Read more
Thiền - Sét Kim cương - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 2. Cuối cùng được tự do
Osho kính yêu,
Đức Sơn tới am của
Qui Sơn, cắp hành trang dưới nách, đi qua pháp đường, từ đông sang tây và từ
tây sang đông; nhìn quanh nói, "Meo, meo," và đi ra.
Đức Sơn ra tới cổng,
nhưng rồi tự nhủ mình, "Phải không được vội vàng," cho nên ông ấy chỉnh
y phục và đi vào lần thứ hai để gặp riêng. Qui Sơn đang ngồi tại chỗ.
Đức Sơn, đưa toạ cụ
lên, nói, "Hoà Thượng!" Qui Sơn làm dường như giơ phất tử lên. Thế là
Đức Sơn hét "Quái!", phẩy tay áo và đi ra. Quay lưng lại pháp đường,
Đức Sơn mang dép rơm và đi mất.
Đến tối, Qui Sơn hỏi
thủ toà, "Người mới tới đâu rồi?"
Thủ toà nói,
"Lúc ấy ông ta quay lưng lại pháp đường, mang dép và đi mất."
Qui Sơn nói,
"Ngày sau người nay sẽ lên đỉnh núi chỗ biệt lập, tự xây am cỏ và quở phật
mắng tổ."
Một dịp khác, Ma Cốc,
Nam Tuyền và một sư khác đang trong thời gian vẫn được gọi là “hành hương thiên
nhiên,” hay “hưởng mây," nghĩa là đi như mây, chảy như nước, tận hưởng núi
non, chơi trong suối và hồ. Đồng thời, họ dự định tới gặp riêng Khâm Sơn. Trên
đường họ gặp một bà già và họ hỏi bà ấy, "Bà sống ở đây phải không?"
"Ở đây,"
bà ấy nói, và ba người vào quán trà của bà ấy. Bà già pha một ấm trà, đem ra ba
cái cốc và để chúng trên bàn và nói, "Để cho người có quyền năng như trời
uống trà!"
Ba người nhìn nhau
nhưng không ai nói gì, và không ai uống trà. Bà già nói, "Mụ già xuẩn nay
sẽ chỉ cho các ông quyền năng đầy đủ của mụ. Nhìn xem!" và bà ấy cầm cốc
trà, uống hết nó, và bỏ đi.
Một hôm, Triệu Châu
tới thăm pháp đường của sư anh ông ấy. Ông ấy bước lên bục, vẫn đang mang gậy
chống, và nhìn từ đông sang tây và từ tây sang đông.
"Ông làm gì ở
đây vậy?" sư anh hỏi.
"Tôi đo nước,"
Triệu Châu trả lời.
"Không có nước,"
sư nói. "Thậm chí không có một giọt nước. Làm sao ông có thể đo được
nó?"
Triệu Châu tì gậy
lên tường và đi mất.
Maneesha,
những giai thoại nhỏ này thuộc vào một thế giới đã biến mất, thế giới của những
người tìm kiếm, thế giới của việc biết tới bản thân mình, điều chúng ta đã đánh
mất từ lâu trước đây. Thế giới trong đó những giai thoại này đã xảy ra không
còn nữa. Bây giờ không ai đi hành hương như mây, bây giờ không ai có năng lực
là nhẹ thế và tự do như mây. Mọi người đều bị nặng gánh bởi những định kiến, với
mọi loại vô nghĩa, và không ai dường như quan tâm chút nào tới một thứ, đó là bản
thân người đó.
Tâm
trí con người đã trở thành có tính đối thể và nó đã quên mất ngôn ngữ của tính
chủ thể. Nó nhìn ra ngoài, và nó đã nhìn sâu vào thế giới bên ngoài dưới dạng
các khoa học khác nhau, điều đã xuyên thấu vật chất tới bản thể bên trong nhất
của nó. Nó đã đạt tới ngôi sao xa nhất, nhưng nó đã quên một điều cơ bản:
"Ai ở bên trong tôi?"
Bây
giờ mọi tri thức này về thế giới đối thể không có giá trị gì trong so sánh với
việc có thoáng nhìn chút ít về bầu trời bên trong và cái đẹp của nó - mặt trời
mọc và mặt trời lặn của nó, ngày và đêm của nó, trời xanh của nó và các ngôi
sao của nó. Thế thì cái bên ngoài chỉ có vẻ là sự phản xạ mờ nhạt của cái bên
trong. Cái bên trong trở nên thực hơn và cái bên ngoài chỉ trở thành cái bóng.
Trong
quá khứ cũng có khó khăn theo nhiều cách, nhưng trên một điểm duy nhất, việc
tìm kiếm tâm thức, chúng ta bây giờ ở thấp hơn nhiều khi xét theo qui mô này.
Những
đối thoại này phải được hiểu - chúng không thuộc vào thế giới trong đó bạn sống,
chúng không thuộc vào tâm trí mà bạn có bây giờ. Nhưng thông minh có năng lực
đi vào trong các cõi giới khác nhau của tâm thức, và chính kinh nghiệm vô cùng
là thấy rằng mọi người đã sống khác đi, đã yêu khác đi, đã nghe âm nhạc khác
đi, điệu vũ, cái đẹp. Nếu bạn thậm chí có thể có được chút ít thoáng nhìn về thế
giới này mà đã bị mất, bạn sẽ có khả năng tìm ra dấu vết của phật tính riêng của
bạn.
Người
thông minh của quá khứ đã được cống hiến cho việc tìm ra vương quốc bên trong của
họ - cái mà không thể bị lấy đi. Không cái gì có thể phá huỷ được nó, lửa không
thể thiêu được nó. Chết không xảy ra trong chiều hướng đó, chỉ có hoa hồng của
phúc lạc, hoa sen của cực lạc và tự do không có giới hạn. Niềm vui tới với mọi
thớ thịt của bản thể bạn; mọi tế bào của bản thể bạn bắt đầu nhảy múa chẳng có
lí do nào. Chỉ hiện hữu, bạn cảm thấy ở chính đỉnh cao nhất của sự tồn tại. Bạn
không thể hỏi xin thêm, nó đã được trao cho bạn rồi; chúng ta chỉ đánh mất đường
về nhà riêng của chúng ta.
Những
giai thoại này liên quan tới những người tìm kiếm của quá khứ; họ đã trở thành
người rất lạ với chúng ta, và đó là lí do tại sao, cho dù chúng ta có thể hiểu
ngôn ngữ, chúng ta không thể hiểu điều gì đang xảy ra bên trong, đằng sau bức
màn. Những giai thoại này có vẻ rất bình thường, nhưng chúng không bình thường
đâu; không thể có bất kì cái gì phi thường hơn những người tìm kiếm Thiền này
và cách truy tìm của họ.
Đức
Sơn là một thầy lớn. Trước khi ông ấy trở thành thầy ông ấy đã đi tới am của
Qui Sơn. Mọi thầy đều có am riêng của mình, tu viện riêng của mình, và các đệ tử
đi từ tu viện này sang tu viện khác trong việc tìm một người mà họ có thể rơi
vào tình yêu với người đó, mà họ có thể mạo hiểm tất cả vì người đó. Và khoảnh
khắc ai đó tìm ra thầy, người là quí giá hơn cuộc sống riêng của anh ta, ngày
đó là ngày may mắn nhất cho đệ tử. Bây giờ không còn nhu cầu nào nữa để đi bất
kì đâu, người đó đã về tới nhà. Bây giờ đệ tử có thể lắng đọng sâu trong im lặng,
sâu trong chân lí của người đó. Người đó đã tìm ra ý nghĩa của sự tồn tại.
Đức
Sơn tới am của Qui Sơn, cắp hành trang dưới nách, đi qua pháp đường, từ đông
sang tây và từ tây sang đông; nhìn quanh nói, "Meo, meo," và đi ra.
Đức
Sơn ra tới cổng, nhưng rồi tự nhủ mình, "Phải không được vội vàng."
Điều
đã xảy ra là rất đơn giản. Đức Sơn đang nói với Qui Sơn, "Tôi chỉ giống
như mèo, meo, meo. Thầy có khả năng dạy cho con vật hồn nhiên không? Tôi hoàn
toàn dốt, dốt như con vật - thầy có khả năng dạy không? Và tôi đã từng đi tìm từ
đông sang tây, từ tây sang đông, và tôi còn chưa bắt gặp người có thể là thầy
tôi."
Vì
Qui Sơn đã không nói gì Đức Sơn ra tới cổng, nhưng rồi tự nhủ mình, "Phải
không được vội vàng. Việc này, việc hỏi này đã quá nhanh rồi, mình đã không cho
Qui Sơn đủ cơ hội.
"Phải
không được vội vàng," cho nên ông ấy chỉnh y phục và đi vào lần thứ hai để
gặp riêng. Qui Sơn đang ngồi tại chỗ.
Đức
Sơn, đưa toạ cụ lên, nói, "Hoà Thượng!”
‘Hòa
thượng' là một từ có ý nghĩa kính trọng, yêu mến và biết ơn lớn lao. Nó cũng có
vẻ hay.
"Hoà
Thượng!" Qui Sơn làm dường như giơ phất tử lên. Thế là Đức Sơn hét
"Quái!", phẩy tay áo và đi ra. Quay lưng lại pháp đường, Đức Sơn mang
dép rơm và đi mất.
Đến
tối, Qui Sơn hỏi thủ toà, "Người mới tới đâu rồi?"
Thủ
toà nói, "Lúc ấy ông ta quay lưng lại pháp đường, mang dép và đi mất."
Những
lời này không được hiểu một cách trực tiếp, mà theo cách rất gián tiếp. Bằng việc
quay lưng lại pháp đường ông ấy đang nói, "Tôi không quan tâm tới bài giảng,
tới lời, trong kinh sách."
Ông
ấy mang dép rơm và đi mất.
Qui
Sơn nói, "Ngày sau người nay sẽ lên đỉnh núi chỗ biệt lập, tự xây am cỏ và
quở phật mắng tổ."
Bất
kì người nào không biết truyền thống của Thiền đều sẽ nghĩ rằng Qui Sơn đang kết
án Đức Sơn, nhưng ông ấy đang ca ngợi. Ông ấy đang nói, "Anh chàng đó thực
sự được làm bằng chất liệu mà người tìm kiếm cần được làm ra. Đầu tiên anh ta tới
và không hỏi một lời chỉ đơn giản nói, ‘Meo, Meo,' và không đợi câu trả lời đi
ra luôn. Ta đơn giản quan sát anh ta. Anh ta đi qua phòng từ đông sang tây, từ
tây sang đông, chỉ để chỉ cho ta rằng anh ta đã từng tới nhiều, nhiều thầy. ‘Thầy
không mới. Thầy có nhận ra tôi là người tìm kiếm không? Thầy có sẵn sàng là thầy
cho một người hồn nhiên như con vật không?'
"Trước
khi ta có thể nói bất kì cái gì anh ta đi ra, nhưng thế rồi anh ta nghĩ rằng điều
đó là việc ra đi quá nhanh chóng, ‘Mình phải cho ông già này chút ít cơ hội chứ.'
Thế là anh ta quay vào và với kính trọng lớn, đơn giản nói, ‘Hòa thượng!' Nhưng
ta không thể chấp nhận được anh ta, vì anh ta được làm bằng chất liệu
khác."
Có
hai kiểu đệ tử, những người sẽ nhấn mạnh vào việc một mình tìm chân lí và những
người thích đi cùng thầy, trở thành cái bóng của thầy, làm tan biến bản thân họ
vào trong thầy một cách an bình, im lặng.
Qui
Sơn, thấy anh chàng này, vẫn còn im lặng không nói gì, nhưng về sau khi thủ tòa
hỏi ông ấy, "Cái gì đã xảy ra?"
Qui
Sơn nói, "Ngày sau người nay sẽ lên đỉnh núi chỗ biệt lập" - đám đông
không phải là chỗ của người của người này, và người này cũng không thể là đệ tử.
Người này được sinh ra để là thầy. Một ngày nào đó người này sẽ đi lên đỉnh núi
xa xôi và lập ra am, và người này sẽ nở hoa đẹp tới mức ngay cả chư phật sẽ xấu
hổ và chư tổ sẽ ghen tị.
Đó
là cách ca ngợi rất kì lạ, nhưng Qui Sơn dường như là con người của sáng suốt
vô cùng. Không một lời nào đã được thoát ra nhưng ông ấy đã nhìn vào bên trong
chính chiều sâu của Đức Sơn và tiềm năng của ông này. Và ông ấy không phải là
người bỏ phí thời gian cho ai đó có tiềm năng dẫn người đó đi đâu đó khác.
Trong
huyền môn Ai Cập cổ có câu ngạn ngữ, rằng không phải đệ tử chọn thầy, chính thầy
chọn đệ tử. Làm sao đệ tử thấp kém có thể quyết định được? Trên nền tảng nào đệ
tử có thể chọn thầy? Chỉ thầy mới có thể chọn đệ tử. Từ chiều cao của mình thầy
có thể thấy tiềm năng. Qui Sơn có thể thấy rằng Đức Sơn không phải là bồ tát,
mà là a la hán. Ông này chắc một mình sẽ tìm ra chân lí, và sẽ trở thành thầy lớn,
nhưng là thầy của rất ít người. Và chắc chắn ông ấy sẽ không trở thành đệ tử,
đó không phải là định mệnh của ông ấy.
Qui
Sơn đã biểu lộ sáng suốt vô cùng. Chỉ bằng việc quan sát những cử chỉ bình thường,
ông ấy có thể thấy chính chiều sâu bên trong của Đức Sơn. Và điều ông ấy nói đã
thực sự xảy ra. Đức Sơn cuối cùng đã trở thành thầy lớn theo cách riêng của ông
ấy. Ông ấy đã đi tới nhiều thầy nữa sau Qui Sơn, nhưng ở mọi nơi ông ấy đều cư
xử theo cách không ai có thể chấp nhận được ông ấy. Mọi thầy mà ông ấy tới thăm
đều có thể thấy tiềm năng lớn trong ông ấy, nhưng ông ấy tự mình phải tìm nó,
ông ấy sẽ không nhận sự giúp đỡ của bất kì ai, điều đó đơn giản không có trong
bản tính của ông ấy.
Và
khi bản thân Đức Sơn trở thành thầy ông ấy thực sự lên núi, toàn một mình,
nhưng tên ông ấy, vinh quang của ông ấy, lan rộng như đám cháy hoang - người
khác đã nở hoa trong tính toàn bộ của phật tính - và hàng trăm người tới với
ông ấy.
Qui
Sơn đang nói rằng con người của sáng tỏ và chứng ngộ có thể nhìn thấu bạn; ông ấy
có thể nhìn xuyên thấu bạn có thể trở thành cái gì. Và người như Qui Sơn sẽ
không can thiệp, do từ bi; ông ấy sẽ không nói một lời nào với người này, người
có thể trở thành thầy theo cách riêng của mình sớm hay muộn. Ông ấy sẽ để cho
ông này tìm ra điều đó. Bất kì giúp đỡ nào cho người như vậy sẽ là việc làm sao
lãng.
Một
dịp khác, Ma Cốc, Nam Tuyền và một sư khác đang trong thời gian vẫn được gọi là
“hành hương thiên nhiên,” hay “hưởng mây," nghĩa là đi như mây, chảy như
nước, tận hưởng núi non, chơi trong suối và hồ. Đồng thời, họ dự định tới gặp
riêng Khâm Sơn, một thầy già nổi tiếng. Trên đường họ gặp một bà già và họ hỏi
bà ấy, "Bà sống ở đây phải không?"
"Ở
đây," bà ấy nói, và ba người vào quán trà của bà ấy
Trên
đỉnh núi là am của Khâm Sơn và ở ngay chân núi, bà già này... nhưng bà ấy không
phải là đàn bà thường. Khi bà ấy nói "ở đây" bà ấy không dùng từ theo
nghĩa bình thường; bà ấy đang dùng từ này theo nghĩa tồn tại. "Bà sống ở
đâu?" và bà ấy nói, "Ở đây." Người ta còn có thể sống ở chỗ nào
khác được? và ba người vào quán trà của bà ấy. Bà già pha một ấm trà, đem ra ba
cái cốc và để chúng trên bàn và nói, "Để cho người có quyền năng như trời
uống trà!"
Ba
người nhìn nhau nhưng không ai nói gì, và không ai uống trà.
Quyền
năng của trời sao?
Bà
già nói, "Mụ già xuẩn nay sẽ chỉ cho các ông quyền năng đầy đủ của mụ.
Nhìn xem!" và bà ấy cầm cốc trà, uống hết nó, và bỏ đi.
Thiền
không tạo ra phân biệt gì giữa đàn ông và đàn bà. Và bản thân bà già này là thầy.
Bà ấy thường sống gần tu viện của thầy bà ấy, chỉ để giúp mọi người, chỉ cho họ
con đường. Nhưng bản thân bà ấy là thầy, và thỉnh thoảng bà ấy sẽ chơi trò chơi
- và bà ấy chơi nó hoàn hảo.
Đầu
tiên bà ấy nói, "Ở đây" và ba người này hiểu lầm. Họ vào lều của bà ấy.
Họ đơn giản nghĩ rằng bà ấy đang quản lí quán trà nhỏ này. Họ gọi trà, bà già
pha trà. Nhưng đem tách trà và ba cốc tới, bà ấy cũng đề nghị một điều kiện: rằng
bất kì người nào có thể biểu lộ quyền năng như trời mới có thể uống trà.
"Đây không phải trà thường và ta không phục vụ cho bất kì ai... biểu lộ
quyền năng như trời đi!"
Cả
ba người nhìn nhau. Không người nào đủ dũng cảm ngay cả để biểu lộ bản thân
mình, mặc dầu mọi người đều là thượng đế. Thấy tình huống này, bà già nói,
"Mụ già xuẩn này sẽ chỉ cho các ông quyền năng đầy đủ của mụ. Nhìn
xem!" - từng lời này đều có ý nghĩa - và bà ấy cầm cốc trà, uống hết nó,
và bỏ đi.
Quyền
năng như trời không có nghĩa bất kì cái gì khác hơn hành động một cách tự phát,
không có bất kì ý nghĩ nào - chỉ một cách tự nhiên. Cả ba người này đều có khả
năng làm điều đó, nhưng họ bắt đầu nghĩ về quyền năng như trời: "Trời!
Mình không có quyền năng như trời. Chắc chắn mình không thể uống trà được. Bà
này dường như là rất nguy hiểm. Điều kiện này là gì? Bà ấy đã không đòi tiền
trà, bà ấy chiêu đãi trà không mất tiền - ‘chỉ chỉ ra quyền năng như trời của
các ông.'"
Và
bởi vì không người nào trong ba người này có thể xoay xở để là tự phát, bà ấy
nói, "Mụ già xuẩn này sẽ chỉ cho các ông quyền năng đầy đủ của mụ. Nhìn
xem!" - có lẽ trong khi nhìn các ông có thể đi tới quyền năng như trời của
các ông - và bà ấy cầm cốc trà, uống hết nó, và bỏ đi.
Không
có chỗ nào trên thế giới này có những câu chuyện lạ kì như thế xảy ra. Và chúng
không phải là câu chuyện, mà là các sự vụ lịch sử.
Một
hôm, Triệu Châu tới thăm pháp đường của sư anh ông ấy. Ông ấy bước lên bục, vẫn
mang gậy chống, và nhìn từ đông sang tây và từ tây sang đông.
"Ông
làm gì ở đây vậy?" sư anh hỏi.
"Tôi
đo nước," Triệu Châu trả lời.
"Không
có nước," sư nói. "Thậm chí không một giọt nước. Làm sao ông có thể
đo được nó?"
Triệu
Châu tựa gậy lên tường và đi mất.
Một
giai thoại rất kì lạ... nhưng Triệu Châu đang dùng từ ‘nước’ theo cùng cách như
bạn sẽ dùng từ ‘nước' về kim cương. Không có một giọt nước trong kim cương.
Nhưng bản chất chiếu sáng của nó, chính tính chất kim cương của nó...
Triệu
Châu nói, "Ta đã nhìn từ đông sang tây, từ tây sang đông. Ta đang cố đo nước
của am của ông, của người của ông, của ông." Nhưng sư anh không thể hiểu
được ngôn ngữ này, rằng ‘nước' được dùng cho cái gì đó khác hơn nước - mắt bạn
có nước nào đó, tính cá nhân của bạn có nước nào đó, cũng như kim cương có nước
nào đó. Giá trị của chúng được đánh giá bởi nước của chúng: chúng sạch thế nào,
không có bẩn nào, không có bất kì tì vết nào. Nếu bạn có thể thấy rằng kim
cương không có tì vết, giá trị của nó cao hơn. Giá trị tuỳ thuộc vào nước.
Và
tôi có thể hiểu được Triệu Châu, vì khi tôi nhìn mọi người tôi cũng thấy: kim
cương này có bao nhiêu nước, bao nhiêu giá trị? Có thuần khiết không, có tình
yêu không, có tin cậy không, có khả năng nở thành hoa không? Có cuộc sống trong
thừa thãi không? Có khả năng nào để lấy bước nhảy lượng tử không?
Triệu
Châu, trong thất vọng, tựa gậy lên tường và di mất. Điều đó nữa cũng có ý
nghĩa. Việc bỏ gậy của ông ấy nghĩa là, "Thôi đủ rồi. Ta đã tìm kiếm từ
đông sang tây, từ tây sang đông. Giờ không tìm kiếm thêm nữa. Dường như con người
của nước, những người có tiềm năng không còn sẵn có nữa. Ta sẽ không đi tìm
thêm nữa."
Triệu
Châu là thầy và ông ấy đang đi tìm đệ tử - đây là điều khác toàn bộ. Đệ tử đi
tìm thầy là một chiều - loạng choạng, dò dẫm trong bóng tối, không biết đích
xác mình đang tìm gì, các thuộc tính về thầy là gì. Nhưng có một loại tìm kiếm
khác nữa. Thầy đi tìm đệ tử - thầy biết đích xác mình đang tìm cái gì: tiềm
năng, quyền năng, bạn có thể trưởng thành bao nhiêu, bạn có khả năng được tự do
khỏi mọi ràng buộc không?
Đó
là những cách thức khác nhau - những ngày vàng - khi đệ tử lang thang và tìm thầy;
thầy lang thang và tìm đệ tử. Thỉnh thoảng có gặp gỡ ở ngã tư đường nào đó.
Thầy
gặp đệ tử, và có việc nhận ra ngay lập tức. Thầy có thể thấy qua đệ tử và đệ tử
có thể thấy, trong hương thơm của thầy, trong sự hiện diện của thầy, trường
năng lượng vô cùng mà trong đó đệ tử trở nên bị ngập chìm, say sưa. Bạn biết điều
đó, điều đó không phải được giải thích cho bạn. Sau mọi việc thiền của bạn, bạn
đi từ Phòng Phật này gần như bị say - say với điều thiêng liêng, say với việc
thám hiểm không biết, say với dũng cảm mà bạn đã biểu lộ trong việc đi vào
trong để chạm tới chính trung tâm của bạn. Thắng lợi vô cùng - không có thắng lợi
nào lớn hơn. Bạn đã tìm ra cội nguồn nước của bạn. Bạn có thể làm dịu cơn khát
của bạn.
Nhà
thơ Thiền, Manan, đã viết:
Cuối cùng được giải
phóng, là sư du hành,
tôi đi qua rào chắn
Thiền cổ.
Cuộc sống của tôi là
cuộc sống suối và mây vô dấu vết.
Những ngọn núi kia,
cái nào sẽ là nhà của tôi?
Loạt
bài này được dành riêng cho mây, vì chúng đại diện cho tự do di chuyển. Chúng
không bận tâm về biên giới quốc gia, chúng không mang hộ chiếu, và chúng không
phải hỏi xin bất kì người nào - toàn thể bầu trời là của chúng! Con người cũng
nên được tự do như mây. Tại sao phải có bất kì biên giới nào? Tại sao phải có bất
kì phân chia nào giữa nhân loại? Tại sao quốc gia phải trở thành nhà tù?
Thay
vì cho tự do, quốc gia làm bạn thành nô lệ. Bạn không cảm thấy nó vì nhà tù này
là lớn; bạn sẽ cảm thấy nó chỉ khi bạn muốn đi ngang qua biên giới. Ngay lập tức
bạn sẽ bị chặn lại: "Giấy phép của ông đâu? Ông đi đâu?"
Mây
không tin vào bất kì biên giới nào; nó là biểu tượng thuần khiết của tự do.
Cuối
cùng được giải phóng, là sư du hành,
tôi
đi qua rào chắn Thiền cổ.
Ngay
cả Thiền chung cuộc cũng phải bị siêu việt lên. Chung cuộc bạn phải trở thành
có tính thiền tới mức bạn không cần thiền chút nào nữa - thiền trở thành chính
bản thể của bạn. Đó là điều được gọi là “rào chắn Thiền cổ." Ngày chính sự
tồn tại của bạn trở thành tính thiền, khi bạn không phải ngồi xuống vào giờ nào
đó để thiền theo cách nào đó; ngày mà khi bạn làm bất kì cái gì, bạn làm nó một
cách có tính thiền - bạn ngủ trong thiền và bạn thức trong thiền - bạn đã đi
qua rào chắn Thiền cổ.
Cuộc
sống của tôi là cuộc sống suối và mây vô dấu vết.
Những
ngọn núi kia, cái nào sẽ là nhà của tôi?
Mây
đang đi tới núi, tới những đỉnh cao không biết, chưa từng được du hành. Xa xôi
- xa hơn tầm với của người hữu tử bình thường.
Saisho,
một nhà thơ khác:
Đất, núi, sông -
ẩn trong hư không
này.
Trong hư không này -
đất, núi, sông được
hiển lộ.
Hoa xuân, tuyết
đông:
Không hiện hữu không
không hiện hữu,
không bản thân phủ
nhận.
Trong
im lặng này bạn có thể hiểu sự thuần khiết này của siêu việt - không sống không
chết, nhưng là vĩnh hằng thuần khiết.
Kukoku
đã viết:
Cưỡi ngược con ngựa
gỗ này,
Tôi định phi nước đại
qua cái trống rỗng.
Ông có tìm thấy dấu
vết của tôi không?
Ha! Cố bắt lấy cơn
bão tố trong lưới.
Con
người của thiền chắc chắn trở nên tự do tới mức cố bắt người đó giống như cố bắt
cơn bão vào trong lưới. Mọi tổ chức đều là lưới, và mọi dân tộc và giống nòi
không là gì ngoài những cái lưới. Tất cả chúng đều cố bắt bạn trong những biên
giới khác nhau, trong những xiềng xích khác nhau. Và vô thức của chúng ta là tới
mức chúng ta thậm chí còn tô điểm cho xiềng xích của mình, vì xiềng xích của
chúng ta được làm bằng vàng, chúng là rất cổ đại, chúng là mọi thứ chúng ta có.
Con
người có thể trở thành mây, đi qua mọi rào chắn. Con người có thể đạt tới tự do
toàn bộ, nơi con người không phải là người Hindu hay người Mô ha mét giáo hay
người Ki tô giáo, nơi con người thậm chí không phải là thân thể mình hay tâm
trí mình - nơi con người là tâm thức thuần khiết, chỉ bản thể.
Khoảng
khắc này bạn có thể đi vào trong bản thể này. Nó là sẵn có - bạn chỉ phải giang
tay bạn ra một chút.
Maneesha đã hỏi:
Osho kính yêu,
Có phải người chứng
ngộ bao giờ cũng là người nổi dậy?
Maneesha,
mọi người nổi dậy là không chứng ngộ, nhưng mọi người chứng ngộ là người nổi dậy.
Người ta có thể có tính nổi dậy mà không được chứng ngộ. Lenin là người nổi dậy,
Marx là người nổi dậy, Tolstoy là người nổi dậy, Kropotkin là người nổi dậy,
nhưng không người nào trong số họ được chứng ngộ. Và nổi dậy của họ sẽ vẫn còn
liên quan tới những tình huống xã hội, kinh tế và chính trị rất bình thường.
Người
chứng ngộ cũng là người nổi dậy, nhưng việc nổi dậy của người đó không liên
quan tới những thứ bình thường, như liệu người harijans có nên vào đền hay
không. Nổi dậy của người đó có bản tính rất cao. Nổi dậy của người đó là ở chỗ
mọi điều được viết ra đều là giả, vì chân lí không thể được đặt vào trong lời.
Nổi dậy của người đó là: "Không nhìn ra sau, không nhìn lên trước - chỉ nhắm
mắt lại và nhìn vào trong, và chính khoảnh khắc này đôi cánh của bạn giang ra
và toàn thể bầu trời trở thành sẵn có cho bạn."
Khi
tôi nói rằng người chứng ngộ bao giờ cũng là người nổi dậy, tôi không ngụ ý về
xã hội, về chính trị, về kinh tế; tôi ngụ chỉ chỉ về mặt tồn tại. Người đó là
người được biến đổi. Người đó biết bản thể riêng của mình và người đó biết sự
huy hoàng của bản thể mình. Người đó không còn trên bất kì trò quyền lực nào,
vì người đó không thể nào có nhiều quyền năng hơn là việc nở hoa bên trong cái
ta riêng của người đó. Người đó không sợ chết vì người đó biết rằng chết là hư
cấu.
Cho
nên có những người nổi dậy đang cố làm thay đổi các hình thái xã hội, các xã hội;
người cộng sản, người xã hội, người vô chính phủ - đây là những người nổi dậy
bình thường. Và có chư phật, người đã chuyển hoá bản thể riêng của họ, người đã
tìm thấy cội nguồn cuộc sống riêng của họ. Tìm thấy nó, họ đã siêu việt lên
trên mọi thứ dường như là quan trọng thế cho những người khác; mọi thứ vô nghĩa
này của việc là người Hindu hay người Mô ha mét giáo hay người Ki tô giáo trở
thành ấu trĩ thế.
Vị
phật có thể đơn giản cười vào cái ngu xuẩn của con người. Tiếng cười của ông ấy
làm cho ông ấy có tính nổi dậy xa hơn nhiều cái gọi là những người nổi dật vĩ đại.
Trước
khi chúng ta đi vào trong phật tính của mình - chỉ để thảnh thơi...
Ông
già Finklestein và Bà Faginbaum đang ngồi cùng nhau dưới hiên nhà dành cho người
già. Họ đang nói chuyện về những ngày xưa tốt lành, thì Fink hỏi Bà, "Bà
đã bao giờ ngượng chưa?"
"Chắc
chắn là có chứ," Bà đáp. "Tôi ngượng bốn lần trong đời mình. Lần thứ
nhất, khi tôi cởi quần áo trước chồng tôi. Lần thứ hai, khi tôi cởi quần áo trước
người yêu của tôi. Lần thứ ba khi tôi lấy tiền vì điều đó, và lần thứ tư khi
tôi trả tiền cho điều đó. Thế ông thì thế nào?"
Ông
Fink im lặng một lúc rồi nói, "Tôi ngượng hai lần. Lần thứ nhất khi tôi
không thể làm được điều đó lần thứ hai. Và lần thứ hai, khi tôi không thể làm
được điều đó lần thứ nhất!"
Paddy
muốn di cư từ Anh sang Mĩ. Anh ta có cuộc phỏng vấn tại Đại sứ quán Mĩ ở
London. Viên lãnh sự hỏi anh ta, "Ông Murphy, tại sao ông muốn bỏ nước Anh
và tới nước Mĩ?"
"Đơn
giản," Paddy đáp. "Mĩ có Ronald Reagan, Johnny Cash (tiền mặt), Bob
Hope (hi vọng), và Stevie Wonder (ngạc nhiên). Anh có Margaret Thatcher, không
tiền mặt, không hi vọng - và không ngạc nhiên!"
Hamish
Mactavish bất ngờ về nhà thấy vợ mình đang làm tình hoang dã với một người đàn
ông lạ.
"Cái
chết tiệt gì đang diễn ra ở đây vậy?" Mactavish quát lên. "Thằng cha
này là ai?"
Vợ
anh ta dừng lại và tìm kiếm một chốc rồi đáp, "Em cho rằng đó là câu hỏi
đúng." Và quay sang người lạ cô ấy nói, "Dẫu sao đi chăng nữa tên anh
là gì?"
Cô
Prisspuss, cô giáo dạy toán ở trường, đang cố dạy cho bé Albert cách trừ.
"Bây
giờ, Albert," cô Prisspuss nói. "Nếu bố em kiếm được một nghìn đô la
một tuần, và nếu họ giảm đi một trăm đô la cho tiền bảo hiểm, và năm mươi đô la
cho an ninh xã hội, và chín mươi lăm đô la cho thuế, và rồi nếu bố đưa cho mẹ một
nửa, mẹ sẽ có cái gì?"
Albert
nhìn cô Prisspuss và nói, "Đau tim!"
Nancy
Reagan lo nghĩ về Ronald. Ông ấy dường như ngày càng nặng cân hơn, nhưng từ chối
làm bất kì luyện tập nào. Cuối cùng, trong thất vọng, Nancy đưa ông ta tới mĩ viện
mới trong trung tâm thành phố.
Về
sau, khi bà ấy tới đón Ronnie, bà ấy thấy ông tổng thống không may đang đau đớn.
Ông ấy bị móc lên một cái máy giám sát, với dây dợ chạy ra từ mọi bộ phận thân
thể ông ấy. Ông ấy run lên và la hét, và mô hôi toát ra từ thân thể ông ấy như
thác đổ.
"Tin
lớn đây, bà Reagan!" Bruno Truckteeth, người phục vụ, kêu lên. "Ông ấy
đã mất năm pounds hôm nay."
"Tuyệt
vời," Nancy nói. "Ông xoay xở việc đó thế nào?"
"Đơn
giản," Bruno nói, và ông ta đi và thì thào cái gì đó vào tai Ronnie. Thân
thể tổng thống bắt đầu rung lên và toát mồ hôi như ông ấy đang chạy marathon.
"Lạy
chúa tôi!" Nancy kêu lên. "Ông đã nói gì với ông ấy?"
Bruno
nháy mắt và nói, "Osho dành cho tổng thống. Yaa-Hoo!"
Bây
giờ, Nivedano... đây là khoảnh khắc tốt, đánh trống đi!
(Tiếng
trống)
(Nói
lắp bắp)
Im
lặng.
Nhắm
mắt lại.
Không
chuyển động thân thể.
Đi
vào trong.
Ngày
càng sâu hơn.
Nó
là nhà riêng của bạn.
Nivedano...
(Tiếng
trống)
Thảnh
thơi.
Buông
bỏ, chỉ chết.
Im
lặng mênh mông này,
đây
là vĩnh hằng của bạn.
Đây
là chỗ linh thiêng duy nhất,
và
kinh sách linh thiêng duy nhất.
Được
tự do khỏi thân thể, được tự do khỏi tâm trí,
Bạn
chỉ là mây - mây thuần khiết,
tâm
thức tuyệt đối.
Nivedano...
(Tiếng
trống)
Quay
lại, nhưng quay lại như vị phật.
Ngồi
xuống
Với
duyên dáng và im lặng và niềm vui
mà
là của bạn vĩnh hằng.
Bạn
đã chỉ bận rộn trong những thứ vô nghĩa
và
đã quên mất bản thân bạn.
Nhớ
nó, nhớ nó,
trong
hai mươi bốn giờ của bạn - hết ngày nọ tới ngày kia.
Để
nó trở thành dòng suối im lặng của việc nhớ lại,
rằng
bạn là phật.
Không
sụp đổ; giữ chân giá trị của bạn.
Và
đột nhiên bạn thấy
rằng
toàn thế giới đã thay đổi.
Mọi
thứ vẫn thế,
và
vậy mà không cái gì vẫn thế,
vì
cái nhìn của bạn là mới.
Được chứ, Maneesha?
Vâng,
Osho.
Chúng ta có thể mở hội
mọi chư phật không?
Vâng,
Osho.
0 Đánh giá