Chương 9. Không lời, không tâm trí, và bạn ở trong

Chương 9. Không lời, không tâm trí, và bạn ở trong

Price:

Read more

Thiền - Chim đơn độc, chim cu cu của rừng
Bài nói về Thiền
Chương 9. Không lời, không tâm trí, và bạn ở trong




Osho kính yêu,
Pháp Nhãn trở thành tu sĩ lúc bẩy tuổi, học Phật giáo và Khổng giáo. Một hôm, vài năm về sau, khi Pháp Nhãn đang trên đường tới hồ, trời bắt đầu mưa và ông ấy trú tại đền của Địa Tạng.
Địa Tạng, đang ngồi cạnh đống lửa, hỏi Pháp Nhãn, "Ông đi đâu vậy?"
Pháp Nhãn đáp, "Chỉ lang thang từ thầy sang thầy trong việc tìm chứng ngộ."
"Điều đó ngụ ý gì?" Địa Tạng hỏi.
"Tôi không biết," Pháp Nhãn nói.
"Không biết là điều sâu sắc nhất," Địa Tạng nói.
Hai người ngồi cùng nhau bên đống lửa, nói về một luận Phật giáo, và khi họ đi tới câu nói, "Trời và ta là cùng một rễ," Địa Tạng hỏi, "Núi và sông và đất lớn khác ta hay là một?"
Thiệu Tu, người ở cùng với họ, đáp, "Là một."
Địa Tạng giơ hai ngón tay lên, và, vừa nhìn họ một cách nghiêm chỉnh, nói đã có hai và thế rồi đi ra. Trời bây giờ đã tạnh mưa, và Địa Tạng tiễn Pháp Nhãn và Thiệu Tu tới cổng. Trên đường, trong vườn có một tảng đá, và vừa trỏ vào nó, Địa Tạng hỏi câu hỏi: "Thượng toạ nói rằng tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức, vậy hãy nói thử xem phiến đá trước sân kia là trong tâm hay ngoài tâm?"
Pháp Nhãn trả lời, "Trong tâm."
Địa Tạng nói, "Người hành cước sao lại đặt phiến đá vào tâm?"
Pháp Nhãn lúng túng và không thể trả lời được, cho nên ông ấy ném hành lí và xin y chỉ Địa Tạng để cầu dứt trừ nghi hoặc vấn đề này.
Hơn một tháng sau, Pháp Nhãn đến nói đạo lí, trình kiến giải, nhưng Địa Tạng nói, "Phật pháp không triết lí."
Thế rồi Pháp Nhãn nói, "Giờ tôi hiểu ra vấn đề về tránh mọi lời và từ bỏ mọi triết lí."
Địa Tạng nói, "Nếu ông luận Phật pháp, thì tất cả tự nhiên hiện bày ngay trước mắt."
Tại điểm này, Pháp Nhãn đại ngộ.
Maneesha, những giai thoại nhỏ này không chỉ dành cho việc đọc, không chỉ để trở nên quen thuộc hơn với những thế giới quan khác nhau. Thiền là không thể nắm bắt được trong kinh sách, trong học thuyết. Bằng suy nghĩ, bằng tập trung, bằng suy tư, bạn không thể tìm thấy nó.
Điều kì lạ nhất về Thiền là ở chỗ nó bị ẩn trong người tìm kiếm, và người tìm kiếm đang chạy từ thầy sang thầy, từ triết lí sang triết lí - tưởng rằng bằng việc thu thập nhiều tri thức người đó sẽ có khả năng hiểu chân lí của sự tồn tại, rằng người đó sẽ có khả năng trải nghiệm ý nghĩa và nghĩa của cuộc sống.
Nhưng đi từ thầy này sang thầy khác người ta đơn giản thu thập lời. Và nếu những thầy đó không phải là đích thực, mà chỉ là thầy giáo... Bao giờ cũng nhớ sự khác biệt: thầy giáo là thông thái, nhưng thông thái đó không phải là kinh nghiệm riêng của ông ấy. Ai đó đã uống nước và người đó nói về cơn khát và việc làm dịu cơn khát - cho thầy giáo này, đây không phải là kinh nghiệm của ông ấy. Có lẽ ông ấy đã thấy ai đó khát và thế rồi sau khi uống nước cảm thấy được thoả mãn. Ông ấy đã thấy sự khác biệt, nhưng dầu vậy ông ấy không biết cái gì đã xảy ra bên trong người đã khát và thế rồi trong sự mãn nguyện.
Thầy biết trực tiếp, ngay tức khắc; nó không bao giờ, không bao giờ là thứ vay mượn. Nó là của riêng ông ấy. Nó là bài ca riêng của ông ấy, nó là điệu vũ riêng của ông ấy. Ông ấy không bắt chước bất kì người nào và ông ấy không giả vờ theo bất kì cách nào. Thầy giáo đang làm điều đó. Thầy giáo có thể giả vờ là thầy - trong số một trăm thầy, chín mươi chín người chỉ là thầy giáo. Và rất khó cho mọi người thấy ra sự khác biệt, vì cả hai đều nói cùng ngôn ngữ. Lời của thầy giáo là trống rỗng, nhưng làm sao bạn có thể biết được? Lời của thầy là việc thở, sống động, được bao quanh bởi im lặng và an bình. Nhưng trong trạng thái của bạn, rất khó thấy ra sự khác biệt.
Nhưng trong Thiền, nó là đã là truyền thống lâu dài từ khi Bồ đề đạt ma rời khỏi Ấn Độ: đệ tử lang thang từ thầy giáo sang thầy giáo, từ thầy sang thầy, nghe điều này, nghe điều kia, với hi vọng rằng ở đâu đó họ sẽ tìm ra người làm lẩy cò trong họ thành ngọn lửa mà đã có đó, nhưng cần được lẩy cò.
Pháp Nhãn trở thành tu sĩ lúc bẩy tuổi.
Ông ấy phải đã là một đứa trẻ rất thông minh. Trở thành sư lúc bẩy tuổi không phải là cái gì bình thường - nhận thức phi thường, lúc bẩy tuổi, cuộc truy tìm chân lí. Ngay cả ở tuổi bẩy mươi mọi người vẫn không nhận biết về chân lí tất cả là gì. Thực ra họ tự hỏi tại sao mọi người nói một cách không cần thiết về chân lí, về điều tối thượng, về bản thể - có quá nhiều thứ cần làm trong thế giới này. Tiền, quyền, danh, kính trọng... có toàn thể thế giới để chinh phục.
Chắc chắn, một đứa trẻ bẩy tuổi phải đã có thông minh mênh mông để thấy ra cái vô tích sự của mọi quyền lực, của mọi điều thế giới có thể cho. Chính sự kiện là một đứa trẻ nhỏ thế bắt đầu đi từ thầy sang thầy là đủ bằng chứng về thông minh của nó.
...Học Phật giáo và Khổng giáo.
Phật giáo và Khổng giáo có thể được nói là đối lập cực. Khổng giáo là kiểu chủ nghĩa cộng sản cổ đại - không Thượng đế, không linh hồn, nhưng chỉ đạo đức, tư cách xã hội, luân lí xã hội... cách cư xử tốt hơn, là đấng quân tử, tốt và có văn hoá. Khổng giáo là việc giáo dục về nhân cách, trong khi Phật giáo không phải là việc học chút nào. Và thứ hai, Phật giáo tuyệt đối chống lại nhân cách. Nhân cách càng văn hoá hơn, càng khó xuyên thấu vào trong, vì nhân cách có văn hoá trở thành tảng đá vững chắc.
Đứa trẻ hồn nhiên không có nhân cách. Nó là mong manh; và mong manh là một trong những giá trị vĩ đại nhất cho những người đang đi tìm chân lí. Cho nên Pháp Nhãn phải đã trong khó khăn lớn, đi trong các thầy giáo theo Khổng giáo. Họ không bao giờ có thể là thầy được, họ không bao giờ thử đi vào trong. Họ bao giờ cũng vun trồng khu vườn bên ngoài nhà, sơn vẽ ngôi nhà từ bên ngoài. Họ đã quên hoàn toàn rằng nhà thực là bên trong. Tường được sơn vẽ, vườn đẹp bao quanh, là hoàn toàn tốt, nhưng người ta phải không kết thúc với chúng. Người ta phải không sống ở hành lang! Và đó là điều đang xảy ra với hầu hết mọi người, trên khắp thế giới.
Ý thức hệ Khổng Tử đã thịnh hành trên khắp vương quốc Trung hoa và các nước láng giềng, và trong hai mươi nhăm thế kỉ Khổng Tử đã được đưa ra như một trong những người vĩ đại nhất. Phật giáo là cách tiếp cận khác toàn bộ. Nó xuyên thấu bên trong bạn, nó không bận tâm về hành lang của bạn. Nó muốn đạt tới trung tâm của tâm thức, không phải khu vườn bao quanh nhà bạn; không phải thân thể, không phải tâm trí, mà bạn trong điều tinh tuý của bạn. Nó là con đường rất khác, gần như đối lập.
Khổng giáo là đi ra ngoài. Thiền là đi vào trong. Giữa hai điều này, một đứa trẻ nhỏ bẩy tuổi, Pháp Nhãn, phải đã học trong sự bóp méo lớn.
Một hôm, vài năm về sau, khi Pháp Nhãn đang trên đường tới hồ, trời bắt đầu mưa và ông ấy trú tại đền của Địa Tạng.
Địa Tạng là một Thiền sư.
Địa Tạng, đang ngồi cạnh đống lửa, hỏi Pháp Nhãn, "Ông đi đâu vậy?"
Những câu hỏi đơn giản này trong Thiền có nghĩa rất khác. Khi một Thiền sư hỏi, "Ông từ đâu đến?" ông ấy không ngụ ý nơi chốn, làng mà từ đó bạn đã tới. Ông ấy ngụ ý "Từ cội nguồn nào ông đã đạt tới tâm thức của ông? Ông đang tới từ đâu, và ông đang đi đâu?"
Những câu hỏi này không liên quan chút nào tới việc đi và đến bên ngoài của bạn. Khi Địa Tạng nói, "Ông đi đâu vậy?"
Pháp Nhãn đáp, "Chỉ lang thang từ thầy sang thầy trong việc tìm chứng ngộ."
Tại tuổi đó, có lẽ rất ít người trên thế giới đã bao giờ nghĩ về từ 'chứng ngộ'.
"Điều đó ngụ ý gì?" Địa tạng hỏi.
"Tôi không biết," Pháp Nhãn nói.
Sự thuần khiết này và hồn nhiên này và việc phơi bày này... "Tôi không biết. Tôi thậm chí không biết tại sao tôi đang cố tìm cái gì đó mà tôi thậm chí không thể nói được một lời. Và tôi đang lang thang từ thầy này sang thầy khác - tôi không biết."
"Không biết là điều sâu sắc nhất," Địa Tạng nói.
Một phát biểu vô cùng:
Không biết là điều sâu sắc nhất.
Mọi tri thức đều là xa xôi với bạn. Chỉ hồn nhiên là ở chính trung tâm của bản thể bạn. Nó là sâu sắc nhất.
Phát biểu này của Pháp Nhãn, "Tôi không biết," là cực kì có giá trị trong Thiền. Nó không ngụ ý rằng ông ấy là dốt nát, nó đơn giản ngụ ý ông ấy nhận biết hoàn hảo rằng ông ấy vẫn không ở trung tâm bản thể ông ấy. Mọi điều ông ấy biết đều không đáng nhắc tới.
Socrates đạt tới cùng phát biểu này ở độ tuổi bẩy mươi: "Tôi không biết." Pháp Nhãn, tại tuổi của ông ấy, có cùng thiên tài, không là thứ bình thường. Ngay cả người với phẩm chất của Socrates đã nhận ra điều đó ở mãi cuối đời mình - rằng ông ấy không biết gì, và mọi thứ ông ấy biết đều vô tích sự.
Ông ấy biết về mọi thứ, cả nghìn lẻ một thứ, nhưng ông ấy không biết về bản thân ông ấy. Chết sẽ lấy đi mọi tri thức đó và sẽ bỏ ông ấy một mình. Và ông ấy đã không thử, trong cả đời ông ấy, để biết rằng sự một mình sẽ được bỏ lại chung cuộc trong tay ông ấy. Điều đó đáng ra phải là mối quan tâm đầu tiên của ông ấy, vì chết có thể tới bất kì khoảnh khắc nào.
Tại khoảnh khắc cuối cùng của mình ông ấy đã nhận ra. Mặc dầu ông ấy đã nổi tiếng là một thầy giáo lớn... ông ấy đã là một thầy giáo lớn; vì việc dạy của mình ông ấy đã bị đầu độc. Nhưng trong con mắt của Thiền, tri thức của ông ấy và logic của ông ấy chỉ là vô dụng. Họ đã đầu độc ông ấy một cách không cần thiết - một người hồn nhiên không biết tới bản thân mình, người còn chưa về nhà, người đã từng vẩn vơ trong lời, ngôn ngữ, văn phạm, triết lí.
Pháp Nhãn chắc chắn là đỉnh cao Himalaya trong tâm thức. Khi có liên quan tới tuổi ông ấy chỉ là đứa trẻ, nhưng tuổi tinh thần của ông ấy là quãng của Socrates - bẩy mươi. Ông ấy nói, rất hồn nhiên, "Tôi không biết."
Và cần một người như Địa Tạng, một thầy lớn, để hiểu phát biểu như vậy. Bằng không bạn sẽ nghĩ, "Cái gì có đó trong nó? Ông ấy đơn giản dốt."
Nhưng Địa Tạng có thể thấy trong mắt của Pháp Nhãn rằng phát biểu của ông ấy, "Tôi không biết," không phải là cách diễn đạt của dốt nát, mà là cách diễn đạt của nhận biết mênh mông: Tôi không biết.
Đó là lí do tại sao Địa Tạng nói, "Không biết, vào độ tuổi này... Đó là điều sâu sắc nhất trên thế giới." Vì nó mở ra cánh cửa của ngạc nhiên và cánh cửa của điều bí ẩn. Ngày bạn bỏ mọi tri thức, bạn trở nên không bị nặng gánh. Bạn có thể bay, bạn mất mọi trọng lượng.
Mọi tôn giáo đều dạy các học thuyết; Thiền đơn giản chỉ tới người đang ẩn bên trong bạn. Không có kinh sách khác và không có Thượng đế khác và không có cái gì khác để học. Đầu tiên hiện hữu và thăm dò tâm thức bên trong của bạn, và bạn sẽ thấy mọi kho báu mà ngay cả Alexander Đại Đế cũng không thể tìm thấy bằng việc chinh phục thế giới.
Chinh phục bản thân bạn đi.
Và trong việc chinh phục bản thân bạn là thắng lợi vĩ đại nhất, kinh nghiệm quí giá nhất, vì bây giờ bạn biết cái vĩnh hằng của bạn, cái vô thuỷ. Bây giờ bạn biết chết là dối trá, nó không bao giờ xảy ra. Chỉ tâm thức chuyển từ nhà này sang nhà khác. Nó là việc đổi nhà, nhưng người thay đổi nhà là vô hình.
Địa Tạng yêu cậu bé này khi cậu ta nói, "Tôi không biết."
Hai người ngồi cùng nhau bên đống lửa, nói về một luận Phật giáo, và khi họ đi tới câu nói, "Trời và ta là cùng một rễ," Địa Tạng hỏi, "Núi và sông và đất lớn khác ta hay là một?"
Thiệu Tu, người ở cùng với họ, đáp, "Là một."
Trong cốt lõi bên trong nhất của chúng ta, chúng ta được nối với mọi ngôi sao. Nó là một toàn thể hữu cơ, toàn thể sự tồn tại này; chúng ta chỉ là những giọt sương trong đại dương bao la này.
Địa Tạng giơ hai ngón tay lên... Một thiên tài lớn, cậu bé Pháp Nhãn này. Địa Tạng đã nhận ra việc tìm kiếm của cậu ta và sự đích thực của cậu ta. Ông ấy giơ hai ngón tay lên, và, vừa nhìn họ một cách nghiêm chỉnh, nói đã có hai và thế rồi đi ra.
Trời bây giờ đã tạnh mưa, và Địa Tạng tiễn Pháp Nhãn và Thiệu Tu tới cổng. Trên đường, trong vườn có một tảng đá, và vừa trỏ vào nó, Địa Tạng hỏi câu hỏi: "Thượng toạ nói rằng tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức, vậy hãy nói thử xem phiến đá trước sân kia là trong tâm hay ngoài tâm?"
Pháp Nhãn trả lời, "Trong tâm."
Địa Tạng nói, "Người hành cước sao lại đặt phiến đá vào tâm?"
Tại sao mang tải vậy?
Pháp Nhãn lúng túng và không thể trả lời được, cho nên ông ấy ném hành lí và xin y chỉ Địa Tạng để cầu dứt trừ nghi hoặc vấn đề này.
Ông ấy dừng đi ra ngoài. Ông ấy bỏ túi hành lí xuống và ông ấy nói, "Thầy phải giúp tôi giải quyết vấn đề này: tảng đá ở ngoài tâm trí hay ở trong tâm trí?"
Hơn một tháng sau, Pháp Nhãn đến nói đạo lí, trình kiến giải, nhưng Địa Tạng nói, "Phật pháp không triết lí."

Đã từng có các triết gia nói rằng tảng đá tồn tại chỉ bên trong bạn: cái bạn thấy bên ngoài chỉ là phóng chiếu, cũng như bạn thấy việc chiếu phim trên màn ảnh. Không có gì bên ngoài, bạn đang phóng chiếu mọi thứ. Các triết gia này - ở Ấn Độ, Adi Shankaracharya; ở Anh, Bradley... và Bosanquet, và có nhiều người khác ở các nước khác - đang cố nói rằng bên ngoài chỉ là mơ. Nó là phóng chiếu của bạn, nó không thực có đó. Nó là tưởng tượng của bạn, nó là ảo vọng, chỉ là ảo giác, ảo ảnh.
Trong sa mạc bạn thấy ảo ảnh, xa xa một vũng nước nhỏ, nhưng khi bạn lại gần hơn nước biến mất. Không có nước; nó chỉ là các tia sáng mặt trởi được phản xạ trở lại từ sa mạc. Vì phản xạ của chúng và sự rung rinh, từ nơi xa chúng tạo ra ảo vọng về nước, dường như sóng nước có đó. Thậm chí có cả cây, nó được phản xạ trong những tia sáng mặt trời rung rinh. Điều đó trở thành bằng chứng tuyệt đối: cây được phản xạ trong nước; nó không thể được phản xạ trong cát. Nhưng khi bạn lại gần, cây đang đứng một mình. Điều bạn đã thấy là không thực.
Đó là quan điểm của những triết gia này, những mayavadins, người ảo tưởng.
Địa Tạng trở nên rất quan tâm tới Pháp Nhãn và sau một tháng ông ấy hỏi Pháp Nhãn - Pháp Nhãn đã học cùng ông ấy - quan điểm của Pháp Nhãn là gì. Bất kì cái gì cậu bé này phải đã hiểu, cậu nói.
Địa Tạng nói, "Nhớ, Phật giáo không là triết lí. Ông phải hiểu rõ ràng: đây không phải là trường phái triết lí; ông không ở đây để truy vấn một cách trí tuệ cái gì là đúng và cái gì là sai. Ông ở đây để trải nghiệm tâm thức ông là gì, rễ của ông ở đâu. Đây không phải là trường phái triết lí, đây là tồn tại thuần khiết."...
Nhưng không phải là chủ nghĩa hiện sinh đang thịnh hành ở phương Tây, vì chủ nghĩa hiện sinh đó lại trở thành trí tuệ. Thiền đã từng tranh đấu chống lại trí tuệ, chống lại tâm trí, và đẩy tâm trí sang bên để cho có thể thấy trực tiếp không có suy nghĩ.
Suy nghĩ tạo ra gợn sóng, bóp méo mọi thứ. Khoảnh khắc bạn có thể thấy mà không nghĩ, chân lí được khải lộ trong cái đẹp mênh mông của nó. Đầu tiên nó được khải lộ bên trong, và thế rồi bạn có thể bắt đầu trải nghiệm nó lan toản khắp vũ trụ. Thế thì trong mọi đoá hoa nó là bạn; thế thì trong mọi ngôi sao, dù xa thế nào, nó là bạn.
Việc giơ hai ngón tay của Địa Tạng không phải là cùng điều như hai ngón tay của Winston Churchill! Winston Churchill ngụ ý bởi hai ngón tay của ông ấy là "chiến thắng." Ông ấy làm ra dấu hiệu chữ "V". Địa Tạng đang nói cái gì đó khác, khác toàn bộ. Ông ấy nói, "Mặc dầu hai ngón tay này có vẻ là hai, chúng được nối sâu trong tính một. Hai ngón tay này không phải là hai, năm ngón tay này không phải là năm; sâu bên dưới chúng được nối trong tính một."
Thế rồi Pháp Nhãn nói, "Giờ tôi hiểu ra vấn đề về tránh mọi lời và từ bỏ mọi triết lí."
Địa Tạng nói, "Nếu bây giờ ông luận Phật pháp, thì tất cả tự nhiên hiện bày ngay trước mắt." Không lời, không triết lí.
Tại điểm này, Pháp Nhãn đại ngộ.
Không cái gì được nói.
Không cái gì có thể được nói. Ông ấy tuyệt đối im lặng. Hai thứ đã nối lại, và phép màu đã xảy ra.
Thứ nhất ông ấy là hồn nhiên, và ông ấy đã nhận biết về hồn nhiên của mình. Thứ hai, ông ấy đi vào triết lí nhưng khi Địa tạng bảo ông ấy Phật giáo không phải là triết lí, nó là kinh nghiệm thực tại, việc thực tại hoá... Ông ấy phải đã là một đứa trẻ rất hiếm hoi nói, "Nếu Phật giáo không phải là triết lí, tôi loại bỏ mọi triết lí, mọi lời. Tôi vẫn còn một mình trong dốt nát."
Địa Tạng nói, "Điều đó là tốt. Nếu bây giờ ông luận về Phật pháp thì tất cả tự nhiên hiện bày ngay trước mắt."
Nhưng làm sao nói bất kì cái gì khi bạn đã loại bỏ lời, bạn đã loại bỏ triết lí, bạn đã loại bỏ bản thân tâm trí? Bây giờ bạn thậm chí không thể nói "Tôi không biết," vì điều đó nữa là đang dùng lời.
Địa Tạng vẫn còn hoàn toàn im lặng. Trong im lặng đó, Pháp Nhãn đại ngộ.
Không lời, không tâm trí, và bạn ở trong.
Không lời, không tâm trí, và bạn đã nhận ra cội nguồn tối thượng của bản thể bạn. Và một khi được hoàn thành, bạn không thể mất nó. Một khi trở nên nhận biết về nó, nó còn lại với bạn hai mươi bốn giờ - trong sống, trong chết, chỉ là dòng chảy ngầm của tâm thức rung động và nhảy múa. Đó là thực tại của bạn và đó là thực tại của toàn thể sự tồn tại. Những con sóng khác nhau, các nhịp sóng khác nhau, nhưng mọi thứ chỉ là rung động của tâm thức.
Muso viết:
Nhiều lần núi đã biến
từ lục sang vàng -
nhiều thế cho đất thất thường!
Bụi trong mắt ông,
Tam giới là hạn hẹp;
không cái gì trên tâm trí, ghế của ông
là đủ rộng.
Thiền dùng cách giải thích kì lạ vì cách giải thích thông thường bị làm hỏng bởi việc bị dùng cho các thứ bình thường, hàng hoá ở bãi chợ.
Không cái gì trên tâm trí, ghế của ông là đủ rộng - thực ra, toàn thể sự tồn tại là ghế của bạn. Chính tâm trí bạn làm cho bạn thành nhỏ thế, bị giới hạn thế, bị làm nô lệ thế. Một khi tâm trí không có đó, bạn đơn giản bắt đầu mở rộng, lan toả, và việc mở rộng đó đã được thấy là kinh nghiệm cực lạc nhất.
Daito viết:
Cuối cùng tôi đã phá vỡ
rào chắn của Vân Môn!
Vân Môn là một trong những thầy nổi tiếng và ông ấy thường gọi tâm trí là "rào chắn." Daito phải đã là đệ tử của Vân Môn.
Cuối cùng, ông ấy nói, tôi đã phá vỡ rào chắn của Vân Môn!
Vào buổi sáng, ra buổi tối,
không chủ không khách.
Mọi bước của tôi khuấy lên làn gió nhẹ.
Như mọi thứ trôi qua, mọi nhị nguyên đã trôi qua. Nhiều nhất, Mọi bước của tôi khuấy lên làn gió nhẹ.
Trong im lặng này, ngay cả làn gió nhẹ đó cũng không bị khuấy lên.
Maneesha hỏi:
Có đúng là không có câu trả lời đúng hay sai, chỉ có đáp ứng là thích hợp hay không thích hợp?
Maneesha, không có câu trả lời đúng hay sai, cũng không có đáp ứng thích hợp hay không thích hợp. Vì ngay cả thích hợp và không thích hợp sẽ tạo ra phân biệt của nhị nguyên.
Chỉ có tính tự phát, không có bất kì cái gì để định tính nó là đúng hay sai.
Duy nhất chỉ có tính tự phát.
Bạn rơi vào yêu; bạn không thể nói được tại sao, bạn không thể chỉ ra được lí do. Bạn không thể hợp lí hoá, bạn đơn giản có thể nhún vai. Bạn sẽ nói, "Tôi không thể nói được tại sao - nó chỉ xảy ra."
Cái mà chỉ xảy ra là cái đẹp nhất, cái duyên dáng nhất. Không có vấn đề về nhị nguyên.
Đây là vấn đề, Maneesha. Bạn có thể gạt bỏ nhị nguyên này, và tâm trí lập tức cung cấp cho bạn nhị nguyên khác - tốt hơn, được tinh luyện hơn, khó hình dung hơn một chút rằng nó là nhị nguyên.
Bạn đã hiểu rằng không có đúng hay sai nhưng có lẽ có đáp ứng thích hợp hay không thích hợp. Không. Chỉ có đáp ứng tự phát, không có thích hợp hay không có không thích hợp - chỉ tự phát, không có bất kì phẩm chất nào và không có bất kì phán xét nào.
Đó là lí do tại sao người thức tỉnh đã nhấn mạnh liên tục: không phán xét - phán xét tạo ra nhị nguyên. Không phán xét, và bạn thoải mái, ở nhà. Phán xét đem tâm trí vào - dù bạn nghĩ nó là thích hợp hay không thích hợp. Tâm trí đã tới từ cửa sau. Bạn đã đẩy nó ra khỏi cửa trước vì nó liên tục nói, "Cái này là đúng và cái này là sai." Nó đã tới từ phía sau, được tinh luyện hơn, với hàng hoá tốt hơn để bán - tâm trí là người bán hàng giỏi thế. Bây giờ nó nói, "Nghĩ dưới dang thích hợp hay không thích hợp." Nhưng đó lại là cùng trò chơi về phân chia mọi thứ.
Sự tồn tại là một, nó đơn giản hiện hữu.
Nhận ra sự hiện hữu này là nhận ra tự do tối thượng từ tâm trí và các nhị nguyên của nó.
Trước khi chúng ta đi vào trong sự hiện hữu này, chút ít tiếng cười - thích hợp hay không thích hợp - là tuyệt đối cần thiết. Nó sẽ không làm hại bất kì ai. Nhưng nó sẽ đánh thức nhiều người đã đi vào giấc ngủ đến lúc này. Tôi phải chăm nom về những người đang ngủ trước khi họ bắt đầu ngáy!
Calvin Dufus, anh họ của Kowalski, ở tại hộp đêm nơi một người nói tiếng bụng và người giả của anh ta đang nói chỉ mỗi chuyện cười của người Polack. Cuối cùng Calvin đứng dậy.
"Tôi phát mệt với mọi chuyện cười Ba Lan này!" anh ta la lên. "Cái gì làm ông nghĩ rằng tất cả chúng tôi ngu xuẩn thế?"
"Xin ông," người nói tiếng bụng nói. "Chúng chỉ là chuyện cười thôi, và tôi chưa bao giờ gặp một người Polack mà không có khả năng khôi hài."
"Tôi không nói với anh!" Dufus la to. "Tôi nói với thằng ngốc ngồi trên đầu gối anh!"
Trong một vụ li dị lớn ở Hollywood, Horace Kringecock đứng ở chỗ làm chứng.
"Bây giờ, như tôi hiểu nó," Babblebrain, luật sư của anh ta, nói, "mọi đêm anh sẽ về nhà từ chỗ làm việc và anh sẽ thấy một người đàn ông trần truồng khác trong tủ quần áo."
"Vâng," Horace đáp, "điều đó là đúng."
"Và, tất nhiên," Babblebrain tiếp tục, "điều này làm cho anh đau khổ lạ thường, đau khổ tinh thần, và đau tim. Tôi có đúng không?"
"Điều đó đúng rồi!" Horace kêu lên. "Tôi không thể tìm ra được chỗ nào để treo áo khoác của tôi!"
Giáo hoàng Polack đang đi hành hương tới Nam Phi. Ông ấy đang trên chiếc xe chống đạn thì thấy hai người đàn ông da trắng đang kéo một người đàn ông da đen ra khỏi sông bằng dây thừng.
Giáo hoàng lái chiếc xe của mình đi tới mép nước và bước ra gặp hai anh chàng da trắng.
"Làm tốt lắm," giáo hoàng Polack kêu lên. "Các anh đã hoàn toàn phục hồi đức tin của ta về người Nam Phi bằng việc dũng cảm cứu người da đen khỏi chết đuối." Thế rồi ông ấy quăng mình xuống và hôn đầm lầy, nhảy trở lại xe chống đạn, và lái đi.
"Đó là ai vậy?" một người da trắng hỏi.
"Ồ, đó là giáo hoàng Polack," người kia nói. "Ông ta biết mọi thứ về mọi thứ."
"Được, có thể ông ấy biết," người da trắng thứ nhất nói, vừa ném người da đen xuống sông, "nhưng ông ta chẳng biết cái cứt gì về đi săn cá sấu!"
Kowalski thấy bản thân mình bị say khướt trong khoang tầu hoả cùng với cha Blessbutt. "Ông đang đọc cái gì thế, thứ đức ông?" Kowalski hỏi.
"Đó là Kinh Thánh, con ta," linh mục thở dài. Cha Blessbutt ngửi thấy mùi rượu whiskey ở hơi thở của Kowalski, và tiếp tục, "Ngay bây giờ ta đang đọc câu chuyện đáng kinh ngạc về Samson. Anh ta là người mạnh nhất thế giới.
"Một hôm, đi ra cánh đồng, anh ta thấy năm nghìn người Philistines tràn lên ngọn đồi. Samson lấy xương hàm của một con lừa và giết chết năm trăm người trong số họ. Và thế rồi anh ta đánh tan tác số còn lại."
Kowalski rất ấn tượng. Đêm đó anh ta kể cho mọi người ở quán về điều đó.
"Tôi sẽ đi kiếm cuốn Kinh Thánh," Kowalski công bố.
"Trời!" Nurdski nói. "Để làm gì?"
"Thế này," Kowalski nói, "viên linh mục này đã bảo tôi rằng mọi thứ đáng ngạc nhiên đều có trong nó. Giống như có một anh chàng thô bạo tên là Simpson. Một hôm, anh ta đi ra vườn thì năm mươi nghìn người Filipinos tràn tới khắp trên đồi. Nhưng Simpson tấn công họ, chỉ bằng xương đít của người Do Thái. Anh ta một mình giết chết năm nghìn người trong số họ, và thế rồi anh ta giao cấu số còn lại!"
Bây giờ sẵn sàng đi...
Nivedano, đánh tiếng trống đầu tiên và mọi người phát rồi.
(Tiếng trống)
(Nói lắp bắp)
(Tiếng trống)
Im lặng... bạn đã ném mọi bụi ra ngoài.
Bây giờ, đi vào trong... không chuyển động thân thể.
Điều này...
Chính hiện hữu này là bí mật của mọi bí mật.
Người biết điều này biết cái vĩnh hằng và cái bất tử, cũng biết rằng người đó là một với cái toàn thể.
Đi sâu hơn, sâu hơn tới rễ.
Nivedano ...
(Tiếng trống)
Ngã xuống... thảnh thơi toàn bộ, gần như bạn chết.
Điều này chỉ để giúp bạn đạt tới chính trung tâm của bạn.
Chính im lặng này là cánh cửa tới vương quốc của Thượng đế.
Chính im lặng này... làm bạn thành một mình, hoàng đế không vương quốc nào.
Bạn không phải chinh phục thế giới.
Nếu bạn biết sự hiện hữu này, bạn đã chinh phụ toàn thể vũ trụ.
Kinh nghiệm về sự hiện hữu này làm cho người ta thành phật, người thức tỉnh.
Tất cả các bạn đều mang vị phật bên trong bạn, trong khi không bao giờ nhìn vào trong - cái đẹp của nó, niềm vui của nó, phúc lạc của nó.
Mang kinh nghiệm này cả ngày.
Thức hay ngủ, để nó chảy như dòng chảy ngầm và cuộc sống của bạn sẽ trở thành điệu vũ, mở hội.
Và chừng nào cuộc sống của bạn còn chưa trở thành việc mở hội, bạn đã không sống nó tới tính toàn bộ của nó.
Nivedano ...
(Tiếng trống)
Bây giờ tất cả các bạn quay lại từ chết tới cuộc sống mới, trong việc nhận ra bản thân bạn là phật.
Không tìm bất kì thượng đế nào bên ngoài, nhưng tuyên bố trong mọi hành động của bạn chính bản chất của tính thượng đế, trong yêu của bạn, trong an bình của bạn, trong niềm vui của bạn.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Osho.
Chúng ta có thể mở hội nhiều chư phật thế... được tụ hội trong im lặng mênh mông này không?
Vâng!
Xem tiếp Chương 10 – Quay về Mục lục

0 Đánh giá

Ads Belove Post