Read more
Yoga: Alpha và
Omega (Tập 7)
Bài giảng về Kinh Yoga của Patanjali
Chương 9. Trong
tưởng tượng
Qua sanyama hình ảnh xâm chiếm
tâm trí của người khác có thể được biết.
Nhưng cảm nhận qua sanyama
không đem tới tri thức về các yếu tố tinh thần hỗ trợ cho hình ảnh trong tâm
trí của người khác vì đó không phải là đối thể của sanyama.
Bằng việc thực hiện sanyama
trên hình dạng của thân thể để ngừng quyền năng cảm nhận, tiếp xúc giữa mắt của
người quan sát và ánh sáng từ thân thể bị phá vỡ, và thân thể trở thành vô
hình.
Nguyên lí này cũng giải thích sự
biến mất của âm thanh.
"Tôi bắt đầu đánh mất đức
tin vào khả năng của tôi," một người bán hàng trẻ nói với bạn anh ta.
"Hôm nay là khủng khiếp, và không bán được món hàng nào. Tôi đã bị tống ra
khỏi căn hộ, cửa đóng sầm trước mặt tôi, bị đá xuống cầu thang, mẫu hàng của
tôi bị ném vào cống, và bị bắn bởi chủ hộ cáu kỉnh." Bạn anh ta nói.
"Anh bán mặt hàng gì?" "Kinh Thánh," người bán hàng trẻ
nói.
Tại sao tôn giáo đã trở thành một
từ bẩn thỉu? Tại sao mọi người đầy hận thù vào khoảnh khắc bạn nhắc tới từ tôn
giáo, Thượng đế hay cái gì đó giống điều đó? Tại sao toàn thể nhân loại đã trở
thành dửng dưng? Cái gì đó phải đã đi sai ở đâu đó. Nó phải được hiểu bởi vì
đây không phải là vấn đề thường.
Tôn giáo là hiện tượng có ý
nghĩa tới mức con người không thể sống được nếu không có nó. Và sống mà không
có tôn giáo sẽ là sống không có mục đích nào. Sống không có tôn giáo sẽ là sống
không có thơ ca nào. Sống không có tôn giáo sẽ là sống kéo lê cuộc đời, sự chán
chường - điều Sartre nói khi ông ấy nói rằng con người là niềm đam mê vô dụng.
Không có tôn giáo con người trở thành như vậy. Con người không phải là niềm đam
mê vô dụng, nhưng không có tôn giáo con người chắc chắn trở thành như vậy. Nếu
không có cái gì cao hơn bạn thế thì mọi mục đích biến mất. Nếu không có gì cao
hơn để đạt tới, cao hơn để hiện hữu, thế thì cuộc đời bạn không thể có mục đích
nào, không thể có nghĩa nào. Cái cao hơn được cần để hấp dẫn bạn, để kéo bạn đi
lên. Cái cao hơn được cần để cho bạn không bị mắc kẹt vào cái thấp hơn.
Không có tôn giáo cuộc sống sẽ
giống như cây không bao giờ đi tới nở hoa, không kết quả. Vâng, không có tôn
giáo con người là niềm đam mê vô dụng, nhưng có tôn giáo con người trở thành
chính việc nở hoa của cuộc đời, dường như Thượng đế được hoàn thành trong con
người. Cho nên điều phải được hiểu là tại sao tôn giáo đã trở thành từ bẩn thế.
Có những người tích cực chống lại
tôn giáo. Có những người có thể không tích cực chống lại nhưng là những người
tích cực dửng dưng với tôn giáo. Có những người có thể không dửng dưng với tôn
giáo nhưng chỉ là những kẻ đạo đức giả người cứ giả vờ rằng họ quan tâm. Và ba
loại này là tất cả các loại có đó. Người tôn giáo chính cống đã biến mất. Cái
gì đã xảy ra?
Điều thứ nhất khám phá ra thái
độ mới tới cuộc sống, khám phá của khoa học - một cửa sổ mới được mở ra - và
tôn giáo không thể hấp thu được nó. Tôn giáo không hấp thu bởi vì tôn giáo bình
thường không có khả năng hấp thu nó.
Có ba thái độ có thể có trong
hướng tới cuộc sống, một là logic, hợp lí, khoa học; thái độ khác là hạ logic -
mê tín, bất hợp lí; và thứ ba là siêu logic - siêu việt. Tôn giáo bình thường cố
bám lấy thái độ hạ lí trí. Điều đó trở thành tự tử; điều đó trở thành đầu độc
chậm. Tôn giáo đã tự tử bởi vì nó bị mắc kẹt trong quan điểm thấp nhất về cuộc
sống - hạ lí trí. Tôi ngụ ý gì khi tôi dùng từ "hạ lí trí"? Chỉ là đức
tin mù quáng. Tôn giáo phát triển mạnh trên nó cho tới thế kỉ này vì không có kẻ
cạnh tranh, không có quan điểm cao hơn.
Khi khoa học đi vào hiện hữu, một
quan điểm cao hơn, trưởng thành hơn, hợp thức hơn đi vào trong sự tồn tại, có
xung đột. Tôn giáo trở thành e sợ, sợ hãi, bởi vì thái độ mới sẽ phá huỷ nó. Nó
trở nên phòng thủ. Nó trở nên ngày càng đóng hơn. Nó cố ngay từ đầu - bởi vì nó
mạnh, nó là thể chế được thiết lập - nó cố phá huỷ khoa học của Galilee, không
biết rằng những bước phá huỷ đó sẽ trở thành tự tử cho bản thân nó. Tôn giá bắt
đầu trận chiến lâu dài với khoa học - tất nhiên trận chiến thất bại.
Không quan điểm thấp hơn nào có
thể tranh đấu với quan điểm cao hơn được. Quan điểm thấp hơn nhất định thất bại
- hôm nay, ngày mai hay ngày kia. Trận chiến nhiều nhất có thể trì hoãn thất bại,
nhưng nó không thể tránh được thất bại. Bất kì khi nào một quan điểm cao hơn có
đó, quan điểm thấp hơn phải biến mất. Nó phải thay đổi; nó phải trở nên trưởng
thành hơn.
Tôn giáo chết bởi vì nó không
thể trở nên trưởng thành hơn. Tôn giáo bình thường, cái gọi là tôn giáo, đã chết
bởi vì nó không thể nâng bản thân nó lên mức độ của Patanjali. Patanjali là tôn
giáo và khoa học. Chỉ tôn giáo của Patanjali mới có thể sống còn. Ít hơn điều
đó sẽ không có tác dụng bây giờ. Con người đã nếm trải tâm thức cao hơn qua
khoa học, hợp thức hơn về chân lí. Bây giờ con người không thể bị ép buộc vẫn
còn mù quáng và mê tín; điều đó là không thể được. Con người đã đến tuổi lớn.
Con người không thể bị ép buộc là đứa trẻ theo cách cũ, và đó là điều tôn giáo
đã từng làm. Nó đã trở thành từ xấu, một cách tự nhiên.
Thái độ thứ hai, thái độ logic,
là quan điểm của Patanjali. Ông ấy không đòi hỏi tin vào bất kì cái gì. Ông ấy
nói phải thực nghiệm. Ông ấy nói rằng mọi thứ được nói đều là giả thuyết - bạn
phải chứng minh nó qua kinh nghiệm của bạn và không có chứng minh khác. Không
tin vào người khác và không vẫn còn với tri thức vay mượn.
Tôn giáo chết bởi vì nó trở
thành chỉ là tri thức vay mượn. Jesus nói, "Có Thượng đế," và người
Ki tô giáo tin. Krishna nói, "Có Thượng đế," và người Hindus tin. Và
Mohammed nói, "Có Thượng đế, và ta đã gặp ngài và ta đã nghe tiếng nói của
ngài." Và người Mô ha mét giáo tin. Đây là vay mượn. Patanjali khác ở đó.
Ông ấy nói, "Không kinh nghiệm của ai có thể là của ông được. Ông sẽ phải
kinh nghiệm. Chỉ thế - và chỉ thế thôi - chân lí mới được khải lộ cho
ông." Tôi đã đọc một giai thoại:
Hai lính Mĩ đang ngồi chồm hỗm
trong chiến hào ở Viễn Đông chờ đợi cuộc tấn công. Một người trong số họ rút ra
giấy và bút chì và bắt đầu viết một chữ, nhưng anh ta làm gẫy đầu bút chì. Quay
sang người lính kia anh ta nói, "Này, Mac, cậu có thể cho tớ mượn chiếc
bút bi của cậu được không?" Người này đưa cho anh ta chiếc bút bi.
"Này, Mac," người viết thư nói, "cậu có phong bì không?"
Người kia tìm được một phong bì nhầu nát trong túi và đưa nó cho. Người viết viết
nguệch ngoạc lên, rồi anh ta nhìn lên và nói, "Kiếm tem chứ?" Anh ta
được cho một tem. Anh ta gập bức thư lại, để nó vào trong phong bì, kẹp tem vào
trên trốc, rồi anh ta nói, "Này, Mac, địa chỉ bạn gái cậu là gì?"
Mọi thứ đều vay mượn - ngay cả
đến địa chỉ của bạn gái.
Địa chỉ mà bạn có về Thượng đế
là được vay mượn. Thượng đế đó có thể là bạn gái của Jesus, nhưng người đó
không phải là của bạn. Thượng đế đó có thể đã là một người yêu của Krishna,
nhưng người đó không phải là của bạn. Mọi thứ đều vay mượn - Kinh Thánh, Koran,
Gita. Làm sao người ta có thể tự lừa dối bản thân mình bằng kinh nghiệm vay mượn
được? Ngày này hay ngày khác toàn thể sự việc sẽ có vẻ ngớ ngẩn, vô nghĩa. Ngày
này hay ngày khác cái vay mượn sẽ trở thành gánh nặng. Nó sẽ làm bạn què quặt
và nghiền nát bạn. Điều này đã xảy ra.
Patanjali không tin vào kinh nghiệm
vay mượn. Ông ấy không tin vào niềm tin. Đó là thái độ khoa học của ông ấy. Ông
ấy tin vào kinh nghiệm, ông ấy tin vào thực nghiệm. Patanjali có thể được hiểu
bởi Galileo, bởi Einstein. Galileo và Einstein có thể được hiểu bởi Patanjali.
Họ là bạn lữ hành.
Tương lai thuộc vào Patanjali.
Nó không thuộc vào Kinh Thánh, nó không thuộc vào Koran, nó không thuộc vào
Gita: nó thuộc vào Kinh Yoga - bởi vì ông ấy nói trong cùng ngôn ngữ. Không chỉ
điều ông ấy nói, ông ấy thuộc vào cùng chiều hướng, cùng hiểu biết cuộc sống và
cùng cách tiếp cận logic.
Cũng có quan điểm thứ ba: đó là
siêu lí trí. Đó là quan điểm của Thiền. Xa xôi. Rất xa trong tương lai. Cái xa
xôi đó có vẻ giống như chỉ là tưởng tượng. Có thể tới một lúc mà Thiền có thể
trở thành tôn giáo thế giới, nhưng điều đó là rất, rất xa xôi, bởi vì Thiền là
siêu lí trí. Để tôi giải thích nó cho bạn.
Hạ lí trí, cái ở bên dưới lí
trí, cũng có hình tướng của siêu lí trí. Nó có vẻ giống siêu lí trí, nhưng nó
không giống siêu lí trí: nó là đồng tiền giả. Cả hai đều phi logic, nhưng theo
cách cực kì khác nhau. Khác biệt là sâu sắc, khác biệt là bao la. Hạ lí trí là
người sống dưới lí trí trong bóng tối của đức tin mù quáng, sống trong tri thức
vay mượn, không đủ bạo dạn để thực nghiệm, không đủ dũng cảm để đi vào trong
cái không biết của riêng người đó. Toàn thể cuộc sống của người đó là cuộc sống
vay mượn, không đích thực - đờ đẫn, xám xịt, không nhạy cảm. Người đã đi vào
siêu lí trí cũng phi logic, bất hợp lí, nhưng theo một nghĩa khác toàn bộ, cái
bất hợp lí của người đó đã hấp thu lí trí và đi lên cao hơn nó. Người đó đã
siêu việt lên trên lí trí.
Con người của hạ lí trí bao giờ
cũng sợ lí trí bởi vì lí trí bao giờ cũng tạo ra sự phòng thủ. Nó bao giờ cũng
tạo ra sợ hãi. Có nguy hiểm nếu lí trí thành công thế thì đức tin, thế thì niềm
tin, sẽ phải chết - người ta níu bám lấy nó chống lại lí trí. Con người của
siêu lí trí không sợ tính hợp lí. Người đó có thể vui mừng trong nó. Bình diện
cao hơn bao giờ cũng chấp nhận bình diện thấp hơn - không chỉ chấp nhận: nó có
thể hấp thu bình diện thấp hơn; nó có thể nuôi dưỡng bình diện thấp hơn. Nó có
thể đứng trên vai của bình diện thấp hơn. Nó có thể dùng bình diện thấp hơn.
Cái thấp hơn bao giờ cũng sợ cái cao hơn.
Phi lí là thứ trừ bớt đi - lí
trí bớt đi. Siêu lí trí là thứ thêm vào - lí trí thêm vào. Hạ lí trí là đức
tin. Siêu lí trí là tin cậy - tin cậy qua kinh nghiệm. Nó không phải là vay mượn:
nhưng con người của siêu lí trí đã đi tới hiểu rằng cuộc sống là nhiều hơn lí
trí. Lí trí được chấp nhận: không có phủ nhận về nó. Lí trí là tốt khi nó diễn
ra, nó phải được dùng, nhưng cuộc sống không bị kết thúc ở đó. Đây không phải
là biên giới của cuộc sống: cuộc sống là điều lớn lao hơn. Lí trí là một phần của
nó - đẹp nếu nó vẫn còn trong sự thống nhất hữu cơ của cái toàn thể; xấu nếu nó
trở thành hiện tượng tách rời và bắt đầu vận hành theo cách riêng của nó. Nếu
nó trở thành hòn đảo, thế thì xấu. Nếu nó vẫn còn là một phần của lục địa bao
la của hiện hữu, thế thì đẹp: nó có cái dụng của nó.
Con người của siêu lí trí không
chống lại điều hợp lí: người đó ở ngoài hợp lí. Người đó thấy rằng hợp lí và
phi lí cả hai đều là một phần của cuộc sống như ngày và đêm, như sống và chết.
Với người đó các đối lập đã biến mất và chúng đã trở thành phần bù.
Thiền là thái độ siêu việt.
Patanjali là thái độ rất logic. Nếu bạn đi cùng Patanjali dần dần trong các đỉnh
tối thượng bạn sẽ đạt tới siêu lí trí. Thực ra như người tôn giáo bình thường sợ
khoa học và lí trí và logic; những người níu bám vào thái độ khoa học, họ sợ
Thiền. Bạn có thể đọc cuốn sách của Arthur Koestler, một người rất logic, nhưng
dường như là trong cùng cảnh ngộ với người tôn giáo bình thường. Bây giờ logic
đã trở thành tôn giáo cho người đó: người đó sợ Thiền. Bất kì cái gì người đó
viết về Thiền đều có sự run rảy trong đó, nỗi sợ, e sợ - vì Thiền phá huỷ mọi
phân loại.
Người Ki tô giáo, Hindu giáo,
Mô ha mét giáo thông thường, họ ở dưới lí trí. Người Ki tô giáo phi thường -
Eckhart, Bohme - người Sufi, Kabir, họ ở ngoài lí trí.
Patanjali có thể là chiếc cầu
cho người thường, người tôn giáo thường, đi tới Thiền. Ông ấy là chiếc cầu;
không có cầu khác. Patanjali là nhà khoa học của cái bên trong. Con người có thể
sống hai kiểu cuộc sống, một kiểu hướng ngoại, cuộc sống của điều bên ngoài; và
con người có thể sống kiểu sống khác, cuộc sống hướng nội, cuộc sống của điều
bên trong. Patanjali là cây cầu. Điều ông ấy gọi là sanyama là sự cân bằng giữa
hướng ngoại và hướng nội để đi tới cân bằng tới mức bạn đứng ở giữa; bạn có thể
đi ra, bạn có thể đi vào; không cái gì chắn đường bạn; bạn sẵn có cho cả hai thế
giới.
Theo nghĩa đó Patanjali là nhà
khoa học lớn hơn Einstein. Một ngày nào đó hay một Einstein khác sẽ phải học từ
Patanjali. Patanjali không có gì để học từ Einstein vì bất kì cái gì bạn biết về
thế giới bên ngoài vẫn còn, nhiều nhất, là thông tin thôi. Nó không bao giờ có
thể trở thành tri thức thực, bởi vì bạn vẫn còn ở bên ngoài nó. Tri thức thực
là có thể chỉ khi bạn phải đi tới chính cội nguồn của việc biết - và ở đó xảy
ra phép màu lớn nhất, và nhiều phép màu.
Phép màu vĩ đại nhất là khoảnh
khắc bạn đi tới chính cội nguồn của việc biết, bạn biến mất. Bạn càng tới gần cội
nguồn, bạn càng bắt đầu biến mất. Một khi được định tâm, bạn không còn nữa; và
vậy mà, lần đầu tiên bạn hiện hữu. Bạn không còn nữa như bạn vẫn nghĩ về bản
thân bạn. Bạn không còn là bản ngã, trò đó qua rồi. Lần đầu tiên bạn là sự hiện
hữu.
Và với điều này, phép màu vĩ đại
nhất đã xảy ra cho bạn, bạn đã về tới nhà. Đó là điều Patanjali gọi là samadhi.
Samadhi, nghĩa là mọi vấn đề đều được giải quyết, mọi câu hỏi đều tan biến, mọi
lo âu đều được giải quyết. Người ta đã về nhà. Trong nghỉ ngơi toàn bộ, trong lặng
lẽ, không cái gì quấy nhiễu, không cái gì sao lãng. Bây giờ bạn sẵn có để tận
hưởng. Bây giờ mọi khoảnh khắc đều trở thành vui mừng cực độ.
Điều đầu tiên tôn giáo bị móc
vào trong hạ lí trí. Điều thứ hai cái gọi là người tôn giáo trở nên ngày càng
không đích thực - mọi niềm tin của họ trở thành vay mượn. Và điều thứ ba thế giới
trở thành quá nôn nóng. Mọi người đều trong vội vàng thế - chẳng đi đâu, nhưng
trong vội vàng lớn. Di chuyển nhanh hơn và nhanh hơn và nhanh hơn và nhanh hơn.
Đừng hỏi họ, "Anh đi đâu thế?" bởi vì điều đó trở thành điều gây bối
rối. Đừng hỏi họ. Chỉ hỏi, "Anh đi nhanh thế nào?" Hỏi, "Anh
đang đi đâu?" là bất lịch sự, thiếu lễ độ, bởi vì không ai biết mình đang
đi đâu.
Mọi người đều vội vàng, và tôn
giáo như cái cây cần kiên nhẫn. Nó cần kiên nhẫn vô hạn. Nó cần không vội vàng.
Nếu bạn vội vàng, bạn sẽ bỏ lỡ tôn giáo là gì. Tại sao vội vàng lớn thế này đã
được tạo ra trong cuộc sống hiện đại? Nó đã tới từ đâu? Bởi vì trong vội vàng
thế bạn có thể, nhiều nhất, chơi với mọi thứ; bạn có thể nhiều nhất chơi với
các đối thể. Tính chủ thể cần kiên nhẫn lâu dài, chờ đợi. Nó trưởng thành,
nhưng không vội vàng. Nó không phải là hoa theo mùa vụ. Bạn không thể có được
nó và trong một tháng nó nở hoa. Cần thời gian. Nó là cây vĩnh hằng của cuộc sống.
Bạn không thể làm nó trong vội vàng được.
Đó là lí do tại sao, ngày càng
nhiều người trở nên quan tâm tới đồ vật, bởi vì bạn có thể có được chúng ngay lập
tức, và mọi người trở nên ngày càng ít quan tâm tới người. Với người riêng của
mình họ cũng không có quan hệ, và với người của người khác họ cũng không có
quan hệ. Thực ra mọi người dùng con người như đồ vật và mọi người yêu thích đồ
vật như con người.
Tôi biết một người nói người đó
yêu xe ô tô của mình. Người đó không thể chắc chắn vậy về vợ mình - người đó
không chắc. Người đó không thể nói chắc chắn thế, "Tôi yêu vợ tôi,"
nhưng người đó yêu xe của mình. Người đó dùng vợ và yêu xe. Toàn thể sự việc đã
bị lộn ngược trên xuống.
Dùng vật, yêu người. Nhưng để
yêu người khác, trước hết bạn sẽ phải trở thành một người. Điều đó cần thời
gian, điều đó cần chuẩn bị lâu dài.
Đó là lí do tại sao mọi người
trở nên sợ khi họ đọc Patanjali, điều đó dường như là một quá trình dài. Nó là
vậy. Tôi đã đọc.
Chuyện xảy ra là một người bị mất
ngủ đã vui mừng khi bác sĩ cho anh ta đơn thuốc không đắt để thu lại giấc ngủ.
"Ăn một quả táo trước khi đi ngủ," bác sĩ nói. "Tuyệt vời!"
bệnh nhân bắt đầu ra về.
"Đợi đã, chưa hết
đâu." Bác sĩ báo trước. "Nó phải ăn theo cách nào đó đấy." Người
mất ngủ dừng lại để nghe phần còn lại của đơn thuốc. "Cắt quả táo ra làm
đôi," bác sĩ nói. "Ăn một nửa, rồi mặc áo khoác và đội mũ vào và đi
ra ngoài dạo và đi bộ ba dặm. Khi anh quay về nhà, ăn nốt nửa kia."
Không lối tắt nào tồn tại. Đừng
bị lừa bởi lối tắt: cuộc sống không biết tới lối tắt. Nó là con đường dài, và
đường dài có nghĩa nào đó, bởi vì chỉ trong việc chờ đợi lâu dài đó bạn mới trưởng
thành, và bạn trưởng thành dần.
Tâm trí hiện đại là quá vội
vàng. Tại sao? Vội vàng là gì? Bởi vì tâm trí hiện đại định tâm vào bản ngã quá
nhiều. Từ đó mà vội vàng tới. Bản ngã bao giờ cũng sợ chết - và sợ là tự nhiên
bởi vì bản ngã sẽ chết. Không ai có thể cứu được nó. Bạn có thể bảo vệ nó trong
một thời gian, nhưng không ai có thể cứu được nó mãi mãi. Nó sẽ chết. Bạn như sự
tách rời sẽ phải chết, và bạn càng cảm thấy rằng bạn là tách rời khỏi sự tồn tại,
khỏi tính toàn bộ, bạn càng trở nên sợ hơn. Nỗi sợ tới bởi vì sự tách rời. Bạn
càng trở thành cá nhân, càng đầy lo âu hơn.
Ở phương Đông nơi mọi người
không nhiều tính cá nhân thế, nơi mọi người vẫn trong trạng thái nguyên thuỷ,
nơi mọi người vẫn là một phần của tập thể, nơi tính cá nhân không được nhấn mạnh
nhiều thế; họ không vội vàng. Họ di chuyển chậm, họ để thời gian: họ tận hưởng
cuộc hành trình. Ở phương Tây nơi bản ngã được nhấn mạnh quá nhiều và mọi người
bắt đầu là cá nhân thì ngày càng nhiều lo âu, ngày càng nhiều bệnh tinh thần,
ngày càng nhiều run rẩy và sợ và phiền não, ngày càng nhiều e sợ về cái chết. Bạn
càng là cá nhân, bạn sẽ càng đi tới chết. Cái chết bao giờ cũng cùng tỉ lệ với
tính cá nhân của bạn vì chỉ cá nhân chết.
Vũ trụ bên trong bạn liên tục sống.
Nó không thể chết được. Nó có đó trước khi bạn được sinh ra, nó sẽ có đó khi bạn
đi rồi. Tôi đã nghe một giai thoại rất hay
"Vâng," một người
khoác lác nói, "gia đình tôi có thể dõi vết tổ tiên về tới người đi trên
con thuyền Mayflower*."
"Tôi cho là," bạn anh
ta nhận xét, một cách châm biếm, "tiếp nữa anh sẽ kể cho chúng tôi rằng tổ
tiên anh đã ở trên con thuyền cùng Noah."
"Chắc chắn không."
Người kia nói. "Người của tôi có thuyền riêng của họ chứ."
Bản ngã tiếp diễn mãi mãi, phân
tách bạn. Việc phân tách này là nguyên nhân của cái chết.
Thế thì bạn trong vội vàng bởi vì
cái chết đang tới - cuộc sống ngắn ngủi, thời gian ngắn ngủi, nhiều điều phải
làm. Ai có thời gian để thiền? Ai có thời gian để đi vào trong thế giới của
yoga? Mọi người nghĩ những điều này chỉ dành cho người gàn. Ai quan tâm tới Thiền?
Bởi vì nếu bạn thiền bạn sẽ phải đợi hết năm nọ tới năm kia trong rất mạnh mẽ,
đam mê, nhưng thụ động, nhận biết. Bạn sẽ phải liên tục chờ đợi. Với tâm trí
phương Tây - hay với tâm trí hiện đại bởi vì tâm trí hiện đại là phương Tây - với
tâm trí hiện đại điều này dường như là phí thời gian cực kì. Đó là lí do tại
sao hoa của tôn giáo đã trở thành không thể được.
Mọi người cứ giả vờ rằng họ có
tính tôn giáo, nhưng họ né tránh tôn giáo thực. Điều đó đã trở thành nghi thức
xã hội. Mọi người đi tới nhà thờ, tới đền chùa, chỉ để cho trịnh trọng. Không
ai nhận tôn giáo một cách chân thành - * Mayflower là con thuyền vào năm 1620
đã chở 102 người Anh hành hương (Pilgrim) tới New England.
Bởi vì ai có thời gian? Cuộc sống
ngắn ngủi và nhiều thứ phải làm. Mọi người quan tâm nhiều hơn tới đồ vật, có xe
lớn hơn, có nhà lớn hơn, có nhiều tiền hơn trong số dư ngân hàng. Mọi người đã
hoàn toàn quên mất rằng công việc thực là có nhiều bản thể hơn. Công việc thực
của cuộc sống là có nhiều bản thể hơn - không nhiều số dư ngân hàng hơn, bởi vì
số dư ngân hàng sẽ vẫn còn đây. Bạn sẽ mất đi. Chỉ bản thể của bạn có thể đi
cùng bạn.
Yoga là khoa học của bản thể
bên trong nhất của bạn, khoa học về tính chủ thể, khoa học về cách trưởng thành
nhiều hơn, cách hiện hữu nhiều hơn... cách thực sự trở thành thượng đế để cho bạn
là một với cái toàn thể. Bây giờ là kinh.
Qua sanyama hình ảnh xâm chiếm
tâm trí của người khác có thể được biết.
Nếu bạn đạt tới nhất tâm, nếu bạn
đạt tới samadhi, và nếu bạn trở thành im lặng sâu sắc tới mức không một ý nghĩ
thoáng qua trong tâm trí bạn: bạn trở nên có khả năng thấy hình ảnh trong tâm
trí của người khác. Bạn có thể đọc được ý nghĩ của họ.
Tôi đã nghe một chuyện cười rằng
hai người yogis gặt nhau. Cả hai đều đạt tới samadhi. Không có gì để nói cả,
nhưng người ta phải nói gì đó khi bạn gặp nhau chứ. Một yogi nói, "Tôi muốn
chia sẻ một chuyện cười với anh. Chuyện rất cổ. Ngày xưa - " Và người kia
bắt đầu cười.
Đó là toàn thể chuyện cười. Người
đó có thể kể toàn thể chuyện cười mà không thốt ra lời.
Nếu bạn im lặng, qua im lặng của
bạn, bạn trở nên có khả năng nhìn vào trong tâm trí của người khác.
Không phải là bạn phải nhìn,
không phải là bạn nên làm điều đó. Patanjali nói mọi thứ tới trên đường. Thực
ra người yogi thực chưa bao giờ làm điều đó bởi vì đó là xâm phạm vào tự do của
người khác, đó là vi phạm vào quyền riêng tư của người khác, nhưng nó xảy ra.
Và Patanjali trong chương này
"Vibhuti Pada" đang nói về mọi phép màu này không phải là người ta
nên cố gắng đạt tới chúng, nhưng để làm cho bạn nhận biết và tỉnh táo rằng
chúng xảy ra và không bị chúng bắt giữ, và không dùng chúng - bởi vì một khi bạn
bắt đầu dùng chúng, trưởng thành của bạn dừng lại. Năng lượng vậy bị kẹt lại ở
đó. Đừng dùng chúng. Những lời kinh này là để làm cho bạn tỉnh táo và nhận biết
rằng những điều này sẽ xảy ra, và có xu hướng trong tâm trí, cám dỗ dùng chúng.
Ai không thích nhìn vào tâm trí của người khác? Bạn có quyền năng vô cùng trên
người khác, nhưng yoga không phải là trò quyền năng, và người yogi thực sẽ
không bao giờ làm điều đó.
Nhưng nó xảy ra. Có những người
cố đạt tới nó, và nó có thể được đạt tới. Nó có thể được đạt tới ngay cả không
có tính tôn giáo. Ngay cả không là đệ tử thực của yoga, nó có thể được đạt tới.
Thỉnh thoảng nó xảy ra chỉ bởi
ngẫu nhiên nữa. Nếu tâm trí bạn đi tới trạng thái im lặng theo bất kì cách nào,
bạn có khả năng nhìn vào trong hình ảnh của tâm trí người khác, bởi vì khi tâm
trí bạn im lặng, tâm trí của người khác là không rất xa xôi gì. Nó là rất gần.
Khi tâm trí bạn bị chen chúc bởi các ý nghĩ thế thì tâm trí người khác là rất
xa xôi bởi vì đám đông các ý nghĩ riêng của bạn làm sao lãng bạn. Tiếng ồn của
lưu thông bên trong của bạn là nhiều thế, bạn không thể nghe được ý nghĩ của
người khác.
Bạn có quan sát điều đó không?
Thỉnh thoảng người thường, không liên quan tới thiền, không liên quan tới yoga
hay bất kì quyền năng viễn cảm hay bất kì nhạy cảm siêu hình nào, họ thỉnh thoảng
cũng nhận biết về những điều xảy ra cho họ. Chẳng hạn, nếu một đôi yêu nhau sâu
sắc, dần dần họ trở thành hoà hợp với nhau, họ bắt đầu trở nên nhận biết về ý
nghĩ của người kia. Vợ trở nên nhận biết về điều đang chuyển trong tâm trí chồng.
Cô ấy có thể không nhận biết về về nhận biết này, nhưng theo cách tinh tế cô ấy
bắt đầu cảm thấy điều đang xảy ra cho tâm trí của chồng. Cô ấy có thể không rõ
ràng, nó có thể là bức tranh lẫn lộn, có thể không hội tụ, có thể hơi bị mờ,
nhưng những người yêu dần dần trở nên nhận biết về năng lực nào đó để cảm thấy
người kia. Người mẹ, nếu cô ấy yêu đứa con, trở nên nhận biết về nhu cầu của
con - không được thốt ra.
Có con đường ở đâu đó qua đó bạn
được kết nối với người khác. Chúng ta được kết nối với cái toàn thể.
Patanjali nói, "Qua
sanyama," đạt tới nhất tâm, tới cân bằng bên trong, tới samadhi, tới im lặng
và tĩnh lặng, "hình ảnh xâm chiếm tâm trí của người khác có thể được biết."
Bạn chỉ phải hội tụ bản thân bạn hướng tới người khác. Trong im lặng sâu bạn phải
nhớ tới người khác. Trong im lặng sâu bạn phải nhìn vào người khác, và ngay lập
tức bạn sẽ thấy tâm trí người đó mở ra trước bạn như cuốn sách.
Nhưng không cần làm điều đó. Bởi
vì một khi điều này trở thành có thể, nhiều khả năng khác bao quanh nó. Bạn có
thể can thiệp bạn có thể chỉ đạo ý kiến của người khác. Bạn có thể đi vào trong
ý nghĩ của người khác và để ý nghĩ của bạn vào đó. Bạn có thể thao túng người
khác và người đó sẽ không bao giờ trở nên nhận biết rằng người đó đã bị thao
túng và người đó sẽ nghĩ người đó đang theo ý nghĩ riêng của mình. Nhưng những
điều này là không nên được thực hiện.
Nhưng cảm nhận qua sanyama
không đem tới tri thức về các yếu tố tinh thần hỗ trợ cho hình ảnh trong tâm
trí của người khác vì đó không phải là đối thể của sanyama.
Bạn có thể thấy hình ảnh - điều
đó không có nghĩa là bạn sẽ thấy lí do nữa. Với lí do bạn sẽ phải đi sâu thêm nữa.
Chẳng hạn, bạn thấy ai đó và bạn có thể thấy hình ảnh bên trong tâm trí; kiểu
như, có một hình ảnh về mặt trăng, trăng tròn đẹp bao quanh bởi mây trắng. Bạn
có thể thấy hình ảnh, điều này là được, nhưng bạn không biết lí do tại sao hình
ảnh có đó. Nếu người đó là hoạ sĩ, động cơ sẽ khác. Nếu người đó là người yêu,
động cơ có thể khác. Nếu người đó là nhà khoa học, động cơ có thể lại khác.
Động cơ của người đó là gì, tại
sao hình ảnh này có đó - chỉ bởi quan sát hình ảnh bạn không thể biết được động
cơ. Động cơ là tinh tế hơn hình ảnh. Hình ảnh là thứ thô. Nó có đó trên màn ảnh
của tâm trí của người khác, bạn có thể thấy nó, nhưng tại sao nó có đó? Tại sao
ngay chỗ đầu tiên nó đã xảy ra? Tại sao người kia nghĩ về trăng? Người đó có thể
là hoạ sĩ, nhà thơ - người hâm hâm. Chỉ bằng việc nhìn vào hình ảnh bạn không
trở nên nhận biết về động cơ. Với động cơ bạn sẽ phải đi sâu hơn trong bạn.
Động cơ được biết chỉ khi bạn đạt
tới samadhi vô hạt mầm, không trước đó, bởi vì động cơ là tinh tế thế. Nó không
có hình ảnh, không cái gì thấy được; nó là ham muốn vô hình trong vô thức sâu của
con người. Khi bạn đã trở nên hoàn toàn nhận biết và ham muốn của bạn đã tan biến...
Nhìn đi. Khi ý nghĩ của bạn tan biến bạn trở nên có khả năng đọc ý nghĩ của người
khác: khi ham muốn của bạn tan biến bạn trở nên có khả năng đọc ham muốn của
người khác.
Bằng việc thực hiện sanyama
trên hình dạng của thân thể để ngừng quyền năng cảm nhận, tiếp xúc giữa mắt của
người quan sát và ánh sáng từ thân thể bị phá vỡ, và thân thể trở thành vô
hình.
Bạn phải đã nghe các câu chuyện
về người yogi người có thể trở thành vô hình. Patanjali thử qui mọi thứ về luật
khoa học; ông ấy nói cũng không có phép màu ở đó. Một người có thể trở thành vô
hình bởi hiểu biết nào đó về luật nào đó. Luật đó là gì?
Bây giờ vật lí nói nếu bạn thấy
tôi bạn đang thấy chỉ bởi vì tia sáng mặt trời chiếu lên tôi và thế rồi chúng
chuyển động, phản xạ từ tôi. Những tia sáng mặt trời đó rơi lên mắt bạn, đó là
lí do tại sao bạn thấy tôi. Nếu có cách nào đó, nếu tôi có thể hấp thu tia sáng
mặt trời và chúng không phản xạ, bạn sẽ không có khả năng thấy tôi. Bạn có thể
thấy chỉ nếu tia sáng mặt trời đi tới tôi. Nếu có bóng tối và không có tia sáng
mặt trời tới, bạn không thể thấy tôi được. Nhưng nếu tôi có thể hấp thu mọi tia
sáng mặt trời và không cái gì được phản xạ lại, bạn sẽ không có khả năng thấy
tôi. Bạn sẽ chỉ thấy mảnh tối.
Đó là điều vật lí hiện đại cũng
nói; đó là cách chúng ta thấy mầu sắc. Chẳng hạn, bạn đang mặc đồ da cam; tôi
có thể thấy rằng bạn đang mặc đồ da cam. Điều đó ngụ ý gì? Nó đơn giản ngụ ý rằng
quần áo của bạn đang phản xạ tia da cam ngược lại. Mọi tia khác bị hấp thu bởi
quần áo bạn. Duy nhất tia mầu da cam được phản xạ. Khi bạn thấy trắng điều đó
nghĩa là mọi tia đều được phản xạ ngược lại. Trắng không phải là mầu; mọi mầu đều
được phản xạ ngược lại. Trắng là mọi mầu cùng nhau. Nếu bạn trộn mọi mầu chúng
trở thành trắng, cho nên trắng là mọi mầu; nó không phải là một mầu. Và nếu bạn
dùng bộ đồ đen thế thì không cái gì được phản xạ ngược lại; mọi tia sáng đều bị
hấp thu. Đó là lí do tại sao quần áo của bạn có vẻ đen. Đen cũng không phải là
một mầu; nó là không mầu, mọi tia sáng đều bị hấp thu. Đó là lí do tại sao nếu
bạn dùng mầu đen ở các quốc gia nóng, bạn sẽ cảm thấy cực kì nóng. Đừng dùng mầu
đen và đi trong mặt trời nóng. Bạn sẽ cảm thấy rất nóng vì đen liên tục hấp thu
mọi thứ. Trắng mát hơn. Nhìn vào mầu trắng, có mát mẻ. Dùng mầu trắng bạn cảm
thấy mát mẻ bởi vì không cái gì bị hấp thu, mọi thứ được phản xạ ngược lại.
Ở Ấn Độ, Jaina giáo đã chọn màu
trắng làm mầu của họ vì việc từ bỏ - vì nó từ bỏ tất cả. Mầu trắng từ bỏ tất cả.
Nó cho lại mọi thứ, không hấp thu cái gì. Chết được mô tả ở mọi nơi là đen vì
nó hấp thu mọi thứ. Không cái gì đi ra từ nó, mọi thứ tan biến vào trong nó và
biến mất. Nó là lỗ đen. Quỉ được mô tả ở mọi nơi là đen, ác được mô tả ở mọi
nơi là đen, vì nó không có khả năng từ bỏ cái gì. Nó quá sở hữu. Nó không thể
cho cái gì: nó không thể chia sẻ.
Người Hindus đã chọn mầu da cam
làm mầu của họ bởi lí do nào đó, bởi vì tia đỏ được phản xạ ngược lại. Tia đỏ
đi vào thân thể tạo ra dâm dục, bạo hành. Đỏ là mầu của bạo hành, của máu. Tia
đỏ đi vào thân thể tạo ra bạo hành, dâm dục, đam mê, rối loạn. Bây giờ các nhà
khoa học nói rằng nếu bạn bị bỏ lại trong phòng toàn đồ mầu đỏ, trong vòng bẩy
ngày bạn sẽ phát điên. Không cái gì khác được cần; chỉ nhìn mọi thứ đỏ liên tục
trong bẩy ngày. Mọi thứ đều đỏ - rèm, đồ đạc. Mọi thứ đều đỏ, các bức tường.
Trong vòng bẩy ngày bạn sẽ phát điên; mầu đỏ sẽ quá nhiều. Người Hindus đã chọn
mầu đỏ, và bóng của đỏ - da cam, nâu nhạt, và những mầu khác - bởi vì chúng
giúp cho bạn trở nên ít bạo hành hơn. Tia đỏ được phản xạ ngược lại; nó không
đi vào thân thể.
Patanjali nói rằng một người có
thể trở thành vô hình nếu người đó có thể hấp thu mọi tia sáng rơi lên người
đó. Bạn sẽ không có khả năng thấy người đó. Bạn có thể có khả năng thấy chỉ cái
trống rỗng, trống rỗng đen, nhưng người này sẽ trở thành vô hình. Làm sao điều
đó xảy ra cho người yogi? Thỉnh thoảng nó xảy ra. Thỉnh thoảng nó xảy ra và người
yogi không nhận biết về nó. Để tôi giải thích cho bạn cơ chế của nó.
Trong hệ thống tư tưởng của
Patanjali có một tương ứng sâu sắc giữa thế giới bên ngoài và thế giới bên
trong. Nó phải vậy; chúng là cùng nhau. Có ánh sáng; ánh sáng tới từ mặt trời.
Mắt bạn cảm nhận với nó. Nếu mắt bạn không cảm nhận nó, mặt trời có thể có đó,
nhưng bạn sẽ trong bóng tối. Đó là điều xảy ra cho người mù - mắt người đó
không cảm nhận. Cho nên mắt bạn bằng cách nào đó tương ứng với mặt trời. Trong
thân thể bạn mắt đại diện cho mặt trời; chúng được nối cùng nhau. Mặt trời ảnh
hưởng lên mắt; mắt nhạy cảm hướng tới nó. Âm thanh ảnh hưởng lên tai bạn. Âm
thanh là bên ngoài; tai là trong bạn.
Thực tại bên ngoài được biết là
tattva, yếu tố, và cái tương ứng bên trong được biết là tanmatra. Trong hệ thống
của Patanjali hai điều này là rất bản chất để được hiểu. Tattva là thực tại bên
ngoài, mặt trời, và cái tương ứng với nó là cái gì đó trong mắt bạn, điều ông ấy
gọi là tanmatra, phần tử bản chất bên trong bạn. Đó là lí do tại sao có đối thoại
giữa mắt và mặt trời, giữa âm thanh và tai, giữa mũi và mùi. Có tương ứng, vô
hình; cái gì đó được nối và được bắc cầu.
Khi người ta đi tiếp vào thiền
và đi tới hiểu lỗ hổng, nirodh, thế rồi tích luỹ các lỗ hổng, samadhi, thế rồi
nảy sinh nhất tâm, Ekagrata parinam; thế thì người ta có thể nhìn vào trong
tanmatras, yếu tố bên trong, yếu tố tinh tế. Bạn đã thấy mặt trời bằng mắt,
nhưng bạn đã không thấy mắt bạn cho tới giờ. Chỉ trong trống rỗng sâu sắc người
ta mới trở nên tỉnh táo và có thể thấy mắt riêng của mình. Bạn đã nghe âm
thanh, nhưng bạn đã không nghe tai của bạn đáp ứng cho nó. Rung động đi tới tai
bạn, rung động tinh tế, bạn chưa nghe thấy điều đó. Nó quá tinh tế và bạn quá
thô. Bạn còn chưa được mịn thế. Bạn không thể nghe thấy âm nhạc tinh tế. Bạn đã
ngửi hoa hồng, nhưng bạn chưa có khả năng ngửi yếu tố tinh tế trong bạn, cái ngửi
hoa hồng, tanmatra.
Người yogi trở nên có khả năng
lắng nghe âm thanh bên trong, cái là im lặng; của việc thấy mắt, mắt bên trong,
chính là linh ảnh thuần khiết. Và có cơ chế của việc trở thành vô hình "Bằng
việc thực hiện sanyama trên hình dạng của thân thể..."
Nếu người yogi chỉ tập trung
vào hình dạng của thân thể người đó, hình dạng riêng của thân thể của người đó,
chỉ bằng việc tập trung đó vào hình dạng, tia sáng mặt trời bị hấp thu trong
hình dạng và chúng không được phản xạ ngược lại. Khi bạn tập trung vào hình dạng,
hình dạng mở ra. Mọi cánh cửa mở ra và tia sáng mặt trời đi vào trong hình dạng
và tanmatra của hình dạng của bản thân bạn hấp thu tattva của mặt trời, và đột
nhiên không ai có thể thấy bạn. Bởi vì để thấy, ánh sánh phải được phản xạ.
Cùng điều đó xảy ra cho âm
thanh:
Nguyên lí này cũng giải thích sự
biến mất của âm thanh.
Khi người yogi tập trung vào
tanmatra bên trong nhất của tai mình, mọi âm thanh đều bị hấp thu. Và khi âm
thanh bị hấp thu, chính sự hiện diện của người yogi sẽ cho bạn linh cảm nào đó
về im lặng bao quanh bạn. Nếu bạn đi tới người yogi đột nhiên bạn sẽ thấy bạn
đang đi vào trong im lặng. Người đó không tạo ra âm thanh nào quanh mình. Ngược
lại, mọi âm thanh rơi lên người đó đều bị hấp thu. Và điều này xảy ra cho mọi
giác quan của người đó. Người đó trở thành vô hình theo nhiều cách.
Đây là tiêu chí khi bạn tới gặp
người yogi. Đây là tiêu chí. Không phải là người đó cố gắng làm những điều đó
đâu. Người đó sẽ không làm chúng; người đó tránh chúng. Nhưng thỉnh thoảng
chúng xảy ra. Thỉnh thoảng ngồi cùng thầy...
Điều đó xảy ra cho nhiều người ở
đây; họ viết cho tôi. Mới hôm nọ có một câu hỏi, "Quan sát thầy, điều gì xảy
ra? Tôi có phát rồ không? Thỉnh thoảng thầy biến mất." Nếu bạn cứ quan sát
tôi sẽ có những khoảnh khắc khi bạn bạn thấy tôi biến mất. Lắng nghe lời tôi, nếu
bạn cứ tập trung vào chúng, đột nhiên bạn sẽ trở nên nhận biết rằng chúng đang
đi ra từ im lặng. Và khi bạn cảm thấy điều đó, thế thì bạn đã cảm thấy tôi,
không trước điều đó.
Không phải là cái gì đã được
làm. Thực ra người yogi chưa bao giờ làm cái gì cả. Người đó đơn giản vẫn còn
trong bản thể người đó và mọi sự cứ xảy ra. Thực ra người đó tránh, những dầu vậy,
thỉnh thoảng, mọi sự xảy ra. Phép màu theo sau. Không có phép màu, nhưng phép
màu đi theo sau người đã đạt tới samadhi; chúng cứ xảy ra. Giống như cái bóng
chúng đi theo người đã đạt tới không gian bên trong.
Đây là điều tôi gọi là khoa học
của tôn giáo. Patanjali đã đặt nền móng. Nhiều điều phải được làm. Ông ấy chỉ mới
cho cấu trúc khung - nhiều thứ phải được lấp vào trong chỗ hổng. Nó mới chỉ là
cấu trúc bê tông. Tường phải được xây lên, phòng phải được làm ra. Bạn không thể
sống trong cấu trúc bê tông khung được. Nó phải được làm thành nhà, nhưng ông ấy
đã cho cấu trúc cơ sở.
Năm nghìn năm và cấu trúc cơ sở
vẫn còn cơ sở: nó chưa trở thành chỗ trú ngụ của con người. Con người còn chưa
sẵn sàng.
Con người cứ chơi với đồ chơi,
và cái thực cứ chờ đợi - chờ đợi bất kì khi nào bạn trở nên đủ trưởng thành bạn
sẽ dùng nó. Không ai khác chịu trách nhiệm cho nó; chúng ta chịu trách nhiệm. Từng
người chịu trách nhiệm cho việc ngủ bao la này đang bao quan trái đất. Như tôi
thấy nó giống như sương mù bao quanh toàn thể trái đất, và con người ngủ say.
Tôi đã nghe, một ngày nào đó chuyện xảy ra.
Một người theo chủ nghĩa cải
lương rất mẫn cán hỏi một người say đang lảo đảo mò mẫn trên đường, "Ông bạn
đáng thương, điều gì làm cho ông say tới mức này?"
Người say hạnh phúc nói líu
nhíu, "Chẳng ai dẫn lái tôi cả, thưa bà. Tôi là người tự nguyện."
Một cách tự nguyện, con người ở
trong bóng tối. Một cách tự nguyện, bạn ở trong bóng tối. Không ai buộc bạn ở
đó. Đây là trách nhiệm của bạn thoát ra khỏi nó. Đừng trách Satan và quỉ rằng
chúng đã làm biến chất bạn. Không có ai làm biến chất bạn cả. Đó là bạn thôi.
Và một khi bạn ngủ thì mọi thứ bạn nhìn đều bị bóp méo - mọi thứ bạn chạm đều bị
bóp méo, mọi thứ vào tay bạn đều trở thành bẩn.
Hai người say đang bước về nhà
dọc đường sắt, bước lảo đảo từ tà vẹt nọ sang tà vẹt kia. Đột nhiên người đi
trước nói. "A, Trevor, khốn nạn nếu đây không phải là dãy bậc thang dài nhất
mà tao đã từng bò lên."
Bạn anh ta gọi lại. "Tao
không quan tâm tới bậc thang, George, nhưng lan can thấp quá mới là địa ngục."
Chúng ta cứ say khướt, say với
bản ngã, say với sở hữu, say với đồ vật, dốt nát về thực tại; và bất kì cái gì
chúng ta thấy cũng đều bị bóp méo. Việc bóp méo này tạo ra thế giới ảo tưởng.
Thế giới này không phải là ảo tưởng. Nó là vậy bởi vì tâm trí say của chúng ta
thế giới là ảo tưởng. Một khi say của chúng ta biến mất, thế giới chói sáng lộ
ra như hiện tượng đẹp vô cùng - thế giới trở thành Thượng đế.
Thượng đế và thế giới không phải
là hai. Chúng dường như là hai bởi vì chúng ta ngủ. Một khi bạn thức chúng là một.
Và một khi bạn thấy cái đẹp tuyệt diệu đang bao quanh bạn, mọi buồn, mọi thất vọng,
mọi phiền não biến mất. Thế thì bạn sống trong chiều khác toàn bộ của phúc
lành.
Yoga không là gì ngoài cách
nhìn vào thế giới với con mắt tỉnh táo... và thế giới trở thành Thượng đế.
Không cần tìm Thượng đế ở bất kì chỗ nào khác. Thực ra quên về Thượng đế đi -
chỉ trở nên tỉnh táo hơn. Trong tỉnh táo của bạn Thượng đế được sinh ra; trong
giấc ngủ của bạn ngài bị mất. Thượng đế không bị mất; chỉ bạn bị mất. Trong giấc
ngủ của bạn, bạn quên bạn là ai.
Samadhi là nhận biết đi tới cực
đỉnh của nó. Samadhi là im lặng đi tới nở hoa. Mọi người đều có thể đạt tới được
nó bởi vì nó là quyền tập ấm của mọi người. Nếu bạn đã không đòi nó, nó là dành
cho bạn. Nó vẫn còn không được đòi lại, chờ đợi.
Đừng phí thời gian nhiều hơn nữa.
Dùng mọi chút ít cuộc sống và thời gian mà bạn có cho một mục đích thường hằng
là bạn trở nên ngày một nhận biết hơn. Tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện:
Hai phụ nữ Do Thái, Sarah và
Amy, gặp nhau sau hai mươi năm. Họ đã từng học cùng nhau trong đại học và họ đã
từng là những người bạn thân, nhưng trong hai mươi năm họ đã không gặp nhau. Họ
ôm chầm nhau, họ hôn nhau. Và Sarah nói, "Amy, cậu thế nào?"
"Tốt thôi. Và thật vui được
gặp cậu. Thế giới đối xử với cậu thế nào, Sarah?"
"Cậu có tin rằng khi Harry
và tớ lấy nhau anh ấy đã đưa tớ đi ba tháng tuần trăng mật ở Địa Trung Hải và một
tháng ở Israel không? Cậu nghĩ điều đó thế nào?"
"Cực kì đấy," Amy
nói.
"Chúng tớ về nhà và anh ấy
chỉ cho tớ ngôi nhà mới mà anh ấy mua cho tớ - mười sáu phòng, hai bể bơi, một
chiếc Mercedes xịn. Cậu nghĩ gì về điều đó, Amy?"
"Cực kì đấy."
"Và bây giờ lần kỉ niệm lần
thứ hai mươi anh ấy cho tớ chiếc nhẫn kim cương mười karats."
"Cực kì đấy."
"Và bây giờ chúng tớ đang
đi tầu thuỷ quanh thế giới."
"Ồ, điều đó mới cực
kì."
"Ồ, Amy này, tới đã nói
nhanh quá về điều Harry làm và đã từng làm cho tớ. Tớ quên không hỏi Abe của cậu
đã làm gì cho cậu."
"Ồ, chúng tớ có cuộc sống
tốt lành cùng nhau."
"Nhưng anh ấy đã làm gì đặc
biệt?"
"Anh ấy cho tớ tới trường
làm duyên."
"Cho cậu tới trường làm
duyên à? Cậu tới trường làm duyên để làm gì?"
"Để dạy tớ cách nói 'cực
kì đấy' thay cho "chuyện nhảm nhí.'"
Đó là mọi điều yoga tất cả là
gì - làm cho bạn nhận biết về cái cực kì to lớn. Nó ở ngay góc kia đang đợi bạn,
và bạn bị nhấn chìm trong chuyện nhảm nhí. Mở bản thân bạn ra, làm chùng lỏng bản
thân bạn ra khỏi nó. Thế là đủ rồi.
Và quyết định này không thể do
bất kì ai khác đưa ra. Bạn phải quyết định. Chính quyết định của bạn là cách bạn
hiện hữu. Nó sẽ là quyết định của bạn nếu bạn muốn thay đổi và được biến đổi.
Cuộc sống là to lớn vô cùng;
tôi chỉ có thể nói với bạn chừng ấy. Và nó ở quanh đây và bạn đang bỏ lỡ nó.
Không cần bỏ lỡ cái gì nữa.
Và yoga không phải là hệ thống
niềm tin. Nó là phương pháp luận, phương pháp luận khoa học về cách đạt tới điều
cực kì to lớn.
0 Đánh giá