Read more
Yoga: Alpha và Omega (Tập 6)
Bài giảng về Kinh Yoga của Patanjali
Chương 8. Bên
ngoài nhịp của tâm trí tới bản thể
Thỉnh thoảng ở bài giảng của thầy tôi không
thể nào giữ được mắt mở hay tập trung, và cứ rơi đi đâu đó và quay lại với cú
giật mình. Không có kí ức về nơi tôi đã ở. Tôi đang đi đâu, hay chỉ rơi vào giấc
ngủ?
Tâm trí vận hành qua các sóng
điện rất tinh tế. Cơ chế đó phải được hiểu. Bây giờ các nhà nghiên cứu nói rằng
tâm trí vận hành trong bốn trạng thái. Tâm trí thức bình thường vận hành theo
mười tám tới ba mươi chu kì một giây - đây là trạng thái "beta" của
tâm trí. Ngay bây giờ bạn đang trong trạng thái đó, ngay khi thức, làm các thứ
của bạn.
Sâu hơn điều đó là nhịp
"alpha." Thỉnh thoảng, khi bạn không tích cực, nhưng thụ động - chỉ
thảnh thơi trên bãi biển, không làm gì cả, nghe nhạc, hay ở sâu trong lời cầu
nguyện hay trong thiền - thế thì hoạt động của tâm trí được hạ thấp: từ mười
tám tới ba mươi chu kì một giây nó trở thành quãng mười bốn tới mười tám chu kì
một giây. Bạn nhận biết, nhưng không rất tỉnh táo. Bạn thức, nhưng thụ động. Một
loại thảnh thơi sâu bao quanh bạn.
Mọi thiền nhân đều rơi vào
trong trạng thái thứ hai này, nhịp alpha, khi họ thiền hay cầu nguyện. Nghe nhạc
điều đó cũng có thể xảy ra. Nhìn lên cây, sự mở rộng của màu xanh lục, nó có thể
xảy ra. Không làm gì đặc biệt, chỉ ngồi im lặng, nó có thể xảy ra. Và một khi bạn
biết cái mẹo của nó, bạn có thể làm chậm hoạt động của tâm trí; thế thì ý nghĩ
không chen lấn. Chúng di chuyển, chúng ở đó, nhưng chúng di chuyển với bước rất
chậm, cứ dường như mây nổi trên trời - thực ra, chẳng đi đâu cả, chỉ nổi. Trạng
thái thứ hai này, alpha, là rất có giá trị.
Dưới trạng thái thứ hai có trạng
thái thứ ba; hoạt động rơi xuống thậm chí còn thấp hơn. Trạng thái đó được gọi
là "theta": từ tám tới mười bốn chu kì một giây. Đây là trạng thái bạn
trải qua trong đêm khi bạn rơi vào giấc ngủ, ngủ lơ mơ. Khi bạn uống rượu bạn
trải qua việc ngủ lơ mơ đó. Quan sát người say đang bước: anh ta đang ở trong
trạng thái thứ ba đấy. Anh ta bước đi mà không nhận biết. Anh ta đang đi đâu,
anh ta không biết. Anh ta làm gì... thân thể cứ vận hành như robot. Hoạt động
tâm trí đã chậm lại nhiều tới mức nó gần trên bờ của rơi vào giấc ngủ.
Trong thiền rất sâu điều này
cũng sẽ xảy ra - bạn sẽ rơi từ alpha vào theta. Nhưng nó xảy ra chỉ trong trạng
thái rất sâu. Thiền nhân thường không chạm tới nó. Khi bạn bắt đầu chạm tới trạng
thái thứ ba này bạn sẽ cảm thấy rất phúc lạc.
Và mọi người say đều cố gắng đạt
tới phúc lạc này, nhưng họ bỏ lỡ; bởi vì phúc lạc là có thể chỉ nếu bạn đi vào
trong trạng thái thứ ba này đầy tỉnh táo - thụ động, nhưng tỉnh táo. Người say
đạt tới trong nó, nhưng người đó vô ý thức; đến lúc người đó đạt tới người đó
vô ý thức. Trạng thái này có đó nhưng người đó không thể tận hưởng được nó, người
đó không thể vui sướng trong nó, người đó không thể trưởng thành qua nó. Hấp dẫn
trên khắp thế giới của đủ mọi loại chất say là bởi vì hấp dẫn của theta. Nhưng
bạn đã chọn phương tiện sai nếu bạn cố đạt tới nó qua hoá chất. Người ta phải đạt
tới nó chỉ bằng việc làm chậm lại hoạt động của tâm trí và vẫn còn tỉnh táo đầy
đủ.
Thế rồi có trạng thái thứ tư;
nó có tên là "delta." Hoạt động vẫn rơi xuống thấp hơn: từ không tới
bốn chu kì một giây. Tâm trí gần như không vận hành. Có những khoảnh khắc khi
nó chạm tới điểm không, tuyệt đối tĩnh lặng. Đây là chỗ bạn đi vào trong giấc
ngủ say, khi ngay cả mơ cũng đã dừng lại; và đây là điều người Hindus,
Patanjali, Phật tử, đã gọi là samadhi. Patanjali, thực ra, định nghĩa samadhi
là giấc ngủ say có nhận biết - chỉ với một điều kiện: rằng nhận biết phải có
đó.
Ở phương Tây, nhiều nghiên cứu
đã được tiến hành về sau về các trạng thái thứ tư này. Họ nghĩ không thể nào nhận
biết được trong trạng thái thứ tư, bởi vì họ nghĩ nó là mâu thuẫn - nhận biết
và ngủ say. Nó không phải vậy. Và một người, một người yogi rất ngoại lệ, đã chứng
minh điều đó bây giờ một cách khoa học. Tên người đó là Swami Ram. Năm 1970, ở
một phòng thí nghiệm Mĩ, ở viện Menninger, ông ấy đã nói với các nhà nghiên cứu
rằng ông ấy sẽ đi vào trong trạng thái thứ tư của tâm trí một cách có chủ tâm.
Họ nói, "Điều đó là không thể được, bởi vì trạng thái thứ tư tới chỉ khi
ông ngủ say và ý chí không thể vận hành và ông không nhận biết." Nhưng
swami này nói, "Tôi sẽ làm điều đó." Các nhà nghiên cứu không sẵn
lòng tin, họ nghi ngờ, nhưng họ đã thử.
Swami này bắt đầu thiền. Dần dần,
trong vòng vài phút, ông ấy gần như ngủ. Bản ghi EEG theo dõi dấu vết sóng não
của ông ấy chỉ ra rằng ông ấy đã trong trạng thái thứ tư, hoạt động tâm trí đã
gần như dừng lại. Dầu vậy, các nhà nghiên cứu đã không tin bởi vì, ông ấy có thể
rơi vào giấc ngủ, đó không phải là vấn đề: vấn đề là liệu ông ấy có nhận biết
không. Thế rồi swami này quay lại từ thiền, và ông ấy tường trình lại tất cả những
đối thoại đã diễn ra quanh ông ấy - còn rõ ràng hơn những người đã tỉnh táo đầy
đủ.
Lần đầu tiên trong một phòng
thí nghiệm khoa học, những câu nói nổi tiếng của Krishna được chứng minh.
Krishna nói trong Gita, "Ya nisha sarva bhutayam tasyam jagrati
samyami" - "Điều là giấc ngủ say cho tất cả, thậm chí ở đó người yogi
vẫn thức." Lần đầu tiên điều đó đã được chứng minh như một lí thuyết khoa
học. Có thể ngủ say và nhận biết, bởi vì ngủ xảy ra trong thân thể, ngủ xảy ra
trong tâm trí, nhưng linh hồn chứng kiến không bao giờ ngủ. Một khi bạn đã trở
nên không bị đồng nhất với cơ chế thân-tâm, một khi bạn đã trở nên có khả năng
quan sát điều diễn ra trong thân thể, trong tâm trí, bạn không thể rơi vào giấc
ngủ được: thân thể sẽ đi ngủ, bạn sẽ vẫn còn tỉnh táo. Đâu đó sâu bên trong bạn
một trung tâm sẽ vẫn còn nhận biết hoàn hảo.
Bây giờ, câu hỏi: "Thỉnh
thoảng ở bài giảng của thầy tôi không thể nào giữ được mắt mở..." Đừng cố
giữ cho chúng mở. Nếu bạn rơi vào giấc ngủ trong nhịp điệu sâu sắc, cho phép nó
đi, bởi vì khi bạn nghe tôi, nếu bạn cố tập trung, bạn sẽ vẫn còn trong trạng
thái thứ nhất, beta, bởi vì tâm trí phải vận hành. Đừng bận tâm. Điều tôi đang
nói không quan trọng bằng việc nhận ra cái đang xảy ra cho bạn. Thực ra bất kì
cái gì tôi đang nói đều không là gì ngoài chuẩn bị cho bạn rơi vào sâu hơn
trong trạng thái tâm trí bên trong của bạn. Cho nên nếu bạn bỏ lỡ cái gì đó đừng
bận tâm - bạn có thể nghe băng về sau. Và cho dù bạn không nghe cũng chẳng
thành vấn đề gì.
Nếu mắt nhắm, cho phép chúng.
Điều duy nhất cần nhớ là: tỉnh táo. Cho phép mắt nhắm đi... Thực ra trở nên tỉnh
táo hơn đi, bởi vì bạn càng đi sâu hơn vào trong tâm trí, càng tỉnh táo hơn sẽ
được cần tới. Bạn đang chìm sâu vào trong tâm thức. Bạn có thể rơi vào giấc ngủ:
thế thì bạn đã bỏ lỡ bài giảng và bạn đã bỏ lỡ trạng thái bên trong nữa. Thế
thì thật vô tích sự mà ở đây. "Thỉnh thoảng ở bài giảng của thầy tôi không
thể nào giữ được mắt mở..." Không cần đâu. Nhắm mắt lại đi. Chỉ vẫn còn tỉnh
táo bên trong - trở nên tỉnh táo hơn.
"... và cứ rơi đi đâu đó
và quay lại với cú giật mình." Chỗ đâu đó ấy là trạng thái thứ ba, theta.
Nếu bạn rơi vào trạng thái thứ hai, alpha, bạn sẽ biết nơi bạn đã đi và sẽ
không có giật mình. Nhẹ nhàng người ta có thể chuyển từ trạng thái thứ nhất
sang trạng thái thứ hai, từ beta sang alpha, rất nhẹ nhàng, bởi vì khác biệt chỉ
ở tính hoạt động và tính thụ động - bạn vẫn còn tỉnh táo. Nhưng khi bạn chuyển
từ trạng thái thứ hai sang thứ ba, thế thì khác biệt là rất sâu sắc. Bây giờ bạn
đang di chuyển, bình thường, từ thức sang ngủ. Thế rồi bạn quay lại bạn sẽ tới
với cú giật mình, và ý thức bị mất - đó là lí do tại sao bạn không biết bạn đã ở
đâu.
"Không có kí ức về nơi tôi
đã ở." Nếu như bạn chỉ đơn giản rơi vào giấc ngủ bạn chắc sẽ có kí ức. Nếu
bạn mơ, bạn chắc đã có kí ức về giấc mơ. Nếu bạn không mơ, bạn chắc đã có kí ức
rằng bạn rơi vào giấc ngủ và không có mơ. Hoặc, một cách khẳng định, bạn sẽ nhớ
giấc mơ, hay một cách phủ định, bạn sẽ nhớ không có mơ và giấc ngủ là sâu;
nhưng bạn sẽ nhớ liệu nó có là giấc ngủ hay không.
Đó là cách vào buổi sáng bạn nhớ
rằng trong đêm có nhiều giấc mơ thế, hay vào một ngày nào đó bạn nói, "Tôi
đã ngủ rất say; không có mơ." Đây là cả hai kí ức - một khẳng định, một phủ
định. Nếu mơ xảy ra sẽ có kí ức khẳng định - cái gì đó đã xảy ra, hoạt động nào
đó đang diễn ra. Nếu không có mơ bạn sẽ chỉ có việc hồi tưởng an bình về cái
không, rằng không cái gì đã xảy ra. Nhưng điều này bạn sẽ nhớ: rằng không cái
gì đã xảy ra và không mơ nào thoáng qua tâm trí tôi và giấc ngủ là thực sự say,
rất say, không một gợn sóng. Nhưng bạn sẽ nhớ và bạn sẽ nói, "Tôi đã rất
phúc lạc."
Nhưng nếu bạn không rơi vào giấc
ngủ mà vào trong trạng thái thiền - chúng là tương tự, gần tương tự - thì bạn sẽ
không có khả năng nhớ được cái gì. Bởi vì khi bạn rơi vào trong trạng thái thiền,
theta, hay thỉnh thoảng bạn có thể đi vào trong trạng thái thứ tư nữa, delta,
thế thì sẽ không có kí ức chút nào bởi vì bạn đi đâu đó mà không phải là một phần
của tâm trí, đâu đó nơi kí ức không vận hành, đâu đó bên ngoài đường mòn. Bạn
không trên đường siêu xa lộ, bạn đang đi trong rừng của bản thể vô thức của bạn:
không được thăm dò, không bản đồ, suy nghĩ không vận hành - không ý tưởng nào
có thể áp dụng được lên nó. Thế thì bạn sẽ quay lại với cái giật mình dường như
bạn đã bị lạc. Bạn sẽ quay lại với cái giật mình với đường siêu xa lộ lần nữa,
nơi cột mốc tồn tại và mọi thứ là gọn gàng và bản đồ tồn tại - và bạn có thể hiểu
bạn đang ở đâu.
Bạn không chỉ rơi vào giấc ngủ
đâu; bằng không bạn sẽ biết, bởi vì bạn biết giấc ngủ. Trong nhiều kiếp bạn đã
từng ngủ rồi; bạn quá quen với hiện tượng này rồi. Nếu bạn sống sáu mươi năm,
hai mươi năm trôi qua trong giấc ngủ. Nó không phải là hiện tượng bình thường
đâu. Cuộc sống sáu mươi năm, hai mươi năm trôi qua trong giấc ngủ: mọi ngày, một
phần ba thời gian của bạn là thời gian ngủ. Bạn biết điều đó; bạn biết rõ điều
đó. Và đây không phải là chỉ cho một kiếp sống - trong hàng triệu kiếp sống bạn
đã từng ngủ, một phần ba của mọi kiếp. Thực ra không có hoạt động khác chiếm
nhiều thời gian thế. Không một hoạt động nào khác chiếm nhiều thời gian thế. Bạn
không yêu cả tám giờ cũng không ăn cả tám giờ cũng không thiền cả tám giờ. Ngủ
là điều có ý nghĩa nhất. Làm sao bạn có thể vô nhận biết về nó được? Có thể nhận
biết mờ mờ, nhưng bạn có nhận biết chứ: kí ức sẽ vận hành.
Nhưng bạn đang rơi ra khỏi đường
mòn, nơi bạn chưa bao giờ hiện hữu. Đó là lí do tại sao bạn tới với cú giật
mình. Cái gì đó không biết chạm vào bản thể của bạn. Đó là lí do tại sao bạn
không thể quyết định được "liệu tôi đang ngủ say hay chỉ mới ngủ." Hạnh
phúc đi. Nếu bạn có thể quyết định được, thế thì nó là ngủ; nếu bạn có thể nhận
ra được, thế thì nó là ngủ. Nếu bạn không thể nhận ra được, thế thì cái gì đó từ
cõi bên kia đang thấm vào bạn và bạn đang thấm vào cõi bên kia. Hạnh phúc đi.
Vui sướng trong nó đi, và cho phép nó. Một ngày nào đó nó trở thành có thể, khi
bạn cứ đi mãi lặp đi lặp lại vào cái không biết, thế thì bạn trở nên quen thuộc
với lãnh thổ này. Thế thì có thể không có bản đồ thông dụng, nhưng bạn có bản đồ
riêng tư của bạn về nó. Ít nhất bạn biết bạn đang đi đâu.
Cho nên điều duy nhất cần được
làm là: khi bạn nhắm mắt lại thì trở nên tỉnh táo hơn, bởi vì nhiều tỉnh táo sẽ
được cần. Trong bóng tối sâu sắc nhiều ánh sáng sẽ được cần. Trở nên tỉnh táo
đi, và khi bạn bắt đầu rơi vào trong chỗ nào đó - cái không biết - cố gắng giữ
tỉnh táo. Dần dần, người ta học được cái mẹo của nó. Và thế thì mọi đêm khi bạn
rơi vào giấc ngủ, lại thử nó - chỉ để cho nó thực hành. Khi bạn bắt đầu cảm thấy
buồn ngủ, bên trong vẫn còn tỉnh táo và tiếp tục nhìn điều đang xảy ra. Một
ngày nào đó bạn sẽ thấy: buồn ngủ đã tới, giấc ngủ đã đi vào, và tỉnh táo vẫn
có đó. Ngày đó là ngày đẹp nhất của bất kì kiếp sống nào. Khi bạn có thể vẫn
còn tỉnh táo và đi vào trong giấc ngủ say bạn đã đi vào trong trạng thái thứ
tư, delta. Đó là trung tâm sâu nhất của bản thể bạn.
Tất nhiên người ta phải kiếm
nó, người ta phải học nó, người ta phải có khả năng về nó. Nó không xảy ra, một
cách bình thường đâu. Nó không phải là trạng thái bình thường của tâm trí; nó
là chính trạng thái phi thường của tâm trí. Đó là lí do tại sao Krishna đã
tuyên bố về nó từ năm nghìn năm trước, và trong năm nghìn năm đã không tồn tại
bằng chứng khoa học cho nó - nó dường như chỉ là một lí thuyết triết học:
"Ya nisha sarva bhutayam tasyam jagrati samyami." Sau năm nghìn năm,
bây giờ, vài bằng chứng khoa học đang nảy sinh. Bạn cũng có thể đi vào trong
nó, và khi nó trở thành bằng chứng khoa học cho hiểu biết riêng của bạn, nó là
khải lộ.
Câu hỏi thứ hai
Thầy đã nói rằng yoga của Patanjali là hệ
thống đầy đủ. Vậy mà dường như chẳng có chỗ nào ông ấy nói về yoga của việc
hôn. Thầy có thể giải thích việc này được không?
Với điều đó, Patanjali sẽ phải
được sinh ra như một người Mĩ. Chỉ thế thì ông ấy mới có thể viết yoga của việc
hôn. Những điều ngu xuẩn như vậy tồn tại chỉ ở Mĩ thôi, không ở đâu khác: yoga
của dục, yoga của hôn, yoga của bất kì cái gì - nấu ăn. Nhưng bạn sẽ phải đợi một
chút - kẻ ngu nào đó nhất định làm.
Câu hỏi thứ ba
Làm sao người ta có thể toàn bộ vậy mà
không cực đoan trong mọi điều người ta kinh nghiệm?
Đừng lo nghĩ. Cứ toàn bộ đi, và
bạn sẽ không bao giờ cực đoan cả. Bình thường, nếu bạn nghĩ về nó, dường như là
bạn trở thành toàn bộ thì bạn sẽ trở thành cực đoan - bởi vì bạn không biết
tính toàn bộ là gì. Tính toàn bộ bao giờ cũng xảy ra ở giữa. Nó là hiện tượng của
chỗ giữa, bởi vì tính toàn bộ là cân bằng. Ở cực đoan nó không bao giờ xảy ra; ở
cực đoan bạn không bao giờ có thể là toàn bộ. Cố hiểu điều đó đi.
Bạn yêu ai đó: bạn có thể cực
đoan trong yêu, nhưng điều đó sẽ không là tính toàn bộ vì yêu có phần khác của
nó, đó là ghét. Cho nên bạn có thể chuyển sang một cực đoan, đó là yêu; nó sẽ
là một cực đoan. Thỉnh thoảng bạn có thể ghét cùng người đó. Bạn có thể chuyển
sang cực đoan khác và bạn có thể ghét hoàn toàn - hay với bạn dường như là bạn
đang trong ghét hoàn toàn - nhưng điều đó nữa cũng là một phần. Hiện tượng toàn
thể là yêu-ghét, cùng nhau.
Nếu bạn chọn một cái bạn đã chọn
một cực đoan. Tay trái của tôi và tay phải của tôi - chúng cả hai đều thuộc về
tôi. Nếu tôi chọn bên trái tôi nghiêng về bên trái, nếu tôi chọn bên phải tôi
nghiêng về bên phải, và khi tôi không chọn cái gì tôi đứng ở giữa. Thế thì cả
hai tay đều thuộc về tôi, nhưng tôi không thuộc vào chúng. Nếu bạn chọn ghét bạn
đã chọn một phần. Nếu bạn chọn yêu bạn đã chọn phần khác.
Và đây là rắc rối: nếu bạn chọn
ghét, sớm hay muộn bạn sẽ rơi vào yêu. Nếu bạn cứ ghét kẻ thù đủ lâu bạn sẽ rơi
vào yêu. Nếu bạn cứ yêu người bạn đủ lâu bạn sẽ ghét. Bởi vì người ta không thể
vẫn còn ở một cực đoan lâu được. Đó là lí do tại sao những người yêu tranh đấu
và kẻ thù cũng là những người yêu sâu bên dưới. Họ không thể tồn tại mà không
có kẻ thù; họ níu bám. Yêu trong đảo ngược - nhưng nó là yêu.
Điều gì xảy ra khi người ta là
toàn bộ? Yêu và ghét, cả hai, có đó. Và khi yêu và ghét cả hai đều có đó, chúng
huỷ bỏ lẫn nhau, và hiện tượng khác nảy sinh mà Phật đã gọi là từ bi. Từ bi
không có đối lập cho nó. Hay, bạn có thể nói, "Chỉ khi không có phần ghét,
yêu trở thành hoàn hảo"; nhưng thế thì yêu là ở giữa. Dù bạn gọi nó là bất
kì cái gì cũng không phải là vấn đề, nhưng cân bằng sâu xảy ra. Các đối lập huỷ
bỏ lẫn nhau; chúng có cùng trọng lượng. Chúng huỷ bỏ lẫn nhau và bạn vẫn còn
trong cân bằng. Cân bằng là tính toàn bộ. Thế thì cái toàn thể của bạn được bao
gồm trong nó.
Khi vị phật có từ bi không cái
gì bị bỏ lại sau. Ông ấy đi toàn bộ vào trong nó. Khi một Jesus yêu, ông ấy đi
toàn bộ vào trong nó. Khi bạn yêu, một phần của bạn sẵn sàng để ghét. Khi bạn
ghét, một phần của bạn sẵn sàng để yêu. Bạn bị phân chia - một nhân cách phân
chia bao giờ cũng chuyển sang các cực đoan. Tính toàn bộ thuộc về tâm trí không
phân chia, không chia chẻ: người ta đứng thẳng, ở giữa, được cân bằng thế -
không nghiêng sang cái này hay cái nọ. Trong khoảnh khắc của không cái này
không cái nọ, người ta đạt tới tính toàn bộ.
Upanishads có một từ đặc biệt
cho nó. Họ gọi nó là "neti-neti." Họ nói "không cái này không
cái nọ " - đừng chọn giữa các cái đối lập. Để các cái đối lập tới cùng
nhau và trở thành phần bù. Để cho chúng tan biến vào nhau. Vô chọn lựa đi. Đó
là lí do tại sao Krishnamurti cứ nhấn mạnh vào một từ liên tục - "nhận biết
vô chọn lựa" - bởi vì khoảnh khắc bạn chọn bạn đã chọn cực đoan rồi.
Mọi chọn lựa đều là về cực
đoan. Bạn chọn cái gì đó chống lại cái gì đó. Bất kì khi nào bạn nói, "Cái
này đẹp," bạn đã kết án cái gì đó là xấu. Bằng không làm sao bạn có thể
nói cái này là đẹp? Trong khẳng định này, trong phát biểu này, rằng cái này là
đẹp, được ẩn kín phát biểu: "Cái gì đó là xấu, bị kết án." Khoảnh khắc
bạn nói, "Người này là thánh nhân," bạn đã kết án ai đó là tội nhân.
Các thánh nhân sẽ biến mất nếu
các tội nhân biến mất. Làm sao thánh nhân có thể có nếu không có tội nhân? Tội
nhân được cần để cho thánh nhân hiện hữu. Tội nhân cũng sẽ biến mất nếu thánh
nhân không còn đó nữa. Ai sẽ gọi họ là tội nhân? Làm sao bạn sẽ phán xét rằng
ai đó là tội nhân? Trong một nhân loại hoàn hảo sẽ không có thánh nhân, không
có tội nhân, bởi vì toàn thể sự việc sẽ cân bằng sâu sắc. Tội nhân và thánh
nhân là các đối lập của nhau; họ tồn tại cùng nhau.
Thỉnh thoảng, trong khi tôi du
hành ở Ấn Độ, ở nhiều chỗ nhiều người đã hỏi tôi một câu hỏi lặp đi lặp lại.
Câu hỏi này dường như rất thích hợp và liên quan. Họ đã hỏi tôi, "Tại sao
lại như vậy, rằng ở Ấn Độ đã từng có nhiều thánh nhân thế, và vậy mà đất nước lại
vô đạo đức thế?" Tôi đã bảo họ điều đó là tự nhiên. Khi đất nước tạo ra
nhiều thánh nhân thế nó phải tạo ra cùng số các tội nhân; bằng không thì cân bằng
sẽ bị mất. Khi đất nước tạo ra toàn tirthankeras, hai mươi bốn; tất cả
avataras, hai mươi bốn; tất cả chư phật, hai mươi bốn; thế thì tội nhân sẽ đi
đâu? Và làm sao vị phật tồn tại được nếu tất cả tội nhân không có ở đây?
Vị phật tồn tại trong đại dương
các tội nhân; không có cách khác. Để một vị phật tồn tại hàng triệu tội nhân được
cần tới. Thực ra, bởi vì những tội nhân này mà ông ấy có vẻ chứng ngộ thế:
tương phản thôi. Trên bảng đen bạn viết bằng phấn trắng: nó có vẻ trắng thế,
còn trắng hơn mầu trắng - trắng hơn mầu trắng. Viết lên tường trắng bằng phấn
trắng - chẳng cái gì xuất hiện. Khi nhân loại sẽ thực sự hoàn hảo, cân bằng, sẽ
không có vị phật: đó sẽ là viết lên tường trắng bằng phấn trắng. Nhân loại rất
đen tối được cần. Cho nên, nếu bạn hỏi tôi, tôi hi vọng về một thế giới nơi sẽ
không cần vị phật... mọi sự sẽ được cân bằng thế.
Đó là điều Lão Tử nói đi nói lại,
"Đã có thời trong quá khứ không có thánh nhân - bởi vì đã không có tội nhân."
Đã có thời trong quá khứ khi mọi sự là tự nhiên và cân bằng tới mức thậm chí
không có khái niệm về cái gì là sai và cái gì là đúng. Lão Tử nói, "Đem
khái niệm về đúng vào, và sai đi vào ngay lập tức." Các cái đối lập là
cùng nhau. Chúng tới cùng nhau; chúng đi cùng nhau. Chúng là các khía cạnh của
cùng một đồng tiền, hai mặt của cùng một điều.
Nếu bạn chọn, bạn chọn cực
đoan. Cân bằng không thể được chọn. Bạn phải trở thành vô chọn lựa; thế thì có
cân bằng, không cái này không cái nọ - neti-neti. Đột nhiên bạn cân bằng ở giữa,
và mọi niềm vinh quanh của sự tồn tại trở thành của bạn. Bạn được hoàn thành.
Câu hỏi này dường như là có
nghĩa, nhưng nó không phải vậy: "Làm sao người ta có thể toàn bộ vậy mà
không cực đoan trong mọi điều người ta kinh nghiệm?" Nếu bạn là toàn bộ thế
thì bạn sẽ không là cực đoan; nếu bạn là cực đoan, bạn sẽ không là toàn bộ. Cố
gắng là toàn bộ và được cân bằng, và các cực đoan sẽ biến mất bởi chính bản
thân chúng. Chúng tồn tại với hỗ trợ của bạn. Bởi vì bạn chọn, đó là lí do cho
chúng tồn tại.
Đừng chọn lựa. Đừng nói cái này
là tốt và đừng nói cái kia là xấu. Vẫn còn tỉnh táo, vậy thôi. Đừng nói đây là
thánh nhân và kia là tội nhân. Vẫn còn tỉnh táo, vậy thôi - và chấp nhận cái
toàn bộ. Tội nhân tồn tại, thánh nhân tồn tại: cái toàn bộ chấp nhận cả hai. Bạn
cũng chấp nhận cả hai. Không kết án tội nhân, không ca ngợi thánh nhân, bạn trở
thành vô chọn lựa. Trong vô chọn lựa đó bạn sẽ được cân bằng, và bạn sẽ là toàn
bộ.
Câu hỏi thứ tư
Thầy có mỉm cười không - khi chúng tôi
nghiêm chỉnh và mặt dài trong khán giả của thầy?
Tôi có thể làm gì khác được?
Câu hỏi thứ năm
Có lần thầy nói rằng ma tuý tạo ra mơ hoá
chất - các kinh nghiệm tưởng tượng. Và Krishnamurti nói rằng mọi thực hành
yoga, mọi kĩ thuật thiền, chỉ giống như ma tuý - chúng tạo ra thay đổi hoá chất
và, do đó, tạo ra kinh nghiệm. Xin thầy bình luận.
Krishnamurti là đúng. Rất khó
hiểu, nhưng ông ấy đúng. Mọi kinh nghiệm đều qua thay đổi hoá chất - tất cả,
không ngoại lệ nào. Dù bạn dùng LSD hay bạn nhịn ăn, theo cả hai cách thân thể
đều trải qua thay đổi hoá chất. Dù bạn dùng cần sa hay bạn tập pranayam nào đó,
luyện tập việc thở, trong cả hai cách thân thể đều trải qua thay đổi hoá chất.
Cố hiểu nó đi.
Khi bạn nhịn ăn, cái gì xảy ra?
Thân thể bạn mất vài hoá chất bởi vì chúng phải được cung cấp mọi ngày qua thức
ăn. Nếu bạn không cung cấp những hoá chất đó, thân thể mất những hoá chất đó.
Thế thì cân bằng bình thường của các hoá chất bị mất; và bởi vì việc nhịn ăn tạo
ra mất cân bằng, bạn có thể bắt đầu cảm thấy vài điều. Nếu bạn nhịn ăn đủ lâu bạn
sẽ có ảo giác. Nếu bạn nhịn ăn trong hai mươi mốt ngày hay hơn bạn sẽ trở nên
không có khả năng phán xét liệu điều bạn thấy có là thực hay không thực, bởi vì
với nó một hoá chất đặc thù được cần và điều đó bị mất.
Bình thường, nếu đột nhiên
Krishna gặp bạn trên đường, ý tưởng đầu tiên nảy sinh sẽ là ý tưởng bạn phải thấy
ảo giác nào đó, ảo tưởng nào đó, mơ nào đó. Bạn sẽ dụi mắt và bạn sẽ nhìn quanh,
hay bạn sẽ hỏi ai đó khác, "Lại đây. Xin nhìn xem. Anh có thể thấy ai đó
đang đứng trước tôi, giống Krishna không?" Nhưng nếu bạn nhịn ăn trong hai
mươi mốt ngày, phân biệt giữa thực tại và mơ bị mất. Thế thì nếu Krishna đang đứng,
bạn tin rằng ông ấy có đó.
Bạn có quan sát trẻ nhỏ không?
Chúng không thể phân biệt được giữa thực tại và mơ. Trong đêm chúng mơ về đồ
chơi, và đến sáng chúng kêu và khóc - "Đồ chơi đã đi đâu rồi?" Hoá chất
đặc biệt đó cái giúp cho bạn phán đoán vẫn phải được tạo ra, chỉ thế thì đứa trẻ
mới có khả năng làm phân biệt giữa thực và không thực. Khi bạn dùng rượu hoá chất
đó bị phá huỷ.
Mulla Nasruddin đang dạy cho
con anh ta. Ngồi trong quán rượu, anh ta bảo nó khi nào dừng uống rượu. Cho nên
anh ta nói, "Nhìn đấy. Nhìn góc kia kìa. Khi con bắt đầu thấy bốn người
thay vì hai người, biết cho rõ đây là lúc để dừng uống và về nhà."
Nhưng đứa con nói, "Bố ơi,
không có hai người đâu - chỉ mỗi một người đang ngồi thôi!" Người bố đã
say quá rồi.
Khi bạn uống rượu điều gì xảy
ra? Thay đổi hoá chất nào đó. Khi bạn dùng LSD điều gì xảy ra? - hay cần sa hay
thứ khác? Thay đổi hoá chất nào đó, và bạn bắt đầu thấy những thứ mà bạn chưa
bao giờ thấy. Bạn bắt đầu cảm thấy các thứ; bạn trở nên rất nhạy cảm.
Và đó là rắc rối: bạn không thể
thuyết phục được người uống rượu thôi uống, bởi vì thực tại thực dường như tẻ
nhạt thế, chán thế. Một khi người đó đã thấy thực tại qua hoá chất, qua thay đổi
hoá chất... Cây còn xanh hơn và hoa có hương thơm hơn bởi vì người đó có thể
phóng chiếu, người đó có thể tạo ra thế giới ảo tưởng: bây giờ bạn bảo người
đó, "Dừng lại. Con anh đang khổ, vợ anh đang khổ, việc làm của anh ngày
càng tệ - dừng lại đi!" nhưng anh ta không thể dừng được, bởi vì anh ta có
thoáng nhìn về thế giới không thực, nhưng đẹp. Bây giờ nếu anh ta dừng lại, thế
giới dường như quá xù xì, bình thường. Cây không có vẻ xanh thế và hoa không có
mùi thơm thế; ngay cả vợ - với những người để tiết kiệm cho bạn đang dạy cho
anh ta - trông rất bình thường, chết, chuyện thường lệ. Khi anh ta ở dưới ảnh
hưởng của ma tuý vợ riêng của anh ta trở thành một Cleopatra, người đàn bà đẹp
nhất trên thế giới. Anh ta sống cuộc sống mơ.
Mọi kinh nghiệm đều là hoá chất
- không có ngoại lệ nào. Khi bạn thở rất nhiều bạn tạo ra rất nhiều ô xi bên
trong thân thể; lượng ni tơ sụt xuống. Nhiều ô xi làm thay đổi hoá chất bên
trong. Bạn bắt đầu cảm thấy mọi thứ mà bạn chưa bao giờ cảm thấy. Nếu bạn xoay
tròn như trong điệu vũ đạo Hồi, quay nhanh, thân thể thay đổi; hoá chất thay đổi
qua việc quay. Bạn cảm thấy chóng mặt, một thế giới mới mở ra. Mọi kinh nghiệm
đều là hoá chất.
Khi bạn đói thế giới trông
khác. Khi bạn được thoả mãn, no, thế giới trông khác. Người nghèo có thế giới
khác, và người giầu có thế giới khác. Hoá chất của họ khác. Người thông minh có
thế giới khác, và người ngu có thế giới khác. Hoá chất của họ khác. Đàn bà có
thế giới khác; đàn ông có thế giới khác. Hoá chất của họ khác.
Khi người ta trở nên trưởng
thành về dục, tại tuổi mười bốn hay mười lăm, một thế giới khác nảy sinh bởi vì
hoá chất mới đang chảy trong mạch máu. Với đứa trẻ bẩy tuổi, nếu bạn nói về dục
và cực thích dục, nó sẽ nghĩ bạn ngu - "Bác đang nói điều vô nghĩa gì vậy?"
- bởi vì những hoá chất đó không chảy, những hooc môn đó không có trong mạch
máu. Nhưng vào khoảnh khắc của tuổi mười bốn, mười lăm, đôi mắt đầy hoá chất mới
- người phụ nữ bình thường đột nhiên được biến đổi.
Mulla Nasruddin thường lên núi
vào ngày nghỉ. Thỉnh thoảng anh ta sẽ đi trong mười lăm ngày và sẽ trở về trước
ngày thứ mười. Ông chủ hỏi anh ta, "Có chuyện gì vậy? Anh xin nghỉ phép mười
lăm ngày, và anh trở về sớm trước năm ngày?" Và thỉnh thoảng anh ta xin kì
nghỉ hai tuần và anh ta trở về sau bốn tuần. "Vậy có chuyện gì thế?"
ông chủ hỏi.
Mulla nói, "Có toán học chắc
chắn trong nó. Trên núi tôi có một khu nhà một tầng, và khu nhà đó được trông
nom bởi một bà cô già, rất xấu. Cho nên đây là tiêu chí của tôi: khi tôi bắt đầu
thấy rằng người đàn bà xấu đó là đẹp, tôi chạy đi. Cho nên thỉnh thoảng chuyện
xảy ra sau tám ngày, thỉnh thoảng mười ngày... Cô ấy xấu xí và kinh khủng. Ông
không thể nghĩ được rằng cô ấy có thể đẹp. Nhưng khi tôi bắt đầu nghĩ về cô ấy
và cô ấy bắt đầu tới trong giấc mơ của tôi và tôi cảm thấy rằng cô ấy đẹp, thế
thì tôi biết rằng đây là lúc về nhà; bằng không sẽ có nguy hiểm. Cho nên không
ai biết cả. Nếu tôi đủ mạnh khoẻ thì nó tới sớm hơn, trong vòng bẩy ngày. Nếu
tôi không mạnh khoẻ thế, sẽ mất hai tuần. Nếu tôi rất yếu sẽ mất ba tuần. Điều
đó là tuỳ vào hoá chất."
Mọi kinh nghiệm đều là hoá chất
- nhưng một phân biệt phải được thực hiện. Có hai cách. Một là đưa hoá chất vào
- tiêm, hút, hay tống vào trong thân thể. Chúng tới từ bên ngoài; chúng là những
kẻ xâm nhập. Đó là điều mọi thuốc mà mọi người đang làm trên khắp thế giới.
Cách khác là thay đổi thân thể bằng nhịn ăn, thở... Đó là điều mọi người yogi
đã từng làm ở phương Đông. Họ thuộc vào cùng con đường; khác biệt là rất nhỏ.
Khác biệt là ở chỗ thuốc mọi người uống từ bên ngoài vào, chúng xâm nhập vào
sinh hoá của thân thể, còn người yogis cố gắng thay đổi cân bằng của thân thể
riêng của họ, không bằng việc xâm nhập từ bên ngoài. Nhưng khi có liên quan tới
tôi, cả hai là như nhau.
Nhưng nếu bạn có bất kì thôi
thúc nào để kinh nghiệm, tôi sẽ bảo bạn chọn con đường của người yogis, vì theo
cách đó bạn sẽ không phụ thuộc, bạn sẽ độc lập hơn. Và theo cách đó bạn sẽ
không bao giờ trở thành người nghiện, và theo cách đó thân thể bạn sẽ giữ lại sự
thuần khiết của nó, tính thống nhất hữu cơ của nó. Và theo cách đó, ít nhất, bạn
sẽ không vi phạm pháp luật - không vây bắt nào của cảnh sát là có thể. Và theo
cách đó bạn có thể đi ra ngoài một cách dễ dàng. Hmm?... đó mới là điều quan trọng
nhất.
Nếu bạn lấy hoá chất từ bên
ngoài vào trong thân thể, bạn sẽ giữ lại chúng. Điều đó sẽ khó, ngày càng khó
hơn để đi ra ngoài. Thực ra bạn sẽ trở nên ngày càng phụ thuộc hơn, phụ thuộc tới
mức bạn sẽ mất mọi cuộc sống, mọi quyến rũ của cuộc sống, và một mình kinh nghiệm
thuốc sẽ trở thành toàn thể cuộc sống của bạn, toàn thể trung tâm của nó.
Nếu bạn đi qua yoga, qua thay đổi
bên trong trong hệ thống hoá học của thân thể, bạn sẽ không bao giờ phụ thuộc,
và bạn sẽ có khả năng đi ra ngoài. Bởi vì toàn thể vấn đề của tôn giáo là đi ra
ngoài các kinh nghiệm. Dù bạn kinh nghiệm mầu sắc đẹp - cầu vồng khắp xung
quanh qua LSD - hay bạn kinh nghiệm cõi trời qua bài tập yoga, về căn bản không
có khác biệt. Thực ra chừng nào bạn chưa đi ra ngoài mọi kinh nghiệm, mọi kinh
nghiệm khách quan, chừng nào bạn chưa đi tới điểm mà chỉ nhân chứng còn lại và
không kinh nghiệm nào được kinh nghiệm, chỉ người kinh nghiệm còn lại, bạn vẫn
chưa chạm tới biên giới của tôn giáo.
Krishnamurti là đúng. Nhưng những
người đang nghe ông ấy lại hiểu lầm ông ấy. Suy nghĩ rằng mọi kinh nghiệm đều
vô tích sự, họ vẫn còn là bình thường; họ đã không làm nỗ lực nào. Tôi biết tất
cả các kinh nghiệm đều vô tích sự, chung cuộc người ta phải bỏ chúng, nhưng trước
khi bạn có thể bỏ chúng bạn sẽ phải có chúng. Chúng giống như cầu thang: nó phải
bị bỏ lại đằng sau, nhưng người ta phải đi lên. Người ta có thể bỏ lại nó chỉ
khi người ta đã đi qua nó. Mọi kinh nghiệm đều trẻ con, nhưng người ta phải đi
qua chúng để trở nên trưởng thành.
Kinh nghiệm tôn giáo thực không
phải là kinh nghiệm chút nào. Kinh nghiệm tôn giáo không phải là kinh nghiệm:
nó là việc đi tới người kinh nghiệm nơi mọi thứ biết/không biết, có thể biết/không
thể biết, đều biến mất. Chỉ bản thân việc chứng kiến còn lại, chỉ tâm thức thuần
khiết, không kinh nghiệm nào làm ô nhiễm nó - bạn không thấy Jesus, bạn không
thấy Phật, bạn không thấy Krishna đứng đó.
Đó là lí do tại sao các Thiền sư
nói, "Nếu ônh gặp Phật trên đường, giết ông ấy ngay lập tức." Tín đồ
của Phật nói, "Nếu ông gặp Phật trên đường, giết ông ấy ngay lập tức."
Một giáo huấn lớn lao. Hmm?... bởi vì Phật đẹp thế, bạn có thể bị quyến rũ để
mơ, và thế thì bạn có thể cứ đi với mắt nhắm nhìn thấy Phật hay Krishna thổi
sáo. Bạn có thể thấy giấc mơ rất tôn giáo, nhưng nó vẫn là mơ, không phải thực
tại.
Thực tại là tâm thức của bạn. Mọi
thứ khác phải được siêu việt lên. Nếu bạn có thể nhớ điều đó, thế thì người ta
phải đi qua mọi kinh nghiệm, nhưng người ta phải đi qua.
Nếu bạn theo kinh nghiệm quá
nhiều, như mọi người vẫn vậy - đó là một phần của trưởng thành - chọn bài tập
yoga là tốt hơn dùng ma tuý. Chúng tinh tế hơn, các bài tập yoga, tinh tế hơn.
Bạn phải nhận biết về sự kiện rằng Ấn Độ đã thử với mọi ma tuý. Mĩ là người mới
tới trong thế giới đó. Từ somaras trong Rig-Vedas tới ganja, Ấn Độ đã thử mọi
thứ và đã đi tới hiểu biết rằng điều này chỉ là phí thời gian. Thế rồi Ấn Độ đã
thử các bài tập yoga. Thế rồi, nhiều lần, những người như Phật, Mahavira, đã đạt
tới giai đoạn mà họ thấy rằng ngay cả các bài tập yoga cũng là vô dụng; chúng
phải bị vứt bỏ.
Krishnamurti không nói cái gì
đó mới. Đó là kinh nghiệm của mọi chư phật. Nhưng, nhớ lấy, kinh nghiệm có thể
trở thành kinh nghiệm cho bạn chỉ khi bạn đạt tới nó. Không ai có thể trao nó
cho bạn được; nó không thể được vay mượn. Nếu bạn vẫn còn trẻ con và bạn cảm thấy
rằng bạn cần một số kinh nghiệm, tốt hơn cả là có chúng qua các bài tập yoga.
Chung cuộc, điều đó nữa cũng phải bị vứt bỏ.
Nhưng nếu bạn chọn giữa LSD và
pranayam, tốt hơn cả là chọn pranayam. Bạn sẽ ít phụ thuộc hơn và bạn sẽ có nhiều
khả năng siêu việt hơn, bởi vì nhận biết sẽ không bị mất trong nó. Trong LSD nhận
biết sẽ bị mất hoàn toàn.
Bao giờ cũng chọn thứ cao hơn.
Bất kì khi nào có khả năng, và bạn muốn chọn, chọn thứ cao hơn đi. Một khoảnh
khắc sẽ tới khi bạn sẽ không thích chọn cái gì... thế thì vô chọn lựa.
Câu hỏi thứ sáu
Tôi bị lẫn lộn giữa cảm thấy ý thức cái ta,
điều thầy nói là bệnh tật, và cảm thấy nhận biết về cái ta, nhớ cái ta, và là
nhân chứng.
Vâng, ý thức tới cái ta là bệnh
tật, và nhận biết về cái ta là mạnh khoẻ. Vậy khác biệt là gì, bởi vì các từ dường
như có nghĩa cùng điều? Từ có thể ngụ ý cùng điều, nhưng khi tôi dùng chúng hay
Patanjali dùng chúng, chúng tôi không ngụ ý cùng điều.
Trong ý thức về cái ta, nhấn mạnh
là vào cái ta. Trong nhận biết về cái ta, nhấn mạnh là vào nhận biết. Bạn có thể
dùng cùng từ, ý thức về cái ta, cho cả hai. Nếu nhấn mạnh là vào cái ta, nó là
bệnh tật. Nếu nhấn mạnh là vào tâm thức nó là mạnh khoẻ. Rất tinh tế, nhưng
khác biệt rất lớn.
Ý thức về cái ta là bệnh tật vì
bạn liên tục ý thức về cái ta - mọi người cảm thấy thế nào về mình, họ đánh giá
mình thế nào, ý kiến của họ là gì: liệu họ thích mình hay không, họ chấp nhận
hay bác bỏ mình, họ yêu mình hay không. Bao giờ cũng "mình," cái
"tôi," bản ngã vẫn còn ở trung tâm. Đây là bệnh tật. Bản ngã là bệnh
tật lớn nhất có đó.
Và nếu bạn thay đổi hội tụ, nhấn
mạnh - từ cái ta hội tụ chuyển sang tâm thức: bây giờ bạn không lo nghĩ
"liệu mọi người bác bỏ mình hay chấp nhận mình." Ý kiến của họ là gì,
điều đó không thành vấn đề. Bây giờ bạn muốn có nhận biết trong mọi tình huống.
Liệu họ bác bỏ hay họ chấp nhận, liệu họ yêu hay ghét, liệu họ gọi bạn là thánh
nhân hay tội nhân, điều đó không thành vấn đề. Họ nói gì, ý kiến của họ là gì,
đó là việc của họ và vấn đề của họ để quyết định cho bản thân họ. Bạn đơn giản
cố gắng là nhận biết trong mọi tình huống.
Ai đó tới, cúi lạy bạn, người
đó tin bạn là thánh nhân: bạn không bận tâm về điều người đó nói, điều người đó
tin. Bạn đơn giản vẫn còn tỉnh táo, bạn vẫn còn nhận biết, để cho người đó
không thể lôi bạn vào trong vô nhận biết, vậy thôi. Và ai đó tới và xúc phạm bạn
và ném giầy cũ vào bạn: bạn không bận tâm về điều người đó làm. Bạn đơn giản cố
gắng tỉnh táo, để cho bạn vẫn còn không bị động chạm - người đó không thể lôi bạn
được.
Trong ca ngợi hay kết án, trong
thất bại hay thành công, bạn vẫn còn là một. Qua nhận biết của bạn, bạn đạt tới
thanh bình điều không thể bị quấy rối theo cả hai cách. Bạn trở nên tự do với ý
kiến của mọi người.
Đó là khác biệt giữa người tôn
giáo và người chính trị. Người chính trị là ý thức tới cái ta - nhấn mạnh vào
cái ta, bao giờ cũng lo nghĩ về ý kiến của mọi người.
Người đó phụ thuộc vào ý kiến của
mọi người, phiếu bầu của họ. Chung cuộc, họ là người chủ và người ra quyết định.
Người tôn giáo là người chủ của cái ta riêng của mình; không ai có thể quyết định
cho người đó được. Người đó không phụ thuộc vào phiếu bầu của bạn hay ý kiến của
bạn. Nếu bạn tới người đó, tốt. Nếu bạn không tới người đó, điều đó nữa cũng tốt.
Điều đó không tạo ra vấn đề gì. Người đó là bản thân người đó.
Bây giờ, tôi muốn nói một điều
rất ngược đời cho bạn - nó dường như ngược đời thôi, nhưng nó là chân lí đơn giản:
Những người ý thức tới cái ta - nhấn mạnh vào cái ta - không có cái ta đâu. Đó
là lí do tại sao họ ý thức tới cái ta thế: sợ sệt - bất kì ai cũng có thể lấy
cái ta của họ đi mất. Họ không có cái ta của họ. Họ không là người chủ. Cái ta
của họ được vay mượn, vay mượn từ bạn. Ai đó mỉm cười: cái ta của họ được cho sự
hỗ trợ. Ai đó xúc phạm: cái nạng chống đã bị lấy đi; cấu trúc của họ rung chuyển.
Ai đó giận dữ: họ sợ. Nếu mọi người nổi giận, họ sẽ ở đâu, họ sẽ là ai? Căn cước
của họ bị tan vỡ. Nếu mọi người mỉm cười và nói, "Anh giỏi đấy," họ
là giỏi.
Những người ý thức tới cái ta,
những người chính trị... Và khi tôi nói người chính trị tôi không ngụ ý chỉ những
người thực sự trong chính trị đâu: tất cả những người theo bất kì cách nào phụ
thuộc vào người khác đều là chính trị cả. Họ không có cái ta nào; bên trong trống
rỗng. Họ bao giờ cũng sợ cái trống rỗng của họ. Bất kì ai cũng có thể ném họ về
với cái trống rỗng của họ - bất kì ai! Ngay cả chó sủa cũng có thể ném họ về với
cái trống rỗng của họ.
Người tôn giáo, ý thức tới cái
ta - nhấn mạnh vào ý thức - có cái ta, cái ta đích thực. Bạn không thể lấy cái
ta đó đi khỏi người đó. Bạn không thể trao nó cho người đó; bạn không thể lấy
nó đi khỏi người đó. Người đó đã đạt tới nó. Nếu toàn thế giới chống lại người
đó, cái ta của người đó sẽ vẫn ở cùng người đó. Nếu toàn thế giới theo người
đó, cái ta của người đó sẽ không được bổ sung thêm theo bất kì cách nào, không
được tăng thêm, không. Người đó thực sự có thực tại đích thực nào đó - một
trung tâm tồn tại trong người đó.
Người chính trị không có trung
tâm. Người đó cố gắng tạo ra trung tâm giả. Người đó vay mượn cái gì đó từ bạn,
cái gì đó từ ai đó khác, cái gì đó từ ai đó khác nữa... Đó là cách người đó
xoay xở. Một căn cước giả, hợp thành từ ý kiến của nhiều người: đó là căn cước
của người đó. Nếu mọi người quên người đó, người đó sẽ bị mất, người đó sẽ
không ở đâu cả; thực ra, người đó sẽ là không ai cả.
Bạn có thấy không? Một người là
tổng thống: đột nhiên người đó trở thành ai đó. Thế rồi người đó không còn là tổng
thống: thế thì người đó chẳng là ai cả. Thế thì mọi báo chí quên người đó. Họ sẽ
nhớ chỉ khi người đó chết - điều đó nữa cũng trong một góc nhỏ. Họ sẽ nhớ người
đó như một cựu tổng thống, không như một người - như một người cựu giữ chức. Bạn
không thấy điều này xảy ra với Radhakrishnan sao? Bạn không thể thấy điều này xảy
ra với V.V. Giri sao? Giri đâu rồi? Điều gì đã xảy ra? Đơn giản một người biến
mất. Khi bạn đang đương chức, bạn ở trên trang nhất của các báo chí. Bạn không
quan trọng - chức mới quan trọng.
Do đó, tất cả những người nghèo
bên trong bao giờ cũng đi tìm chức vụ, tìm phiếu bầu của mọi người, tìm ý kiến.
Đó là cách họ đạt tới linh hồn - linh hồn giả, tất nhiên.
Các nhà tâm lí đã đạt tới chính
cốt lõi của vấn đề này. Họ nói những người cố gắng trở nên cao siêu đều đang chịu
đựng phức cảm tự ti, và những người đang thực sự cao siêu - họ không bận tâm
chút nào. Họ cao siêu tới mức họ thậm chí không nhận biết rằng họ cao siêu. Chỉ
người kém cỏi mới nhận biết rằng mình cao siêu - và người đó rất dễ tự ái về điều
đó. Nếu bạn cho người đó dù chỉ một hướng dẫn rằng "Anh không giỏi như anh
tưởng đâu," người đó sẽ giận. Chỉ người cao siêu mới có thể đứng sau như
người cuối cùng. Mọi người kém cỏi đều xô lên hàng đầu, bởi vì nếu họ đứng ở cuối
họ chẳng là ai cả. Họ phải đứng ở hàng đầu. Họ phải ở thủ đô. Họ phải ở chỗ nhiều
tiền. Họ phải đi xe to. Họ phải là thế này thế nọ. Những người kém cỏi bao giờ
cũng cố chứng tỏ tính cao siêu của họ bằng những thứ sở hữu của họ.
Để tôi tóm tắt lại điều đó: những
người không có bản thể đều cố gắng thu được bản thể qua việc có các thứ - địa vị,
tên tuổi, danh vọng.
Thậm chí thỉnh thoảng chuyện xảy
ra: một người ở Mĩ giết bẩy người. Tất cả bẩy người đó đều không biết anh ta.
Anh ta bị truy vấn tại toà, "Tại sao?" Anh ta nói, "Tôi không thể
trở nên nổi tiếng được, cho nên tôi nghĩ ít nhất tôi có thể trở nên khét tiếng,
nhưng tôi phải là ai đó. Và tôi hạnh phúc rằng ảnh của tôi ở trên trang nhất
như một kẻ giết người. Bây giờ các ông có thể làm bất kì cái gì các ông muốn
làm. Tôi có cảm giác, bây giờ, rằng tôi là ai đó. Và toà án phải lo nghĩ, chính
phủ phải lo nghĩ, và mọi người phải lo nghĩ, và báo chí nói về tôi - tôi có thể
hình dung ra trong mọi khách sạn, nhà hàng, mọi nơi, mọi người sẽ nói về tôi.
Ít nhất trong một ngày tôi đã trở nên nổi tiếng, người được biết tới."
Mọi chính khách đều là kẻ giết
người. Bạn không thể thấy được bởi vì bạn cũng là chính khách sâu bên trong. Vừa
mới xong, Mujibur Rahman đã bị giết. Mới vài ngày trước, ông ấy còn là cha của
quốc gia. Và để trở thành cha của quốc gia ông ấy tham gia vào nhiều phiền hà
thế. Ông ấy đã giết nhiều người - hay, ông ấy đã tạo ra tình huống mà trong đó
nhiều người bị giết. Bây giờ ông ấy bị giết bởi đồng sự riêng của ông ấy. Toàn
thể chính phủ của ông ấy chống lại quyền lực, và những người có mưu đồ giết ông
ấy - bây giờ họ đã trở thành tổng thống và thủ tướng và bộ trưởng. Và tất cả họ
đồng là đồng sự của ông ấy, và không ai nó gì chống lại họ. Không ai nói gì chống
lại họ. Thế giới này dường như đơn giản không thể tin được. Bây giờ họ là những
người vĩ đại. và ai đó trong chính phủ của họ có thể cố gắng giết Mushtaque
Ahmed.
Mọi chính khách đều là kẻ giết
người, bởi vì họ không lo nghĩ về bạn. Họ lo nghĩ về cảm giác của họ: họ phải
là ai đó. Nếu kẻ giết người có thể cho họ cảm giác đó, thế thì được. Nếu bạo
hành có thể cho họ cảm giác đó, thế thì nó là được.
Vài ngày trước tôi mới đọc. Tôi
không thể tin được điều đó, nhưng nó là sự kiện. Tôi đã đọc cuốn sách về Lenin.
Ai đó mời ông ấy tới nghe bản giao hưởng của Beethoven. Ông ấy nói không, và
ông ấy nói không rất dứt khoát. Thực ra ông ấy đã trở thành gần như hung hăng
khi nói không. Người đã mời ông ấy không thể tin được tại sao ông ấy giận dữ thế.
Người đó nói, "Nhưng sao vậy? Bản giao hưởng của Beethoven là một trong những
sáng tạo vĩ đại nhất trên thế giới." Lenin nói, "Có thể, nhưng mọi âm
nhạc hay đều chống lại cách mạng vì nó cho ông sự mãn nguyện sâu sắc thế, nó
làm bình yên ông. Tôi chống lại mọi âm nhạc."
Nếu âm nhạc vĩ đại lan toả trên
thế giới, cách mạng sẽ biến mất. Logic này là có liên quan. Lenin đang nói điều
gì đó đúng với mọi chính khách. Họ sẽ không thích âm nhạc vĩ đại trên thế giới,
họ sẽ không thích thơ ca vĩ đại trên thế giới, họ sẽ không thích các thiền nhân
lớn trên thế giới, họ sẽ không thích mọi người trong cực lạc, phơi phới, không
- bởi vì thế thì cái gì sẽ xảy ra cho cách mạng? Cái gì sẽ xảy ra cho chiến
tranh? Cái gì sẽ xảy ra cho đủ mọi loại ngu xuẩn đang diễn ra trên thế giới?
Mọi người cần bao giờ cũng vẫn
trong cơn sốt; chỉ thế thì họ mới giúp cho các chính khách. Nếu mọi người được
thoả mãn, hài lòng, hạnh phúc, ai bận tâm về thủ đô? Mọi người sẽ quên tất cả về
họ. Họ sẽ nhảy múa và họ sẽ nghe nhạc và họ sẽ thiền. Tại sao họ phải bận tâm về
tổng thống Ford và thế này và thế nọ? Chẳng có gì cho điều đó cả. Nhưng những
người, khi họ không được thoả mãn, không được thảnh thơi, những người không có
cái ta của họ: họ cứ hỗ trợ cho cái ta khác bởi vì đó là cách duy nhất họ có thể
có được sự hỗ trợ của người khác cho cái ta riêng của họ.
Nhớ điều này: ý thức về cái ta
- nhấn mạnh vào cái ta - là bệnh sâu sắc, bệnh trong chiều sâu. Người ta nên gạt
bỏ nó. Ý thức về cái ta - nhấn mạnh vào ý thức - là một trong những điều linh
thiêng nhất trên thế giới, bởi vì nó thuộc về những người mạnh khoẻ, những người
đã đạt tới trung tâm của họ. Họ có ý thức, nhận biết. Họ không trống rỗng; họ
được hoàn thành.
Câu hỏi thứ bẩy
Người ta quan sát hơi thở thế nào khi nó
không được thấy mà được cảm?
Quan sát không cần là việc thấy,
nó có thể là việc cảm. Thực ra nó phải là việc cảm bởi vì làm sao bạn có thể thấy
được hơi thở của bạn? Bạn cảm nó, cái chạm của nó. Khi hơi thở di chuyển qua lối
chuyển, bạn cảm thấy cái chạm của nó.
Toàn thể sự việc không phải là
vấn đề về việc thấy. Sự việc là tỉnh táo rằng nó đang đi vào, rằng nó đã đạt tới
chính cốt lõi bên trong nhất của bản thể bạn, rằng bây giờ nó đã dừng lại; rằng
bây giờ nó đang quay lại. Triều xuống và triều lên: bây giờ nó đã qua rồi, di
chuyển hoàn toàn ra ngoài, đã dừng lại; thế rồi lại quay lại. Toàn thể vòng
tròn của nó - đi vào, đi ra, đi vào, đi ra - người ta phải nhận biết. Nếu bạn cảm
thấy nó, đó là nhận biết - nhưng người ta không nên bỏ lỡ việc cảm nó. Nếu bạn
có thể làm điều đó mọi ngày trong một giờ, cả đời bạn sẽ được thay đổi.
Và nhớ lấy, nếu bạn không thay
đổi việc thở của bạn thì không có thay đổi hoá chất xảy ra trong bạn. Đó là
khác biệt giữa Patanjali và Phật. Kĩ thuật của Patanjali sẽ làm thay đổi hệ thống
hoá chất của bạn; kĩ thuật của Phật sẽ không chạm tới hệ thống hoá chất của bạn
chút nào. Thở bình thường - như nó vậy: bạn đơn giản quan sát, cảm, thấy. Không
để nó đi vào và đi ra mà không có nhận biết, vậy thôi. Đừng thay đổi nó. Để cho
nó như nó vậy. Chỉ thêm một điều: rằng bạn vẫn còn là nhân chứng cho nó.
Cho dù bạn có thể làm điều đó
trong một giờ, cả đời bạn sẽ được tôn lên - và không có bất kì thay đổi hoá chất
nào. Bạn sẽ đơn giản trở thành một kinh nghiệm siêu việt, ý thức siêu việt. Bạn
sẽ không thấy chư Phật, bạn sẽ trở thành vị Phật. Và đó là điểm cần được nhớ:
thấy chư Phật chẳng là gì cả... trừ phi bạn trở thành vị Phật.
Câu hỏi thứ tám
Việc chứng kiến có cần là hiện tượng lạnh
không?
Không, nhưng nó phải là mát -
không lạnh, mà mát. Và khác biệt là bao la. Khi cái gì đó lạnh bạn dửng dưng
nhìn nó, không chăm nom, dửng dưng. Hiện tượng mát là khác: bạn chăm nom, bạn
không dửng dưng. Nhưng bạn không bị gắn bó nữa. Bạn không bị ám ảnh; bạn không
phát sốt về nó. Bạn không bị kích động. Nếu bạn có thể tránh được hai cực đoan
- dửng dưng và kích động - sẽ có bình tĩnh, bình thản, trầm tĩnh, cảm giác tự
chủ.
Việc chứng kiến không cần phải
lạnh. Thực ra nếu nó là lạnh nó không còn là việc chứng kiến; bạn đã trở thành
dửng dưng. Bạn không quan sát. Và bạn biết rõ hoặc bạn có thể lạnh hoặc bạn có
thể nóng. Bình thản chỉ tồn tại ở giữa. Bình thản không nóng không lạnh; nó là
chính điểm giữa của hai điều này. Bạn quan tâm nhưng không kích động: bạn quan
sát với sự chăm nom, không với dửng dưng, nhưng bạn không bị ảnh hưởng.
Khó... bởi vì bạn biết hai cảm
giác - lạnh và nóng. Bạn không biết cảm giác thứ ba chút nào bởi vì bạn di chuyển
từ cực đoan này sang cực đoan khác. Hoặc bạn ghét ai đó hoặc bạn yêu. Từ bi: bạn
không biết nó là gì. Từ bi chỉ là một từ, dường như là vô nghĩa. Nó là từ mát.
Nếu bạn tới vị Phật ông ấy sẽ
đón chào bạn, nhưng nó sẽ không là việc đón chào nồng nhiệt - nó sẽ không lạnh
nữa. Nó sẽ là đón chào mát dịu. Ông ấy sẽ đón chào bạn bằng toàn thể trái tim
ông ấy, nhưng ông ấy sẽ không bị kích động. Không phải là nếu bạn không có đó
thì ông ấy chắc đã buồn vì sự vắng mặt của bạn, không. Ông ấy sẽ hạnh phúc như
bao giờ. Nếu bạn có đó ông ấy hạnh phúc; nếu bạn không có đó ông ấy hạnh phúc.
Hạnh phúc của ông ấy là không thay đổi, đó là lí do tại sao nó là mát.
Khi bạn của bạn tới gặp bạn, bạn
phấn chấn - bạn trở nên nồng nhiệt. Và nhớ lấy, bạn không thể vẫn còn nồng nhiệt
lâu được, bởi vì nồng nhiệt làm chóng mệt. Chẳng mấy chốc bạn bắt đầu nghĩ,
"Khi nào người này đi?" Đầu tiên, bạn trở nên nồng nhiệt; thế rồi bạn
trở nên lạnh giá. Đầu tiên, bạn trở nên hạnh phúc bởi vì người bạn đã tới; và
thế rồi bạn trở nên hạnh phúc khi người đó đã ra đi. Vị Phật vẫn còn hạnh phúc,
dù bạn có tới hay không cũng không thành vấn đề. Hạnh phúc của ông ấy vẫn còn
không thay đổi. Ông ấy mát mẻ.
Và hiểu tình yêu mát mẻ thực sự
là kinh nghiệm lớn lao - khó đấy, bởi vì tâm trí bạn sẽ diễn giải tình yêu mát
mẻ là lạnh nhạt. Bạn không biết thuật ngữ mát mẻ; bạn chỉ biết lạnh nhạt. Bạn sẽ
thấy rằng Phật là lạnh nhạt. Ông ấy không phải vậy. Mọi người chứng ngộ đều mát
mẻ. Mát mẻ, bởi vì bạn không thể quấy rối được họ - theo cách khác; bạn không
thể làm cho họ hạnh phúc hơn; bạn không thể làm cho họ bất hạnh. Họ là mát mẻ bởi
vì họ được định tâm.
Câu hỏi thứ chín
Tại sao thầy không thể cho chúng tôi cái gì
đó mà sẽ giết chết chúng tôi ngay lập tức và không đau đớn thay vì làm cho
chúng tôi phải trải qua mọi đau khổ có vẻ vô tận này?
Tôi đang trao nó cho bạn đây,
nhưng bạn không nghe. Vấn đề không phải là tôi không trao nó cho bạn. Tôi đang
trao cho bạn chất độc tuyệt đối. Nó sẽ giết bạn ngay lập tức, nhưng bạn không
nghe tôi.
Bạn cứ nghĩ rằng cái gì đó là
sai, bạn cứ nghĩ rằng bạn là sai, và thỉnh thoảng, bạn thậm chí còn ham muốn,
"Làm sao phá huỷ được trạng thái vấn đề này? Làm sao đi ra ngoài nó?"
nhưng bạn đã đầu tư vào nó quá nhiều rồi. Bạn nghĩ, "Làm sao đi ra ngoài
nó?" nhưng bạn không muốn đi ra ngoài.
Chất độc tôi có thể cho bạn.
Toàn thể điều tôi đang cho bạn không là gì ngoài nghệ thuật chết. Nhưng tôi
không thể áp đặt chất độc lên bạn được; bằng không toà án sẽ nhìn vào điều đó -
tôi sẽ bị rắc rối. Tôi chỉ có thể đơn giản mời bạn; thế rồi bạn phải nhận nó.
Và ở đó bạn lỡ.
Bạn muốn nó được áp đặt lên bạn.
Bạn muốn nó được bón bằng thìa. Và cái chết này không thể bị áp đặt bởi bất kì
ai khác. Cái chết tôi đang nói tới phải là cái chết tự nguyện. Nó phải là cái
chết sẵn lòng. Nó phải đi cùng với toàn bộ trái tim của bạn. Tôi không thể áp đặt
lên bạn được. Nếu bạn sẵn sàng nó sẽ xảy ra; nếu bạn không sẵn sàng nó sẽ không
xảy ra.
Về phần mình, tôi bao giờ cũng
sẵn sàng. Nếu bạn sẵn sàng chết tôi sẵn sàng giúp bạn. Nhưng bạn không sẵn sàng
chết. Sâu bên dưới bạn cứ nghĩ rằng ngay cả sau cái chết bạn sẽ sống sót.
Bạn thiền, nhưng bạn thiền theo
cách để cho bạn có thể sống sót với nó nữa: bạn dùng nó như một kĩ thuật. Thực
tại cơ sở của bạn không được động chạm tới; bạn bao giờ cũng cẩn thận về nó.
Nhưng nếu bạn làm nó như cái chết - thiền như cái chết - thế thì bạn không thể
sống sót với nó được. Ai đó khác sẽ đi ra từ nó, không phải là bạn. Bạn sẽ đi đời.
Một sinh linh mới sẽ bước ra từ bạn - tươi tắn, trẻ trung, trinh nguyên. Bạn thậm
chí sẽ không có khả năng nhận ra điều đó. Sẽ có sự gián đoạn: bạn bị vứt bỏ
hoàn toàn, cái gì đó mới bật dậy - và chúng cả hai không có liên quan gì tới
nhau.
Điều này rất khó hiểu. Sinh
linh mới kia được ẩn kín đằng sau bạn, nhưng cái vỏ đang bao bọc bạn lại quá cứng.
Bạn giống như hạt mầm: sâu bên trong tất cả bị ẩn kín, toàn thể cây - hoa và quả
và mọi thứ - nhưng cái vỏ là rất cứng. Vỏ không sẵn sàng chết. Nếu cái vỏ chết
thì cây sẽ được sinh ra. Và cây là cái gì đó tuyệt đối khác với vỏ; nó chẳng
liên quan gì tới vỏ. Vỏ chỉ là cái bảo vệ - nhưng cái bảo vệ đã trở thành cái
toàn thể.
Bản ngã của bạn cũng giống như
cái vỏ. Nếu bản ngã chết bạn sẽ trưởng thành - bạn sẽ trở thành thượng đế! Có bản
ngã bạn sẽ vẫn còn là người khổ. Không có bản ngã bạn sẽ trở thành tuyệt đối
phúc lạc. Nhưng bạn không biết về điều đó; cái vỏ chưa bao giờ nghe nói về điều
đó. Và bạn cứ nghe tôi qua cái vỏ. Đó là lí do tại sao bạn liên tục hỏi tôi,
"Cho chúng tôi cái gì đó để chết," nhưng bạn không muốn cái đó.
Tôi đang cho cái gì đó để chết,
mọi khoảnh khắc. Thực ra tôi chẳng cho cái gì khác cả: toàn thể khoa học của
tôn giáo là khoa học về cái chết. Nó dạy bạn cách chết hoàn hảo, để cho không
cái gì bị bỏ lại. Toàn thể cái vỏ biến mất trong đất, tan biến, và cây mọc ra.
Nhưng, bạn nghĩ rằng ai đó sẽ
làm điều đó cho bạn bạn? Điều đó là không thể được. Bạn phải cam kết tự tử; bạn
không thể bị giết. Nhớ điều đó. Từ "suicide - tự tử" là rất hay. Tôi
không nói về tự tử trong thân thể; tôi đang nói về tự tử trong tâm trí, trong bản
ngã. Trở thành vô trí, vô ngã, và toàn thể sự tồn tại trở thành có thể. Bạn
đang mang nó trong hàng triệu kiếp. Nó ở ngay đó bên trong bạn. Nó đã ở đó rồi,
chỉ cần đất đúng và chiếc vỏ biến mất... và cây sẽ có đó trong mọi niềm vinh
quanh và đẹp đẽ của nó.
Câu hỏi thứ mười
Lời của thầy tới từ đâu và làm sao thầy có
quan hệ với chúng?
Không có ai để quan hệ với
chúng. Chúng tới từ trời xanh - không ai kiểm soát. Tôi không có đó để kiểm
soát chúng. Bạn hỏi một câu hỏi và từ trời xanh sự đáp ứng tới. Chúng không phải
là lời của tôi. Câu hỏi là của bạn; câu trả lời không là của tôi. Câu hỏi tới từ
tâm trí của bạn; câu trả lời không tới từ bất kì tâm trí nào. Tâm trí được dùng
để chuyển giao nó, nhưng nó không tới từ đó. Phương tiện không phải là cội nguồn.
0 Đánh giá