Read more
Osho - Chim
tung cánh
Bài giảng về Thiền
Chương 10. Thầy
của im lặng
Một hôm Phật định cho bài nói đặc biệt, và
hàng nghìn tín đồ đã tới từ xung quanh cách nhiều dặm đường.
Khi Phật xuất hiện ông ấy cầm một đoá hoa.
Thời gian trôi qua, nhưng Phật chẳng nói gì. Ông ấy chỉ nhìn vào đoá hoa. Đám
đông trở nên bất ổn, nhưng Mahakashyap, người không thể kìm mình được thêm nữa,
bật ra tiếng cười.
Phật ra hiệu cho ông ấy tới, trao cho ông ấy
đoá hoa, và nói cho đám đông, "Ta có con mắt của giáo huấn thực. Mọi điều
có thể được cho qua lời ta đã trao cho các ông; nhưng với đoá hoa này, ta trao
nó cho Mahakashyap chìa khoá của giáo huấn này."
Với mọi giáo huấn, không chỉ đối
với vị Phật mà đối với mọi thầy - Jesus, Mahavira, Lão Tử - chìa khoá không thể
được trao qua trao đổi miệng, chìa khoá không thể được giao qua tâm trí. Không
cái gì có thể được nói về nó. Bạn càng nói nhiều nó lại càng khó chuyển giao,
vì vị Phật và bạn sống trong các chiều khác biệt thế - không chỉ khác biệt mà
còn đối lập đối xứng - tới mức bất kì cái gì vị Phật nói sẽ bị hiểu lầm.
Tôi đã nghe nói rằng một buổi tối
ba người đàn bà nghễng ngãng gặp nhau trên đường. Hôm đó trời gió, cho nên một
người đàn bà nói, "Trời gió quá, phải không?"
Người khác nói, "Bó quá à?
Không, giầy không bó đâu."
Và người thứ ba nói, "Ngó
qua à? Tôi cũng muốn ngó qua, cho nên chúng ta vào cửa hàng xem đi."
Đây là điều xảy ra khi vị Phật
nói cái gì đó cho bạn. Ông ấy nói, "Trời gió à?" Bạn nói, "Bó
quá à? Không, giầy không bó đâu."
Tai vật lí là được, tai tâm
linh bị thiếu. Vị Phật có thể nói chỉ cho vị Phật khác, đây là vấn đề, và với vị
Phật khác không có nhu cầu nói. Phật phải nói với nhưng người không chứng ngộ.
Với họ tồn tại nhu cầu nói và trao đổi, nhưng thế rồi trao đổi là không thể được.
Tin đồn một thánh nhân Mô ha
mét giáo, Farid, rằng ông ấy đi qua gần Benares nơi Kabir sống. Các tín đồ của
Farid nói, "Chắc sẽ tuyệt vời lắm nếu thầy và Kabir gặp gỡ. Với chúng tôi
đó sẽ là phúc lành."
Cùng điều đó xảy ra cho Kabir
và tín đồ của ông ấy. họ nghe nói rằng Farid sắp đi qua, cho nên họ nói với
Kabir rằng sẽ là hay nếu ông ấy yêu cầu Farid ở lại vài ngày trong đạo tràng.
Các đệ tử của Farid nói,
"Cả hai thầy nói chuyện chắc sẽ là cơ hội lớn cho chúng tôi, chúng tôi muốn
nghe điều hai người chứng ngộ nói với nhau."
Farid cười khi họ nói điều này
và đáp, "Sẽ có gặp gỡ, nhưng ta không nghĩ sẽ có việc nói nào. Nhưng chúng
ta hãy xem."
Kabir nói, "Hỏi Farid đi.
Để ông ấy tới và ở lại - nhưng bất kì ai nói trước đều sẽ là chứng tỏ là người
đó không chứng ngộ."
Farid tới; Kabir đón ông ấy. Họ
cười và ôm nhau. Thế rồi họ ngồi trong im lặng. Hai ngày Farid ở đó, và trong
nhiều giờ họ ngồi cùng nhau, với các đệ tử bồn chồn, chờ đợi họ nói cái gì đó,
thốt ra cái gì đó. Nhưng không một lời được trao đổi.
Ngày thứ ba Farid ra đi và
Kabir tới chào tạm biệt ông ấy. Họ lại cười, ôm nhau, ra đi.
Khoảnh khắc họ ra đi các đệ tử
của Farid tụ tập quanh ông ấy và nói, "Vô nghĩa làm sao! Phí thời gian làm
sao. Chúng tôi đã hi vọng rằng cái gì đó sẽ xảy ra. Chả cái gì xảy ra. Tại sao
thầy đột nhiên trở nên câm lặng thế? Thầy nói nhiều thế với chúng tôi."
Farid đáp, "Mọi điều ta biết,
ông ấy cũng biết. Không cái gì để được nói ra. Ta nhìn vào mắt ông ấy, và ông ấy
có đó, nơi ta hiện hữu. Bất kì cái gì ông ấy đã thấy ta đã thấy; bất kì cái gì
ông ấy đã nhận ra ta đã nhận ra. Chả có gì để được nói ra."
Hai người dốt nát có thể nói. Họ
nói nhiều; họ không làm gì ngoại trừ nói. Hai người chứng ngộ không thể nói được
- điều đó sẽ là ngớ ngẩn. Hai người dốt nát nói là vô nghĩa vì không có gì để
truyền đạt. Họ không biết cái gì có thể được nói, cái nên được nói, nhưng họ
liên tục nói. Họ huyên thuyên. Họ không thể đừng được điều đó; nó chỉ là việc tẩy
rửa điên khùng, việc xả ra.
Hai người chứng ngộ không thể
nói được bởi vì họ biết cùng điều. Không cái gì để được nói. Chỉ một người chứng
ngộ và một người không chứng ngộ mới có thể có trao đổi có nghĩa, vì một người
biết và người kia vẫn còn dốt nát. Trao đổi có nghĩa, tôi nói. Tôi không nói rằng
chân lí có thể được truyền đạt, nhưng hướng dẫn nào đó, chỉ dẫn nào đó, cử chỉ
nào đó là có thể, để cho người kia trở nên sẵn sàng lấy cú nhảy. Chân lí không
thể được chuyển trao, nhưng cơn khát có thể được cho. Không giáo huấn nào đáng
nêu tên có thể cho chìa khoá qua lời.
Phật đã nói - khó mà tìm ra được
người khác đã nói nhiều thế. Các học giả đã từng nghiên cứu mọi kinh sách trong
sự tồn tại mà có nhân danh Phật, và dường như là không thể nào hoàn thành được
vì sau khi chứng ngộ ông ấy đã sống chỉ bốn mươi năm, đi từ làng nọ sang làng
kia. Ông ấy đi khắp nơi ở Bihar, và cái tên Bihar tới vì Phật đã đi ở đó. Bihar
nghĩa là con đường đi bộ của Phật. Toàn thể tỉnh này được gọi là Bihar vì đây
là biên giới nơi Phật đã bước đi - Bihar của ông ấy, việc đi lang thang của ông
ấy.
Ông ấy liên tục bước đi; chỉ
trong mùa mưa ông ấy mới nghỉ. Nhiều thời gian thế đã bị phí hoài trong việc bước
đi, và thế nữa ông ấy phải ngủ. Cho nên các học giả đã từng tính toán; họ nói,
"Điều này dường như là không thể được. Ngủ, đi bộ, làm các việc thường
ngày - có bao nhiêu là kinh sách thế, làm sao ông ấy có thể đã nói nhiều thế được?
Nếu ông ấy liên tục nói trong bốn mươi năm, không một kẽ hở một khoảnh khắc, chỉ
thế thì ngần này điều mới có thể đã được nói ra. Ông ấy phải đã nói nhiều thế -
một cách liên tục - dầu vậy ông ấy nói chìa khoá không thể được chuyển trao qua
lời.
Câu chuyện này là một trong những
chuyện có nghĩa nhất, vì từ đây đã trải ra truyền thống về Thiền.
Phật là cội nguồn, và
Mahakashyap là người đầu tiên, thầy nguyên thuỷ của Thiền. Phật là cội nguồn,
Mahakashyap là thầy thứ nhất, và câu chuyện này là cội nguồn từ đó toàn thể
truyền thống này - một trong những truyền thống đẹp và sống động nhất đã tồn tại
trên trái đất, truyền thống Thiền - đã bắt đầu.
Cố hiểu câu chuyện này. Phật tới
vào một sáng, và như thường lệ một đám đông đã tụ tập lại, nhiều người đã chờ đợi
để lắng nghe ông ấy. Nhưng một điều là bất thường - ông ấy mang một đoá hoa
trong tay. Trước đây ông ấy chưa bao giờ mang cái gì trong tay. Mọi người tưởng
rằng ai đó phải đã tặng nó cho ông ấy. Phật tới, ông ấy ngồi dưới gốc cây. Đám
đông chờ đợi và chờ đợi và ông ấy lại không nói. Ông ấy thậm chí không nhìn họ,
ông ấy chỉ liên tục nhìn vào đoá hoa. Nhiều phút trôi qua, thế rồi cả giờ, và mọi
người trở nên rất bồn chồn.
Chuyện kể rằng Mahakashyap
không thể kìm được bản thân mình. Ông ấy cười to. Phật gọi ông ấy, trao cho ông
ấy đoá hoa và nói với đám đông đã tụ tập lại, "Bất kì cái gì có thể được
nói qua lời ta đã nói cho các ông rồi, và cái mà không thể được nói qua lời ta
trao nó cho Mahakashyap. Chìa khoá không thể được trao đổi bằng miệng. Tao trao
chìa khoá đó cho Mahakashyap."
Đây là điều các Thiền sư gọi là
truyền trao chìa khoá không kinh sách - bên ngoài kinh sách, bên ngoài lời, bên
ngoài tâm trí. Ông ấy đã trao đoá hoa cho Mahakashyap, và không ai có thể hiểu
cái gì đã xảy ra. Cả Mahakashyap lẫn Phật không bao giờ bình luận về điều đó lần
nữa. Toàn thể chương này được khép lại. Kể từ đó, ở Trung Quốc, ở Tây Tạng, ở
Thái Lan, ở Miến Điện, ở Nhật Bản, ở Ceylon - mọi nơi các Phật tử đều đã hỏi
trong hai mươi nhăm thế kỉ này, "Cái gì đã được trao cho Mahakashyap? Chìa
khoá là gì?"
Toàn thể câu chuyện này dường
như rất bí truyền. Phật không giữ bí mật; điều này là sự cố duy nhất... Phật là
người rất hợp lí. Ông ấy nói một cách hợp lí, ông ấy không phải là người cực lạc
điên, ông ấy tranh biện một cách hợp lí, và logic của ông ấy là hoàn hảo - bạn
không thể tìm được kẻ hở trong nó. Đây là sự cố duy nhất mà ông ấy đã hành xử một
cách phi logic, nơi ông ấy đã làm cái gì đó huyền bí. Ông ấy không phải là con
người huyền bí chút nào. Bạn không thể tìm được thầy nào khác ít huyền bí hơn.
Jesus là rất huyền bí, Lão Tử
là tuyệt đối huyền bí. Phật là rõ ràng, trong suốt; không huyền bí nào bao
quanh ông ấy, không mù mờ nào được phép. Ngọn lửa của ông ấy bùng cháy rõ ràng
và sáng, tuyệt đối trong suốt, không khói. Đây là điều duy nhất dường như là
huyền bí; do đó nhiều kinh sách Phật giáo không bao giờ kể lại giai thoại này,
họ đã đơn giản bỏ nó đi. Dường như là ai đó đã bịa ra nó. Nó chẳng tạo ra nghĩa
nào với cuộc đời và giáo huấn của Phật.
Nhưng với Thiền đây là khởi thuỷ.
Mahakashyap trở thành người đầu tiên giữ chìa khoá. Thế rồi sáu người giữ khoá
kế tục tồn tại ở Ấn Độ, mãi cho tới Bồ đề đạt ma; ông ấy là người thứ sáu giữ
chìa khoá, và thế rồi ông ấy đã tìm và tìm khắp Ấn Độ nhưng ông ấy không thể
tìm được một người có năng lực của Mahakashyap - người có thể hiểu được im lặng.
Ông ấy phải rời khỏi Ấn Độ chỉ để đi tìm một người mà có thể trao được chìa
khoá cho người đó; bằng không chìa khoá sẽ bị mất.
Phật giáo vào Trung Quốc với Bồ
đề đạt ma trong việc tìm kiếm một người để có thể trao chìa khoá, người có thể
hiểu được im lặng, người có thể nói từ tâm qua tâm mà không bị ám ảnh trong tâm
trí, người không có đầu. Người không có đầu là khó tìm ở Ấn Độ, vì Ấn Độ là nước
của các bác học và học giả và họ có những cái đầu to nhất có thể có. Bác học lớn
quên mọi thứ về trái tim và ông ta trở thành cái đầu. Toàn thể nhân cách của
ông ấy trở thành thiên lệch dường như chỉ cái đầu tồn tại, và toàn thân co lại
và biến mất.
Trao đổi này bên ngoài lời là
có thể chỉ từ tâm qua tâm. Cho nên trong chín năm Bồ đề đạt ma đã tìm ở Trung
Quốc, và thế rồi ông ấy đã có thể tìm ra được một người. Trong chín năm Bồ đề đạt
ma đã ngồi ở Trung Quốc, không đối diện với mọi người; ông ấy bao giờ cũng ngồi
quay mặt vào tường. Nếu bạn mà tới để nghe ông ấy, ông ấy chắc đã quay mặt vào
tường, lưng ông ấy quay ra bạn. Mọi người thường hỏi ông ấy, "Chúng tôi đã
tới để nghe thầy, tại sao thầy ngồi theo cách đặc biệt thế?" và Bồ đề đạt
ma sẽ trả lời, "Ta đang đợi người có thể lắng nghe ta. Ta sẽ không nhìn
vào các ông, ta sẽ không phí thời gian của ta; ta sẽ chỉ nhìn vào người có thể
lắng nghe ta."
Thế rồi một người tới; người đó
đứng đằng sau Bồ đề đạt ma, chặt bàn tay phải, vứt nó xuống cạnh Bồ đề đạt ma
và nói, "Quay sang phía này đi, bằng không tôi sẽ chặt đầu mình."
Bồ đề đạt ma lập tức quay lại
và nói, "Đúng - vậy là ông đã tới. Nhận lấy chìa khoá này và làm giảm nhẹ
công việc cho ta." Chìa khoá đã được truyền từ sang Mahakashyap nay Bồ đề
đạt ma chuyển giao cho người này; người Trung Quốc trở thành thầy thứ bẩy. Và
mãi cho tới giờ nó đã du hành. Chìa khoá vẫn có đó, ai đó vẫn giữ nó; dòng sông
đã không khô cạn.
Với tôi, nếu mọi kinh sách của
Phật biến mất không cái gì bị mất cả. Chỉ giai thoại này không nên biến mất.
Đây là điều quí giá nhất, và các học giả đã bỏ nó đi khỏi tiểu sử của Phật. Họ
nói, "Điều này không liên quan; nó không khớp với Phật." Nhưng tôi
nói với bạn, "Mọi điều Phật đã làm chỉ là bình thường - bất kì người nào
cũng có thể làm điều đó - nhưng điều này là phi thường, điều này là ngoại lệ.
Duy nhất Phật có thể làm điều này."
Điều gì đã xảy ra sáng hôm đó?
Chúng ta hãy bắt đầu xuyên thấu vào trong nó. Phật tới, ngồi, và bắt đầu nhìn
đoá hoa. Ông ấy không nhìn mọi người; đoá hoa này trở thành bức tường. Đó là điều
Bồ đề đạt ma đã làm. Ông ấy sẽ nhìn vào tường, ông ấy sẽ không nhìn vào mọi người
- ông ấy sẽ không phí cái nhìn của mình. Đoá hoa trở thành bức tưởng và đám
đông biến mất. Phật nhìn và nhìn vào đoá hoa. Ông ấy đã làm gì? Khi Phật nhìn vào
bất kì cái gì, phẩm chất tâm thức của ông ấy được chuyển vào. Và hoa là một
trong những thứ nhạy cảm nhất trên thế giới. Do đó, người Hindu và các Phật tử
đi cùng với hoa để đặt dưới chân thầy họ hay trong đền chùa, vì hoa có thể mang
cái gì đó của tâm thức của bạn.
Hoa là thứ rất nhạy cảm, và nếu
bạn nhận biết về nghiên cứu mới ở phương Tây, bạn sẽ hiểu điều đó. Bây giờ họ
nói thực vật còn nhạy cảm hơn bạn, hơn con người. Hoa là trung tâm của thực vật;
toàn thể bản thể đi vào trong nó. Nhiều nghiên cứu đang diễn ra ở nước Nga xô
viết, ở Mĩ, ở Anh, về tính nhạy cảm của thực vật, và cái gì đó tuyệt diệu đã được
khám phá.
Một người, một nhà khoa học, đã
làm việc trên các thực vật - cách chúng cảm, liệu chúng có cảm thấy cái gì hay
không, liệu chúng có xúc động hay không. Ông ấy ngồi cùng cây với các điện cực
gắn vào nó để phát hiện bất kì chuyển động nào trong bản thể bên trong của nó,
bất kì cảm giác nào, bất kì xúc động nào. Ông ấy nghĩ, "Nếu mình chặt cây
này, nếu mình bẻ cành hay chặt nó khỏi đất, cái gì sẽ xảy ra?" Đột nhiên,
kim trên đồ thị nhảy lên. Ông ấy đã không làm cái gì cả, ông ấy mới chỉ nghĩ:
"Nếu mình chặt cây này..." Cây trở nên sợ chết và kim nhảy, ghi lại rằng
cây đã run rẩy. Ngay cả nhà khoa học cũng trở nên sợ vì ông ấy đã không làm gì
cả - chỉ một ý nghĩ và cây nhận được nó. Cây có viễn cảm.
Thế rồi ông ấy làm việc nhiều
hơn - ông ấy làm việc từ những khoảng cách xa. Cây được dời đi xa nghìn dặm.
cây của ông ấy, cây mà ông ấy đã giúp cho lớn lên, đã tưới nước, đã yêu, được dời
đi xa nghìn dặm. Ở đây ông ấy nghĩ chống lại cây và ở kia, xa một nghìn dặm,
cây trở nên bị rối loạn. Cho nên bây giờ, về mặt khoa học, người ta có thể thấy
rằng xúc động của cây bị rối loạn.
Không chỉ điều này, nhưng nếu bạn
nghĩ tới chặt một cây mọi cây khác bao quanh khu vực đó cũng trở nên bị rối loạn
về tình cảm. Ngoài ra, nếu ai đó đã chặt một cây và người đó tới trong vườn, mọi
cây đều trở nên rối loạn vì người này không phải là tốt và chúng có thể mang kí
ức này. Bất kì khi nào người này vào vườn toàn thể khu vườn đều cảm thấy rằng một
người ác đang bước vào.
Bây giờ vài nhà khoa học nghĩ rằng
cây cối có thể được dùng cho trao đổi viễn cảm, vì chúng là nhạy cảm hơn tâm
trí con người, và vài nhà khoa học nghĩ rằng cây cối có thể được dùng để nhận
các trao đổi từ các hành tinh khác, vì công cụ của chúng ta không được tinh tế
thế.
Ở phương Đông điều bao giờ cũng
được biết tới là hoa là thứ nhạy cảm nhất. Khi Phật nhìn vào đoá hoa và liên tục
nhìn vào đoá hoa này, cái gì đó của ông ấy đã được truyền cho đoá hoa đó. Phật
đã đi vào đoá hoa. Phẩm chất của bản thể ông ấy, sự tỉnh táo, nhận biết, an
bình, cực lạc, điệu vũ bên trong, đã chạm tới hoa. Với Phật nhìn vào đoá hoa,
thoải mái thế, như ở nhà, không có bất kì ham muốn nào, nó phải đã nhảy múa
trong bản thể bên trong của nó. Ông ấy nhìn, truyền cái gì đó cho đoá hoa này.
Một điều cần được hiểu là ở chỗ chỉ đoá hoa này và ông ấy đã tồn tại trong thời
kì thời gian dài. Toàn thế giới bị bỏ đi. Duy nhất Phật và đoá hoa có đó. Hoa
đi vào trong bản thể Phật, và Phật đi vào trong bản thể hoa.
Thế rồi đoá hoa được trao cho
Mahakashyap. Bây giờ nó không chỉ là đoá hoa, nó đã mang phật tính. Nó đã mang
phẩm chất bên trong của bản thể Phật. Và tại sao lại cho Mahakashyap? Có các học
giả lớn khác, mười đại đệ tử; Mahakashyap chỉ là một, và ông ấy được đưa vào
trong mười chỉ vì câu chuyện này, bằng không ông ấy chắc đã không bao giờ được
đưa vào.
Chẳng có gì mấy được biết về
Mahakashyap. Đã có những học giả lớn như Sariputta ở đó - bạn không thể tìm được
một trí tuệ sắc bén hơn - và Moggalayan cũng có đó, một học giả rất lớn. Ông ấy
nhớ mọi bản Veda trong kí ức, và chẳng cái gì đã bao giờ được viết ra mà không
được ông ấy biết tới. Một nhà logic lớn theo quyền riêng của ông ấy, ông ấy có
hàng nghìn đệ tử. Và đã có những người khác - Ananda có đó, anh em con cô con cậu
của Phật, người trong bốn mươi năm đã liên tục đi cùng ông ấy... Nhưng không.
Ai đó người đã không được biết tới trước đây, Mahakashyap, đột nhiên trở thành
quan trọng nhất. Toàn thể động thái bị thay đổi. Bất kì khi nào Phật nói,
Sariputta là người quan trọng vì ông ấy có thể hiểu lời nhiều hơn bất kì ai
khác; và khi Phật tranh cãi, Moggalayan là người quan trọng. Không ai nghĩ mấy
về Mahakashyap. Ông ấy vẫn còn trong đám đông, là một phần của đám đông.
Nhưng khi Phật trở nên im lặng,
toàn thể động thái thay đổi. Bây giờ Moggalayan và Sariputta không còn quan trọng;
họ đơn giản rút ra khỏi sự tồn tại, dường như họ đã không có đó. Họ đã trở
thành một phần của đám đông. Một người mới, Mahakashyap, đã trở thành quan trọng
nhất. Một chiều hướng mới mở ra. Mọi người đều bồn chồn, suy nghĩ, "Tại
sao Phật không nói? Tại sao ông ấy giữ im lặng? Cái gì sắp xảy ra? Khi nào nó sẽ
kết thúc?" Họ trở thành không thoải mái, bồn chồn.
Nhưng Mahakashyap không bị
không thoải mái hay bồn chồn. Thực sự, lần đầu tiên ông ấy thấy thoải mái với
Phật; lần đầu tiên ông ấy như ở nhà với Phật. Khi Phật nói ông ấy có thể đã từng
bồn chồn. Ông ấy có thể đã nghĩ, "Tại sao nói điều vô nghĩa này? Sao cứ
nói mãi thế? Chả cái gì được truyền đạt, chả cái gì được hiểu; sao cứ đập đầu
ông vào tường thế? Mọi người điếc. Họ không thể hiểu nổi..." Ông ấy phải
đã bồn chồn khi Phật nói, và bây giờ lần đầu tiên ông ấy được ở nhà. Ông ấy có
thể hiểu im lặng là gì.
Cả nghìn người có đó và mọi người
đều bồn chồn. Ông ấy có thể không kìm được bản thân mình, khi nhìn vào cái ngu
xuẩn của đám đông. Họ thoải mái khi Phật nói; bây giờ họ bồn chồn khi ông ấy im
lặng. Khi cái gì đó có thể được chuyển giao họ không mở; khi không cái gì có thể
được chuyển giao họ chờ đợi. Bây giờ qua im lặng Phật có thể cho cái gì đó bất
tử, nhưng họ không thể hiểu nổi. Cho nên ông ấy không thể kìm được bản thân
mình và cười phá lên - ông ấy cười vào toàn thể tình huống đó, toàn thể cái ngớ
ngẩn đó.
Chúng ta yêu cầu ngay cả vị Phật
phải nói, vì đó là mọi điều chúng ta hiểu. Điều này là ngu xuẩn. Bạn nên học là
im lặng cùng vị Phật, vì chỉ thế thì ông ấy mới có thể vào bạn được. Qua lời
ông ấy có thể gõ cửa nhà bạn nhưng không bao giờ có thể vào được; qua im lặng
ông ấy có thể vào được bạn, và chừng nào ông ấy còn chưa vào không cái gì sẽ xảy
ra cho bạn. Việc vào của ông ấy sẽ đem lại yếu tố mới cho thế giới của bạn; việc
vào của ông ấy trong trái tim sẽ cho bạn nhịp đập mới và xung mới, việc thoát
ra mới về cuộc sống - nhưng chỉ việc vào của ông ấy.
Mahakashyap đã cười vào cái ngu
xuẩn của con người. Họ đã bồn chồn và nghĩ, "Khi nào Phật sẽ đứng dậy và bỏ
toàn thể im lặng này để cho chúng tôi có thể về nhà?" Ông ấy đã cười. Tiếng
cười bắt đầu với Mahakashyap và đã đi mãi trong truyền thống Thiền. Không có
truyền thống khác mà có thể cười. Tiếng cười có vẻ phi tôn giáo, phàm tục, tới
mức bạn không thể nghĩ được về Jesus cười, bạn không thể nghĩ được về Mahavira
cười. Thậm chí khó quan niệm được về Mahavira có cái cười bụng, hay Jesus cười
khoái trá. Không, tiếng cười đã bị phủ nhận. Buồn rầu, bằng cách nào đó, đã trở
thành tính tôn giáo.
Một trong những nhà tư tưởng Đức
nổi tiếng, Bá tước Keyserling, đã viết rằng mạnh khoẻ là phi tôn giáo. Ốm yếu
có tính tôn giáo về nó vì mọi người ốm đều buồn, không ham muốn - không phải bởi
vì không ham muốn mà bởi vì người đó ốm. Người mạnh khoẻ sẽ cười, sẽ thích tận
hưởng, sẽ vui vẻ - người đó không thể buồn được. Cho nên người tôn giáo đã cố gắng
theo nhiều cách để làm cho bạn ốm: liên tục nhịn ăn, kìm nén thân thể bạn, hành
hạ bản thân bạn. Bạn sẽ trở nên buồn, tự tử, bị đóng đinh theo cách riêng của bạn.
Làm sao bạn có thể cười được? Tiếng cười tới từ mạnh khoẻ. Nó là năng lượng
tràn ngập. Đó là lí do tại sao trẻ con có thể cười và tiếng cười của chúng là
toàn bộ. Toàn thân chúng được tham gia vào điều đó - khi chúng cười bạn có thể
thấy các ngón chân chúng cười. Toàn thân, mọi tế bào, mọi thớ thịt của thân thể,
đều cười và rung động. Chúng tràn đầy mạnh khoẻ thế, sống động thế; mọi thứ đều
tuôn chảy.
Đứa trẻ buồn nghĩa là đứa trẻ ốm,
và người già cười nghĩa là người đó vẫn còn trẻ. Ngay cả cái chết cũng không thể
làm cho người đó già, không cái gì có thể làm cho người đó già. Năng lượng của
người đó vẫn tuôn chảy và tràn ngập, người đó bao giờ cũng bị ngập lụt. Tiếng
cười là việc làm ngập lụt năng lượng.
Trong các Thiền viện họ đã từng
cười và cười và cười mãi. Tiếng cười trở thành lời cầu nguyện chỉ trong Thiền,
vì Mahakashyap đã bắt đầu nó. Hai mươi nhăm thế kỉ trước, vào một buổi sáng giống
thế này, Mahakashyap đã bắt đầu một xu hướng mới, tuyệt đối mới, không biết tới
tâm trí tôn giáo trước đây - ông ấy đã cười. Ông ấy đã cười vào toàn thể cái ngớ
ngẩn, toàn thể cái ngu xuẩn. Và Phật đã không kết án; thay vì thế, ngược lại,
ông ấy đã gọi ông này tới gần, trao cho ông này đoá hoa và nói với đám đông. Và
khi đám đông nghe thấy tiếng cười này họ phải đã nghĩ, "Người này đã phát
điên. Người này không kính trọng Phật, vì làm sao bạn có thể cười trước vị Phật
được? Khi vị Phật ngồi im lặng, làm sao bạn có thể cười? Người này không bày tỏ
kính trọng."
Tâm trí sẽ nói rằng đây là bất
kính. Tâm trí có qui tắc riêng của nó, nhưng trái tim không biết tới chúng;
trái tim có qui tắc riêng của nó, nhưng tâm trí không bao giờ nghe về chúng.
Trái tim có thể cười và kính trọng; tâm trí không thể cười, nó chỉ có thể buồn
và thế rồi kính trọng. Nhưng đây là loại kính trọng gì mà không thể cười được?
Một xu hướng rất mới đi vào với tiếng cười của Mahakashyap, và suốt nhiều thế kỉ
tiếng cười đã liên tục. Chỉ các Thiền sư, các đệ tử Thiền mới cười.
Trên khắp thế giới, mọi tôn
giáo đã trở nên ốm yếu vì buồn đã trở thành nổi bật thế. Mọi đền chùa và nhà thờ
đều có vẻ như nghĩa địa; chúng không có vẻ lễ hội, chúng không cho cảm giác về
mở hội. Nếu bạn đi vào nhà thờ bạn thấy gì ở đó? Không cuộc sống, mà cái chết -
Jesus bị đóng đinh trên cây chữ thập làm đầy đủ toàn thể nỗi buồn ở đó. Bạn có
thể cười trong nhà thờ, múa trong nhà thờ, hát trong nhà thờ được không? Vâng,
hát có đó, nhưng đó là buồn, và mọi người ngồi với mặt dài. Không ngạc nhiên là
không ai muốn tới nhà thờ - nó chỉ là nghĩa vụ xã hội cần được hoàn thành;
không ngạc nhiên là không ai bị hấp dẫn tới nhà thờ - nó là nghi thức. Tôn giáo
đã trở thành thứ của chủ nhật. Trong một giờ bạn có thể chịu đựng việc buồn.
Mahakashyap cười trước Phật, và kể từ đó, các thánh nhân, sư, sannyasin, thầy,
đã từng làm những điều như vậy mà các tâm trí tôn giáo - cái gọi là tâm trí tôn
giáo - thậm chí không thể quan niệm được. Nếu bạn đã thấy bất kì sách Thiền nào
bạn có thể đã thấy các Thiền sư được mô tả, được vẽ ra. Không tranh nào là thực.
Nếu bạn nhìn vào tranh của Bồ đề đạt ma hay tranh của Mahakashyap, chúng không
đúng là mặt họ, nhưng chỉ nhìn vào họ bạn sẽ có cảm giác tiếng cười. Họ vui nhộn,
họ buồn cười.
Nhìn tranh của Bồ đề đạt ma mà
xem. Ông ấy phải đã là một trong những người đẹp nhất; tới mức ông ấy mà khác
đi là không thể được, bởi vì bất kì khi nào một người trở nên chứng ngộ cái đẹp
giáng xuống, cái đẹp tới từ cõi bên kia. Phúc lành tới trong toàn thể bản thể
ông ấy. Nhưng nhìn và tranh của Bồ đề đạt ma mà xem. Ông ấy có vẻ dữ tợn và
nguy hiểm. Ông ấy có vẻ nguy hiểm tới mức bạn sẽ trở nên sợ nếu ông ấy tới thăm
bạn vào ban đêm - trong đời bạn không bao giờ bạn sẽ có khả năng ngủ lại được.
Ông ấy có vẻ nguy hiểm thế, dường như ông ấy định giết bạn. Đó chỉ là các đệ tử
cười thầy, tạo ra bức tranh buồn cười. Nó có vẻ như tranh biếm hoạ.
Mọi Thiền sư đều được mô tả
theo cách buồn cười. các đệ tử thích thú điều đó. Nhưng các bức hoạ này mang phẩm
chất rằng Bồ đề đạt ma là nguy hiểm, rằng nếu bạn đi tới ông ấy, ông ấy sẽ giết
chết bạn, rằng bạn không thể thoát được ông ấy, rằng ông ấy sẽ theo bạn và ám ảnh
bạn, rằng bất kì khi nào bạn đi, ông ấy sẽ có đó, rằng chừng nào ông ấy chưa giết
bạn, ông ấy không thể rời khỏi bạn được. Đó là điều được mô tả với mọi Thiền
sư, ngay cả Phật.
Nếu bạn có thể nhìn và các bức
tranh Nhật Bản và Trung Quốc về Phật, chúng chẳng giống với Phật Ấn Độ. Họ đã
thay đổi ông ấy toàn bộ. Nếu bạn nhìn vào tranh Ấn Độ về Phật, thân thể ông ấy
cân xứng, như nó đáng là vậy. Ông ấy là hoàng tử, thế rồi là vị Phật, một người
đẹp, hoàn hảo, cân xứng. Phật bụng to sao? - ông ấy không bao giờ có bụng to.
Nhưng ở Nhật bản, trong các bức tranh của ông ấy, kinh sách của ông ấy, ông ấy
được vẽ có bụng to, vì người cười phải có bụng to. Tiếng cười bụng - làm sao bạn
có thể làm được điều đó với bụng bé? Bạn không thể làm được điều đó. Họ đang
đùa với Phật, và họ đã nói những điều như thế về Phật - chỉ tình yêu rất sâu sắc
mới có thể làm được điều đó, bằng không điều đó có vẻ xúc phạn.
Bankei bao giờ cũng nhấn mạnh
vào việc có bức tranh Phật ở ngay dưới ông ấy, nói với đệ tử của mình ông ấy sẽ
nói, "Nhìn anh chàng này. Bất kì khi nào ông gặp ông ta, giết ông ta ngay
lập tức, đừng cho ông ta cơ hội nào. Trong khi thiền, ông ta sẽ tới quấy rối
ông. Bất kì khi nào ông thấy mặt ông ta trong thiền, giết ngay ông ta ở đó lúc
đó; bằng không ông ta sẽ theo ông ấy." Và ông ấy hay nói, "Nhìn anh
chàng này! Nếu ông lặp lại tên ông ta" - vì các Phật tử liên tục lẩm nhẩm,
namo buddhaya, namo buddhaya - "nếu ông lặp lại tên ông ta, thế thì đi và
rửa mồm ông đi." Điều đó có vẻ sỉ nhục. Đó là tên của Phật và người này
nói, "Nếu ông lặp lại nó, điều đầu tiên cần làm là đi rửa mồm ông. Mồm ông
đã trở nên bẩn."
Và ông ấy là đúng - vì lời là lời;
dù nó là tên của Phật hay không thì cũng không tạo ra khác biệt gì. Bất kì khi
nào lời đi ngang qua tâm trí bạn, tâm trí bạn đã trở thành bẩn. Rửa sạch ngay cả
tên của Phật đi. Và người này, bao giờ cũng giữ ảnh Phật sau mình, chắc cúi lạy
nó mọi sáng. Cho nên đệ tử này hỏi, "Thầy đang làm gì vậy? Thầy liên tục bảo
chúng tôi: Giết người này, đừng cho phép người này đứng trên đường. Và thầy
nói: Đừng lấy tên người này, đừng lặp lại nó; nếu nó tới rửa sạch mồm ông. Và
bây giờ chúng tôi thấy thầy cúi lạy."
Thế là Bankei nói, "Mọi điều
này đã được dạy cho ta bởi người này, ông này, cho nên ta phải bày tỏ kính trọng."
Mahakashyap đã cười, và tiếng
cười này mang nhiều chiều trong nó. Một chiều là nhìn vào cái ngu xuẩn của toàn
thể tình huống, vào vị Phật im lặng và không ai hiểu ông ấy, mọi người đều mong
đợi ông ấy nói. Toàn thể đời mình Phật đã từng nói rằng chân lí không thể được
nói ra, và dầu vậy mọi người vẫn mong đợi ông ấy nói. Chiều thứ hai - ông ấy đã
cười vào Phật nữa, vào toàn thể tình huống kịch tính mà Phật đã tạo ra, ngồi đó
với đoá hoa trong tay, nhìn hoa, tạo ra nhiều không thoải mái, bất ổn thế trong
mọi người. Nhìn vào cử chỉ đầy kịch tính này của Phật ông ấy đã cười và ông ấy
đã cười.
Chiều thứ ba - ông ấy đã cười
vào cái ra riêng của ông ấy. Sao ông ấy đã không thể hiểu được mãi cho tới giờ?
Toàn thể sự việc đã là dễ dàng và đơn giản. Và ngày bạn hiểu, bạn sẽ cười, vì
chẳng có gì để được hiểu. Không có khó khăn để được giải quyết. Mọi thứ bao giờ
cũng đã là đơn giản và rõ ràng. Làm sao bạn có thể bỏ lỡ nó được?
Với Phật ngồi im lặng, chim hót
trên cây, gió thoảng qua rặng cây, và mọi người bồn chồn, Mahakashyap đã hiểu.
Ông ấy đã hiểu cái gì? Ông ấy đã hiểu rằng không có gì để được hiểu, không có
gì để được nói, không có gì để được giải thích. Toàn thể tình huống là đơn giản
và trong suốt. Không cái gì bị giấu kín trong nó. Không có nhu cầu tìm kiếm, vì
mọi thứ đều hiện hữu, ở đây và bây giờ, bên trong bạn. Ông ấy cười vào cái ta
riêng của ông ấy nữa, vào toàn thể nỗ lực ngớ ngẩn của nhiều kiếp sống chỉ để
hiểu im lặng này - vào nhiều suy nghĩ thế.
Phật gọi ông ấy, đưa cho ông ấy
đoá hoa và nói, "Do đó, ta trao cho ông chìa khoá." Chìa khoá gì? Im
lặng là tiếng cười là chìa khoá - im lặng bên trong, tiếng cười bên ngoài. Và khi
tiếng cười tới từ im lặng, nó không của thế giới này, nó là thiêng liêng.
Khi tiếng cười tới từ suy nghĩ
nó là xấu; nó thuộc vào thế giới bình thường, trần tục này, nó không có tính vũ
trụ. Thế thì bạn cười ai đó khác, với tổn hại của ai đó khác, và nó là xấu và bạo
hành.
Khi tiếng cười tới từ im lặng bạn
không cười vào tổn hại của bất kì người nào, bạn đơn giản cười vào toàn thể trò
đùa vũ trụ. Và nó thực sự là trò đùa! Đó là lí do tại sao tôi liên tục kể chuyện
cười cho bạn... vì chuyện cười mang nhiều điều hơn bất kì kinh sách nào. Nó là
chuyện cười vì bên trong bạn, bạn có mọi thứ rồi, và bạn đang đi tìm ở mọi nơi.
Còn gì khác đáng là chuyện cười nữa? Bạn là vua và đang diễn như kẻ ăn xin trên
phố; không chỉ diễn, không chỉ lừa người khác, mà lừa bản thân bạn rằng bạn là
kẻ ăn xin. Bạn có cội nguồn của mọi tri thức và đang hỏi các câu hỏi; bạn có
cái ta biết và nghĩ rằng bạn là người dốt nát; bạn có cái bất tử bên trong bạn
và sợ hãi và kinh khiếp cái chết và bệnh tật. Đây thực sự là trò cười, và nếu
Mahakashyap cười, ông ấy đã hiểu rõ.
Nhưng ngoại trừ Phật, không ai
hiểu. Ông ấy đã chấp nhận tiếng cười và ngay lập tức nhận ra rằng Mahakashyap
đã đạt tới. Phẩm chất của việc cười đó là có tính vũ trụ. Ông ấy đã hiểu toàn
thể trò đùa của tình huống này. Không có gì khác cho nó. Toàn thể sự việc là dường
như điều thiêng liêng đang chơi trò chơi trốn tìm với bạn. Những người khác tưởng
Mahakashyap là người ngu, cười trước Phật. Nhưng Phật nghĩ người này đã trở nên
trí huệ. Người ngu bao giờ cũng có khôn ngoan tinh tế trong họ, và người trí huệ
bao giờ cũng hành động như anh hề.
Vào thời xưa mọi hoàng đế lớn
bao giờ cũng có anh hề trong triều đình của họ. Họ có nhiều người khôn ngoan,
người tư vấn, thượng thư và thừa tướng, nhưng bao giờ cũng có một anh hề. Mặc dầu
thông minh và khôn ngoan, các hoàng đế trên khắp thế giới, ở phương Đông và
phương Tây, đều có một người pha trò cười của triều đỉnh, anh hề. Tại sao? - vì
có những điều mà cái gọi là người khôn ngoan sẽ không có khả năng hiểu, mà chỉ
người ngu mới có thể hiểu, vì cái gọi là người khôn ngoan đó ngu tới mức tinh
ranh và láu lỉnh của họ đóng tâm trí họ lại.
Người ngu là đơn giản và được cần
tới, vì nhiều lần cái gọi là người khôn ngoan sẽ không nói được cái gì đó vì họ
sợ hoàng đế. Người ngu không sợ bất kì ai khác. Người đó sẽ nói dù bất kì hậu
quả nào. Người ngu là người sẽ không nghĩ về hậu quả.
Đó là điều Krishna đã nói với
Arjuna: "Là người ngu đi. Đừng nghĩ về hậu quả, về kết quả. Hành động
đi!"
Đây là cách người ngu hành động
- đơn giản, không suy nghĩ cái gì sẽ xảy ra, kết quả sẽ là gì. Người láu lỉnh
bao giờ cũng nghĩ trước về kết quả, thế rồi người đó hành động. Ý nghĩ tới trước,
thế rồi hành động. Người ngu hành động; ý nghĩ không bao giờ tới trước.
Bất kì khi nào ai đó nhận ra điều
tối thượng, người đó không giống như người khôn của bạn. Người đó không thể giống
được. Người đó có thể giống người ngu, nhưng người đó không thể giống người
khôn được. Khi thánh Francis trở nên chứng ngộ ông ấy thường gọi bản thân ông ấy
là người ngu của Thượng đế. Giáo hoàng là người khôn, và khi thánh Francis tới
gặp ông ấy, ngay cả ông ấy cũng nghĩ người này đã phát điên. Ông ấy thông minh,
tính toán, láu lỉnh; bằng không làm sao ông ấy có thể là giáo hoàng được?
Để trở thành giáo hoàng người
ta phải trải qua nhiều chính trị. Để trở thành giáo hoàng, tính thánh thiện
không được cần tới, ngoại giao được cần tới, hung hăng cạnh tranh được cần tới
để gạt người khác sang bên, để ép buộc cách thức của bạn, để dùng người khác
như chiếc thang và thế rồi ném họ đi. Đó là chính trị... vì giáo hoàng là cái đầu
chính trị. Tôn giáo là phụ hay không là gì chút nào. Ông ta có thể là nhà thượng
đế học, nhưng ông ta không có tính tôn giáo, bởi vì làm sao người tôn giáo có
thể cạnh tranh được? Làm sao người tôn giáo có thể tranh đấu và hung hăng vì một
vị trí? Họ chỉ là các chính khách.
Thánh Francis tới gặp giáo
hoàng, và giáo hoàng nghĩ người này là người ngu. Nhưng cây và chim và cá nghĩ
theo cách khác. Khi thánh Francis đi ra sông cá nhảy lên mở hội rằng Francis đã
tới. Hàng nghìn người đã chứng kiến hiện tượng này. Hàng triệu cá nhảy lên đồng
thời; toàn thể con sông sẽ mất hút trong lũ cá nhảy. Thánh Francis đã tới và cá
sung sướng. Và bất kì khi nào ông ấy đi chim sẽ bay theo; chúng sẽ tới và đậu
vào chân ông ấy, thân thể ông ấy, lòng ông ấy. Chúng hiểu người ngu này rõ hơn
giáo hoàng. Ngay cả cây cối đã trở nên khô héo và sắp chết cũng trở thành xanh
tươi và nở hoa lần nữa nếu thánh Francis tới gần. Những cây này hiểu rõ rằng
người ngu này không phải là người ngu thường - ông ấy là người ngu của Thượng đế.
Khi Mahakashyap cười ông ấy là
người ngu của Thượng đế, và Phật đã hiểu ông ấy vì Phật không phải là giáo
hoàng. Về sau, các tu sĩ Phật giáo đã không hiểu ông ấy, cho nên họ đã bỏ toàn
thể giai thoại này.
Có lần tôi đã nói chuyện trong
cộng đồng Phật giáo, Phật giáo mới, cho nên tôi kể cho họ giai thoại này. Tu sĩ
tới gặp tôi về sau và nói, "Ông đã lấy chuyện này từ đâu ra? - vì điều này
không được viết trong kinh sách, nó là giả. Một người như ông không nên nói những
điều không được viết trong kinh sách, vì mọi người tin ông"
Thế là tôi bảo ông ta,
"Ông đem kinh sách của ông lại; tôi sẽ thêm vào giai thoại này và kí vào
nó theo ý kiến của riêng tôi." Tôi nói, "Điều này đã xảy ra - tôi đã
là nhân chứng ở đó." Ông tu sĩ nhìn tôi. Ông ấy phải đã nghĩ: Người này
điên theo cách ông ta nói.
Tôi bảo ông tu sĩ đó, "Tôi
không có quyền lực nhưng tôi có thẩm quyền... Quyền lực thuộc vào chính khách;
thẩm quyền thuộc vào người tôn giáo. Quyền lực phụ thuộc vào người khác - họ trao
nó cho ông - nhưng thẩm quyền tới từ bên trong."
Thế là tôi bảo ông ấy,
"Tôi đã là nhân chứng. Tôi có thể cho ông trong việc viết ra với chữ kí của
tôi rằng tôi là nhân chứng. Điều này đã xảy ra. Ông bằng cách nào đó đã bỏ lỡ
nó trong kinh sách, nhưng tôi không chịu trách nhiệm về điều đó. Tôi không chịu
trách nhiệm nếu ông đã bỏ lỡ trong kinh sách của ông.
Người này, tu sĩ này, hay tới
tôi trước đây. Bây giờ ông ta đã thôi tới; ông ta không bao giờ tới lần nữa.
Kinh sách chết là quan trọng với tu sĩ hơn là người sống. Cho dù tôi nói tôi là
nhân chứng, tôi không thể được tin tưởng. Giai thoại này đã bị bỏ đi khỏi kinh
sách Phật giáo vì cười trước Phật là báng bổ. Làm nó thành cội nguồn nguyên thuỷ
của tôn giáo vĩ đại là không tốt. Đây không phải là tiền lệ tốt rằng một người
cười trước Phật, và cũng không phải là điều tốt rằng Phật đã trao chìa khoá cho
người này, không trao cho Sariputta, Ananda, Moggalayan, và những người khác,
những người quan trọng, có ý nghĩa. Và chung cuộc, chính họ, Sariputta, Ananda
và Moggalayan, là những người đã ghi lại kinh sách.
Mahakashyap không bao giờ được
hỏi. Cho dù họ có hỏi thì ông ấy chắc đã không trả lời. Mahakashyap không bao
giờ được tư vấn liệu ông ấy có cái gì để nói để được ghi lại không. Khi Phật chết
mọi sư tập hợp lại và bắt đầu ghi lại cái gì đã xảy ra và cái gì không. Không
ai hỏi Mahakashyap. Người này phải đã bị loại bỏ bởi sangha, bởi cộng đồng.
Toàn thể cộng đồng phải đã cảm thấy ghen tị. Chiều khoá đã được trao cho người
này, người đã không được biết tới chút nào, người đã không là học giả hay bác học
lớn. Không ai biết ông ấy trước đây, và đột nhiên sáng hôm đó ông ấy trở thành
người có ý nghĩa nhất, vì tiếng cười, vì im lặng.
Và theo một cách nào đó họ cũng
đúng, vì làm sao bạn có thể ghi lại im lặng được? Bạn có thể ghi lại lời, bạn
có thể ghi lại điều đã xảy ra trong cái hữu hình; làm sao bạn có thể ghi lại điều
đã không xảy ra trong cái hữu hình Họ biết đoá hoa đã được trao cho
Mahakashyap, không cái gì khác.
Nhưng đoá hoa chỉ là bình chứa.
Nó có cái gì đó trong nó - phật tính, cái chạm của bản thể bên trong của Phật,
hương thơm mà không thể thấy được, cái không thể được ghi lại. Toàn thể sự việc
dường như là nó chưa bao giờ xảy ra, hay dường như nó đã xảy ra trong mơ.
Những người là người ghi lại đều
là người của lời, thành thạo trong trao đổi miệng, trong việc nói, thảo luận,
tranh cãi. Nhưng Mahakashyap không bao giờ được nghe thấy lần nữa. Đây là điều
duy nhất được biết về ông ấy, một điều nhỏ bé tới mức kinh sách phải đã bỏ lỡ
nó. Mahakashyap vẫn còn im lặng, và dòng sông bên trong đã từng tuôn chảy. Với
người khác chìa khoá đã được trao, và chìa khoá là vẫn sống động, vẫn mở ra
cánh cửa.
Hai điều này là các bộ phận. Im
lặng bên trong - im lặng sâu sắc tới mức không có rung động nào trong bản thể bạn;
bạn hiện hữu, nhưng không có sóng; bạn chỉ là cái ao không có sóng, không một
con sóng nào nảy sinh; toàn thể bản thể im lặng, tĩnh lặng; bên trong, tại
trung tâm, im lặng - và trên ngoại vi, mở hội và tiếng cười. Và chỉ im lặng mới
có thể cười, vì chỉ im lặng mới có thể hiểu trò cười vũ trụ.
Cho nên cuộc sống của bạn trở
thành việc mở hội sống động, mối quan hệ của bạn trở thành thứ lễ hội; bất kì
cái gì bạn làm, mọi khoảnh khắc đều là liên hoan. Bạn ăn, và việc ăn trở thành
mở hội; bạn tắm, và việc tắm trở thành mở hội; bạn nói, và việc nói trở thành mở
hội; mối quan hệ trở thành mở hội. Cuộc sống bên ngoài của bạn trở thành lễ hội,
không có buồn trong nó. Làm sao buồn có thể tồn tại cùng im lặng được? Nhưng
bình thường bạn nghĩ khác: bạn nghĩ nếu bạn im lặng bạn sẽ buồn. Bình thường bạn
nghĩ làm sao bạn có thể tránh được buồn nếu bạn im lặng. Tôi bảo bạn, im lặng tồn
tại cùng buồn không thể là thực được. Cái gì đó đã đi sai. Bạn đã bỏ lỡ con đường,
bạn đã mất đường mòn. Chỉ mở hội mới có thể cho bằng chứng rằng im lặng thực đã
xảy ra.
Khác biệt gì giữa im lặng thực
và im lặng giả? Im lặng giả bao giờ cũng bị ép buộc; qua nỗ lực nó được đạt tới.
Nó không tự phát, nó đã không xảy ra cho bạn. Bạn đã làm cho nó xảy ra. Bạn ngồi
im lặng và có nhiều rối loạn bên trong. Bạn kìm nén và thế rồi bạn không thể cười
được. Bạn sẽ trở nên buồn vì tiếng cười sẽ là nguy hiểm - nếu bạn cười bạn sẽ
làm mất im lặng, vì trong tiếng cười bạn không thể đè nén được. Tiếng cười chống
lại đè nén. Nếu bạn muốn đè nén bạn phải không cười; nếu bạn cười mọi thứ sẽ đi
ra. Cái thực sẽ đi ra trong tiếng cười, và cái không thực sẽ bị mất.
Cho nên bất kì khi nào bạn thấy
một thánh nhân buồn, biết rõ rằng im lặng là gì. Ông ta không thể cười được,
ông ta không thể vui thích được, vì ông ta sợ. Nếu ông ta cười mọi thứ sẽ bị
tan vỡ, đè nén sẽ lòi ra, và thế thì ông ta sẽ không có khả năng đè nén. Nhìn
trẻ nhỏ. Khách tới nhà bạn và bạn bảo con, "Không cười!" - chúng làm
gì? Chúng ngậm miệng và đè nén hơi thở, vì nếu chúng không đè nén hơi thở thế
thì tiếng cười sẽ tới. Điều đó sẽ khó. Chúng không nhìn bất kì chỗ nào, vì nếu
chúng nhìn cái gì đó chúng quên mất. Cho nên chúng nhắm mắt lại, hay hấp háy mắt,
chúng đè nén hơi thở.
Nếu bạn đè nén, hơi thở của bạn
không thể sâu được. Tiếng cười cần hơi thở; nếu bạn cười, hơi thở sâu sẽ được
thoát ra. Đó là lí do tại sao không ai thở sâu, chỉ thở nông, vì nhiều thứ đã bị
đè nén trong thời thơ ấu của bạn và sau nó bạn không thể thở sâu được. Nếu bạn
đi sâu hơn bạn sẽ trở nên sợ. Dục đã bị đè nén qua thở, tiếng cười đã bị đè nén
qua thở, giận đã bị đè nén qua thở. Thở là cơ chế để đè nén hay xả ra - do đó mới
có nhấn mạnh của tôi vào việc thở hỗn loạn, vì nếu bạn thở một cách hỗn loạn,
thế thì tiếng cười, tiếng la hét, mọi thứ sẽ trồi ra và mọi đè nén của bạn sẽ bị
tống ra. Chúng không thể bị tống ra theo cách khác, vì việc thở, là cách bạn đã
đè nén chúng.
Cố kìm nén bất kì cái gì: bạn sẽ
làm gì? Bạn sẽ không thở sâu; bạn sẽ thở nông, bạn sẽ thở phần trên của phổi. Bạn
sẽ không đi sâu hơn vì sâu hơn nó bị đèn nén. Trong bụng, mọi thứ bị đè nén.
Cho nên khi bạn thực sự cười, cái bụng rung động; do đó mới bức chân dung bụng
to của Phật. Bụng được thảnh thơi, và thế rồi dạ dầy không phải là kho chứa bị
đè nén. Nếu bạn nhìn một thánh nhân buồn, cái buồn có đó, nhưng thánh nhân
không có đó. Ông ta đã làm tĩnh lặng bản thân ông ta bằng cách nào đó và sợ mọi
khoảnh khắc. Bất kì cái gì cũng có thể quấy rối ông ta.
Không cái gì có thể quấy rối được
nếu im lặng thực đã xảy ra. Thế thì mọi thứ giúp cho nó phát triển. Nếu bạn thực
sự im lặng bạn có thể ngồi trong chợ, và ngay cả chợ cũng không thể quấy rối được
nó. Thay vì thế, bạn có thêm sức mạnh tiếng ồn của chợ và tiếng ồn đó trở thành
im lặng nhiều hơn trong bạn. Thực sự, việc cảm cái im lặng của chợ là được cần
- vì nếu bạn có im lặng thực, thế thì chợ trở thành bối cảnh và im lặng trở
hành hoàn hảo trong tương phản. Bạn có thể cảm thấy im lặng bên trong sủi tăm
trên nền chợ.
Không cần đi lên Himalayas. Và
nếu bạn đi, bạn sẽ thấy gì? Nổi trên im lặng của Himalayas tâm trí bạn sẽ huyên
thuyên. Thế thì bạn sẽ cảm thấy huyên thuyên nhiều hơn, vì bối cảnh là trong im
lặng. Bối cảnh là im lặng, và bạn sẽ cảm thấy huyên thuyên nhiều hơn.
Nếu cái thực xảy ra cho bạn và
bạn không sợ, nó không thể bị lấy đi. Không cái gì có thể quấy rối được nó. Và
khi tôi nói không cái gì, tôi ngụ ý cái không - cái không có thể quấy rối nó.
Và nếu cái gì đó quấy rối, nó bị ép buộc, nó được trau dồi; bằng cách nào đó bạn
đã xoay xở nó. Nhưng im lặng được quản lí không phải là im lặng, nó cũng giống
như yêu được quản lí.
Thế giới là điên thế. Bố mẹ, thầy
giáo và các nhà đạo đức điên và mất trí tới mức họ dạy trẻ em yêu. Mẹ nói với
con, "Mẹ là mẹ của con, yêu mẹ đi," - dường như đứa con có thể làm
cái gì đó để yêu. Đứa con có thể làm được gì? Chồng liên tục nói với vợ,
"Anh là chồng em, yêu anh đi," dường như yêu là nghĩa vụ, dường như
yêu là cái gì đó mà có thể được làm. Không cái gì có thể được làm. Chỉ một điều
có thể được làm - bạn có thể giả vờ. Và một khi bạn học được cách giả vờ yêu, bạn
đã bỏ lỡ. Toàn thể cuộc sống của bạn sẽ đi sai. Thế thì bạn sẽ liên tục giả vờ
rằng bạn yêu. Thế thì bạn sẽ mỉm cười và giả vờ; thế thì bạn sẽ cười và giả vờ.
Thế thì mọi thứ đều là giả. Thế thì bạn sẽ ngồi im lặng và giả vờ; thế thì bạn
sẽ thiền và giả vờ. Giả vờ trở thành phong cách cuộc sống của bạn.
Đừng giả vờ. Để cái thực đi ra.
Nếu bạn có thể chờ đợi và đủ kiên nhẫn, khi giả vờ đã rơi rụng đi và cái thực sẽ
chờ đợi ở đó để bùng nổ. Việc tẩy rửa là để bỏ những cái giả vờ. Đừng nhìn vào
điều người khác đang nói vì đó là cách bạn đã giả vờ, cách bạn đã từng giả vờ.
Bạn không thể yêu được - hoặc
nó có đó hoặc không - nhưng người mẹ nói, "Vì mẹ là mẹ của con..." và
người bố nói, "Bố là bố của con..." và thầy giáo nói, "Thầy là
thầy giáo của con, do đó yêu thầy đi," - dường như yêu là thứ logic.
"Mẹ là mẹ của con, do đó
yêu mẹ đi." Đứa con sẽ làm gì? Bạn đang tạo ra những vấn đề cho đứa con tới
mức nó không thể quan niệm được phải làm gì. Nó có thể giả vờ. Nó có thể nói,
"Dạ vâng, con yêu mẹ." Và một khi đứa con yêu mẹ nó như nghĩa vụ, nó
sẽ trở nên không có khả năng yêu bất kì người đàn bà nào. Thế thì vợ sẽ tới và
đó sẽ là nghĩa vụ; thế thì con sẽ tới và đó sẽ là nghĩa vụ; thế thì toàn thể cuộc
sống sẽ trở thành nghĩa vụ. Nó không thể là mở hội, bạn không thể cười, bạn
không thể tận hưởng. Nó là gánh nặng phải được mang. Đây là điều đã xảy ra cho
bạn. Nó là điều không may, nhưng nếu bạn hiểu nó bạn có thể bỏ nó.
Đây là chìa khoá - phần bên
trong của nó là im lặng, và phần bên ngoài của chìa khoá là mở hội, tiếng cười.
Có tính lễ hội và im lặng đi. Tạo ra ngày càng nhiều khả năng quanh bạn - đừng
ép buộc cái bên trong phải im lặng, chỉ tạo ra ngày càng nhiều khả năng quanh bạn
để cho im lặng bên trong đó có thể nở hoa trong nó. Đó là mọi điều chúng ta có
thể làm. Chúng ta có thể để hạt mầm vào trong đất, nhưng chúng ta không thể ép
cây mọc ra được. Chúng ta có thể tạo ra tình huống, chúng ta có thể bảo vệ,
chúng ta có thể bón phân cho đất, chúng ta có thể tưới nước, chúng ta có thể
xem liệu tia sáng mặt trời có đạt tới hay không, liệu nhiều hay ít. Chúng ta có
thể tránh nguy hiểm, và chờ đợi trong tâm trạng cầu nguyện. Chúng ta không thể
làm cái gì khác được. Chỉ tình huống có thể được tạo ra.
Đó là điều tôi ngụ ý khi tôi
nói bạn thiền. Thiền chỉ là tình huống; im lặng sẽ không là hậu quả của nó.
Không, thiền chỉ là tạo ra mảnh đất, vùng phụ cận, chuẩn bị nền đất. Hạt mầm có
đó, nó bao giờ cũng có đó; bạn không cần đặt vào trong hạt mầm, hạt mầm bao giờ
cũng cùng với bạn. Hạt mầm đó là Brahma; hạt mầm đó là atma - hạt mầm đó là bạn.
Chỉ tạo ra tình huống và hạt mầm sẽ trở thành sống động. Nó sẽ nảy mầm và cây sẽ
được sinh ra, và bạn sẽ bắt đầu phát triển.
Thiền không dẫn bạn tới im lặng;
thiền chỉ tạo ra tình huống trong đó im lặng xảy ra. Và điều này nên là tiêu
chí - rằng bất kì khi nào im lặng xảy ra tiếng cười sẽ tới trong cuộc sống của
bạn. Việc mở hội sống động sẽ xảy ra khắp xung quanh. Bạn sẽ không trở nên buồn,
bạn sẽ không trở nên bị chán nản, bạn sẽ không trốn khỏi thế giới. Bạn sẽ ở đây
trong thế giới này, nhưng coi toàn thể sự việc là trò chơi, tận hưởng toàn thể
sự việc như trò chơi hay, vở kịch lớn, không còn nghiêm chỉnh về nó.
Nghiêm chỉnh là bệnh tật.
Phật phải đã biết Mahakashyap.
Ông ấy phải đã biết khi ông ấy đang nhìn đoá hoa một cách im lặng và mọi người
đều bồn chồn, ông ấy phải đã biết chỉ một người có đó, Mahakashyap, người không
bồn chồn. Phật phải đã cảm thấy im lặng đang tới từ Mahakashyap, nhưng ông ấy sẽ
không gọi. Khi ông này cười, thế thì ông ấy gọi ông này và trao cho ông này đoá
hoa. Tại sao? Im lặng chỉ là một nửa của nó. Mahakashyap chắc đã bỏ lỡ nếu ông ấy
đã từng im lặng một cách hồn nhiên và không cười. Thế thì chìa khoá chắc đã
không được trao cho ông ấy. Ông ấy chỉ mới trưởng thành một nửa, còn chưa là cây
trưởng thành đầy đủ, không nở hoa. Cây có đó, nhưng hoa còn chưa tới. Phật đợi.
Bây giờ, tôi sẽ nói cho bạn tại
sao Phật chờ đợi nhiều phút thế, tại sao ông ấy đã đợi một hay hai hay ba giờ.
Mahakashyap đã im lặng nhưng ông ấy đang cố kìm lại tiếng cười, ông ấy đang cố
gắng kiểm soát tiếng cười. Ông ấy đã cố gắng không cười vì điều đó chắc sẽ là
vô lễ thế: Phật sẽ nghĩ gì? Người khác có thể sẽ nghĩ gì? Nhưng thế rồi, câu
chuyện nói, ông ấy đã không thể kìm được bản thân mình thêm nữa. Nó phải đã bột
phát ra tiếng cười. Trận lụt trở thành quá nhiều, và ông ấy không thể kìm được
nó thêm nữa. Khi im lặng là quá nhiều nó trở thành tiếng cười; nó trở thành
tràn ngập tới mức nó bắt đầu tuôn trào theo mọi hướng. Ông ấy đã cười to. Nó phải
đã là tiếng cười điên khùng, và trong tiếng cười đó đã không có Mahakashyap. Im
lặng đã cười lên, im lặng đã đi tới nở hoa
Thế rồi ngay lập tức Phật đã gọi
Mahakashyap: "Cầm lấy hoa này - đây là chìa khoá. Ta đã trao cho mọi người
khác điều có thể được cho trong lời, nhưng với ông ta trao cho cái mà không thể
được cho trong lời. Thông điệp bên ngoài lời, bản chất nhất, ta trao cho
ông." Phật chờ đợi trong những giờ này để cho im lặng của Mahakashyap trở
thành bị tràn ngập, nó trở thành tiếng cười.
Chứng ngộ của bạn là hoàn hảo
chỉ khi im lặng đã đi tới là việc mở hội. Do đó nhấn mạnh của tôi là sau khi bạn
thiền bạn phải mở hội. Sau khi bạn đã im lặng bạn phải tận hưởng nó, bạn phải
có việc tạ ơn. Lòng biết ơn sâu sắc phải được biểu lộ hướng tới toàn thể chỉ vì
cơ hội mà bạn đang hiện hữu, mà bạn có thể thiền, mà bạn có thể im lặng, mà bạn
có thể cười.
Cái gì thêm nữa không?
Câu hỏi 1
Osho kính yêu,
Phật có nhiều người chứng ngộ quanh ông ấy,
vậy mà ông ấy cảm thấy cái gì đó đặc biệt cho người chứng ngộ này.
Có cái gì đó khác biệt trong các chứng ngộ
không?
Vâng, Phật có nhiều người chứng
ngộ xung quanh, nhưng chìa khoá chỉ có thể được trao cho người mà có thể trở
thành thầy theo quyền riêng của người đó, vì chìa khoá cần được chuyển giao
liên tục mãi. Nó phải được giữ sống động. Nó sẽ không trở thành kho báu cho
Mahakashyap; nó là trách nhiệm lớn, nó phải được trao cho ai đó khác.
Đã có những người chứng ngộ
khác nhưng chìa khoá không thể được trao cho họ; chìa khoá sẽ mất đi cùng họ.
Thực sự, Phật đã chọn đúng người, vì chìa khoá này vẫn còn sống động.
Mahakashyap đã làm tốt. Ông ấy có thể tìm ra người khác người sẽ truyền nó cho
ai đó khác. Vấn đề là tìm ra người đúng. Chỉ chứng ngộ là không đủ - không phải
mọi người chứng ngộ đều là thầy - phân biệt phải được làm ra.
Người Jaina có phân biệt hay; họ
có hai kiểu người chứng ngộ. Một người chứng ngộ được biết là kaivali, người đã
đạt tới sự một mình tuyệt đối. Người đó đã trở thành hoàn hảo nhưng người đó
không thể là thầy giáo, người đó không thể trao sự hoàn hảo này cho ai đó khác.
Người đó không phải là thầy, người đó không thể hướng dẫn; bản thân người đó đã
trở thành đỉnh tối thượng, nhưng bất kì cái gì người đó biết, người đó đều
không thể truyền đạt theo bất kì cách nào.
Kiểu người chứng ngộ khác được
gọi là tirthankara, người trở thành phương tiện cho người khác. Người đó chứng
ngộ, nhưng người đó cũng là thầy của nghệ thuật nào đó về trao đổi qua lời và
trao đổi qua im lặng. Người đó có thể chuyển giao thông điệp. Người khác có thể
được chứng ngộ qua người đó.
Phật nói, "Bất kì cái gì
có thể được nói qua lời ta đã nói cho các ông. Cái mà không thể được nói qua lời
ta trao cho Mahakashyap."
Mahakashyap đã là thầy của im lặng.
Qua im lặng của ông ấy, ông ấy có thể dạy. Người khác đã là thầy của lời, và
qua lời của họ, họ có thể dạy và tiến hành công việc. Điều đó không bản chất thế,
điều đó ở trên ngoại vi; nhưng điều đó nữa được cần bởi vì lời Phật phải được
ghi lại. Điều Phật đã làm phải được ghi lại và được truyền từ thế hệ nọ sang thế
hệ kia. Điều này nữa là bản chất, nhưng nó tồn tại ở ngoại vi. Các học giả của
ông ấy, Moggalayan, Sariputta, Ananda, sẽ ghi lại mọi thứ. Đó là kho báu. Phật
đã thực sự hạnh phúc: mọi thứ nên được ghi lại, không một lời nào nên bị bỏ lại,
vì, ai biết, rằng một lời có thể trở thành chứng ngộ cho ai đó. Nhưng im lặng
cũng phải được mang đi. Cho nên hai truyền thống tồn tại - truyền thống của
kinh sách và truyền thống của im lặng. Thế thì bất kì người nào cũng có thể trở
nên chứng ngộ. Và khoảnh khắc họ trở nên chứng ngộ họ trở nên im lặng, hài lòng
tới mức thậm chí không ham muốn để giúp người khác nảy sinh trong họ.
Nhưng người Jaina nói rằng
tirthankara là người đã thu được nghiệp nào đó - và điều này là kì lạ - và phải
hoàn thành nghiệp này bằng việc truyền đạt thông điệp cho người khác. Điều đó
không phải là điều hay lắm; nghiệp không phải là điều hay lắm. Trong kiếp sống
quá khứ của mình ông ấy đã thu thập nghiệp để là thầy. Đó không phải là điều tốt,
vì cái gì đó phải được làm, cái gì đó phải được hoàn thành, và ông ấy phải làm
điều đó; thế thì nghiệp của ông ấy được hoàn thành, thế thì ông ấy được giải toả
hoàn toàn. Ham muốn giúp người khác vẫn là ham muốn; từ bi hướng tới người khác
vẫn là năng lượng chuyển tới người khác. Mọi ham muốn đều đã biến mất trừ một
ham muốn, giúp người khác. Điều đó nữa cũng là một ham muốn, và chừng nào ham
muốn này chưa biến mất người này sẽ phải quay lại.
Cho nên thầy là người đã trở
nên chứng ngộ, nhưng một ham muốn còn lại. Ham muốn đó không phải là khó nhọc
trong việc trở nên chứng ngộ - đó là giúp người khác trở nên được chứng ngộ -
nhưng bạn sẽ vẫn bị gắn bó với thân thể. Chỉ một dòng suối, mọi cội nguồn đã bị
chặt, nhưng một cây cầu có đó.
Có những người chứng ngộ khác,
nhưng chìa khoá không thể được trao cho họ; nó phải được trao cho Mahakashyap,
vì ông ấy có ham muốn bên trong để giúp đỡ - nghiệp quá khứ của ông ấy. Ông ấy
có thể trở thành một tirthankara; ông ấy có thể là một thầy hoàn hảo. Và ông ấy
đã làm tốt. Chọn lựa của Phật là đúng hoàn hảo - vì đã có một đệ tử khác trong
các đệ tử của Phật người có thể đã được trao chìa khoá. Tên người đó là
Subhuti. Người đó cũng im lặng như Mahakashyap, thậm chí còn hơn. Điều đó sẽ
khó cho bạn - làm sao im lặng, làm sao hoàn hảo, có thể hơn được - nhưng điều
đó là có thể. Nó ở bên ngoài số học thông thường. Bạn có thể hoàn hảo, và bạn
thậm chí vẫn hoàn hảo hơn, vì hoàn hảo có tăng trưởng, nó liên tục tăng trưởng
vô hạn.
Subhuti là người im lặng nhất
quanh Phật, thậm chí còn im lặng hơn Mahakashyap. Nhưng chìa khoá không thể được
trao cho ông ấy vì ông ấy im lặng thế. Bây giờ sẽ khó: bạn đang đi vào một hiện
tượng rất phức tạp. Ngay chỗ đầu tiên, ông ấy sẽ không cười, và chìa khoá không
thể được trao cho ông ấy bởi vì ông ấy sẽ không cười. Ông ấy không có đó. Ông ấy
im lặng thế, ông ấy không có đó để cười, ông ấy không có đó để kìm lại hay
không kìm lại. Cho dù Phật gọi, "Subhuti, lại đây!" ông ấy chắc không
tới. Phật chắc phải đi tới ông ấy.
Chuyện kể về Subhuti rằng một
hôm ông ấy đang ngồi dưới gốc cây, thì đột nhiên hoa trái vụ bắt đầu trút lên ông
ấy. Thế là ông ấy mở mắt ra: Có chuyện gì thế nhỉ? Cây không nở hoa, mùa vụ
không có đó; thế rồi từ đâu đó, đột nhiên, hàng triệu hoa này? Ông ấy nhìn và
ông ấy thấy nhiều thiên thần khắp xung quanh, trên cây, trên trời, thả hoa xuống.
Ông ấy thậm chí không hỏi các thiên thần vấn đề là gì. Ông ấy nhắm mắt lại lần
nữa.
Thế rồi những thiên thần đó nói
với Subhuti, "Chúng tôi cám ơn ông về bài giảng ông đã cho về trống rỗng."
Và Subhuti nói, "Nhưng tôi
có nói lời nào đâu, và các ông nói các ông cám ơn tôi về bài giảng tôi đã cho về
trống rỗng! Tôi đã không nói lời nào cả."
Các thần nói, "Ông đã
không nói và chúng tôi đã không nghe - đó là bài giảng hoàn hảo về trống rỗng."
Ông ấy đã trống rỗng tới mức toàn thể vũ trụ cảm thấy điều đó, và các thần tới
để trút hoa lên ông ấy.
Subhuti này có đó, nhưng ông ấy
im lặng tới mức ông ấy không có đó. Ông ấy thậm chí không bị bận tâm tại sao Phật
ngồi với đoá hoa. Mahakashyap đã hiện hữu - không giống những người khác, nhưng
vẫn theo một cách nào đó. Ông ấy nhìn Phật, ông ấy cảm thấy im lặng, ông ấy cảm
thấy ngớ ngẩn, nhưng có người đang cảm.
Subhuti phải đã có đó ở đâu đó,
đang ngồi. Đã không nảy sinh ý tưởng nào tại sao Phật ngồm im lặng hôm nay, tại
sao ông ấy nhìn vào đoá hoa; thế rồi không có nỗ lực nào để kìm nó, thế thì
không có bùng nổ. Subhuti có đó dường như tuyệt đối vắng bóng. Ông ấy sẽ không
cười, và nếu như Phật mà gọi ông ấy chắc không tới; Phật chắc đã phải đi tới
ông ấy. Và không ai biết - nếu chìa khoá đã được trao cho ông ấy, ông ấy có thể
đã vứt nó đi. Ông ấy không phải là người được ngụ ý là một tirthankara, ông ấy
không phải là người được ngụ ý là thầy giáo hay thầy. Ông ấy không có nghiệp
quá khứ. Ông ấy là hoàn hảo, hoàn hảo thế, và bất kì khi nào cái gì đó hoàn hảo
thế nó trở thành vô dụng. Nhớ lấy, một người hoàn hảo thế là vô dụng, vì bạn
không thể dùng được ông ấy cho bất kì chủ định nào.
Mahakashyap không hoàn hảo thế.
Cái gì đó thiếu và ông ấy có thể được dùng, cho nên trong kẽ hở đó chìa khoá có
thể được tra vào. Chìa khoá được chuyển giao cho Mahakashyap bởi vì ông ấy có
thể được tin cậy để chuyển giao nó cho ai đó khác. Subhuti là không tin được.
Hoàn hảo, khi tuyệt đối, chỉ biến mất. Nó không có đó trong thế giới. Bạn có thể
trút hoa xuống nó nhưng bạn không thể dùng nó. Đó là lí do tại sao nhiều người
chứng ngộ có đó, nhưng chỉ một người đặc biệt, Mahakashyap, là được chọn. Ông ấy
là người có thể được dùng cho trách nhiệm lớn lao này.
Điều này là kì lạ. Đó là lí do
tại sao tôi nói số học thông thường sẽ không giúp ích, vì bạn sẽ nghĩ rằng chìa
khoá nên được trao cho người hoàn hảo nhất. Nhưng người hoàn hảo nhất sẽ quên
người đó đã để chìa khoá ở đâu. Chìa khoá nên được trao cho người gần hoàn hảo,
ở ngay bên bờ nơi người ta biến mất. Và trước khi người đó biến mất, người đó sẽ
trao chìa khoá cho ai đó khác. Với người dốt nát chìa khoá này không thể được
trao, với người hoàn hảo nhất chìa khoá này không thể được trao. Ai đó phải được
tìm ra, người ở ngay trên đường biên, người đang đi từ thế giới này của dốt nát
sang thế giới kia của việc biết, ở ngay trên đường biên. Trước khi người đó đi
qua đường biên, lúc này người đó có thể được dùng và chìa khoá được giao. Tìm
ra người kế tục là rất khó, vì người hoàn hảo nhất là vô dụng.
Tôi sẽ nói cho bạn một biến cố
đã xảy ra chỉ gần đây: Ramakrishna đã làm việc trên nhiều đệ tử. Nhiều người đã
đạt tới, nhưng không ai biết về họ. Mọi người biết về Vivekananda, người chưa
bao giờ đạt tới; chìa khoá được trao cho Vivekananda người đã không là hoàn hảo
nhất, và không chỉ ông ấy không là người hoàn hảo nhất, nhưng Ramakrishna sẽ
không cho phép ông ấy được hoàn hảo. Và khi Ramakrishna cảm thấy rằng
Vivekananda sắp đi vào trong samadhi hoàn hảo, ông ấy gọi ông này lại và nói,
"Dừng lại! Bây giờ ta sẽ giữ chìa khoá cùng ta cho việc đi vào cuối cùng
này, và chỉ trước cái chết của ông, ba ngày trước, chìa khoá sẽ được trả lại
cho ông." Và chỉ ba ngày trước khi Vivekananda chết, ông ấy đã có trạng
thái đầu tiên của cực lạc, chưa bao giờ trước đó.
Vivekananda bắt đầu than và
khóc và nói, "Sao thầy ác với tôi thế?"
Ramakrishna đáp, "Cái gì
đó phải được làm qua ông. Ông phải đi tới phương Tây, tới thế giới; ông phải
trao thông điệp của ta tới mọi người, bằng không nó sẽ bị mất."
Đã có những người khác, nhưng họ
đã ở trong; ông ấy không thể gọi họ ra được. Họ chắc sẽ không quan tâm tới việc
đi sang phương Tây hay đi vòng quanh thế giới. Họ chắc sẽ nói rằng điều này là
vô nghĩa - họ cũng giống như Ramakrishna. Tại sao ông ấy sẽ không tự mình đi?
Ông ấy đã ở trong rồi, và ai đó phải được dùng, người còn ở ngoài. Những người ở
xa bên ngoài không thể được dùng; những người gần như ở trong, chỉ gần cánh cửa,
có thể được dùng; và trước khi họ đi vào họ chuyển chìa khoá cho ai đó khác.
Mahakashyap ở ngay gần cửa,
đang đi vào trong im lặng. Im lặng trở thành mở hội và ông ấy có ham muốn giúp
đỡ. Ham muốn đó đã được dùng. Nhưng Subhuti là không thể được. Ông ấy là giống
phật nhất, hoàn hảo nhất, nhưng khi ai đó như phật, người đó là vô dụng. Người
đó có thể cho bản thân mình chìa khoá bí mật; không có nhu cầu trao nó cho người
đó. Subhuti không bao giờ làm bất kì ai thành đệ tử. Ông ấy sống trong trống rỗng
hoàn hảo, và các thần phải phục vụ ông ấy nhiều lần. Và ông ấy không bao giờ
làm ra một đệ tử; ông ấy không bao giờ nói cái gì cho bất kì ai, mọi thứ là
hoàn hảo thế. Sao bận tâm? Sao phải nói cái gì?
Thầy đang hoàn thành nghiệp quá
khứ của mình. Thầy phải hoàn thành chúng. Và khi tôi phải tìm người kế tục, nhiều
người sẽ có đó người sẽ giống như Subhutis: họ không thể được trao chìa khoá.
Nhiều người sẽ có đó những người giống như Sariputtas: chỉ lời mới có thể được
trao cho họ. Ai đó phải được tìm ra người đang đi vào im lặng, mở hội, và đã bị
bắt lại ngay gần cửa. Đó là lí do tại sao.
0 Đánh giá