Chương 5. Tinh hoa của sùng kính

Chương 5. Tinh hoa của sùng kính

Price:

Read more

Chuyến bay của một mình tới một mình
Bài giảng về Kaivalya Upanishad
Chương 5. Tinh hoa của sùng kính

Người muốn biết thực tại tối thượng, người sống trong kỉ luật của sannyas, đã làm tinh khiết thân thể, người ngồi trong tư thế sukhasana - tư thế thân thể thoải mái - ở chỗ đơn độc, giữ cho đầu, cổ và xương sống thẳng hàng và dựng đứng, hội tụ tất cả các khả năng của mọi giác quan vào một điểm, người đã cúi mình dưới thầy mình trong tin cậy và sùng kính, đã xua tan mọi ô uế của tâm và đi ra ngoài nỗi buồn và đau khổ, suy tư thấu đáo về bản chất của sùng kính.
Trong lời kinh này có một số chỉ dẫn quan trọng về thiền. Nếu chúng ta cố hiểu từng chỉ dẫn tách biệt và rồi đọc toàn thể lời kinh, sẽ dễ hiểu thấu.
Chỉ dẫn thứ nhất là:
... chỗ đơn độc.
Bạn có thể cảm thấy rằng mình đã biết điều này nghĩa là gì, nhưng điều bạn gọi là chỗ đơn độc chẳng có liên quan gì tới thiền cả. Bạn gọi một chỗ là đơn độc nếu không có người khác hiện diện. Bạn gọi một chỗ là đơn độc nếu nơi đó hoang vắng, nơi đó bạn một mình. Ai đó đi lên núi, ngồi trong hang động Himalaya, nghĩ mình đã tìm ra chỗ đơn độc. Nhưng kiểu đơn độc này chẳng có quan hệ thực dù là bất kì cái gì với thiền. Ngồi ở chỗ đơn độc này, người ta sẽ không cần có khả năng đi vào trong thiền.
Cho dù mọi người bên ngoài bị bỏ đi, họ sẽ vẫn có đó bên trong bạn. Cho dù bạn đi xa khỏi đám đông, nó vẫn ẩn nấp bên trong bạn. Cũng có thể là trong khi ngồi ở giữa đám đông bạn vẫn có thể ở chỗ đơn độc, trong cô độc. Và cũng có thể là bạn ngồi ở chỗ đơn độc và vẫn ở giữa đám đông. Nếu người ta ngồi yên tĩnh và nhớ tới mình cho dù ở giữa đám đông, mọi người khác sẽ bị quên đi. Nếu người ta được trút đầy bởi việc tự nhớ của riêng mình ngay cả ở giữa đám đông, việc nhớ tới người khác sẽ biến mất - bởi vì chính một trong những phẩm chất cố hữu của tâm trí là trong bất kì khoảnh khắc nào, chỉ một điều mỗi lúc có thể hiện diện trên màn ảnh của tâm trí. Nếu tôi có thể trút đầy tâm trí tôi bằng sự hiện diện của riêng tôi, tất cả những hiện diện khác sẽ biến mất. Sự hiện diện của người khác tiếp tục có đó bởi vì tôi không hiện diện trong tâm trí riêng của tôi.
Việc hiểu của bạn về chỗ đơn độc là nông cạn, rất hời hợt. Nghĩa đúng của “chỗ đơn độc” là được ngồi bên trong bản thân mình. Điều này ít tính bên ngoài hơn và nhiều tính bên trong hơn, ngồi bên trong... Không gian này nơi người khác không hiện diện là ít bên ngoài hơn và nhiều bên trong hơn. Cho dù ai đó đang ngồi ở bãi chợ nhưng không có người khác trong tâm trí mình, thế thì người đó là ở chỗ đơn độc. Và nhớ rõ điều đó, rằng nếu bạn không thể một mình trong khi ngồi ở bãi chợ, thế nữa bạn không thể một mình ở chỗ đơn độc đâu.
Một luật khác của tâm trí là ở chỗ tâm trí sẽ không thấy bất kì cái gì không có đó. Người ta muốn hiện hữu ở nơi người ta không hiện hữu. Do đó điều thường xảy ra là người ngồi ở bãi chợ nghĩ nếu mình mà được ở chỗ đơn độc thì hay biết bao, còn người ở chỗ đơn độc được chất đầy với ham muốn về bãi chợ.
Các nhà tâm lí ở phương Tây nói rằng chồng và vợ không nên sống quá gần nhau, bằng không thì tình yêu của họ sẽ biến mất. Theo một nghĩa nào đó lời khuyên của họ là đúng, nhưng mọi người ở phương Đông đã từng thực hành điều này hàng thế kỉ mà thậm chí không học điều đó từ tâm lí. Ở Ấn Độ thậm chí các đôi đã lấy nhau thường khó gặp nhau hơn những người yêu chưa cưới ngày nay gặp nhau. Thế thì, họ không thể gặp nhau vào ban ngày chút nào, chỉ trong bóng tối của ban đêm, và thế nữa cũng trong giấu giếm. Một cách tự nhiên tình yêu của họ kéo dài theo thời gian - và lí do cho nó kéo dài thế là ở chỗ khi cái gì đó không dễ có được, tâm trí không thể mất đi mối quan tâm vào nó. Tâm trí mất đi mối quan tâm vào bất kì cái gì có sẵn cho nó mọi lúc. Đây là lí do tại sao khoảnh khắc bạn đạt tới cái gì đó hay thu được cái gì đó, bạn mất đi mối quan tâm vào nó.
Trong một thời gian dài bạn đã muốn có ngôi nhà lớn, và bây giờ bạn có nó: chỉ trong vài ngày bạn sẽ thấy rằng nó không còn có giá trị cho bạn. Bạn thậm chí sẽ không thấy nó là quan trọng như nó đã thế trong mơ của bạn. Niềm vui sướng mà ngôi nhà lớn cho bạn trong mơ sẽ biến mất ngay khi ngôi nhà thực tế là của bạn. Trong một tháng hay hai tháng bạn sẽ hoàn toàn quên khuấy rằng ngôi nhà có đó, mặc dầu bạn sẽ sống trong nó, đi vào đi ra nó mọi lúc. Trong thời gian vài năm người khác sẽ vẫn thấy nó, nhưng bạn thì không.
Khi tâm trí đạt tới cái gì đó, thứ đó trở thành vô giá trị bởi vì mối quan tâm của tâm trí là ở cái chưa đạt tới được, ở cái còn chưa có được. Toàn thể đam mê của tâm trí là dành cho cái không có ở đây, cho cái xa cách. Tâm trí quan tâm tới xa cách. Chúng ta có câu ngạn ngữ rằng âm thanh của trống ở nơi xa là mang tính thôi miên - và điều này là vậy không phải bởi vì trống, mà bởi vì tâm trí. Khoảng cách càng lớn, càng khó cho một điều nào đó được đạt tới, và tâm trí sẽ càng quan tâm hơn tới nó.
Hiểu luật này của tâm trí cho rõ, bởi vì khi bạn ở bãi chợ, tâm trí sẽ muốn được một mình và khi bạn một mình nó sẽ muốn ở bãi chợ. Khi bạn ngồi trong đền chùa nó sẽ nghĩ về nhà chứa - và ngay cả người ngồi trong nhà chứa lại nghĩ về đền chùa. Cuộc sống không đơn giản như chúng ta nghĩ nó vậy, nó rất phức tạp. Nếu bạn không hiểu đúng về sự phức tạp của nó, sẽ rất khó hiểu cho bạn đi vào trong thiền.
Nghĩa của “ở chỗ đơn độc” là có trạng thái cô độc bên trong bạn. Có cô độc bên ngoài là tốt, nhưng điều điều đó không đủ. Bên trong bạn, bao giờ cũng có đám đông. Sẽ tốt hơn mà nói rằng bạn ít tính cá nhân hơn và nhiều tính đám đông hơn. Không có tính duy nhất bên trong bạn, bạn là đám đông; từng người đều là đám đông lớn. Đây là lí do tại sao con người là người này vào buổi sáng, là cái gì đó khác vào buổi trưa và lại là cái gì đó khác vào buổi đêm. Bạn cảm thấy lúng túng bởi vì vào buổi sáng bạn hạnh phúc thế, vậy sao vào buổi trưa bạn đã trở nên buồn thế? Hay tại sao bạn đã trở nên nặng trĩu với giận dữ vào buổi tối? Vào buổi sáng bạn cảm thấy như phúc lành cho toàn thế giới, và vào buổi tối bạn cảm thấy như có tính sát hại toàn thế giới. Cái gì diễn ra bên trong bạn? Đây là đám đông bên trong của bạn.
Có nhiều mặt bên trong bạn: vào buổi sáng đó là một mặt, vào buổi trưa mặt thứ hai, và vào buổi tối mặt thứ ba. Có nhiều người bên trong bạn: vào buổi sáng người này nói, vào buổi trưa người thứ hai nói và vào buổi tối người thứ ba nói. Do đó bạn lâm vào khó khăn lớn, bởi vì điều bạn nói vào buổi sáng khi bạn muốn phúc lành cho toàn thế giới sẽ không thể là cách bạn cảm thấy vào buổi tối. Người bạn là vậy vào buổi tối không phải là cùng người đã cho thế giới của bạn vào buổi sáng; người đó không hiện diện chút nào.
Các nhà tâm lí bây giờ nói rằng niềm tin của họ vào người chỉ có một tâm trí là sai; có nhiều tâm trí bên trong từng người. Con người mang đa tâm lí. Một người quyết định vào buổi tối rằng người đó sẽ thức dậy lúc năm giờ sáng hôm sau; không thành vấn đề cái gì, người đó phải dậy lúc năm giờ sáng hôm sau. Nhưng vào năm giờ sáng cùng người này lại nói, “Quên chuyện đó đi! Ý tưởng điên rồ làm sao! Trời lạnh quá. Và hại gì nếu một lần mình không dậy sớm?” Anh ta trở mình và ngủ tiếp. Sau đó, vào tám giờ sáng, cùng người đó sẽ phàn nàn, “Làm sao điều đó lại xảy ra thế? Mình đã quyết định rằng chắc chắn mình sẽ dậy sớm vào buổi sáng cơ mà.” Thế rồi người đó lúng túng không sao hiểu được điều đó.
Nếu bạn tin rằng con người chỉ có một tâm trí, thế thì điều đó là rất khó xử. Nhưng bây giờ các nhà tâm lí nói rằng tâm trí đã đưa ra quyết định thứ nhất và tâm trí quyết định cứ ngủ tiếp vào buổi sáng là khác nhau, và tâm trí hối tiếc về sau lại là tâm trí khác nữa. Đây đơn giản đều là những phần khác nhau của tâm trí. Và có thể là những phần khác nhau này chẳng bao giờ gặp nhau, rằng chúng thậm chí còn không nhận biết về sự tồn tại của nhau.
Các nhà tâm lí sẽ ngạc nhiên mà biết rằng Mahavira đã dùng một từ từ hai mươi nhăm thế kỉ trước, và từ này là bahuchittawan: nó đích xác có nghĩa là “đa tâm lí.” Mahavira đã nói rằng con người là đa tâm lí, rằng có nhiều tâm trí trong con người, không chỉ một, và với nhiều tâm trí này thì không thể nào một mình được.
Do đó, nghĩa sâu sắc hơn của đơn độc hay chỗ cô đơn là việc bạn trở thành đơn tâm lí thay vì đa tâm lí. Bên trong bạn vẫn còn một tâm trí, không nhiều tâm trí: đây là một nghĩa của chỗ đơn độc.
Sẽ tốt để hiểu nghĩa khác của chỗ đơn độc, và đó là điều đám đông thường xuyên huyên thuyên bên trong bạn chắc chắn bắt nguồn từ tâm trí, nhưng cũng có đám đông của những người quen, bạn bè, họ hàng và kẻ thù khắp xung quanh bạn, ở bên ngoài. Con người không sống nhiều trong thế giới bên ngoài đâu, con người sống nhiều hơn trong thế giới bên trong của mình. Điều đó sẽ giúp cho bạn hiểu hai kiểu thế giới này mà con người đang sống trong: một là thế giới của tâm trí người đó mà trong đó người đó sống cả ngày, và thế giới kia là thế giới bên ngoài tâm trí người đó. Ở mức độ nào đó người đó sống trong thế giới bên ngoài này, nhưng phần lớn thì người đó sống trong thế giới của tâm trí riêng của mình. Bạn đã diễn tập điều bạn nói với người bạn trong tâm trí mình từ trước đó.
Mark Twain đi về nhà sau khi nói ở cuộc họp. Một người bạn của ông ấy ở cùng ông ấy và anh ta nói, “Hôm nay bài nói của ông rất hay.”
Twain nói, “Bài nào?”
Bây giờ, ông ấy chỉ nói mỗi một bài, cho nên sao lại hỏi bài nào?
Người bạn nói, “Bài nào sao? Bài mà ông vừa nói xong bây giờ đó!”
Twain nói, “Tôi đã nói ít nhất ba bài rồi: một bài tôi nói bên trong tâm trí mình trước bài nói, rằng tôi sẽ nói thế này và thế này và thế này. Thế rồi có bài nói mà tôi thực sự đã nói. Bài thứ ba tôi đang nói bây giờ đây, bên trong tôi, nói rằng tôi đáng ra nên nói thế này và thế này và thế này... Cho nên ông định nói tới bài nào?”
Bạn sống trong thế giới bên trong của mình ba lần nhiều hơn bạn sống trong thế giới bên ngoài. Trước khi một từ đi ra từ bạn, nó đã đi cả nghìn lần bên trong bạn rồi. Trước khi một hành động được tiến hành ở bên ngoài, nó đã được tiến hành hàng nghìn lần bên trong bạn. Nếu một người phạm tội giết người... Chừng nào còn chưa có kẻ giết người trong thế giới thì ai có thể nói rằng người đó trước hết đã không phạm phải việc giết người đó nhiều lần ở bên trong bản thân mình. Do đó, nếu bạn giữ bản thống kê của những kẻ giết người mà bạn phạm phải bên trong bản thân bạn, thế thì sẽ khó mà tìm thấy một người nào không phải là kẻ giết người. Bên trong, các bạn tất cả đều liên tục phạm tội giết người - vấn đề là khác ở chỗ chúng không xảy ra trong hành động của bạn như cách chúng xảy ra với một số người.
Các nhà tâm lí nói rằng điều này là đúng không chỉ về giết người: thậm chí khó tìm ra một người chưa bao giờ tự tử bên trong mình, người chưa chấm dứt bản thân mình nhiều lần, người chưa từng nói bên trong, “Để mình vứt bỏ bản thân mình một lần cho xong.” Mặc dầu điều đó chưa trở thành hành động thực tế, vào bất kì lúc nào nó cũng có thể trở thành được bởi vì ý nghĩ là hạt mầm: nếu nó liên tục trở nên ngày một mạnh hơn, nó có thể trở thành hành động vào bất kì lúc nào.
Chúng ta đã tạo ra một thế giới bên trong tâm trí mình, và đó là chỗ có đám đông. Ham muốn được tạo ra trước trong tâm trí, nơi chúng mọc rễ và đâm chồi; chỉ về sau trên lá và cành của chúng thế giới bên ngoài mới tới. Từ hàng nghìn ham muốn được tạo ra trong tâm trí, người ta đạt tới thế giới bên ngoài. Từ nhiều kế hoạch nảy ra bên trong tâm trí, có lẽ thậm chí không tới một trong một trăm kế hoạch đó được thực hiện.
Nếu chúng ta hiểu toán học của việc sống đúng, người sống một trăm năm sẽ sống tám mươi năm ở bên trong và hai mươi nămở bên ngoài. Quá trình sống này trong tâm trí là đám đông của bạn. Do đó, chẳng thành vấn đề bạn trốn đi đâu, bản thân bạn bao giờ cũng sẽ ở đó. Bạn có thể từ bỏ mọi thứ và đi và sống trong rừng, nhưng làm sao bạn sẽ có khả năng để lại bản thân bạn đằng sau? - bạn sẽ đi cùng bản thân bạn tới đó nữa. Điều đó là không thể nào tránh khỏi. Bạn sẽ không có khả năng để lại bản thân bạn ở sau. Khi bạn ở trong rừng, thế thì điều không tránh khỏi là tất cả mọi phóng túng của tâm trí bạn, tất cả mọi ham muốn và kế hoạch của tâm trí bạn, tất cả mối quan hệ của tâm trí bạn, sẽ tới đó cùng bạn. Chúng tất cả đều là đám đông của bạn. Và làm tan biến đám đông này mới là đơn độc thực sự, “chỗ đơn độc.”
Chắc chắn chỗ đơn độc cũng là vị trí, nhưng còn hơn nữa, nó là trạng thái. Điều tốt là ngồi ở chỗ đơn độc, nhưng đừng nghĩ rằng sự một mình này sẽ tạo ra im lặng. Chỗ đơn độc có thể có ích, nhưng nó là không đủ: trạng thái một mình được cần tới. Một khi trạng thái này đã được đạt tới, thế thì chỗ không thành vấn đề; thế thì người ta có thể ở chỗ đơn độc ở mọi nơi - bất kì chỗ nào! Một khi tâm trí trở thành đơn tâm lí, một khi nắm bắt của thế giới tâm trí trở nên kém đi và bạn thoát ra khỏi mạng lưới của nó, bạn đạt tới chỗ đơn độc, chỗ ẩn mình - và cũng thế, tới trạng thái ẩn mình. Trạng thái là hiện tượng bên trong và chỗ là hiện tượng bên ngoài. Chỗ là phụ, trạng thái mới là điều thực. Để cho nghĩa của từ thứ nhất này hoàn toàn rõ ràng với bạn.
Thế rồi từ thứ hai được dùng trong lời kinh này, và đúng như vậy, là sukhasana:
...tư thế thân thể thoải mái...
Bạn ở chỗ đơn độc và bạn được ngồi trong tư thế thân thể thoải mái, cho nên điều này có hai phần trong nó.
Bạn quen thuộc với sukhasana đấy. Trong yoga, sukhasana là tư thế thân thể có sức căng tối thiểu trên thân thể, việc dùng tối thiểu thân thể. Ví dụ về việc dùng tối thiểu thân thể là điều bạn thấy trong các bức tượng Phật hay Mahavira: ngồi bắt chéo chân, giữ cho xương sống thẳng, với hai tay khoanh để trên đùi lòng bàn tay bắt chéo qua nhau - tuyệt đối bất động. Trong tư thế này có việc dùng tối thiểu thân thể và năng lượng của nó.
Và có lí do rất khoa học cho việc dùng tối thiểu này: khi xương sống của bạn tuyệt đối thẳng thì tác động của sức hút của Trái đất lên thân thể bạn là ít nhất. Khi xương sống của bạn dù chỉ hơi cong chút ít, sức hút của trái đấy sẽ đặt lên một vùng lớn hơn. Nhưng nếu xương sống tuyệt đối thẳng lên, tác động lực hút của Trái đất chỉ ở vào điểm đáy của xương sống bạn. Nếu xương sống của bạn bị uốn cong đi bằng cách nào đó, thế thì sức kéo của lực hút đặt lên toàn thể xương sống của bạn, và tới mức độ nào đó sẽ có căng trong thân thể bạn. Đây là sự kiện khoa học, sự căng này có thể được đo.
Lực hút lấy phần lớn sức nặng thân thể bạn. Đây là lí do tại sao các nhà khoa học nói rằng nếu con người bắt đầu sống trên mặt trăng, khoảng sống của con người sẽ tăng lên sáu lần bởi vì lực hút trên mặt trăng ít hơn lực hút của Trái đất sáu lần. Cho nên một người sống trên mặt trăng sẽ có khoảng sống sáu lần dài hơn, bởi vì sẽ có ít nỗ lực và sự căng trên thân thể người đó.
Các nhà khoa học thậm chí còn nói... Đây là một khái niệm đáng ngạc nhiên của Einstein, và nó dường như không thể nào tin nổi - nhưng nếu Einstein nói điều đó, nó phải đúng! Einstein nói rằng nếu chúng ta mà phái một người vào không gian trên con tàu không gian đi với tốc độ ánh sáng - tốc độ ánh sáng là 186,000 dặm (300 nghìn km) một giây - thì người đó sẽ không già. Bao nhiêu năm trôi qua cũng chẳng thành vấn đề, khi người đó trở về Trái đất, tuổi người đó sẽ gần như lúc người đó rời đi ở đây. Con người ở trái đất sẽ trở nên già, nhưng người đó sẽ vẫn còn trẻ. Lần đầu tiên Einstein nói điều này, nó gần như không thể nào tin được chút nào. Một con tàu không gian với tốc độ cực lớn đó sẽ không có sức hút hấp dẫn, cho nên lực hấp dẫn sẽ không có tác dụng lên người đó chút nào. Người đó sẽ đi trong chân không của không gian.
Thân thể bạn không già đi bởi vì bản thân thân thể đâu, nó già đi bởi vì mối quan hệ của nó và tương tác với sức hút của Trái đất. Trái đất đang kéo bạn xuống mọi lúc; trọng lượng của bạn có là bởi vì sức hút của Trái đất. Nếu bạn đặt một vật theo cùng tỉ lệ, điều chúng ta gọi là trọng lượng của một vật không phải là bản thân vật đó đâu, nó là lực của sức hút mà Trái đất đặt lên nó. Đĩa cân của nghiêng xuống với cùng mức độ như lực của Trái đất kéo nó xuống. Không có sức hút, dù một vật lớn thế nào bạn đặt lên chiếc cân, chiếc cân sẽ không nghiêng xuống chút nào. Trọng lượng có đó chỉ bởi vì sức hút.
Ảnh hưởng lớn nhất trên thân thể đang xảy ra mà thậm chí không đặt nó qua công việc nào. Chẳng thành vấn đề bạn làm gì về nó, trong bẩy mươi hay tám mươi năm thân thể bạn sẽ trở nên già đi. Cho dù bạn liên tục ngồi lười nhác hay nằm dài toàn bộ thời gian, thân thể bạn sẽ vẫn liên tục trở nên già đi bởi vì Trái đất đang giữ nó dưới sức căng toàn bộ thời gian. Ngay cả khi bạn ngủ thân thể bạn vẫng đang già đi bởi vì Trái đất đang kéo nó xuống - và có nhiều lí do cho điều này.
Các nhà khoa học nói rằng mọi thứ đều muốn quay trở lại trạng thái nguyên thuỷ của nó. Mọi thứ đều muốn trở về đó, bởi vì ở trạng thái nguyên thuỷ có nghỉ ngơi. Chẳng hạn, con sóng dâng lên trong đại dương sẽ sớm hạ xuống và quay trở lại cội nguồn. Với sóng việc dâng lên trên đại dương là cố gắng vô cùng, căng thẳng, lo âu cho sóng. Khi nó rơi trở lại nó được nghỉ ngơi. Điều này nghĩa là thân thể bạn, cái được tạo ra từ đất và nước và các hợp phần khác, muốn quay trở về chúng, và sức hút là hệ thống cho điều này xảy ra. Trái đất đang gọi thành phần đất của nó quay lại mọi khoảnh khắc, đang kéo nó lại bản thân nó mọi khoảnh khắc.
Sự kiện này bắt đầu rạng lên lên cho các nhà khoa học chỉ mới gần đây, nhưng yoga đã từng nhận biết về nó từ hàng nghìn năm rồi. Do đó, nếu người yogi dành nhiều thời gian ngồi với xương sống dựng thẳng, khoảng sống của người đó sẽ dài hơn. Đây là tư thế thoải mái. Bất kì tư thế nào mà trong đó xương sống dựng thẳng, chín mươi độ so với Đất, đều sẽ tạo ra ảnh hưởng ít nhất lên thân thể.
Và cũng có lí do thứ hai tại sao nó lại được gọi là sukhasana, tư thế thân thể thoải mái. Các nhà sinh lí học bây giờ chấp nhận rằng năng lượng di chuyển trong thân thể là điện sinh học, điện sinh lí. Chuyển động của điện, luồng điện bên trong thân thể, đang xảy ra thường xuyên - nhưng yoga bao giờ cũng nhận biết rằng có điện vận hành trong thân thể. Yoga gọi điện này là prana; khác biệt chỉ là ở cái tên. Prana này ở bên trong thân thể di chuyển theo cùng nguyên tắc như điện. Chẳng hạn, nếu điện di chuyển theo mạch nó không bị tiêu tán, nhưng nếu mạch bị đứt, nó sẽ tiêu tán. Nếu điện liên tục di chuyển trong mạch của nó, thế thì nó nói với chính nó.
Trong sukhasana, điện thân thể tạo thành mạch: lòng bàn chân của hai chân nối với hai đùi, hai bàn tay được giữ cái nọ qua cái kia, và xương sống được để thẳng. Điện thân thể chảy ra từ ngón tay và ngón chân. Khi cả hai tay và hai chân được nối với nhau trên đùi, điện đi ra của thân thể bắt đầu chuyển động theo vòng tròn bên trong thân thể thay vì rò rỉ ra.
Nếu điện thân thể không chảy ra chút nào... Người yogi và các thiền nhân đã làm điều này theo những cách khác nhau nữa: họ sẽ ngồi trên nền gỗ bởi vì nó là chất không dẫn điện và không có việc tiêu tán năng lượng qua nó, hay họ sẽ ngồi trên da sư tử hay da hươu bởi vì chúng cũng không dẫn điện, hay họ sẽ ngồi trên thảm len bởi vì cái đó nữa cũng là không dẫn điện. Tất cả những điều mà yoga gợi ý như chiếu để ngồi lên cho việc thiền cũng là chất không dẫn điện; chúng không cho phép điện thân thể được chảy ra. Toàn thể năng lượng thân thể sẽ vẫn còn bên trong thân thể; tất cả các cánh cửa cho nó chảy ra sẽ bị đóng lại và mạch bên trong thân thể sẽ được tạo ra. Trong mạch này tiêu tán năng lượng là ít nhất có thể được hay nỗ lực ít nhất của thân thể.
Mất mát tối đa của năng lượng sinh học xảy ra trong hành động dục, bởi vì trong dục cơ quan quan trọng nhất trong thân thể bạn cho việc tiêu tán năng lượng sinh học đi vào thân thể người khác, và thân thể người khác, đặc biệt thân thể đàn bà, có khả năng hút điện. Nó có thể bị hút hoàn toàn. Trong sukhasana khối lượng điện sinh học tối thiểu chảy ra ngoài; trong hành động dục khối lượng tối đa chảy ra ngoài. Bởi vì cơ quan sinh dục của con người là kho chứa điện lớn, nên khối lượng điện tối đa có thể được ném ra từ đó.
Đây là lí do tại sao một tâm trí đầy những thèm khát liên tục ném điện thân thể của nó ra mọi lúc, cho dù người đó không đi vào hành động dục. Đây là lí do tại sao một người với tâm trí thèm khát sẽ dần dần bắt đầu cảm thấy ngày một yếu hơn. Người này sẽ cảm thấy năng lượng thấp, sẽ cảm thấy tự trách mình, và chung cuộc người đó sẽ trở thành người yếu ý chí.
Sukhasana là phương pháp để tạo ra chuyển động vòng tròn bên trong cho điện thân thể. Một điều thú vị khác là ở chỗ khi điện thân thể không chảy ra và di chuyển trong vòng tròn bên trong, nó làm thuần khiết thân thể. Chúng ta sẽ nói về điều này về sau.
Cho nên mục đích đầu tiên của sukhasana là ở chỗ xương sống phải thẳng tới mức có sức căng tối thiểu trên thân thể. Và mục đích thứ hai là ở chỗ luồng chảy vòng tròn của điện thân thể được tạo ra để cho không năng lượng thân thể nào bị mất cả. Trong tư thế này, thân thể kinh nghiệm sự thoải mái tối đa.
Bạn có thể không hiểu từ này sukh, thuận tiện, hạnh phúc. Nó là một từ được người yogi dùng. Điều bạn nghĩ về hạnh phúc chỉ là một loại kích động; kích động là chất liệu cần thiết trong nó. Chúng ta nói rằng một người đã trúng xổ số và người đó cảm thấy hạnh phúc lớn lao. Hạnh phúc của người đó có nghĩa rằng người đó bị kích động tới mức người đó thậm chí không thể ngủ được ban đêm. Mạch của người đó lên cao, huyết áp của người đó lên cao: chúng ta nói rằng người đó hạnh phúc, và vậy mà người đó không thể nào ngủ được ban đêm! Cái gì đó trong người đó đang khuấy động mọi lúc và người đó được cho là trong hạnh phúc lớn lao. Không, điều bạn gọi là hạnh phúc đó chỉ là một loại kích động thôi - và điều bạn gọi là bất hạnh cũng là kích động. Điều bạn đang gọi là hạnh phúc là kích động và điều bạn đang gọi là bất hạnh cũng là kích động.
Thế thì khác biệt gì giữa hai điều này? Bạn gọi kích động gây vui thích cho bạn là hạnh phúc và kích động gây khó chịu cho bạn là bất hạnh. Đây là lí do tại sao cho điều xảy ra là cái hạnh phúc hôm nay trở thành bất hạnh ngày mai, và cái bất hạnh hôm nay có thể trở thành hạnh phúc ngày mai. Kích động là một, chính vấn đề về vui lòng hay buồn lòng của nó làm thay đổi.
Có lẽ bạn có thể không nghĩ về nó, nhưng điều bạn gọi là hạnh phúc, hay vui thú, và rất khuấy động - do đó không ai có thể sống trong hạnh phúc và vui thú mọi lúc được. Lí do cho điều này không phải là việc hạnh phúc không thể tồn tại mãi mãi được: toàn thể lí do là ở chỗ trong trạng thái hạnh phúc thường xuyên bạn sẽ cảm thấy bị kiệt sức, cạn kiệt. Cần phải có lỗ hổng trong hạnh phúc của bạn.
Một nhà huyền môn phương Tây rất đáng phục, Jakob Boehme, đã nói, “Sau khi trải qua yêu, tôi đã thấy rằng yêu cũng là bệnh. Tôi gọi yêu là bệnh bởi vì tôi chưa bao giờ bị kiệt quệ bởi ốm bệnh nhiều như tôi bị kiệt quệ bởi yêu. Tôi không bị kiệt sức bởi ốm bệnh nhiều như tôi đã bị kiệt sức bởi yêu. Ít nhất cũng có chữa trị cho ốm bệnh, nhưng với yêu thì không có thuốc nào cả. Nếu tôi không thể ngủ được ban đêm khi tôi ốm, mọi người sẽ nói đó là chứng mất ngủ. Trong yêu tôi cũng không thể nào ngủ được nhiều đêm, nhưng thế rồi tôi sẽ gọi nó là hạnh phúc. Bây giờ tôi biết rằng điều này nữa cũng là chứng mất ngủ.”
Điều bạn gọi là hạnh phúc chỉ là kích động vui thích khớp với hệ thống niềm tin của bạn. Yoga không gọi điều này là hạnh phúc; hiểu điều này rất rõ ràng đi. Bạn không nên rơi vào việc hiểu lầm nào đó bởi vì từ hạnh phúc đã được dùng. Với bạn, hạnh phúc là một dạng của kích động - nhưng yoga nói rằng hạnh phúc là khi không có kích động nào trong thân thể. Yoga nói rằng trạng thái không bị kích động của thân thể là hạnh phúc. Do đó điều bạn gọi là bất hạnh thì yoga cũng gọi là bất hạnh - nhưng nó cũng gọi cái gọi là hạnh phúc của bạn là bất hạnh. Yoga gọi sự hài hoà bên trong là hạnh phúc. Nơi không có kích động, không căng thẳng, không gợn sóng; nơi cái hồ hoàn toàn êm đềm, nơi năng lượng thân thể yên tĩnh và im lặng tuôn chảy bên trong bạn và thậm chí không có một ý tưởng nào về việc tuôn chảy ra ngoài; nơi bạn bình thản, yên tĩnh và định tâm trong bản thân mình - đây là nghĩa của sukhasana.
Điều thứ ba lời kinh này nói là:
... giữ cho đầu, cổ và xương sống thẳng hàng và dựng đứng...
Nếu bạn quen với sinh lí, bạn phải biết rằng các nhà sinh lí nói rằng chính phần đỉnh của xương sống của bạn phát triển thành bộ não. Tất cả các tế bào và mô trong não, toàn thể sự mở rộng và bành trướng của bộ não, đều là một phần của xương sống. Chúng ta có thể nói rằng bộ não là một đầu của xương sống; hay chúng ta cũng có thể nói điều ngược lại, rằng xương sống là phần gốc mở rộng của bộ não. Dù bạn thích nói nó theo bất kì cách nào, một điều là chắc chắn: xương sống và bộ não được nối sâu sắc với nhau. Chúng ta biết rằng chúng được nối sâu sắc, nhưng chúng ta không biết điều đó một cách có ý thức.
Nếu bạn đi ngủ ban đêm không có gối, bạn có thể thấy khó rơi vào giấc ngủ. Bạn có thể chẳng bao giờ để ý nghĩ nào vào mối quan hệ giữa gối và giấc ngủ là gì. Mọi con vật đều đi ngủ mà không có gối và chúng rơi vào giấc ngủ mà chẳng có vấn đề gì. Trẻ con cũng rơi vào giấc ngủ rất tốt chẳng cần gối. Nhưng khi người ta già hơn, ngày một khó ngủ hơn nếu không có gối. Điều thú vị khác là ở chỗ khi nền văn minh phát triển và khi giáo dục trở nên ngày một lan rộng, số gối người ta cần dưới đầu cũng càng lớn hơn. Tại sao? Lí do là ở bên trong chúng ta, và nó mang tính sinh lí.
Não càng hoạt động, nó càng nhạy cảm hơn, cho nên khi bạn đi ngủ vào ban đêm bạn cần chắc chắn rằng khối lượng máu ít nhất đi lên não. Máu càng đi lên não nhiều, não càng được kích hoạt hơn - và giấc ngủ trở thành khó khăn. Khi có nhiều gối dưới đầu bạn, não sẽ cao hơn xương sống và phần lớn máu từ đầu sẽ chảy xuống. Nếu đầu ở thấp hơn xương sống, hay nếu cả hai ở cùng một mức, tất cả máu sẽ chảy tới não và việc ngủ trở thành không thể được.
Đây là lí do tại sao tuyệt đối không thể ngủ được trong khi đứng lộn ngược đầu. Người thực hành đứng lộn ngược đầu sẽ ít ngủ. Điều đó nhất định là như vậy, bởi vì người đang thực hành đứng lộn ngược đầu sẽ ngủ đủ trong bốn hay năm giờ thôi; nhiều hơn điều này sẽ là không cần cho người đó. Nhưng quá nhiều đứng lộn ngược đầu sẽ có hại cho não.
Đây là lí do tại sao những người thực hành shirshasana, đứng lộn ngược đầu, dường như không thật thông minh cho lắm. Quá nhiều việc đứng lộn ngược đầu nghĩa là quá nhiều máu sẽ xô tới não và sẽ phá huỷ những tế bào rất tinh tế trong não. Người có càng nhiều tế bào não, thông minh của người đó sẽ càng phát triển.
Các nhà khoa học nói rằng lí do duy nhất đằng sau tiến hoá của trí tuệ trong con người là ở chỗ con người có khả năng đứng trên hai chân. Tất cả những con vật khác đều đứng trên bốn chân, và bởi vì điều này, quá nhiều máu chảy qua não của chúng và các tế bào tinh tế không thể phát triển được. Con người đứng trên hai chân và chỉ một khối lượng máu tối thiểu bắt đầy đạt tới não của con người, bởi vì để bơm máu tới chiều cao đó là khó khăn hơn - khối lượng máu tối thiểu đạt tới đó. Đây là lí do tại sao não con người có khả năng phát triển nhiều tế bào tinh tế hơn. Nó cũng giống như khi dòng nước nhỏ, chậm đang chảy, bạn có thể trồng cây trên nó; nhưng nếu dòng nước lớn, mạnh bắt đầu chảy thì cây cối sẽ bị bật rễ. Tế bào não là rất mảnh mai và tinh tế. Trong bộ não nhỏ của chúng ta có trên bẩy tỉ tế bào. Nó là toàn thể thế giới - trên bẩy tỉ tế bào sống. Một cú xóc nhỏ có thể dễ dàng phá huỷ chúng. Cho nên toàn thể tiến hoá của con người đã xảy ra bởi vì con người đã đứng trên hai chân và đã làm cho xương sống mình thành thẳng đứng.
Nếu bạn hỏi các nhà tiến hoá, họ sẽ nói rằng cuộc cách mạng vĩ đại nhất đã xảy ra trong sự tồn tại của con người đã xuất hiện bởi vì khỉ xuống khỏi cây và lần đầu tiên đứng trên hai chân. Hai chân kia trở nên tự do, xương sống trở nên thẳng đứng và luồng máu lên não bị giảm bớt.
Khi người ta nói rằng đầu, cổ và xương sống phải thẳng đứng, theo một đường thẳng, đó là điều cần thiết cho cuộc cách mạng thứ hai, và thậm chí còn lớn lao hơn. Nếu ai đó nói với con vật rằng nếu các bạn đứng trên hai chân thì những người như Phật Gautam, Albert Einstein và Socrates sẽ được sinh ra trong các bạn, chúng sẽ cười vào ý tưởng này. “Ông có diễu cợt chúng tôi không thế? Một Phật Gautam, một Einstein và một Socrates được sinh ra chỉ bởi vì chúng tôi bắt đầu đứng trên hai chân sao?” Nói điều này cho con vật sẽ không hấp dẫn được chúng. Điều đó cũng chẳng hấp dẫn chúng ta: làm sao giữ cho xương sống, cổ và đầu thẳng đứng, theo đường thẳng, mà lại đem tới thiền và chứng ngộ được?
Đây thậm chí là một bước tiến thêm nữa: khi bạn ngồi thiền nếu bạn giữ cho xương sống, cổ và đầu theo đường thẳng hoàn toàn, mọi rào chắn trên con đường của điện sinh học chảy qua chúng sẽ bị dẹp bỏ. Năng lượng tuôn chảy dễ dàng bởi vì việc thẳng đứng - nhưng bạn phải ngồi. Nếu bạn nằm để thiền, thế thì quá nhiều máu sẽ chảy lên lên ngay một lúc. Nếu bạn đang trong tư thế ngồi thế thì quá nhiều máu sẽ không chảy lên, chỉ điện sinh học chảy lên. Nếu nhiều điện sinh học và ít máu chảy lên, thế thì các trung tâm trong não đang ngủ nay trở nên được kích hoạt. Nếu bạn hỏi các nhà tâm lí, họ sẽ nói rằng mãi cho tới giờ chúng ta đã không dùng nhiều hơn mười phần trăm bộ não của mình. Khó mà tưởng tượng được tiềm năng của chín mươi phần trăm còn lại là gì.
Yoga nói tất cả các siddhis, các quyền năng huyền bí, siêu nhiên đã từng được nói tới, đều có liên quan tới chín mươi phần trăm chưa dùng của bộ não. Và nếu chúng ta cũng có thể trao năng lượng sống cho phần đó, nếu năng lượng sống có thể tuôn chảy qua phần đó nữa, thế thì tất cả các trung tâm não đang ngủ có thể được kích hoạt. Gần đây, một nhóm các nhà khoa học những người đang làm nghiên cứu tâm lí sâu sắc đã ngạc nhiên khi khám phá ra rằng mọi người đều có kiểu siddhi nào đó, bất kì kiểu quyền năng tâm lí nào bên ngoài điều thông thường, điều đó không phải là phép màu: nó chỉ là một số trong những năng lượng đang ngủ thông thường.
Chẳng hạn, có một người đàn ông ở Mĩ, Ted Serios. Khi ông ấy nghĩ về cái gì đó, thế thì cùng với ý nghĩ đó, hình ảnh về điều ông ấy nghĩ tới cũng xuất hiện trong mắt ông ấy. Không phải là ảnh đó chỉ dường như ở đó, bởi vì người ta có thể chụp ảnh nó bằng máy chụp ảnh. Chẳng hạn, ngồi ở New York ông ấy nghĩ tới Taj Mahal - và ông ấy đã làm điều này với Taj Mahal - thế rồi ông ấy sẽ liên tục nghĩ mãi với đôi mắt nhắm và thế rồi ông ấy sẽ nói, “Sẵn sàng máy ảnh đi. Tôi sắp mở mắt đấy và Taj Mahal sẽ xuất hiện trong chúng.” Khi ông ấy mở mắt một bức ảnh được chụp, và Taj Mahal xuất hiện trong ảnh! Và thậm chí ảnh của những vật mà ông ấy chưa hề trông thấy trước đây cũng xuất hiện trong mắt ông ấy. Điều này thậm chí còn bí ẩn hơn. Nếu bạn đã thấy Taj Mahal trước đó, có lẽ thế thì bạn có thể tưởng tượng ra nó - mặc dầu cho dù điều đó là không có thể được. Tưởng tượng không vật chất hoá trong mắt, và không ảnh chụp nào của những tưởng tượng của bạn có thể được chụp từ mắt bạn. Nhưng khi Ted Serios được yêu cầu ngay cả về những thứ ông ấy chưa bao giờ thấy trước đó, ông ấy chỉ nghĩ về một vật và nó xuất hiện trong mắt ông ấy và nó có thể được chụp ảnh.
Khi họ khám não của Ted Serios, họ phát hiện ra rằng phần não của ông ấy, thông thường ngủ trong hấu hết mọi người, đã không ngủ trong ông ấy. Trong trường hợp của ông ấy chúng đã tích cực, và điện đã chạy qua chúng.
Bây giờ điều này có thể được biết tới bằng việc đặt điện cực vào sọ và thử xem phần nào của bộ não có điện chạy và trong phần nào thì nó không chạy. Bất kì chỗ nào điện chạy qua, khi bạn đặt điện cực vào miền đó, đèn điều khiển trên điện cực sẽ sáng lên. Cũng như thợ điện có thể kiểm tra xem liệu điện có chạy hay không, bây giờ có thể kiểm tra xem liệu điện sinh học có chạy qua não chúng ta hay không.
Một dòng điện rất tinh tế và tinh vi đang chạy, vậy mà khối lượng điện đang chạy qua bộ não chúng ta, trong điều kiện thông thường, có thể làm sáng bóng đèn. Điện này là rất tinh tế, nhưng nó sẽ làm sáng bóng đèn. Và điện này có thể được kiểm thử. Các phần của bộ não của Ted Serios nơi điện này chạy qua... điện không chạy ở cùng các bộ phận của bộ não người thường.
Yoga nói rằng nếu ba điều này, xương sống, cổ và đầu, được giữ thẳng đứng, theo đường thẳng, thì năng lượng sẽ đi lên và bắt đầu chảy qua các phần đó của bộ não. Chính bởi vì điều này mà siddhis - quyền năng siêu nhiên, huyền bí - xảy ra, bởi vì nhiều hiện tượng mới bắt đầu xảy ra trong não. Và lí do để giữ ba bộ phận này theo đường thẳng có tính khoa học: năng lượng, điện sinh học, có thể đi lên tới mọi phần của bộ não.
Bây giờ sẽ có ích để hiểu thêm hai điều nữa. Tôi đã nói với các bạn rằng não không là gì ngoài đầu cuối của xương sống - và bộ phận sinh dục của bạn là đầu kia. Cơ chế sinh sản của bạn là ở đầu này của xương sống và cơ chế tư duy của bạn là ở đầu kia của nó, và một và cùng một năng lượng chảy giữa hai cơ chế này. Nếu năng lượng, mà chúng ta thông thường gọi là lực dục, tương tác với thế giới bên ngoài thông qua phần thấp của xương sống, chúng ta gọi nó là năng lượng dục; nếu nó có quan hệ với thế giới qua phần trên của xương sống, nó trở thành năng lượng kundalini. Để đưa năng lượng dục này đi lên trên, cần có ba bộ phận phải dựng đứng, theo một đường thẳng. Não, cổ và xương sống phải tạo thành một đường thẳng.
Điều thứ tư... chỗ phải đơn độc, tư thế phải thoải mái, đầu, cổ và thân thể phải theo đường thẳng.
... người đã lau sạch thân thể...
Ý tưởng tới tâm trí bạn khi bạn nghe thấy “thân thể được thuần khiết” là việc lau sạch thân thể bạn bằng cách tắm và những thứ như vậy. Điều đó là tốt, nhưng không đủ. Làm thuần khiết thân thể bạn là hiện tượng còn lớn hơn nhiều. Với việc tắm, tất cả ghét bên ngoài mà có thể đã tích lại trên thân thể sẽ bị kì cọ đi và lỗ chân lông của thân thể sẽ được lau sạch và làm thuần khiết. Mọi lỗ chân lông của thân thể đều thở, cho nên quá trình thở được làm tươi tắn.
Có lẽ bạn có thể không nhận biết rằng bạn không thở chỉ qua mũi, mà còn qua toàn bộ thân thể mình. Nếu mũi bạn được tự do thở nhưng phần còn lại của thân thể bạn bị sơn kín bằng tầng sơn dày để cho không một lỗ chân lông nào có thể thở, thế thì bạn không thể sống được quá ba giờ. Bạn có thể liên tục thở qua mũi và mồm đấy, nhưng bạn sẽ không sống sót quá ba giờ. Cho nên đừng bị ảo tưởng rằng bạn đang thở chỉ qua mũi - từng lỗ chân lông của bạn đều thở; ô xi đi vào thân thể bạn qua mọi lỗ chân lông. Việc tắm làm thuần khiết đủ để cho bụi bặm được lau sạch khỏi mọi lỗ chân lông và toàn bộ thân thể bạn bắt đầu hít vào nhiều ô xi hơn. Bạn bắt đầu cảm thấy sự tươi tắn, bởi vì ô xi đạt tới mọi tế bào thân thể. Mức độ thuần khiết này là cần thiết, nhưng nó không đủ.
Việc thuần khiết thân thể là khái niệm lớn hơn nhiều, cho nên cũng tốt để hiểu hai hay ba khía cạnh nữa về làm thuần khiết thân thể. Một trong những khía cạnh này là cái gì đó mà bạn có thể chưa bao giờ nghĩ tới.
Không lâu mấy trước đây một nhà trị liệu tâm lí mất ở Mĩ. Tên ông ấy là Wilhelm Reich. Ông ấy là người đã thực hiện một công trình rất có ý nghĩa với mọi người trong thế kỉ này. Những người làm công trình có ý nghĩa bao giờ cũng lâm vào rắc rối... Wilhelm Reich đã chết trong tù. Nhân loại thế đấy nếu bất kì công trình có ý nghĩa nào được làm cho nó, vì sự tốt lành của nó, nó đều trả thù.
Và có lí do tại sao nhân loại lại trả thù: lí do là ở chỗ nếu công trình đúng được làm cho nó, gốc rễ và nhiều hệ thống niềm tin của nó sẽ bị chứng minh là sai. Và nó càng được chứng minh là sai, bực dọc sẽ càng phát triển. Con người không sẵn sàng chấp nhận rằng bất kì niềm tin nào của mình là sai. Điều đáng quan tâm là ở chỗ bởi vì chính những niềm tin này, con người lại trong khổ lớn lao. Con người liên tục đòi hỏi cách mình có thể gạt bỏ khổ của mình, nhưng nếu bạn bảo người đó rằng chính niềm tin riêng của người đó đang tạo ra khổ cho người đó và bản thân người đó là người tạo ra khổ cho mình, người đó sẽ không sẵn sàng buông bỏ niềm tin của mình đâu. Con người tạo ra nhà tù riêng của mình, khoá cửa lại và vứt chìa khoá đi. Thế rồi anh ta kêu lên, “Tôi khổ quá! Tôi bị tù! Xin cứu tôi với!” Thế rồi nếu ai đó nói rằng người đó ở đó bởi vì sự ngu xuẩn riêng của mình, người đó trở nên rất giận.
Wilhelm Reich đã nói nhiều điều quan trọng về con người. Ông ấy nói rằng tất cả mọi xúc động bị kìm nén của con người liên tục tích lại trong thân thể người đó - trong thân thể người đó, không trong tâm trí người đó. Tất cả những ham muốn và xúc động bị kìm nén đều tích lại trong thân thể và làm cho thân thể thành không thuần khiết, ốm yếu, hư hỏng. Nhưng yoga đã biết về điều này từ nhiều thế kỉ. Kinh nghiệm riêng của tôi là ở chỗ nếu bạn kìm nén giận dữ của bạn, bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng nó sẽ tích vào răng bạn. Có những lí do cho điều này. Đây là lí do tại sao khi một người giận dữ người đó lại nghiến răng. Khi người đó giận dữ người đó siết chặt nắm đấm. Trong giận dữ, người ta có thể siết chặt nắm đấm mạnh tới mức móng tay người đó sẽ cắm vào da người đó. Nếu bạn kìm nén giận dữ của mình, nó sẽ tích trong răng bạn và trong ngón tay bạn.
Wilhelm Reich thậm chí còn đi tới kết luận rằng răng của người giận dữ rụng sớm hơn. Ông ấy đi tới kết luận này sau hàng nghìn thực nghiệm. Ông ấy đã làm một thực nghiệm duy nhất trên hàng nghìn người - khuấy động giận dữ của họ bằng việc ấn vào quanh răng họ. Bất kì khi nào một người giận dữ đi tới ông ấy, sau khi hỏi người đó nhiều câu hỏi ông ấy sẽ bảo người đó nằm ra. Ông ấy sẽ chỉ ấn quanh lợi người đó, và chỉ bằng việc ấn vào lợi mà người đó sẽ phát rồ lên! Không có lí do đặc biệt nào cho cơn giận hay cơn rồ vào khoảnh khắc đó. Nhiều lần Reich phải gọi cảnh sát tới để bảo vệ mình với bệnh nhân của mình. Về sau, ông ấy phải có một vệ sĩ bởi vì bệnh nhân có thể tấn công ông ấy vào bất kì lúc nào. Động chạm tới giận dữ của mọi người, kích động nó, là nguy hiểm.
Dù lỗ hổng giữa con người và con vật có lớn đến đâu cũng không thành vấn đề, nó vẫn là lỗ hổng. Con vật bầy tỏ tất cả giận dữ của chúng qua răng. Đó là cái chúng có, hoặc móng hoặc răng; đây là phương tiện duy nhất của chúng để bảo vệ và tấn công. Nhưng con người đã phát triển nhiều phương tiện bạo hành khác. Các nhà nghiên cứu nói rằng con người phải phát triển những cách thức khác bởi vì răng và móng của con người rất yếu, do đó cái thay thế nào đó trở thành bản chất. Cho nên tất cả gươm và súng và dao găm của chúng ta không là gì ngoài sự mở rộng của răng chúng ta và của móng chúng ta. Các con vật khác rất mạnh so với chúng ta, cho nên chúng ta phải phát minh ra những thứ sẽ tạo ra cái tương đương với việc có răng và móng mạnh hơn của chúng. Chính bởi vì điều này chúng ta đã sống sót.
Nhưng đồng thời, một hiện tượng thú vị cũng xảy ra: khi bạn tấn công ai đó bằng dao găm, bạo hành đã nảy sinh trong ngón tay bạn không được xả ra; bằng cách nào đó nó còn bị mắc kẹt trong ngón tay. Không có cách nào để cho bạo hành đó đi từ ngón tay bạn vào dao găm. Cho nên nếu bạn giận dữ và bạn chửi ai đó và nghiến răng, năng lượng sẽ đi vào trong răng bạn cho dù bạn không cắn ai cả - và năng lượng đó sẽ không được xả ra.
Quá trình tích năng lượng trong răng đã phát triển qua kinh nghiệm hàng triệu năm. Năng lượng tích lại trong răng. Người bạo hành có được vui thú từ việc hút thuốc lá bởi vì bằng cách nào đó răng có tham gia. Người bạo hành có được vui thú từ việc nói quá mức - răng bằng cách nào đó được tham gia vào. Nếu không có gì khác, thế thì người bạo hành sẽ nhai kẹo cao su hay nhai trầu: đây là mọi dấu hiệu của người bạo hành. Răng bằng cách nào đó cần được dùng bởi vì ít nhất một số năng lượng sẽ được xả ra qua chúng, sự giảm nhẹ nào đó và sự nhẹ nhõm nào đó sẽ xảy ra qua nó. Năng lượng này được sử dụng, và theo một cách nào đó thì nó là tốt bởi vì ít nhất bạn không cắn ai cả. Thay vì thế bạn chỉ nhai trầu: nó là cách không bạo hành để xả ra cái bạo hành.
Nhưng đây chỉ là một ví dụ. Thực tế, tất cả đam mê và ham muốn mà bạn kìm nén trong thân thể bạn - và bạn đang kìm nén nhiều - không được xả ra. Tất cả văn minh của bạn, văn hoá của bạn, tôn giáo của bạn đều dựa trên kìm nén. Bạn kìm nén mọi thứ. Bạn kìm nén và dừng mọi thứ trong bản thân mình, nhưng bất kì cái gì bị kìm nén vẫn còn ở bên trong và làm cho thân thể không thuần khiết. Việc xả sự kìm nén của bạn ra sẽ gây nên việc làm thuần khiết sâu sắc cho thân thể hơn là qua việc tắm.
Việc thiền mà chúng ta đang làm ở đây có liên quan tới mức độ sâu hơn của việc làm sạch. Trong đó, bạn phải ném ra và làm trống rỗng tất cả những cái bị kìm nén trong bạn. Giận dữ, bạo hành, vui sướng, khổ sở, khóc lóc, điên khùng - tất cả những cái bị kìm nén bên trong bạn. Và nhớ một điều: khi bạn xả ra bất kì cái nào trong những năng lượng này lên ai đó khác, bạn đang đi vào cái vòng luẩn quẩn mà bạn sẽ không thể nào thoát ra được. Bạn phải xả tất cả những năng lượng này vào cái trống rỗng.
Con người phải trở nên có khả năng xả giận dữ của mình vào cái trống rỗng, không vào người nào cả - bởi vì khi bạn xả nó lên người nào đó, sẽ không có chấm dứt cho dây chuyền giận dữ. Tôi chửi bạn và rồi bạn chửi tôi và thế rồi tôi sẽ lại chửi bạn, và không có chấm dứt cho nó. Mỗi lần bạn trở nên giận dữ theo cách này, nó chỉ làm mạnh thêm cho thói quen này.
Theo cách này giận dữ sẽ được xả ra, nhưng nó cũng sẽ tạo ra và làm mạnh thêm cho thói quen xổ nó lên người khác - và thế thì bạn bị mắc vào cái vòng luẩn quẩn. Nếu tôi liên tục xổ ra, chửi rủa và trở nên giận dữ với mọi người, cười hay khóc bất kì chỗ nào, bất kì lúc nào, bầy tỏ bất kì cái gì bên trong tôi, cuộc sống sẽ trở thành không thể được! Khi người ta phải sống với người khác, nhiều lần người ta sẽ phải kìm nén nhiều thứ. Do đó, kìm nén là điều phải có trong xã hội. Có nhiều khả năng chúng ta có thể tạo ra được xã hội không bị mọi kìm nén. Xã hội tốt kìm nén ít, xã hội xấu kìm nén nhiều, nhưng ngay cả sống trong xã hội tốt, kìm nén vẫn là không thể tránh khỏi.
Sau khi nghiên cứu hiện tượng này trong cả đời mình, Freud đã nói với thất vọng lớn lao, “Tôi không thấy tương lai nào cho con người. Chẳng thành vấn đề con người là ai hay người đó sống khi nào, chừng nào người đó còn sống trong xã hội, người đó sẽ khổ sở - và người đó không thể sống không có xã hội được.” Làm sao con người có thể sống không có xã hội được? Ông ấy đã viết - người này là nhà khoa học, cho nên ông ấy đã viết theo cách trực tiếp, như ông ấy đã cảm thấy nó - rằng ông ấy không thấy cách nào để con người có thể hạnh phúc, bởi vì nếu con người sống trong xã hội, con người sẽ kìm nén, và nếu con người không kìm nén, việc sống trong xã hội sẽ trở thành không thể được với người đó. Freud có thể thấy không có cách nào ngoại trừ hai cách này.
Freud có thể không thấy được điều đó, nhưng yoga biết cách. Yoga nói không có nhu cầu bày tỏ lên người khác - bày tỏ vào cái trống rỗng đi. Bày tỏ giận dữ của bạn vào bầu trời trống rỗng. Bầu trời có tâm bao la và nó sẽ không đáp lại bạn. Nếu bạn có thể bày tỏ tất cả những xúc động bị kìm nén, việc tẩy rửa sẽ đầy đủ và bạn sẽ được dọn sạch; thân thể sẽ trở nên thuần khiết. Khi thân thể thuần khiết, thiền sẽ phát triển đôi cánh.
Trong thiền, con người bắt đầu bay. Con người không phải bước, việc bay sẽ bắt đầu. Tất cả những xúc động bị kìm nén được giữ bên trong bạn tựa như những tảng đá nặng đang kéo bạn xuống - đây là điều duy nhất đang kéo bạn xuống. Bạn có thể đã nghe nói về nó nhiều lần, rằng trong thiền, nhiều người kinh nghiệm rằng họ đã khinh công khỏi mặt đất. Chín mươi chín trong một trăm lần, họ không thực sự khinh công. Nhưng khi tất cả những xúc động đã được xả ra từ thân thể bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhõm thế, dường như thân thể nổi lên trên mặt đất. Khi bạn mở mắt ra bạn sẽ thấy bản thân mình trên đất, nhưng khi bạn nhắm mắt sẽ cản thấy dường như thân thể lơ lửng trên đất. Cảm giác này rõ ràng và mạnh mẽ tới mức bạn không thể chấp nhận được rằng bạn chưa thực sự cất lên trên đất - cảm giác rõ ràng thế.
Toàn thể lí do cho cảm giác này là ở chỗ nếu tất cả những xúc động bị kìm nén được xả ra, thân thể trở nên thuần khiết và lập tức người ta kinh nghiệm cảm giác khinh công. Nếu việc làm thuần khiết này cũng được thực hiện trên vài mức độ khác, thế thì một trong một trăm người sẽ đi ra ngoài sức hút và thực tế sẽ khinh công. Họ thực tế có thể khinh công, nhưng phương pháp cho điều đó là khác; nó không có quan hệ trực tiếp với thiền. Nhưng điều chắc chắn xảy ra trong thiền là bạn bắt đầu cảm thấy rằng bạn đang được nâng lên khỏi mặt đất, rời xa và ở trên nó, và rằng thân thể bạn đang nổi trong không trung. Cảm nhận này là rất bên trong: nó là cảm nhận của thân thể được làm thuần khiết.
Cho nên tôi đang nói cho bạn dấu hiệu của thân thể được thuần khiết. Chừng nào bạn còn chưa cảm thấy rằng trong thiền bạn đã khinh công khỏi mặt đất, bạn cần hiểu rằng bạn vẫn có những xúc động bị kìm nén trong thân thể mình. Bạn vẫn chưa buông bỏ tất cả các xúc động. Và ngay cả khi bạn đang buông bỏ xúc động bạn vẫn cư xử theo cách keo kiệt. Nếu tôi bảo bạn khóc toàn tâm, bạn thậm chí không thể làm được điều đó; bạn thậm chí không thể khóc toàn tâm được! Nó bị kìm nén - nhưng bạn đang đầy nó. Đây là lí do tại sao điều thường xảy ra là sau khi bạn khóc, bạn cảm thấy nhẹ nhõm nào đó. Nó không nhiều thế bởi vì việc khóc đâu, chính bởi vì xúc động đã bị kìm nén trong bạn đã được xả ra qua việc khóc của bạn.
Bạn đã bao giờ để ý rằng khi nước mắt của bạn chảy ra, chúng để lại đằng sau sự nhẹ nhõm trong bạn không? Nhưng những nước mắt đó chẳng liên quan gì tới đau khổ cả. Nước mắt có thể tới từ niềm vui và hạnh phúc nữa, chúng có thể tới tại đỉnh của niềm vui nữa. Nước mắt có thể tới tại sự mãnh liệt của yêu và chúng cũng có thể tới ở sự mãnh liệt của khổ. Nước mắt là cách thức cho mắt loại bỏ những kìm nén của bạn, một phương cách để tống ra tất cả những cái bị kìm nén trong bạn. Các nhà khoa học nói rằng nước mắt là việc tắm cho mắt, chúng lau sạch tất cả những hạt bụi đã tụ tập trong mắt. Nhưng đôi khi bạn không khóc - cho nên nếu một người mà không khóc trong một năm, mắt người đó đã không được tắm cả năm rồi.
Khi nước mắt chảy, chúng chắc chắn lau sạch tất cả bụi bặm trong mắt. Nhưng đó là điều phụ thôi: sâu bên trong, chúng làm thuần khiết chính linh hồn của mắt, chúng làm thuần khiết miền bên trong của mắt. Bất kì căng thẳng nào có trong mắt - dù nó là sướng hay khổ, dù nó là giận hay yêu, điều gây ra căng thẳng nặng nề trên mắt - chúng tất cả đều được xả ra và mắt có thể được thảnh thơi. Những xúc động bị dồn nén tuôn ra dưới dạng nước mắt. Việc làm thuần khiết sâu sắc hơn cho thân thể sẽ làm xả ra tất cả những xúc động bị kìm nén từ thân thể bạn. Việc tắm là tốt, nhưng việc tắm sâu sắc hơn cũng là cần thiết.
Một điều khác, còn sâu sắc hơn cũng cần được hiểu trong hoàn cảnh làm thuần khiết thân thể: bất kì khi nào bạn kinh nghiệm bản thân mình trong thân thể, thế thì cách bạn kinh nghiệm nó sẽ có tác động lên toàn thể cấu trúc của thân thể. Nếu một người nghĩ mình là thân thể, người này sẽ kết thúc với việc có thân thể không thuần khiết nhất. Người khác nghĩ mình không phải là thân thể nhưng sống bên trong thân thể: người này sẽ có thân thể thuần khiết hơn người thứ nhất. Vậy mà người khác nghĩ rằng mình không phải là thân thể mình cũng không sống trong thân thể - rằng người đó ở ngoài thân thể: người này sẽ có thân thể thuần khiết nhất trong tất cả. Điều này nghĩa là bạn càng bị đồng nhất với thân thể, nó sẽ càng trở nên nặng nề và đờ đẫn, và càng có khoảng cách giữa thân thể bạn và cái ta của bạn thì thân thể bạn sẽ càng trở nên nhẹ hơn. Càng nhiều lỗ hổng có đó giữa tâm thức bạn và thân thể bạn, thân thể càng được làm thuần khiết trong lỗ hổng này. Lỗ hổng này càng nhỏ, thân thể sẽ càng trở nên không thuần khiết hơn. Với một thân thể thuần khiết điều bản chất là có lỗ hỏng giữa thân thể và tâm thức.
Nhưng tất cả các bạn đều tin bản thân bạn là thân thể. Nếu tay của ai đó bị gẫy, người đó không cảm thấy rằng đấy chỉ là cái tay đã bị gẫy, người đó cảm thấy rằng mình đã trở nên tàn phế. Nếu ai đó làm gẫy chân mình, người đó không cảm thấy rằng đấy chỉ là cái chân đã bị gẫy, người đó cảm thấy rằng mình đã thành què quặt. Nếu thân thể ai đó trở nên già, người đó không cảm thấy rằng đấy chỉ là thân thể đã trở nên già. Chính sự đồng nhất này với thân thể làm cho thân thể thành không thuần khiết. Tại sao nó như vậy? - bởi vì càng có nhiều đồng nhất với thân thể, nó sẽ càng ít nhận được nghỉ ngơi. Thân thể có thể nghỉ ngơi chỉ khi nó là dụng cụ bạn dùng và rồi bỏ lại một mình. Khi bạn đi ngủ ban đêm, nếu thân thể bạn không phải là dụng cụ, nếu bạn nghĩ rằng bạn là thân thể, thế thì nó không thể rơi vào giấc ngủ được. Trạng thái hỗn độn của bạn về các hoạt động bên trong sẽ tiếp tục và trạng thái hỗn độn đó sẽ ảnh hưởng tới thân thể.
Nếu đôi khi bạn ngồi và quan sát một người ngủ cả đêm, bạn sẽ ngạc nhiên. Không ai đã từng làm điều này trước đây, nhưng bây giờ họ đã xây dựng các phòng thí nghiệm để nghiên cứu giấc ngủ; họ gọi là phòng thí nghiệm ngủ. Họ đã phát hiện ra nhiều đáng ngạc nhiên. Không ai đã bao giờ hình dung ra được rằng mọi người sẽ làm nhiều điều thế trong giấc ngủ của mình. Dường như là người đó dành các đêm của mình để tập thể dục hơn là ngủ. Đôi khi người đó đổi bên, đôi khi người đó vung tay cách này cách nọ, đôi khi người đó nhăn mặt, đôi khi người đó nhíu trán, đôi khi người đó thè lưỡi ra, đôi khi người đó nói lảm nhảm, hay người đó nghiến răng - người đó bận rộn cả đêm! Họ thấy những điều này khi phòng thí nghiệm ngủ được tạo ra, và họ rất đỗi ngạc nhiên.
Giấc ngủ của con người chưa bao giờ được nghiên cứu trước đây bởi vì ai định nghiên cứu giấc ngủ của ai? - mọi người đều đi ngủ! Chẳng có ai để quan sát một người liên tục làm cả đêm. Và đêm không phải là hiện tượng nhỏ: nếu con người sống sáu mươi năm, người đó sẽ ngủ trong hai mươi năm đó. Người đó sẽ phải dành hai mươi năm trong tất cả chấn động đó! Và mọi thứ mà người đó làm trong giấc ngủ của mình trong đêm là sự phản chiếu của ban ngày của người đó: đây là điều người đó phải đã làm trong ngày nữa, hay đã muốn làm nhưng bị kìm nén. Bây giờ trong đêm việc kìm nén của ban ngày liên tục trào ra bề mặt. Tất cả những điều này là vì sự đồng nhất bên trong của con người, niềm tin của người đó rằng mình là thân thể.
Khi Ananda được Phật khai tâm... Ananda là anh em con chú con bác của Phật. Ông ấy già hơn, và khi ông ấy được khai tâm ông ấy đã nói với Phật, “Tôi là anh họ chú, nhưng sau khai tâm tôi sẽ trở thành đệ tử của chú. Có vài điều tôi muốn làm sáng tỏ trước điều này. Ngay bây giờ, tôi là anh họ của chú, nhưng về sau tôi sẽ phải làm bất kì điều gì chú nói. Chúng ta thoả thuận, bởi vì ngay bây giờ chú là em họ của tôi cho nên tôi muốn chú thoả thuận ba điều. Một: dù chú đi đâu, tôi sẽ đi cùng chú. Chú sẽ không được phái tôi đi thuyết giảng chỗ này chỗ nọ. Tôi bao giờ cũng sẽ ở cùng chú. Chẳng thành vấn đề nơi chú ngủ, không ai khác được phép vào đó, nhưng tôi sẽ ngủ ở chỗ chú ngủ. Chú không thể nói với tôi rằng tôi phải đi và ngủ bên ngoài. Và nếu tôi muốn ai đó gặp chú, cho dù vào nửa đêm, tôi sẽ phải có quyền bỏ qua tất cả mọi qui tắc. Trong khi tôi vẫn còn là anh họ của chú, cho tôi sự chấp thuận của chú về những điều này. Chú là em họ của tôi và tôi ra lệnh cho chú làm điều này.”
Thế rồi Ananda trở thành đệ tử, nhưng Phật vẫn tuân theo ba mệnh lệnh đó cho tới cuối cuộc đời mình. Ananda sẽ ngủ gần Phật. Ngủ gần Phật trong hai mươi năm, một hôm ông ấy nói với Phật, “Tôi rất ngạc nhiên, bởi vì bất kì chỗ nào tay thầy hay chân thầy để khi thầy rơi vào giấc ngủ, chẳng cái gì chuyển động hay thay đổi cả đêm! Đây là kỉ luật cần phải theo trong đêm hay sao? Làm sao thầy xoay xở được điều đó? Tay thầy vẫn còn ở bất kì chỗ nào thầy để chúng, và bất kì chân nào vắt trên chân kia, tôi thấy rằng thầy thức dậy buổi sáng trong cùng tư thế. Tôi chủ định thức dậy nhiều lần trong nhiều đêm để kiểm tra, và tôi bao giờ cũng thấy rằng thầy đã không chuyển vị trí của mình. Thầy không chuyển chút nào.”
Phật nói, “Có thời ta hay đổi bên, nhưng giờ không còn nữa. Lí do mà ta phải đổi bên là bởi vì vẫn có sự đồng nhất nào đó với phần bên trái thân thể ta trong ta. Bây giờ thân thể liên tục nằm đó, và nếu ta phải đổi bên, ta làm điều đó ở bên trong ta. Sao phải chuyển động và quấy rối thân thể?”
Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng điều này là có thể. Điều đó sẽ dường như gian nan với bạn, bởi vì bạn không có khoảng cách chút nào với thân thể bạn. Điều sẽ dường như rất đáng ngạc nhiên với bạn là bạn có thể đổi bên và dầu vậy vẫn để thân còn như nó vậy. Nhưng khi bạn ngày một có khả năng kinh nghiệm tâm thức bạn như tách biệt khỏi thân thể, sẽ không có vấn đề gì trong nó, không có vấn đề chút nào - tâm thức có thể làm việc xung quanh. Tâm thức thậm chí có thể bước ra khỏi thân thể và thân thể có thể vẫn còn nằm như nó vậy. Tâm thức thậm chí có thể du hành xa khỏi thân thể và bỏ lại thân thể như nó vậy, cho nên không khó khăn gì cho thân thể không đổi bên khi bạn ngủ.
Chỉ có một vấn đề: bạn bị đồng nhất sâu với thân thể tới mức bạn thậm chí không thể quan niệm được rằng bạn có thể đổi bên trong giấc ngủ của mình mà không phải chuyển động thân thể. Làm sao điều này có thể được thực hiện? Không có khó khăn trong nó cho thân thể, khó khăn là với bạn. Bạn cho rằng chừng nào thân thể còn chưa quay, làm sao bạn có thể quay được? Bạn đã trở thành không là gì ngoài cái bóng của thân thể bạn. Bất kì điều gì thân thể muốn, bạn theo nó.
Lưu ý tới ba mức độ hiểu biết này: tôi là thân thể, tôi ở trong thân thể, tôi ở ngoài thân thể. Nếu ai đó muốn làm thuần khiết thân thể một cách toàn bộ, người đó sẽ phải thường xuyên nhớ rằng người đó ở ngoài thân thể, không chỉ bên trong mà bên ngoài, tách biệt, ở một khoảng cách.
... người... hội tụ tất cả các khả năng của mọi giác quan vào một điểm...
Chúng ta có các giác quan, và từng giác quan đều có chức năng và chiều hướng khác nhau. Mắt nhìn và tai nghe; mắt không thể nghe được và tai không thể nhìn được. Tay có thể chạm và mũi có thể ngửi, nhưng mũi không thể chạm và tay không thể ngửi được. Mỗi giác quan đều chuyên biệt và có chức năng đặc biệt. Bất kì ai muốn đi sâu vào thiền đều sẽ phải học hội tụ tất cả các giác quan.
Hội tụ các giác quan nghĩa là gì? Hội tụ nghĩa là, chẳng hạn, nếu tôi tìm kiếm trung tâm trái tim bên trong của mình, thế thì tôi sẽ dùng tất cả các giác quan cho điều đó. Khi tôi nhắm mắt lại tôi sẽ cố nhìn trung tâm đó, khi tôi đóng tai lại tôi sẽ cố nghe trung tâm đó, khi tôi quay cảm giác ngửi của mình vào bên trong tôi cũng sẽ thử ngửi trung tâm đó. Với bạn điều này dường như khó khăn bởi vì như con người hiện thế, con người là hướng theo mắt. Cho nên nếu tôi bảo bạn nhìn điều thiêng liêng, bạn sẽ không có khó khăn với việc dùng lời này bởi vì nhìn có liên quan tới mắt. Nhưng nếu tôi bảo bạn ngửi điều thiêng liêng, thế thì bạn sẽ cảm thấy chút ít không thoải mái bởi vì bạn chưa bao giờ nghĩ về điều thiêng liêng như cái gì đó bạn có thể ngửi được. Bạn nghĩ rằng điều thiêng liêng là cái gì đó chỉ có thể được nhìn bằng mắt.
Đây là lí do tại sao trong tất cả các ngôn ngữ của thế giới những từ được dùng để mô tả cho kinh nghiệm tối thượng đều là suy dẫn của từ mắt. Trong tiếng Hindi, chúng ta gọi nó là drashta, người thấy; nó được suy dẫn từ chiều hướng của mắt. Khi người ta thấy điều thiêng liêng điều đó được gọi là darshan, việc thấy; khi người ta đã thấy điều thiêng liêng người đó được gọi là drashta, người thấy. Trong tiếng Anh, từ được dùng cho người đã thấy điều thiêng liêng là “nhà tiên tri”. Khi người ta thấy điều thiêng liêng điều đó được gọi là linh ảnh, nhưng tất cả các từ này đều được gắn với mắt.
Toàn thể loài người đều hướng mắt, được gắn với mắt, nhưng mắt chỉ là một trong các giác quan. Người mù đôi khi bị rắc rối về cách người đó sẽ thấy điều thiêng liêng, bởi vì người đó không có mắt. Không, không có chướng ngại đâu. Hội tụ năng lực của tất cả các giác quan nghĩa là không cố dùng bất kì một giác quan nào, bởi vì dùng chỉ một giác quan nghĩa là cuộc hành trình có thể mất thời gian rất lâu. Cũng có thể là một giác quan đặc biệt trong bạn không thể đủ nhạy cảm thế: mắt của mọi người đều không nhạy cảm ngang nhau.
Khi hoạ sĩ nhìn vào cái gì đó, mắt người đó rất, rất nhạy cảm. Mọi thứ mà hoạ sĩ thấy bằng mắt mình, bạn nhìn vào dường như bạn mù. Bạn đi qua đoá hoa nào đó mọi ngày và bạn có thể chẳng thấy gì đặc biệt trong nó cả, nhưng khi hoạ sĩ nhìn vào nó ông ấy có thể bắt đầu nhảy múa điên cuồng vì niềm vui. Mặt trời cũng mọc trước mắt bạn đấy...
Van Gogh, một hoạ sĩ người Hà Lan, đang ngắm mặt trời lặn cùng người bạn. Van Gogh nói với người bạn này, “Nhìn mặt trời lặn kìa!”
Người bạn vô tình nói, “Vâng, nó đẹp thật,” và liên tục nói mãi. Thế rồi người bạn lay Van Gogh và nói, “Dường như anh chẳng nghe điều tôi đang nói.”
Van Gogh nói, “Khi mặt trời lặn đang xảy ra, mọi giác quan của tôi đều hoà hợp với nó. Ngay bây giờ tôi không thể nghe thấy gì khác, ngay bây giờ tôi đang nghe mặt trời lặn. Ngay bây giờ tôi không thể thấy gì khác được, tôi đang thấy mặt trời lặn. Ngay bây giờ, cho dù bạn có phun hương thơm khắp xung quanh, tôi cũng sẽ không ngửi thấy mùi đó bởi vì ngay bây giờ tôi đang ngửi mặt trời lặn. Ngay bây giờ toàn thể bản thể tôi đã đi tới mặt trời lặn.”
Hội tụ mọi khả năng của tất cả các giác quan nghĩa là thực nghiệm nội tâm này trong thiền mà chúng ta đang thực hiện ở đây phải được thực hiện bằng tất cả các giác quan của bạn tham gia vào đó, không chỉ một giác quan. Hướng phần bên trong của tất cả các giác quan của bạn tới việc thiền.
Và từng giác quan đều có hai phần: phần này là phần bên ngoài, phần của mắt qua đó chúng ta có thể nhìn ra bên ngoài; và phần kia là phần qua đó chúng ta có thể nhìn bên trong. Với phần này của tai chúng ta có thể nghe cái bên ngoài và với phần kia chúng ta có thể nghe thấy cái bên trong. Yoga đã phân chia từng giác quan thành hai phần: phần này nó gọi là giác quan bên trong và phần kia nó gọi là giác quan bên ngoài. Và có cùng số các giác quan bên trong như có các giác quan bên ngoài. Hội tụ tất cả các giác quan bên trong vào trung tâm đồng thời được gọi là hội tụ các giác quan. Và khi tất cả các giác quan này được hội tụ lại, kết quả là rất sâu sắc và sâu lắng.
Điều đó tạo ra khác biệt trong ít nhất hai cách. Một cách là ở chỗ bạn có thể không nhận biết giác quan nào là mạnh nhất. Khi bạn tổ hợp chúng lại với nhau, thế thì bạn lập tức bắt đầu có kinh nghiệm qua giác quan mạnh nhất của mình. Có thể là ai đó có mắt kém và khía cạnh bên trong cũng kém, có thể liên tục ngồi và cố nhìn ánh sáng bên trong, nhưng người đó sẽ không có khả năng nhìn được gì.
Mọi người tới tôi và nói, “Chúng tôi không thấy ánh sáng nào bên trong cả, chỉ toàn bóng tối.” Lí do là ở chỗ con mắt bên trong của họ không vận hành tốt cho lắm. Để nó đấy - bạn thu được gì với việc nhìn? thử nghe nó xem sao! Đó là lí do tại sao mật chú rất có ích cho những người có thính giác bên trong nổi trội. Với những người có thị giác bên trong nổi trội, mật chú tuyệt đối vô dụng. Người này có tụng mật chú bao nhiêu cũng chẳng thành vấn đề, chẳng cái gì sẽ xảy ra bởi vì mật chú không có mối nối với mắt. Nhưng nếu hướng bên trong của tai bạn là mạnh, thế thì bạn sẽ cảm thấy mối quan hệ ngay lập tức với mật chú. Cho nên những người đạt tới kinh nghiệm tối thượng qua mật chú đang chứng tỏ rằng thính giác của họ là nổi trội. Nó cũng có thể xảy ra qua khứu giác.
Mohammed rất quan tâm tới hương thơm. Đây là lí do tại sao người Mô ha mét giáo vẫn liên tục bắt chước ông ấy bằng việc dùng hương thơm. Không, chẳng cái gì sẽ xảy ra bằng việc dùng tất cả những hương này, mặc dầu việc nhận ra điều thiêng liêng tới với Mohammed là tới qua trung gian của mùi vị. Việc nghe của Mohammed chắc phải kém, đó là lí do tại sao ông ấy chẳng bao giờ tìm thấy nghĩa nào trong âm nhạc. Thậm chí ngày nay việc chơi nhạc vẫn còn bị cấm ở trong hay ở trước đền thờ hồi giáo. Mohammed không quan tâm tới âm nhạc chút nào. Không có gì sai với sự kiện là ông ấy không quan tâm tới âm nhạc, nhưng thế rồi âm nhạc bị cấm. Và đây là nguy hiểm: nếu bạn làm ra qui tắc phổ biến dựa trên kinh nghiệm cá nhân, có nguy hiểm. Với người này điều đó có thể xảy ra qua ngửi, với ai đó khác nó có thể xảy ra qua âm nhạc, với người khác nó có thể xảy ra qua cái nhìn và với ai đó khác nó có thể xảy ra qua mầu sắc. Điều đó không thể được dự đoán trước. Từng cá nhân đều là một vũ trụ duy nhất cho bản thân mình, từng cá nhân. Cho nên tổ hợp tất cả các giác quan lại đi.
Đây là lí do tại sao yoga nói rằng bạn không nên nhấn mạnh vào bất kì giác quan nào. Ai biết giác quan nào của bạn sẽ được kích hoạt và được tăng cường? Ai biết giác quan nào bạn có thể đã dùng nhiều nhất trong nhiều, nhiều kiếp sống? Ai biết một trong các giác quan bên trong nào của bạn sẽ, với lí do không biết nào đó, sẵn sàng cho bước nhảy? Do đó bạn không cần bận tâm về nó và bạn không cần chọn lựa - lấy cả nhóm tất cả các giác quan cùng nhau.
...người... hội tụ tất cả các khả năng của mọi giác quan vào một điểm, người đã cúi mình dưới thầy mình trong tin cậy và sùng kính...
Tôi đã nói rất nhiều về niềm tin và sùng kính, cho nên chúng ta sẽ không thảo luận về chúng bây giờ. “Người đã cúi mình dưới thầy trong tin cậy và sùng kính” - vài điều chắc chắn cần được hiểu về điều này. Ở phương Tây, người ta thấy rất khó hiểu từ guru; phương Tây không có từ nào như từ guru. Không ngôn ngữ phương Tây nào có từ nào tương đương với guru bởi vì chính khái niệm về guru không tồn tại ở đó. Họ có các từ như thầy giáo và thầy, nhưng những từ này chẳng liên quan gì tới từ guru.
Nghĩa đúng của từ guru là... Chúng ta không có ý tưởng gì về điều thiêng liêng, nhưng nếu qua bất kì chiều nào, hay qua bất kì người nào - từ bất kì đâu - cho dù một thoáng nhìn về điều thiêng liêng có thể xảy ra, thế thì thực thể đó là guru. Guru là bất kì ai nhận được thoáng nhìn đầu tiên tới từ điều thiêng liêng. Bất kì ai - chẳng thành vấn đề đó là ai; có thể là ngay cả bản thân người đó cũng có thể không nhận biết về điều đó. Bản thân người đó có thể không nhận biết về điều đó, nhưng người mà qua người này ai đó đã nhận được thoáng nhìn đầu tiên về điều thiêng liêng đều là guru của người đó. Toàn thể nghĩa của guru là thực thể qua đó người ta trở nên nhận biết, lần đầu tiên, rằng có thể có hiện tượng như điều thiêng liêng trong thế giới này.
Cho nên guru không phải là thầy giáo, guru là người đánh thức bạn. Guru không phải là ai đó giải thích hay ai đó nói, guru là người mà qua người đó, điều đó đã được khải lộ ra cho bạn. Cho dù tự bản thân người đó có thể không nhận biết về điều đó, người đó là ai đó mà qua sự tồn tại của người đó bạn cảm thấy cái gì đó, bạn nhận ra cái gì đó, qua chính sự tồn tại của người đó bạn kinh nghiệm hương thơm nào đó. Bạn có thoáng nhìn, cái gì đó làm bạn xúc động. Và từ ngày đó trở đi toàn thể cái nhìn về cuộc sống của bạn và toàn thể cách tiếp cận của bạn tới cuộc sống đã thay đổi.
Sariputta tới Phật và đạt tới chứng ngộ. Thế rồi ông ấy được phái đi xa để thuyết giảng. Bây giờ Sariputta đã trở thành phật theo quyền riêng của ông ấy, nhưng ông ấy giữ cuốn nhật kí chỉ ra nơi đâu, thành phố hay làng nào Phật có thể đang ở vào bất kì thời gian cho trước nào. Ông ấy cũng có tấm bản đồ để cho ông ấy có thể thấy Phật có thể đang ở hướng nào. Mọi sáng và tối ông ấy sẽ cúi mình theo hướng đó và đặt đầu mình dưới chân Phật và đôi khi ở xa cả nghìn dặm.
Đệ tử của ông ấy hỏi ông ấy, “Thầy làm gì thế ạ? Thầy cúi mình theo ai vậy? Chúng tôi chẳng thấy ai ở đây cả.”
Sariputta sẽ đáp, “Ngày xưa, ta cũng chẳng thấy gì cả. Nhưng thế rồi trong con người này ta thoáng thấy điều thiêng liêng ngay lần đầu tiên, và ta liên tục cúi mình dưới ông ấy mãi.”
Các đệ tử liên tục khăng khăng, “Nhưng bây giờ bản thân thầy đã chứng ngộ!”
Sariputta sẽ nói, “Chính trong con người này mà lần đầu tiên ta đã có thoáng nhìn về trạng thái ta đang là hôm nay. Và ta biết rằng nếu ta mà không có thoáng nhìn đó, ta có thể đã không là người ta đang là hôm nay. Thế thì ta chỉ là hạt mầm, và trong Phật ta đã thấy toàn thể cây. Và lần đầu tiên khao khát sâu sắc tràn đầy bản thể ta - làm sao ta cũng có thể trở thành cây?”
Nghĩa của lời kinh này mà nói “...người đã cúi mình dưới thầy mình” là ở chỗ bạn cúi mình theo bất kì ai mà qua người đó bạn có thoáng nhìn đầu tiên về điều thiêng liêng, qua người đó mà điều thiêng liêng trở thành có nghĩa; qua người đó mà bạn đi tới chú ý tới sự tồn tại của điều thiêng liêng lần đầu tiên. Việc hồi tưởng này là sống còn cho người ta đi vào tâm của mình. Ý nghĩa của nó là ở chỗ thầy là lời tuyên bố về tương lai của bạn. Thầy là lời tuyên bố về điều bạn có thể là: điều bạn có thể là, thầy là cái đó ngay bây giờ. Điều sẽ xảy ra cho bạn ngày mai là hôm nay của thầy. Tương lai của bạn là hiện tại của thầy. Bạn không có ý tưởng nào về mặt của tương lai riêng của bạn, và việc hồi tưởng về thầy sẽ cho chiều hướng của tương lai của bạn, nó sẽ tạo ra kênh cho sinh lực của bạn tuôn chảy. Toàn thể lí do cho việc hồi tưởng tới thầy là ở chỗ thế thì toàn thể sinh lực của bạn sẽ tuôn chảy theo một hướng.
Khi Sariputta hồi tưởng tới Phật, cúi mình dưới Phật, đó là cái gì đó mà ông ấy làm trước khi ông ấy thiền. Trong điệu bộ này, toàn thể quá trình thiền đang được mô tả. Việc hồi tưởng này phải có đó ngay trước khi đi vào thiền bởi vì năng lượng sẽ nảy sinh từ thiền vậy sẽ tuôn chảy theo đường của việc hồi tưởng này. Hạt mầm sẽ phá mở ra và việc đâm chồi sẽ phát triển theo những đường của cây đó.
... người đã cúi mình dưới thầy mình trong tin cậy và sùng kính, đã xua tan mọi ô uế của tâm và đi ra ngoài nỗi buồn và đau khổ, suy tư thấu đáo về bản chất của sùng kính.
“... người đã xua tan mọi ô uế của tâm.” Chúng ta đã loại bỏ cái không thuần khiết của thân thể, chúng ta cũng nên loại bỏ cái không thuần khiết của tâm. Chúng ta cũng nên làm tâm thuần khiết. Cái không thuần khiết của tâm là gì?
Phật đã nói tới bốn brahma-vihar, phương pháp để loại bỏ cái không thuần khiết của tâm. Các tôn giáo khác nhau đã dùng các từ khác nhau, nhưng ý tưởng này là rất cơ bản và gần như là một. Cái không thuần khiết của tâm là gì?
Phật đã nói, “Rót đầy tâm ông bằng cảm giác từ bi và thế thì bạo hành, giận dữ, khuynh hướng làm tổn thương người khác, ghen tị, sẽ bị đuổi đi - chúng tất cả đều là những cái không thuần khiết.” Cho nên Phật hay nói với các khất sĩ của mình, “Trước hết, đi vào thiền, cảm thấy từ bi vô điều kiện hướng tới toàn thế giới.”
Có lần một điều thú vị đã xảy ra. Phật đang ở trong một làng và ông ấy đã khai tâm cho một người vào thiền. Ông ấy nói với người đó, “Nguyên tắc đầu tiên của từ bi là ở chỗ khi ông ngồi thiền, bắt đầu bằng việc cảm thấy từ bi với toàn thế giới.”
Người này nói, “Toàn thế giới thì được, nhưng xin trừ ra lão hàng xóm của tôi khỏi chỗ đó. Rất khó cảm thấy từ bi với hắn ta. Hắn ta rất ác và hắn ta đã hành hạ tôi nhiều lắm. Chúng tôi có vụ kiện còn dang dở, chúng tôi đánh nhau, hắn đã phái bọn côn đồ theo tôi và tôi đã phải làm như vậy với hắn. Tôi không có vấn đề chút nào về việc có từ bi với toàn thế giới - chỉ trừ mỗi lão hàng xóm này. Loại trừ mỗi lão hàng xóm đó có thực sự gây ra vấn đề gì trong thiền của tôi không?”
Phật nói, “Quên chuyện toàn thế giới đi. Trong trường hợp của ông, cảm thấy từ bi với ông hàng xóm đó sẽ là đủ bởi vì cái không thuần khiết đang chất đầy tâm ông chính là về người hàng xóm đó. Đừng bận tâm tới phần còn lại của thế giới.”
Từ bi sẽ làm tan biến cái không thuần khiết tích luỹ trong tâm trí và tâm bạn.
Điều thứ hai Phật nói tới là tính bằng hữu, bằng hữu hướng tới toàn thế giới - không chỉ hướng tới con người mà hướng tới mọi vật.
Điều thứ ba Phật nói tới là sự hân hoan, cảm giác vui sướng và hoan hỉ. Nhớ rằng khi chúng ta hân hoan, trong những khoảnh khắc đó, không ô uế nào chảy từ chúng ta ra thế giới. Khi chúng ta buồn và khổ, chúng ta ngay lập tức nghĩ tới việc làm cho toàn thế giới khổ. Người buồn muốn thấy toàn thế giới buồn bởi vì đó là điều làm cho người đó hạnh phúc. Người đó không có hạnh phúc khác. Chừng nào người đó còn chưa thể làm cho bạn khổ hơn người đó đang khổ, người đó sẽ không có khả năng cảm thấy hạnh phúc. Khi người buồn thấy nỗi buồn khắp xung quanh mình, người đó thấy dễ chịu.
Cho nên Phật đã nói rằng phương pháp thứ ba là hân hoan: thấy dễ chịu với hân hoan, rót đầy tâm bạn bằng hân hoan.
Phương pháp thứ tư Phật nói tới là vô tư, không thành vấn đề cái gì xảy ra. Dù cái gì đó tốt hay xấu xảy ra, dù cái gì đó mang tới kết quả hay không, dù thiền có xảy ra hay không, dù việc tự hiểu ra có xảy ra hay không; thất bại tới, thành công tới, tốt, xấu - bất kì cái gì tới - người ta vẫn còn vô tư. Người ta vẫn còn định tâm và cân bằng giữa cả hai, người ta không chọn giữa hai.
Phật đã nói về bốn phương pháp này. Trong hầu hết các tôn giáo một số điều tương tự cũng được nói, nhưng Phật đã thâu tóm điều bản chất của mọi tôn giáo trong bốn phương pháp này. Những điều này sẽ loại bỏ đi cái không thuần khiết của tâm. Sau điều này, thiền sẽ là điều dễ dàng, tự nhiên.
... người đã... đi ra ngoài nỗi buồn và đau khổ, suy tư thấu đáo về bản chất của sùng kính.
Tôi đã nói về điều tinh tuý của sùng kính. Khi thân thể được làm thuần khiết, khi có tư thế tự nhiên và vị trí đơn độc, khi tất cả những không thuần khiết của tâm đã bị loại bỏ - thế thì cảm giác này trong tâm của yêu và thân thiết, của sự là một với toàn thể sự tồn tại, là điều sùng kính là gì. Nhận biết rằng bạn là một với cái toàn thể, với toàn thể sự tồn tại trong khoảnh khắc này, là thiền.
Bây giờ tôi sẽ đọc lại toàn thể lời kinh này cho bạn:
Người muốn biết thực tại tối thượng, người sống trong kỉ luật của sannyas, đã làm tinh khiết thân thể, người ngồi trong tư thế sukhasana - tư thế thân thể thoải mái - ở chỗ đơn độc, giữ cho đầu, cổ và xương sống thẳng hàng và dựng đứng, hội tụ tất cả các khả năng của mọi giác quan vào một điểm, người đã cúi mình dưới thầy mình trong tin cậy và sùng kính, đã xua tan mọi ô uế của tâm và đi ra ngoài nỗi buồn và đau khổ, suy tư thấu đáo về bản chất của sùng kính.
Đủ rồi! Bây giờ chúng ta vào thiền.
Hai điều: những người muốn làm nó một cách toàn bộ, sôi động, lại gần tôi ở cả ba phía, còn những người muốn làm nó chậm chậm và nhẹ nhàng thì lùi lại sau.

0 Đánh giá

Ads Belove Post