì mang nó đi; đi vứt nó đi, nhưng đừng đứng trước ta với cái trống rỗng trong đầu ông. Làm cái gì đó!”
Điều đó rất tinh tế. Người ta có thể níu bám lấy nó, nhưng thế thì tâm trí đã lừa bạn tại điểm cuối cùng. Chín mươi chín phẩy chín bạn đã đạt tới; chỉ bước cuối cùng, và một trăm độ sẽ là đầy đủ và bạn sẽ bay hơi.
Cho tới điểm này Patanjali nói nó là ‘samadhi không suy tư’ - nirvichara samadhi. Nếu bạn đạt tới samadhi này bạn sẽ trở nên rất, rất hạnh phúc, im lặng, chân thành. Bạn bao giờ cũng sẽ được bình tĩnh bên trong, cùng nhau. Bạn sẽ có việc kết tinh; bạn sẽ không là người thường. Bạn sẽ trông như siêu nhân, nhưng bạn sẽ phải quay lại lặp đi lặp lại. Bạn sẽ được sinh ra, bạn sẽ chết đi.
Bánh xe tái sinh sẽ không dừng lại bởi vì vô ý nghĩ cũng giống như hạt mầm tinh tế; nhiều kiếp sẽ bắt nguồn từ nó. Hạt mầm là rất tinh tế. Cây là lớn, nhưng toàn thể cây bị ẩn trong hạt mầm. Hạt mầm có thể như hạt mù tạc, nhỏ thế, nhưng nó mang cây bên trong nó. Nó được nạp, nó có bản kế hoạch tổng thể; nó có thể mang toàn thể cây lặp đi lặp lại. Và từ một hạt mầm cả triệu hạt mầm có thể tới. Một hạt mù tạc nhỏ bé có thể rót đầy toàn thể trái đất bằng thực vật.
Vô ý nghĩ là hạt mầm tinh tế nhất, và nếu bạn có nó, Patanjali gọi đây là ‘samadhi có hạt mầm’, sabeej samadhi - samadhi có chủng tử. Bạn sẽ tiếp tục tới, bánh xe sẽ tiếp tục chuyển - sinh và tử, sinh và tử. Nó sẽ được lặp lại. Dầu vậy bạn đã không thiêu cháy được hạt mầm.
Nếu bạn có thể thiêu cháy ý nghĩ này về vô ý nghĩ, nếu bạn có thể thiêu cháy ý nghĩ này về vô ngã, chỉ thế thì nirbeej samadhi xảy ra, ‘samadhi không hạt mầm’.
Thế thì không có sinh, không có tử. Bạn đã siêu việt lên trên toàn thể bánh xe, bạn đã đi ra ngoài. Bây giờ bạn là tâm thức thuần khiết. Nhị nguyên đã bị mất đi; bạn đã trở thành một. Cái một này, việc mất đi nhị nguyên, là mất đi của sống, chết. Toàn thể bánh xe đột nhiên dừng lại - bạn ra ngoài ác mộng.
Bây giờ chúng ta sẽ đi vào lời kinh này. Chúng là rất, rất hay. Cố hiểu chúng. Ý nghĩa của chúng là sâu sắc. Bạn sẽ phải rất, rất nhận biết để hiểu sắc thái tinh tế.
Những samadhis này nảy sinh từ thiền về một đối thể là samadhis có hạt mầm, và không cho tự do khỏi cái vòng tái sinh.
Những samadhis này nảy sinh từ thiền về một đối thể ... bạn có thể thiền về bất kì đối thể nào, dù nó là vật chất hay thiêng liêng. Đối thể có thể là tiền, hay đối thể có thể là moksha, việc đạt tới chung cuộc. Đối thể có thể là hòn đá hay đối thể có thể là viên kim cương Kohinoor, điều đó không tạo ra khác biệt, nó không làm ra khác biệt. Nếu đối thể có đó, tâm trí có đó; cùng với đối thể, tâm trí tiếp tục. Tâm trí có tính liên tục qua đối thể. Qua người khác, tâm trí được nuôi dưỡng liên tục. Và khi người khác có đó bạn không thể biết tới bản thân mình; toàn thể tâm trí bị hội tụ vào người khác. Người khác phải bị bỏ ra, hoàn toàn bỏ ra, để cho không cái gì còn lại cho bạn nghĩ, không có gì dành cho bạn để cho bạn sự chú ý tới, không cái gì có đó mà bạn có thể di chuyển tới.
Với đối thể, Patanjali nói có nhiều khả năng: bạn có thể ở trong quan hệ với đối thể như trong tranh luận; bạn có thể nghĩ về đối thể một cách logic - thế thì Patanjali cho nó cái tên savitarka samadhi. Điều đó xảy ra nhiều lần: khi một nhà khoa học đang quan sát một đối thể người đó trở nên hoàn toàn im lặng; không ý nghĩ nào di chuyển trong bầu trời, trong bản thể người đó, người đó bị cuốn hút nhiều thế với đối thể. Hay thỉnh thoảng đứa trẻ chơi với đồ chơi của nó bị cuốn hút tới mức tâm trí đã hoàn toàn, gần như hoàn toàn bị dừng lại. Chân thành rất sâu tồn tại. Đối thể chiếm mọi chú ý của bạn; không cái gì còn lại đằng sau. Không lo âu nào là có thể, không căng thẳng nào là có thể, không phiền não nào là có thể, bởi vì bạn bị cuốn hút toàn bộ vào trong đối thể, bạn đi vào trong đối thể.
Nhà khoa học, triết gia lớn...
Chuyện xảy ra cho Socrates: một đêm ông ấy đứng... hôm đó là đêm trăng tròn và ông ấy đang nhìn trăng, và ông ấy trở nên bị cuốn hút thế.... Ông ấy phải đã trong điều Patanjali gọi là savitarka samadhi, bởi vì ông ấy là một trong những người logic nhất đã từng được sinh ra, một trong những tâm trí có lí trí nhất, đỉnh của tính hợp lí.
Ông ấy đang nghĩ về trăng, về sao và đêm và bầu trời, và ông ấy quên mất bản thân mình hoàn toàn. Tuyết bắt đầu rơi và đến sáng người ta thấy ông ấy gần chết, nửa thân mình bị phủ đầy tuyết, đông cứng, và ông ấy vẫn nhìn lên trời. Ông ấy sống, nhưng đông cứng.
Mọi người tới tìm nơi ông ấy đã đi, và thế rồi họ thấy ông ấy đang đứng; cả đêm ông ấy đã đứng dưới cây. Khi họ hỏi, “Sao ông không về nhà? - và tuyết đã rơi và người ta có thể chết,” ông ấy nói, “Tôi hoàn toàn quên mất về điều đó. Với tôi, tuyết đã không rơi. Với tôi, thời gian đã không trôi, tôi bị cuốn hút nhiều thế với cái đẹp của đêm và sao và trật tự của sự tồn tại và vũ trụ.”
Logic bao giờ bị cũng cuốn hút với trật tự, với hài hoà tồn tại trong vũ trụ. Logic đi quanh đối thể - cứ di chuyển lòng vòng và lòng vòng - và toàn thể năng lượng bị đối thể lấy đi. Đây là samadhi có lí do, savitarka, nhưng đối thể có đó. Tâm trí khoa học, hợp lí, triết lí đạt tới điều đó.
Thế rồi Patanjali nói rằng có samadhi khác, nirvitarka. Tâm trí thẩm mĩ - nhà thơ, hoạ sĩ, nhạc sĩ đạt tới nó. Nhà thơ đi thẳng vào đối thể, không đi vòng quanh, nhưng dầu vậy đối thể có đó. Ông ấy có thể không nghĩ về nó, nhưng chú ý của ông ấy bị hội tụ vào nó. Đó có thể không phải là cái đầu hoạt động, đó có thể là trái tim, nhưng dầu vậy đối thể có đó, cái khác có đó. Nhà thơ có thể đạt tới trạng thái phúc lạc, rất sâu nhưng vòng tái sinh sẽ không dừng lại, nó không dừng cho nhà khoa học, không dừng cho nhà thơ.
Thế rồi, Patanjali đi tới savichara samadhi: logic đã bị bỏ đi, chỉ suy tư thuần khiết - không về nó - chỉ nhìn vào nó, quan sát nó, chứng kiến nó. Các cõi giới sâu hơn mở ra, nhưng đối thể vẫn còn đó và bạn vẫn còn bị ám ảnh với đối thể. Bạn còn chưa trong cái ta riêng của mình - cái khác có đó. Thế rồi Patanjali đi tới nirvichara.
Trong nirvichara, dần dần, đối thể được làm tinh tế lên. Đây là điểm quan trọng nhất cần được hiểu: trong nirvichara, đối thể được làm cho ngày thêm tinh tế hơn. Từ các đối thể thô bạn chuyển sang các đối thể tinh - từ đá tới hoa, từ hoa tới hương thơm. Bạn chuyển tới cái tinh tế. Dần dần một khoảnh khắc tới - đối thể trở thành tinh tế thế, gần như nó không có.
Chẳng hạn, nếu bạn suy tư về trống rỗng, đối thể gần như không có; nếu bạn thiền về tính không. Có những trường phái Phật giáo nhấn mạnh chỉ vào một cách thiền, và đó là vào tính không. Người ta phải nghĩ, người ta phải thiền, người ta phải thấm đẫm ý tưởng rằng tính không tồn tại. Liên tục thiền về tính không, một khoảnh khắc tới khi đối thể trở thành tinh tế tới mức nó không thể bắt giữ được chú ý của bạn; nó tinh tế tới mức không có gì để suy tư, và người ta đi mãi đi mãi. Đột nhiên, một ngày nào đó tâm thức bật lại bản thân người ta. Không tìm thấy chỗ đứng nào, không tìm thấy cái gì để níu bám vào, tâm thức bật lại bản thân nó. Nó quay lại, quay lại tới trung tâm riêng của nó. Thế thì nó trở thành cái cao nhất, cái thuần khiết nhất, nirvichara.
Cái cao nhất trong nirvichara, là khi tâm thức bật lại lên bản thân người ta. Nếu bạn bắt đầu suy nghĩ, “Mình đã đạt tới vô ý nghĩ, và mình đã đạt tới tính không,” lần nữa bạn đã tạo ra đối thể và tâm thức đã dời đi xa. Điều này xảy ra nhiều lần cho người tìm kiến. Không biết tới những điều bí ẩn bên trong, nhiều lần bạn bật lại bản thân bạn. Thỉnh thoảng bạn chạm vào trung tâm, và bạn lại đi ra. Đột nhiên, ý tưởng nảy sinh, “Ừ, mình đã đạt tới.” Đột nhiên, bạn bắt đầu cảm thấy “Ừ, nó đây rồi. Tỏ ngộ đã xảy ra, samadhi đã được đạt tới.” Bạn cảm thấy phúc lạc thế, điều đó là tự nhiên cho ý tưởng này nảy sinh. Nhưng nếu ý tưởng này nảy sinh, lần nữa bạn đã trở thành nạn nhân của cái gì đó có tính đối thể. Tính chủ thể lại bị mất; tính một đã trở thành hai. Nhị nguyên lại có đó.
Người ta phải nhận biết không cho phép ý tưởng về vô ý nghĩ. Đừng cố - bất kì khi nào cái gì đó giống thế này xảy ra, vẫn còn trong nó. Đừng cố nghĩ về nó, đừng làm ra ý niệm nào về nó, đừng làm ra bất kì ý niệm nào về nó; tận hưởng nó. Bạn có thể nhảy múa, sẽ không có rắc rối nào, nhưng đừng cho phép việc nói thành lời, đừng cho phép ngôn ngữ. Việc nhảy múa sẽ không quấy rối, bởi vì trong nhảy múa bạn vẫn còn là một.
Trong truyền thống Sufi, nhảy múa được dùng để né tránh tâm trí. Trong giai đoạn cuối cùng, thầy Sufi nói, “Bất kì khi nào ông đi tới một điểm mà đối thể đã biến mất, lập tức bắt đầu nhảy múa để cho năng lượng chuyển vào trong thân thể và không vào trong tâm trí. Lập tức làm cái gì đó; bất kì cái gì cũng sẽ có ích.”
Các Thiền sư khi họ đạt tới bắt đầu cười cái cười bụng thực sự - như tiếng gầm, như tiếng gầm của sư tử. Họ làm gì? Có năng lượng và lần đầu tiên năng lượng đã trở thành một. Nếu bạn cho phép bất kì cái gì trong tâm trí, ngay lập tức phân chia lại có đó, và phân chia là thói quen cũ của bạn. Nó sẽ dai dẳng trong vài ngày. Nhảy, chạy, múa, cho cái cười bụng rõ to, làm cái gì đó để cho năng lượng chuyển vào trong thân thể và không vào đầu. Bởi vì năng lượng có đó và hình mẫu cũ có đó, nó có thể di chuyển lần nữa...
Nhiều người tới tôi, và bất kì khi nào điều đó xảy ra, vấn đề lớn nhất nảy sinh - tôi nói vấn đề lớn nhất, bởi vì nó không phải là vấn đề thường. Tâm trí lập tức chộp bắt lấy nó và nói, “Ừ, mình đã đạt tới.” Bản ngã đã bước vào, tâm trí đã bước vào, mọi thứ bị mất. Một ý tưởng và phân chia bao la lập tức có đó. Nhảy múa là tốt. Bạn có thể nhảy múa, sẽ không có rắc rối nào về nó. Bạn có thể cực lạc, bạn có thể mở hội. Do đó tôi nhấn mạnh vào mở hội.
Sau từng việc thiền, mở hội đi, để cho mở hội trở thành một phần của bạn, và khi điều chung cuộc xảy ra bạn sẽ lập tức có khả năng mở hội.
Những samadhis này nảy sinh từ thiền về một đối thể là samadhis có hạt mầm, và không cho tự do khỏi cái vòng tái sinh.
Toàn thể vấn đề là làm sao được tự do khỏi 'cái khác', đối thể. Đối thể là toàn thể thế giới. Bạn sẽ tới đi tới lại nếu đối thể có đó, bởi vì với đối thể tồn tại ham muốn, với đối thể tồn tại ý nghĩ, với đối thể tồn tại bản ngã, với đối thể bạn tồn tại. Nếu đối thể rơi rụng, bạn sẽ đột nhiên rơi rụng, bởi vì đối thể và chủ thể có thể tồn tại cùng nhau, chúng là các bộ phận của nhau; một không thể tồn tại. Nó cũng giống như đồng tiền: mặt sấp và mặt ngửa tồn tại cùng nhau. Bạn không thể giữ mặt này và vứt mặt kia đi. Bạn không thể giữ mặt sấp và vứt đi mặt ngửa - chúng là cùng nhau. Hoặc bạn giữ chúng cả hai hoặc bạn vứt chúng cả hai. Nếu bạn vứt mặt này, mặt kia cũng bị vứt. Chủ thể và đối thể là cùng nhau; chúng là một, các mặt của một thứ. Đối thể mất, toàn thể ngôi nhà của tính chủ quan lập tức sụp đổ; thế thì bạn không còn là người cũ nữa, thế thì bạn ở cõi bên kia, và duy nhất cõi bên kia là bên kia sống và chết.
Bạn sẽ phải chết đi, bạn sẽ phải được sinh ra. Trong khi chết đi, cũng như cây, bạn thu thập mọi ham muốn của bạn lại trong hạt mầm. Bạn không đi vào việc sinh khác; hạt mầm bay đi và đi vào việc sinh khác. Mọi thứ bạn đã sống, đã ham muốn - thất vọng của bạn, thất bại của bạn, thành công của bạn, yêu của bạn, ghét của bạn - trong khi bạn sắp chết, toàn thể năng lượng này tụ lại trong hạt mầm.
Hạt mầm đó là từ năng lượng; hạt mầm đó nhảy từ bạn, đi vào trong bụng mẹ. Lần nữa hạt mầm đó tái tạo lại bạn, cũng như hạt mầm trong cây. Khi cây sắp chết, nó gìn giữ bản thân nó trong hạt mầm. Qua hạt mầm cây còn dai dẳng; qua hạt mầm bạn còn dai dẳng. Đó là lí do tại sao Patanjali gọi nó là sabeej samadhi - samadhi có chủng tử. Nếu đối thể có đó, bạn sẽ phải được sinh ra lặp đi lặp lại, bạn sẽ phải đi qua cùng khổ, cùng địa ngục mà là cuộc sống, trừ phi bạn trở thành vô hạt mầm.
Và vô hạt mầm là gì? Nếu đối thể không có đó, không có hạt mầm. Thế thì mọi nghiệp quá khứ của bạn đơn giản biến mất, bởi vì thực ra bạn chưa bao giờ làm cái gì cả. Mọi thứ đã được làm bởi tâm trí - nhưng bạn bị đồng nhất, bạn nghĩ bạn là tâm trí. Mọi thứ đã được làm bởi thân thể - nhưng bạn bị đồng nhất, bạn nghĩ bạn là thân thể.
Trong samadhi vô hạt mầm, trong nirvichara samadhi, khi bây giờ chỉ tâm thức tồn tại trong sự thuần khiết hoàn toàn của nó, thế thì lần đầu tiên bạn hiểu toàn thể sự việc: rằng bạn chưa bao giờ là người làm. Bạn chưa bao giờ ham muốn một thứ. Không cần ham muốn bởi vì mọi thứ là ở trong bạn. Bạn là điều tối thượng. Ham muốn là ngu xuẩn về phần bạn, và bởi vì bạn ham muốn bạn trở thành kẻ ăn xin.
Bình thường bạn nghĩ khác - bạn nghĩ rằng bởi vì bạn là kẻ ăn xin, đó là lí do tại sao bạn ham muốn. Nhưng trong samadhi vô hạt mầm hiểu biết này bừng lên rằng nó chính là điều ngược lại - bởi vì bạn ham muốn, bạn là kẻ ăn xin. Bạn hoàn toàn lộn ngược lại. Nếu ham muốn biến mất, bạn đơn giản đột nhiên trở thành hoàng đế. Người ăn xin chưa bao giờ có đó. Chính bởi vì bạn đã ham muốn, chính bởi vì bạn đã nghĩ quá nhiều về đối thể và bạn bị ám ảnh quá nhiều với đối thể và các đối thể, tới mức bạn không có thời gian và không có cơ hội và không có không gian để nhìn vào trong. Bạn đã hoàn toàn quên mất rằng ai ở bên trong. Bên trong là điều thiêng liêng, bên trong là bản thân Thượng đế.
Đó là lí do tại sao người Hindu cứ nói: Aham brahmasmi. Họ nói: Ta là điều tối thượng. Nhưng chỉ bằng việc nói, nó không thể được đạt tới. Người ta phải đạt tới nirvichara samadhi. Chỉ thế thì Upanishads mới trở thành đúng, chỉ thế thì Phật mới trở thành đúng. Bạn trở thành nhân chứng. Bạn nói, “Vâng, họ đúng,” bởi vì bây giờ nó đã trở thành kinh nghiệm riêng của bạn.
Khi đạt tới sự thuần khiết cao nhất của giai đoạn nirvichara của samadhi, có việc hừng lên của ánh sáng tâm linh.
Nirvichara vaisharadye adhyatma prasadah. Từ prasad là rất, rất hay. Nó có nghĩa là ân huệ. Khi người ta ở trong bản thể riêng của mình, được định tâm, về nhà, đột nhiên có phúc lành... mọi điều người đó bao giờ cũng ham muốn đột nhiên được hoàn thành. Mọi điều bạn muốn là vậy, đột nhiên bạn là vậy, và bạn đã không làm cái gì cho nó, bạn đã không làm nỗ lực nào cho nó. Trong nirvichara samadhi người ta đi tới biết rằng trong chính bản chất của mình, bản chất sâu nhất, người ta bao giờ cũng được hoàn thành - điệu vũ hoàn thành!
Khi đạt tới sự thuần khiết cao nhất...
Và thuần khiết cao nhất là gì? - nơi thậm chí ý nghĩ về vô ý nghĩ không tồn tại. Đó là thuần khiết cao nhất: nơi gương đơn giản là gương, không cái gì được phản xạ trong nó, bởi vì ngay cả phản xạ là không thuần khiết. Thực ra phản xạ không làm gì tới gương, nhưng dầu vậy gương là không thuần khiết. Việc phản xạ không thể làm gì tới gương được. Nó sẽ không để lại dấu ấn nào, nó sẽ không để lại dấu vết nào trên gương, nhưng trong khi nó có đó gương bị rót đầy bởi cái gì đó khác. Cái gì đó ngoại lai có đó: gương không còn trong sự thuần khiết cao nhất của nó, trong tính đơn độc cao nhất của nó; gương không hồn nhiên - cái gì đó có đó.
Khi tâm trí đã hoàn toàn mất đi và ngay cả có vô trí - không có một ý nghĩ nào về cái gì dù là bất kì cái gì, thậm chí không có về trạng thái của bản thể bạn trong khoảnh khắc phúc lạc như thế, bạn đơn giản là sự thuần khiết cao nhất này của giai đoạn nirvichara của samadhi - có việc hừng lên của ánh sáng tâm linh. Nhiều thứ xảy ra.
Đó là điều đã xảy ra cho Subhuti: đột nhiên hoa mưa xuống chẳng vì nguyên nhân nào cả, và ông ấy đã không làm gì cả. Ông ấy thậm chí đã không nhận biết về trống rỗng của mình. Nếu như ông ấy có, thế thì hoa đã không mưa xuống. Ông ấy đơn giản quên lãng mọi thứ, ông ấy ở trong bản thân ông ấy thế - thậm chí không một gợn sóng trên bề mặt của tâm thức, thậm chí không một phản xạ trong gương, thậm chí không một đám mây trên trời, không gì cả.
Hoa mưa xuống... đó là điều Patanjali nói: Nirvichara vaisharadye adhyatma prasadah - đột nhiên ân huệ giáng xuống. Thực ra, nó bao giờ cũng giáng xuống.
Bạn không nhận biết: ngay bây giờ hoa đang mưa lên bạn, nhưng bạn không trống rỗng cho nên bạn không thể thấy được chúng. Chỉ qua con mắt của trống rỗng chúng mới có thể được thấy bởi vì chúng không phải là hoa của thế giới này, chúng là hoa từ thế giới khác.
Tất cả những người đã đạt tới, họ đều đồng ý về một điểm: rằng trong việc đạt tới chung cuộc người ta cảm thấy rằng, chẳng có lí do nào cả, mọi thứ được hoàn thành. Người ta cảm thấy được phúc lành thế và người ta đã không làm gì cho nó. Bạn đã làm cái gì đó về thiền, bạn đã làm cái gì đó về suy tư, bạn đã làm cái gì đó về cách không níu bám lấy đối thể, bạn đã làm cái gì đó trên những đường này, nhưng bạn đã không làm gì cho phúc lành bất thần mưa xuống bạn. Bạn đã không làm cái gì để hoàn thành ham muốn của bạn.
Với đối thể, khổ tồn tại; với ham muốn, tâm trí khổ; với đòi hỏi, với tâm trí phàn nàn, địa ngục. Đột nhiên, khi đối thể đã qua, địa ngục cũng đã biến mất và cõi trời mưa rào lên bạn. Đó là khoảnh khắc của ân huệ. Bạn không thể nói rằng bạn đã đạt tới nó, bạn có thể đơn giản nói bạn đã không làm gì. Đó là nghĩa của ân huệ, prasad: không làm gì về phần bạn nó xảy ra. Thực ra, nó bao giờ cũng xảy ra, nhưng bạn bỏ lỡ bằng cách nào đó. Bạn bị mê mải nhiều thế với đối thể đó là lí do tại sao bạn không thể nhìn được vào bên trong, cái gì đang xảy ra ở đó. Mắt bạn không rút vào trong, mắt bạn đang đi ra ngoài.
Bạn được sinh ra đã được hoàn thành rồi. Bạn không cần làm gì cả, bạn không cần đi một bước nào. Đây là nghĩa của prasad.
...có việc hừng lên của ánh sáng tâm linh.
Bao giờ cũng vậy, bạn bị bao quanh bởi bóng tối. Với nhận biết đi vào bên trong có ánh sáng, và trong ánh sáng đó bạn đi tới biết đã không có bóng tối. Chỉ bạn không trong hài hoà với bản thân mình thôi; đó là bóng tối duy nhất.
Nếu bạn hiểu điều này, chỉ ngồi im lặng mọi thứ là có thể. Bạn không làm cuộc hành trình và bạn đạt tới đích. Bạn không làm gì và mọi thứ xảy ra. Khó hiểu điều đó, bởi vì tâm trí nói, “Làm sao điều đó là có thể được?
Mình đã làm nhiều thế, ngay cả thế phúc lạc đã không xảy ra. Vậy làm sao nó có thể xảy ra mà không làm gì?”
Mọi người đang tìm kiếm hạnh phúc và mọi người đang bỏ lỡ nó, và tâm trí nói, và tất nhiên một cách logic, rằng nếu nó không xảy ra với nhiều tìm kiếm thế, làm sao nó có thể xảy ra mà không có tìm kiếm? “Những người nói về những điều này phải đã phát điên. Người ta phải tìm kiếm vất vả, chỉ thế thì nó mới là có thể.” Và tâm trí cứ nói, “Tìm chăm chỉ vào, làm nhiều nỗ lực hơn, chạy nhanh, lấy tốc độ, bởi vì mục đích là xa xôi thế.”
Mục đích ở bên trong bạn. Không cần bất kì tốc độ nào và không cần đi bất kì đâu. Không cần làm cái gì dù bất kì cái gì. Điều duy nhất được cần là ngồi im lặng trong trạng thái không làm, không có bất kì đối thể nào, chỉ là bản thân bạn được định tâm toàn bộ, hoàn toàn tới mức thậm chí không một gợn sóng nảy sinh trên bề mặt. Thế thì có prasad; thế thì ân huệ giáng xuống bạn, phúc lành mưa rào, toàn thể bản thể bạn được rót đầy với phúc lành không biết. Thế thì chính thế giới này trở thành cõi trời. Thế thì chính cuộc sống này trở thành điều thiêng liêng. Thế thì không có gì sai. Thế thì mọi thứ là như nó đáng phải là. Với phúc lạc bên trong của bạn, bạn cảm thấy phúc lạc ở mọi nơi. Với cảm nhận mới, sáng tỏ mới, không có thế giới khác, không có cuộc sống khác, không có thời gian khác. Khoảnh khắc này, chính sự tồn tại này là hoàn cảnh duy nhất.
Nhưng chừng nào bạn còn chưa cảm thấy bản thân mình, bạn sẽ cứ bỏ lỡ mọi phúc lành mà sự tồn tại cho như món quà. Prasad nghĩa là, nó là món quà từ sự tồn tại. Bạn đã không kiếm nó, ban không thể đòi nó. Thực ra, khi người đòi đi rồi, đột nhiên nó có đó.
Khi đạt tới sự thuần khiết cao nhất của giai đoạn nirvichara của samadhi, có việc hừng lên của ánh sáng tâm linh.
...Và bản thể bên trong nhất của bạn có bản chất ánh sáng. Tâm thức là ánh sáng; tâm thức là ánh sáng duy nhất. Bạn đang tồn tại rất không có ý thức: làm mọi sự, không biết tại sao; ham muốn mọi thứ, không biết tại sao; đòi hỏi mọi thứ, không biết tại sao; trôi giạt trong giấc ngủ vô thức. Các bạn tất cả đều là những người miên hành. Vừa đi vừa ngủ là bệnh tâm linh duy nhất - bước đi và sống trong ngủ.
Trở nên ý thức nhiều hơn đi. Bắt đầu có ý thức với các đối thể. Nhìn vào mọi sự với nhiều tỉnh táo hơn. Bạn đi qua cây; nhìn vào cây với nhiều tỉnh táo. Dừng lại một chút, nhìn vào cây; day mắt, nhìn cây với tỉnh táo hơn. Thu lấy nhận biết, nhìn vào cây, và quan sát sự khác biệt. Đột nhiên, khi bạn tỉnh táo, cây là khác - nó xanh hơn, nó sống động hơn, nó đẹp hơn. Cây vẫn như cũ, chỉ bạn đã thay đổi. Nhìn vào hoa dường như toàn thể sự tồn tại của bạn phụ thuộc vào cái nhìn này. Đem mọi nhận biết của bạn về hoa và đột nhiên hoa được tôn lên, được làm đẹp lên - nó rạng ngời hơn, nó chói sáng hơn. Nó có cái gì đó của vinh quang của vĩnh hằng, cứ dường như vĩnh hằng đã đi vào trong thời gian lấy hình dạng của hoa.
Nhìn vào mặt chồng bạn, vợ bạn, bạn của bạn, người yêu của bạn, với tỉnh táo; thiền về nó và đột nhiên bạn thấy không chỉ thân thể, mà thấy cái bên ngoài thân thể, cái đang tới từ thân thể. Có hào quang quanh thân thể, của tâm linh. Mặt của người được yêu không còn là mặt của người được yêu; mặt của người được yêu đã trở thành mặt của điều thiêng liêng. Nhìn vào con bạn. Quan sát nó chơi với tỉnh táo đầy đủ, nhận biết, và đột nhiên đối thể được tôn lên đẹp hơn.
Đầu tiên bắt đầu làm việc với các đối thể. Đó là lí do tại sao Patanjali nói về samadhis khác trước khi ông ấy nói về nirvichara samadhi, samadhi không hạt mầm. Bắt đầu với đối thể và chuyển tới các đối thể tinh tế hơn.
Chẳng hạn, chim hót trên cây: tỉnh táo đi, dường như trong khoảnh khắc đó chỉ bạn và tiếng chim hót tồn tại - toàn thể chim không tồn tại, cũng chẳng sao. Hội tụ bản thể bạn hướng tới tiếng hót của chim và bạn sẽ thấy khác biệt. Tiếng ồn giao thông không còn tồn tại, hay tồn tại ở chính ngoại vi của sự tồn tại, xa xăm, cách xa, và con chim nhỏ cùng tiếng hót của nó rót đầy bản thể bạn hoàn toàn - chỉ bạn và con chim tồn tại. Và thế rồi khi tiếng hót đã dừng lại, lắng nghe sự thiếu vắng của tiếng hót. Thế thì đối thể trở thành tinh tế, bởi vì...
Bao giờ cũng nhớ: khi tiếng hót dừng lại nó để lại phẩm chất nào đó cho bầu không khí - về sự thiếu vắng. Nó không còn như cũ. Bầu không khí đã thay đổi hoàn toàn bởi vì tiếng hót đã tồn tại, và thế rồi tiếng hót biến mất... bây giờ sự thiếu vắng của tiếng hót. Quan sát điều đó - toàn thể sự tồn tại được rót đầy bởi sự thiếu vắng tiếng hót đó, và nó còn đẹp hơn bất kì tiếng hót nào vì nó là tiếng hót của im lặng. Tiếng hót dùng âm thanh, và khi âm thanh biến mất, thiếu vắng dùng im lặng. Sau khi chim đã hót, im lặng là sâu hơn. Nếu bạn có thể quan sát điều đó, nếu bạn có thể tỉnh táo, bạn bây giờ đang thiền về đối thể rất tinh tế, đối thể rất tinh tế.
Một người di chuyển, một người đẹp di chuyển - quan sát người này. Khi người đó đã đi rồi, bây giờ quan sát thiếu vắng; người đó đã bỏ lại cái gì đó. Năng lượng của người đó đã làm thay đổi căn phòng; nó không còn là cùng căn phòng đó.
Khi Phật sắp chết, Ananda hỏi ông ấy... ông này đang kêu khóc và ông này nói, “Điều gì sẽ xảy ra cho chúng tôi bây giờ? Thầy đã ở đây và chúng tôi đã không thể đạt tới được. Bây giờ thầy sẽ không còn ở đây nữa. Chúng tôi sẽ làm gì?”
Phật tương truyền đã nói, “Bây giờ yêu sự thiếu vắng ta, chăm chú vào sự thiếu vắng ta.”
Trong năm trăm năm không bức tượng nào đã được làm để cho sự thiếu vắng đó có thể được cảm thấy. Thay vì tượng, chỉ cây bồ đề được vẽ ra. Đền chùa tồn tại, nhưng không có tượng Phật; chỉ cây bồ đề, cây bồ đề bằng đá, một Phật thiếu vắng bên dưới. Mọi người sẽ tới và ngồi và quan sát cây này, và cố quan sát sự thiếu vắng của Phật dưới cây này. Và nhiều người đã đạt tới chính im lặng và thiền sâu sắc. Nhưng thế rồi, dần dần, đối thể tinh tế bị mất và mọi người bắt đầu nói: “Cái gì có đó để thiền về? Chỉ có một cây, nhưng Phật ở đâu?” Bởi vì để cảm thấy vị Phật trong thiếu vắng của ông ấy cần sự sáng tỏ và chăm chú rất, rất sâu. Thế rồi, cảm thấy rằng bây giờ mọi người không thể thiền được về sự thiếu vắng tinh tế, tượng đã được tạo ra.
Điều này bạn có thể làm với bất kì giác quan nào của bạn, bởi vì mọi người có những năng lực và nhạy cảm khác nhau. Chẳng hạn, nếu bạn có tai nhạc, thế thì điều tốt là quan sát và chăm chú tới tiếng hót của chim. Trong vài giây nó có đó, và thế rồi nó qua đi. Thế rồi quan sát sự thiếu vắng. Và bạn sẽ xúc động nếu bạn có thể quan sát sự thiếu vắng; đột nhiên đối thể đã trở nên rất tinh tế. Nó sẽ yêu cầu nhiều chăm chú hơn và nhiều nhận biết hơn tiếng hót thực của chim.
Nếu bạn có mũi thính... rất ít người có nó, nhân loại đã gần như đánh mất mũi hoàn toàn. Con vật có mũi tốt hơn, chúng ngửi nhạy cảm hơn nhiều, có khả năng hơn mũi người. Cái gì đó đã xảy ra cho mũi con người, cái gì đó đã đi sai; rất ít người có mũi có năng lực, nhưng nếu bạn có thế thì ở gần hoa, để cho mùi rót đầy bạn. Thế rồi, dần dần, bạn ra đi khỏi hoa - rất chậm, nhưng liên tục chăm chú tới mùi, tới hương. Khi bạn ra đi hương thơm sẽ trở nên ngày một tinh tế hơn và bạn sẽ cần nhiều nhận biết hơn để cảm thấy nó. Trở thành mũi đi. Quên toàn thân, đem mọi năng lượng của bạn tới mũi, dường như duy nhất mũi tồn tại. Dần dần nếu bạn mất dấu vết của mùi, đi thêm vài bước lên trước, lại bắt gữ lấy mùi ấy; rồi đi lại, đi lùi lại. Dần dần, bạn sẽ có khả năng ngửi mùi hoa từ khoảng cách rất, rất lớn - không ai sẽ có khả năng ngửi hoa đó từ đó. Thế rồi bạn cứ di chuyển. Theo một cách rất đơn giản bạn đang làm đối thể thành tinh tế. Thế rồi một khoảnh khắc sẽ tới khi bạn sẽ không có khả năng ngửi thấy mùi: bây giờ ngửi sự thiếu vắng. Bây giờ ngửi sự thiếu vắng nơi hương thơm vừa có ở khoảnh khắc trước, và nó không còn đó. Đó là phần khác của sự hiện hữu của nó, phần thiếu vắng, phần tối. Nếu bạn có thể ngửi sự thiếu vắng của mùi, nếu bạn có thể cảm thấy nó, điều đó tạo ra khác biệt, nó làm ra khác biệt; thế thì đối thể đã trở thành rất tinh tế. Bây giờ nó đạt tới gần trạng thái nirvichara, trạng thái vô ý nghĩ của samadhi.
Mohammed - một người chứng ngộ duy nhất - đã dùng hương thơm như đối thể của thiền. Hồi giáo đã làm nó thành đối thể của thiền. Nó là đẹp.
Tại sao mùi đã biến mất khỏi con người? Có nhiều điều phức tạp tham gia vào trong nó, nhưng tôi muốn kể cho bạn chỉ nhân tiện để cho bạn có thể nhớ chúng. Và nếu bạn đi qua những rào chắn này, đột nhiên năng lực ngửi của bạn sẽ trở lại. Nó bị kìm nén.
Bạn phải biết rằng ngửi có liên quan tới dục. Kìm nén dục đã trở thành kìm nén ngửi. Con vật trước hết ngửi thân thể trước khi chúng làm tình. Thực ra, chúng ngửi trung tâm dục trước khi chúng làm tình. Nếu trung tâm dục cho chúng tín hiệu, rằng “Được, bạn được chấp nhận, được phép” - chỉ thế thì chúng làm tình, bằng không thì thôi.
Thân thể con người cũng cho mùi - về lời mời, về đẩy ra, hút vào. Thân thể có hương thơm và biểu tượng riêng của nó, nhưng trong xã hội sẽ rất khó nếu bạn có thể ngửi. Nếu bạn đang nói chuyện với người bạn và vợ anh ta bắt đầu toả mùi và cho bạn lời mời dục, bạn sẽ làm gì? Điều đó sẽ nguy hiểm. Cho nên cách duy nhất nền văn minh có thể đối phó với nó là phá huỷ việc ngửi hoàn toàn, bởi vì nó là hiện tượng có quan hệ tới dục.
Bạn đi qua bên đường và người đàn bà đi qua: cô ấy có thể không có ý thức quan tâm tới bạn, nhưng cô ấy cho mùi, mùi lời mời. Phải làm gì?
Bạn muốn làm tình với vợ bạn. Cô ấy là vợ bạn, cho nên tất nhiên khi bạn muốn làm tình cô ấy phải làm tình, nhưng thân thể cô ấy cho bạn tín hiệu của không yêu, không lời mời, đẩy ra - bạn sẽ làm gì? Và thân thể là không kiểm soát được; bạn không thể kiểm soát được chúng chỉ bằng tâm trí. Ngửi trở thành nguy hiểm, nó trở thành có tính dục. Nó có tính dục.
Đó là lí do tại sao, với nước hoa, cái tên toàn có tính dục. Đi tới cửa hàng và nhìn và nhãn của nước hoa - tất cả đều có tính dục. Nước hoa có tính dục, và mũi hoàn toàn bị đóng. Bởi vì Hồi giáo không kìm nén dục, nó chấp nhận mùi; và Hồi giáo không phủ nhận dục, nó chấp nhận mùi; và Hồi giáo không ủng hộ từ bỏ dục, đó là lí do tại sao Hồi giáo có thể cho chút ít tự do cho tính nhạy cảm về mùi. Không tôn giáo nào khác trên thế giới có thể làm điều đó.
Nhưng mùi có thể rất, rất hay nếu bạn làm cho nó thành đối thể của thiền. Nó là hiện tượng rất tinh tế và, dần dần, bạn có thể đi tới điều tinh tế nhất.
Người Hindu cũng đã dùng kiểu nước hoa nào đó, đặc biệt là hương trong đền chùa, nhưng hương của họ là khác. Cũng như có các mùi dục, có mùi tâm linh, và cả hai có quan hệ cùng nhau. Sau việc tìm kiếm rất lâu người Hindu đã khám phá ra một mùi đặc biệt mà không có tính dục. Thay vì thế, ngược lại, năng lượng đi lên chứ không đi xuống. Hương trở thành rất, rất có ý nghĩa. Họ đã dùng nó trong đền chùa; nó giúp ích. Cũng như có nhạc mà có thể làm cho bạn có tính dục và có nhạc có thể làm cho bạn có tính tâm linh. Đặc biệt âm nhạc hiện đại rất có tính dục; nhạc cổ điển rất tâm linh. Cùng điều đó tồn tại cho mọi giác quan: có những bức tranh mà có thể là tâm linh, dục; âm thanh, mùi vị, cái có thể có tính dục, tâm linh. Từng giác quan đều có hai khả năng: nếu năng lượng rơi xuống qua nó, đi xuống, thế thì nó mang tính dục; nếu năng lượng đi lên, thế thì nó là tâm linh.
Bạn có thể làm điều đó với hương. Thắp hương lên, thiền về nó, cảm thấy nó, ngửi nó, được rót đầy với nó, và thế rồi đi lùi lại xa khỏi nó - và cứ tiếp tục, tiếp tục thiền về nó; để nó trở thành ngày một tinh tế hơn. Một khoảnh khắc tới khi bạn có thể cảm thấy sự thiếu vắng của cái nào đó. Thế thì bạn đã đi tới nhận biết rất sâu.
Khi đạt tới sự thuần khiết cao nhất của giai đoạn nirvichara của samadhi, có việc hừng lên của ánh sáng tâm linh.
Nhưng khi đối thể hoàn toàn biến mất - sự hiện diện của đối thể biến mất và sự thiếu vắng của đối thể biến mất; ý nghĩ biến mất và vô ý nghĩ biến mất; tâm trí biến mất và ý tưởng về vô trí biến mất - chỉ thế thì bạn đã đạt tới cái cao nhất. Bây giờ đây là khoảnh khắc khi ân huệ đột nhiên giáng lên bạn. Đây là khoảnh khắc khi hoa mưa xuống. Đây là khoảnh khắc khi bạn được kết nối với cội nguồn của cuộc sống và hiện hữu. Đây là khoảnh khắc khi bạn không còn là kẻ ăn xin nữa; bạn đã trở thành hoàng đế. Đây là khoảnh khắc khi bạn được lên ngôi vua. Trước đó bạn đã trên cây chữ thập; đây là khoảnh khắc cây chữ thập biến mất và bạn được lên ngôi.
Trong nirvichara samadhi, tâm thức được trút đầy với chân lí.
Cho nên chân lí không phải là kết luận cần được đạt tới; chân lí là kinh nghiệm để được đạt tới. Chân lí không phải là cái gì đó mà bạn có thể nghĩ về; nó là cái gì đó mà bạn có thể là. Chân lí là kinh nghiệm của người ta hiện hữu một mình toàn bộ, không với đối thể nào. Chân lí là ở trong thuần khiết bên trong nhất của bạn. Chân lí không phải là kết luận triết lí. Không qui tắc suy luận nào có thể cho bạn chân lí. Không lí thuyết nào, không giả thuyết nào có thể cho bạn chân lí. Chân lí tới với bạn khi tâm trí biến mất. Chân lí đã có đó ẩn trong tâm trí, và tâm trí sẽ không cho phép bạn nhìn vào nó bởi vì tâm trí đi ra ngoài và giúp bạn nhìn vào đối thể.
Trong nirvichara samadhi, tâm thức được trút đầy với chân lí.
Ritambhara là từ rất hay; nó cũng giống như đạo. Từ ‘chân lí’ không thể giải thích nó đầy đủ được. Trong Vedas nó được gọi là rit. ‘Rit’ nghĩa là, chính nền tảng của vũ trụ. Rit nghĩa là, chính luật của sự tồn tại. Rit không chỉ là chân lí; chân lí là một từ quá khô khan và mang nhiều chất logic trong nó. Chúng ta nói, “Cái này là đúng và cái kia không đúng,” và chúng ta quyết định lí thuyết nào là đúng và lí thuyết nào là không đúng. Chân lí mang nhiều logic trong nó. Nó là từ logic.
Rit nghĩa là, luật của hài hoà vũ trụ: luật di chuyển các vì sao, luật qua đó mùa vụ tới và đi, mặt trời mọc và lặn, và đêm tiếp theo ngày, và chết đi theo sinh - và tâm trí tạo ra thế giới và vô trí cho phép bạn biết cái đang hiện hữu. Rit nghĩa là luật vũ trụ, chính cốt lõi bên trong nhất của sự tồn tại.
Thay vì gọi nó là chân lí, tốt hơn nên gọi nó là chính nền tảng của hiện hữu. Chân lí dường như là thứ xa vời, cái gì đó tách rời khỏi bạn. Rit là hiện hữu bên trong nhất của bạn, và không chỉ hiện hữu bên trong nhất của bạn, hiện hữu bên trong nhất của tất cả, ritambhara. Trong nirvichara samadhi, tâm thức được rót đầy bằng ritambhara, hài hoà vũ trụ. Không có bất hoà, không xung đột; mọi thứ đã rơi vào hàng lối. Ngay cả điều sai cũng được hấp thu, nó không bị vứt bỏ; ngay cả điều xấu cũng bị hấp thu, nó không bị vứt bỏ; ngay cả chất độc cũng được hấp thu, nó không bị vứt bỏ. Không cái gì bị vứt bỏ.
Trong chân lí, phi chân lí bị vứt bỏ. Trong ritambhara, cái toàn thể được chấp nhận và cái toàn thể là hiện tượng hài hoà tới mức thậm chí chất độc cũng giữ phần riêng của nó. Không chỉ sống mà chết cũng có phần - mọi thứ được thấy trong ánh sáng mới. Ngay cả khổ, dukkha, cũng lấy phẩm chất mới cho nó. Ngay cả cái xấu cũng trở thành đẹp bởi vì trong khoảnh khắc của việc hừng lên của ritambhara, lần đầu tiên bạn hiểu tại sao các cái đối lập tồn tại. Và các cái đối lập không còn đối lập; chúng tất cả đã trở thành phần bù, chúng giúp lẫn nhau.
Bây giờ bạn không có phàn nàn nào, không phàn nàn chống lại sự tồn tại. Bây giờ bạn hiểu tại sao mọi sự là như chúng vậy, tại sao cái chết tồn tại. Bây giờ bạn biết sống không thể tồn tại nếu không có chết. Và sống sẽ là gì nếu không có chết? - sống sẽ đơn giản là không thể chịu được nếu không có chết. Sống sẽ đơn giản là xấu nếu không có chết - nghĩ mà xem!
Có một câu chuyện về Alexander Đại đế, rằng ông ấy đang đi tìm cái gì đó mà có thể làm cho ông ấy thành bất tử. Mọi người đều đi tìm cái gì đó giống như điều đó, và khi Alexander đi tìm ông ấy sẽ tìm thấy nó - ông ấy là người mạnh mẽ thế.
Ông ấy đã tìm và tìm, và một lần ông ấy tới một hang động nơi một người trí huệ nào đó đã bảo ông ấy, “Nếu ông uống nước của hang đó - có dòng suối trong hang - ông sẽ trở nên bất tử.”
Alexander phải đã là kẻ ngu. Mọi Alexander đều ngu, bằng không ông ấy phải đã hỏi người trí huệ liệu ông ta đã uống từ suối đó hay không. Ông ấy đã không hỏi; ông ấy đã vội vàng thế. Và ai biết? - ông ấy có thể không có khả năng tới hang đó, và trước khi ông ấy chết... cho nên ông ấy chạy xô lại.
Ông ấy tới chiếc hang đó. Bên trong nó, ông ấy rất sung sướng: nước trong vắt như pha lê có đó; ông ấy chưa bao giờ nhìn thấy nước như vậy. Ông ấy định uống nước... đột nhiên một con quạ đang đậu trong hang cất tiếng, “Dừng lại! Đừng uống nó. Ta đã uống, và ta bị khổ.”
Alexander nhìn con quạ và nói, “Mày nói gì vậy? Mày đã uống à, và khổ là gì?”
Quạ nói, “Bây giờ ta không thể chết được và ta muốn chết. Mọi thứ đều bị kết thúc rồi. Ta đã biết mọi thứ mà cuộc sống có thể cho. Ta đã biết yêu và đã trưởng thành từ nó. Ta đã biết thành công; ta đã là vua quạ, và bây giờ ta chán ngán, ta đã biết mọi thứ mà có thể được biết. Mọi người ta biết đều đã chết; họ đã quay trở về nghỉ ngơi còn ta không thể nghỉ được. Ta đã thử mọi cách để tự tử, nhưng mọi thứ đều thất bại. Ta không thể chết được bởi vì ta đã uống từ cái hang đáng nguyền rủa này. Tốt hơn cả là không ai biết về nó. Trước khi ông uống, ông thiền về hoàn cảnh của ta đi - và thế rồi ông có thể uống.”
Chuyện kể rằng Alexander lần đầu tiên nghĩ về điều đó, và quay về không uống từ hang đó và suối đó.
Sống sẽ đơn giản không thể nào chịu được nếu không có chết. Yêu sẽ không thể nào chịu được nếu không có cái đối lập của nó. Nếu bạn không thể tách rời khỏi người được yêu của bạn, điều đó sẽ là không thể nào chịu được; toàn thể sự việc sẽ trở thành đơn điệu thế, nó sẽ tạo ra nhàm chán. Sống tồn tại cùng các cái đối lập - đó là lí do tại sao nó thú vị thế. Tới cùng nhau và đi xa ra, lại tới cùng nhau và lại đi xa; dâng lên và rơi xuống. Nghĩ về sóng trong đại dương dâng lên và không thể rơi xuống, nghĩ về mặt trời đã mọc lên và không thể lặn xuống. Chuyển động từ cực này sang cực khác là bí mật rằng cuộc sống liên tục là điều thú vị.
Khi người ta đi tới biết ritambhara, luật cơ bản của tất cả, chính nền tảng của tất cả, mọi thứ rơi vào hàng lối và người ta hiểu. Thế thì người ta không có phàn nàn nào. Người ta chấp nhận: bất kì cái gì có đấy, đều là đẹp.
Đó là lí do tại sao mọi người đã biết họ đều nói cuộc sống là hoàn hảo; bạn không thể cải tiến nó được.
Trong nirvichara samadhi, tâm thức được trút đầy với chân lí.
Gọi nó là đạo... Đạo cho nghĩa của ritambhara đúng hơn; nhưng dầu vậy nếu bạn có thể vẫn còn với từ ritambhara nó sẽ còn hay hơn. Để nó vẫn còn đó đi. Ngay cả âm thanh của nó... ritambhara cũng có phẩm chất hài hoà nào đó. Chân lí là khái niệm logic quá khô khan. Nếu bạn có thể làm ra cái gì đó từ chân lí cộng với tình yêu, nó sẽ gần hơn với ritambhara. Nó là hài hoà ẩn kín của Heraclitus, nhưng điều này xảy ra chỉ khi đối thể đã hoàn toàn biến mất. Bạn một mình với tâm thức của bạn và không có ai đó khác. Tấm gương không có phản xạ...
Đủ cho hôm nay.

0 Đánh giá

Ads Belove Post