Chương 5. Phật giáo giải thích thế nào về duy ngã độc tôn

Chương 5. Phật giáo giải thích thế nào về duy ngã độc tôn

Price:

Read more

Trở về Cội nguồn - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 5. Phật giáo giải thích thế nào về duy ngã độc tôn

Thừa tướng Quách Tử Nghi, thuộc triều nhà Đường, là một chính trị gia nổi bật, một vị tướng lỗi lạc, và là một anh hùng dân tộc được ngưỡng mộ nhất trong thời của ông ấy. Nhưng danh vọng, quyền lực, của cải và thành công không thể làm ông ấy sao lãng khỏi mối quan tâm thiết tha và sự sùng kính với Phật giáo. Tự coi mình là một Phật tử thành tâm khiêm tốn và ngay thẳng, ông ấy thường tới thăm Thiền sư yêu mến của mình để học dưới sự chỉ bảo của Thiền sư.
Ông ấy và Thiền sư dường như rất tâm đầu ý hợp. Sự kiện là ông ấy là thừa tướng dường như chẳng có ảnh hưởng nào tới liên kết của họ. Không có dấu vết đáng để ý nào về sự lễ phép về phần Thiền sư, hay về sự kiêu căng hão huyền về phần thừa tướng; mối liên kết dường như là liên kết tôn giáo thanh tịnh của một thầy đáng kính và một đệ tử vâng lời.
Tuy nhiên, một hôm, khi ông ấy theo thường lệ tới thăm Thiền sư, ông ấy đã hỏi câu hỏi sau: 'Kính thầy, Phật giáo giải thích thế nào về duy ngã độc tôn?' Mặt Thiền sư đột nhiên tái xanh, và theo một cách cực kì ngạo mạn và khinh bỉ ông ấy nói với thừa tướng: 'Ông nói gì vậy đồ đần độn?' Việc coi thường vô lí và bất ngờ này làm tổn thương tình cảm của thừa tướng tới mức làm cho mặt ông ấy sị ra vì giận.
Thế rồi Thiền sư mỉm cười và nói: 'Thưa đại vương, đây là duy ngã độc tôn.'
Bản ngã là vấn đề cơ bản, cơ bản nhất. Và chừng nào bạn chưa giải quyết được nó, không cái gì được giải quyết. Chừng nào bản ngã chưa biến mất, điều Tối thượng không thể xuyên thấu bạn được.
Bản ngã giống như chiếc cửa đóng. Khách đang đứng bên ngoài. Khách đã từng gõ cửa, nhưng cửa bị đóng. Không chỉ cửa bị đóng, mà bản ngã còn liên tục diễn giải. Nó nói: Không có ai ở ngoài cả, không khách nào tới, không ai đã gõ cửa, chỉ gió lớn đập cửa thôi. Nó liên tục diễn giải từ bên trong, không nhìn vào sự kiện. Và cửa vẫn còn bị đóng. Bằng diễn giải, ngay cả khả năng của việc mở nó cũng trở thành ngày một ít đi. Và một khoảnh khắc tới khi bạn hoàn toàn bị đóng trong bản ngã riêng của bạn. Thế thì mọi sự nhạy cảm bị mất. Thế thì bạn không là lối mở, và bạn không thể có gặp gỡ với sự tồn tại. Thế thì bạn gần như chết. Bản ngã trở thành nấm mồ của bạn.
Đây là vấn đề cơ bản nhất. Nếu bạn giải nó, mọi thứ được giải. Không có nhu cầu đi tìm Thượng đế. Không có nhu cầu đi tìm Chân lí. Nếu bản ngã không có đó, đột nhiên mọi thứ được tìm thấy. Nếu bản ngã không có đó bạn đơn giản đi tới biết rằng Chân lí bao giờ cũng ở quanh bạn, bên ngoài và bên trong. Chính bản ngã sẽ không cho phép bạn thấy nó. Chính bản ngã che kín mắt bạn và bản thân bạn. Cho nên điều đầu tiên cần được hiểu là bản ngã này là gì.
Đứa trẻ được sinh ra. Đứa trẻ được sinh ra không có tri thức nào, không có ý thức nào về cái ngã riêng của nó. Và khi đứa trẻ được sinh ra điều đầu tiên nó trở nên nhận biết không phải là bản thân nó. Điều đầu tiên nó trở nên nhận biết là về người khác. Điều đó là tự nhiên, vì mắt mở hướng ra ngoài; tay chạm người khác, tai nghe người khác, lưỡi nến thức ăn và mũi người từ bên ngoài. Tất cả những giác quan này đều mở ra ngoài.
Đó là điều sinh ngụ ý. Sinh ngụ ý đi vào trong thế giới này, thế giới của cái bên ngoài. Cho nên khi đứa trẻ được sinh ra, nó được sinh ra trong thế giới này. Nó mở mắt, thấy những người khác. 'Người khác' ngụ ý ngươi.
Nó trở nên nhận biết về người mẹ trước hết. Thế rồi, dần dần, nó trở nên nhận biết về thân thể riêng của nó. Cái đó nữa cũng là cái khác, cái đó nữa thuộc vào thế giới. Nó đói và nó cảm thấy thân thể; nhu cầu của nó được thoả mãn, nó quên thân thể. Đây là cách đứa trẻ lớn lên. Đầu tiên nó trở nên nhận biết về bạn, ngươi, người khác, và thế rồi dần dần trong tương phản với bạn, ngươi, nó trở nên nhận biết về bản thân nó. Nhận biết này là nhận biết được phản xạ. Nó không nhận biết về nó là ai. Nó đơn giản nhận biết về người mẹ và điều người mẹ nghĩ về nó. Nếu nó mỉm cười, nếu mẹ khen con, nếu cô ấy nói: Con đẹp con xinh; nếu cô ấy ôm và hôn nó, đứa con cảm thấy sung sướng về bản thân nó.
Bây giờ bản ngã được sinh ra. Khen ngợi, yêu, chăm sóc, nó cảm thấy nó là tốt, nó cảm thấy nó có giá trị, nó cảm thấy nó có ý nghĩa nào đó. Một trung tâm được sinh ra. Nhưng trung tâm này là trung tâm được phản xạ. Cái đó không phải là bản thân thực của nó. Nó không biết nó là ai. Nó đơn giản biết điều người khác nghĩ về nó. Và đây là bản ngã: sự phản xạ, điều người khác nghĩ. Nếu không ai nghĩ rằng nó có hữu dụng gì, không ai khen ngợi nó, không ai mỉm cười, thế nữa bản ngã cũng được sinh ra - bản ngã ốm yếu: buồn, bị bác bỏ, như vết thương; cảm thấy kém cỏi, vô giá trị. Điều này nữa là bản ngã. Điều này nữa là phản xạ. Đầu tiên người mẹ - và mẹ ngụ ý thế giới lúc ban đầu - thế rồi người khác sẽ gia nhập cùng người mẹ, và thế giới liên tục tăng trưởng. Và thế giới càng tăng trưởng, bản ngã càng trở nên phức tạp hơn, vì ý kiến của nhiều người khác được phản xạ.
Bản ngã là hiện tượng được tích luỹ, sản phẩm phụ của việc sống với người khác. Nếu đứa con sống một mình toàn bộ, nó sẽ không bao giờ đi tới việc phát triển bản ngã. Nhưng điều đó sẽ không giúp ích. Nó sẽ vẫn còn giống như con vật. Điều đó không ngụ ý rằng nó sẽ đi tới biết cái Ngã thực, không. Cái thực chỉ có thể được biết qua cái giả, cho nên bản ngã là cái phải có. Người ta phải trải qua nó. Đó là kỉ luật. Cái thực chỉ có thể được biết qua ảo vọng. Bạn không thể biết Chân lí một cách trực tiếp. Đầu tiên bạn phải biết cái không là thực. Đầu tiên bạn phải đương đầu với cái không thực. Qua việc đương đầu đó bạn trở nên có năng lực biết Chân lí. Nếu bạn biết cái giả là cái giả, Chân lí sẽ bừng lên với bạn.
Bản ngã là nhu cầu; nó là nhu cầu xã hội, nó là sản phẩm phụ của xã hội. Xã hội ngụ ý mọi thứ xung quanh bạn - không phải bạn, nhưng mọi thứ xung quanh bạn. Mọi thứ, trừ bạn, là xã hội, và mọi người phản xạ. Bạn sẽ đi học và thầy cô sẽ phản xạ bạn là ai. Bạn sẽ ở trong tình bạn với những đứa trẻ khác và chúng sẽ phản xạ bạn là ai. Dần dần, mọi người bổ sung thêm cho bản ngã của bạn, và mọi người đang cố thay đổi nó theo cách mà bạn không trở thành vấn đề cho xã hội.
Họ không đề cập tới bạn đâu. Họ đề cập tới xã hội đấy. Xã hội đề cập tới bản thân nó, và đó là cách nó phải vậy. Họ không lo lắng rằng bạn phải trở thành người biết cái ngã. Họ lo lắng rằng bạn phải trở thành một phần hiệu quả trong bộ máy của xã hội. Bạn phải khớp vào hình mẫu. Cho nên họ đang cố cho bạn một bản ngã khớp với xã hội. Họ dạy bạn đạo đức. Đạo đức ngụ ý cho bạn bản ngã mà khớp với xã hội. Nếu bạn vô đạo đức, bạn bao giờ cũng là người không thích nghi với đâu đó hay những người khác.
Đó là lí do tại sao chúng ta đưa kẻ tội phạm vào tù - không phải vì họ đã làm cái gì sai - không phải bằng việc cho họ vào tù chúng ta sẽ cải thiện họ, không. Họ đơn giản không khớp. Họ là người gây rắc rối. Họ có kiểu bản ngã nào đó mà xã hội không chấp thuận. Nếu xã hội chấp thuận, mọi thứ là tốt.
Một người giết ai đó - anh ta là kẻ giết người. Và cùng người đó trong thời gian chiến tranh giết hàng nghìn người - anh ta trở thành anh hùng lớn. Xã hội không bị bận tâm bởi một kẻ giết người, nhưng việc giết người được phạm phải vì xã hội - thế thì nó là được. Xã hội không bận tâm về đạo đức. Đạo đức chỉ ngụ ý rằng bạn phải khớp với xã hội. Nếu xã hội đang chiến tranh, thế thì đạo đức thay đổi. Nếu xã hội đang hoà bình, thế thì có đạo đức khác.
Đạo đức là chính trị xã hội. Nó là ngoại giao. Và từng đứa trẻ đều phải được nuôi dưỡng lớn lên theo cách mà nó khớp với xã hội, có vậy thôi. Vì xã hội quan tâm tới các thành viên hiệu quả. Xã hội không quan tâm rằng bạn phải đạt tới tự biết. Xã hội bao giờ cũng chống lại tôn giáo. Do đó có việc đóng đinh Jesus, sát hại Socrates - vì họ cũng không khớp.
Hai kiểu người không khớp. Một: ai đó đã phát triển một bản ngã phản xã hội; người đó sẽ không bao giờ khớp. Nhưng người đó có thể bị đưa ra toà xét xử. Có khả năng đó. Bạn có thể tra tấn người đó, bạn có thể trừng phạt người đó, và người đó có thể trở lại ý thức. Việc tra tấn có thể là quá nhiều, và người đó có thể được chuyển đổi. Thế rồi có một kiểu người khác, người không thể được cho xã hội - một Jesus. Ông ấy không phải là tội phạm, nhưng ông ấy không có bản ngã. Làm sao bạn có thể làm khớp cho một người không có bản ngã? Người có có vẻ tuyệt đối vô trách nhiệm, nhưng người đó không thế. Người đó có cam kết lớn hơn với Thượng đế. Người đó không có cam kết với xã hội.
Người được cam kết với Thượng đế không bận tâm. Người đó có chiều sâu đạo đức khác. Nó không tới từ các chuẩn mực - nó tới từ việc tự biết của người đó.
Nhưng thế thì vấn đề nảy sinh vì xã hội đã tạo ra chuẩn mực đạo đức của họ. Những chuẩn mực đạo đức đó do con người làm ra. Bất kì khi nào một Jesus hay một Phật xảy ra, người đó không bận tâm về các tục lệ do con người làm ra. Người đó có cam kết lớn hơn; người đó được tham gia cùng cái Toàn thể. Từng khoảnh khắc người đó quyết định việc đáp ứng của mình qua nhận biết của người đó, không qua ước định; cho nên không ai biết về người đó, về điều người đó sẽ làm. Người đó là không thể dự đoán được.
Xã hội có thể dung thứ cho những kẻ tội phạm, nhưng họ không thể dung thứ cho Jesus và Socrates - điều đó là không thể được. Và những người này là gần như không thể được. Bạn không thể làm được bất kì cái gì về họ vì họ không sai. Và nếu bạn cố hiểu thế thì, họ sẽ chuyển đổi bạn - bạn không thể chuyển đổi được họ. Cho nên tốt hơn cả là giết ngay họ. Khoảnh khắc xã hội trở nên nhận biết, nó giết họ ngay lập tức vì nếu bạn nghe họ, có nguy hiểm. Nếu bạn nghe họ, bạn sẽ bị chuyển đổi. Và không có khả năng năng nào chuyển đổi họ, cho nên tốt hơn cả là được hoàn toàn kết thúc, không có quan hệ gì với họ. Bạn không thể cho họ vào tù, vì ở đó họ cũng sẽ vẫn trong quan hệ với xã hội. Họ sẽ tồn tại. Chính sự tồn tại của họ là quá nhiều - họ phải bị giết đi. Và thế thì, khi các tu sĩ tiếp quản, thế thì không có vấn đề gì. Giáo hoàng ở Vatican là một phần của xã hội; Jesus không bao giờ là vậy.
Đó là khác biệt giữa giáo phái và tôn giáo. Tôn giáo không bao giờ là một phần của bất kì xã hội nào. Nó là phổ quát, nó có tính tồn tại, và rất, rất nguy hiểm. Bạn không thể tìm được người nào nguy hiểm hơn người tôn giáo, người nổi dậy nào nguy hiểm hơn người tôn giáo, người cách mạng nào nguy hiểm hơn người tôn giáo. Vì cách mạng của người đó là tuyệt đối tới mức không có khả năng nào cho bất kì thoả hiệp nào với người đó. Và vì người đó biết điều người đó làm, người đó tuyệt đối chắc chắn, tới mức bạn không thể chuyển đổi được người đó. Và người đó lại có tính lây nhiễm. Nếu người đó có đó người đó sẽ lan toản như bệnh dịch, người đó sẽ làm tiêm nhiễm nhiều người.
Jesus phải bị giết. Ki tô giáo có thể được chấp nhận, nhưng không phải Christ. Ki tô giáo là gì? Ki tô giáo là nỗ lực của xã hội để thay thế Christ. Christ là nguy hiểm, cho nên xã hội tạo ra Ki tô giáo quanh ông ấy. Ki tô giáo là được vì nó là hiện tượng xã hội, chính trị xã hội. Nhà Thờ là được, linh mục là được - người sáng lập là nguy hiểm. Đó là lí do tại sao có ba trăm tôn giáo tồn tại trên thế gian. Làm sao có thể có ba trăm tôn giáo!
Khoa học có một thôi. Bạn không thể có khoa học Cơ đốc giáo và khoa học Tin lành. Bạn không thể có khoa học Mô ha mét giáo và khoa học Hindu. Khoa học là một. Làm sao tôn giáo có thể có ba trăm được? Chân lí không thể có tính giáo phái. Chân lí là một và phổ quát. Chỉ một tôn giáo tồn tại. Phật thuộc vào tôn giáo đó. Jesus thuộc vào tôn giáo đó. Krishna, Mohammed, tất cả họ thuộc vào tôn giáo đó. Và thế rồi có ba trăm tôn giáo - đây là những tôn giáo giả, đây là những thủ đoạn mà xã hội đã giở ra với bạn, đây là cái thay thế, sự bắt chước.
Xem đấy, Jesus bị đóng đinh trên cây thập tự, và giáo hoàng ở Vatican đang làm gì? Ông ấy có chiếc thập tự vàng quanh cổ mình. Jesus bị treo trên cây thập tự, và quanh cổ của giáo hoàng lủng lẳng cây thập tự. Và nó là cây thập tự vàng. Jesus phải khênh cây thập tự của riêng mình - cây thập tự đó không bằng vàng. Làm sao cây thập tự có thể bằng vàng được? Cây thập tự của ông ấy rất, rất nặng. Ông ấy ngã khi khênh nó đi lên đồi Golgotha. Dưới trọng lượng này, ông ấy ngã, ông ấy ngất. Bạn có thấy linh mục nào ngất đi dưới trọng lượng của cây thập tự vàng không? Không, nó là cái thay thế giả. Nó là thủ đoạn. Bây giờ điều này không còn là tôn giáo.
Đây là một phần của chính trị xã hội. Ki tô giáo là chính trị, Hindu giáo là chính trị, Phật giáo là chính trị. Phật, Jesus, Krishna, họ không mang tính xã hội chút nào. Họ không phản xã hội - họ ở bên ngoài xã hội.
Cho nên có hai nguy hiểm cho xã hội: người phản xã hội, tội phạm; bạn có thể giải quyết họ. Họ có thể nguy hiểm, nhưng cái gì đó có thể được làm về họ; họ không nguy hiểm thế. Thế rồi có một nhóm người ở bên ngoài xã hội. Họ là không thể được. Bạn không thể thay đổi được họ. Họ sẽ không sẵn sàng làm bất kì thoả hiệp nào.
Xã hội tạo ra bản ngã vì bản ngã có thể bị kiểm soát và thao túng. Cái Ngã không bao giờ có thể bị kiểm soát và thao túng. Không ai đã bao giờ nghe nói về xã hội kiểm soát cái Ngã - không thể được. Và đứa trẻ cần một trung tâm; đứa trẻ là hoàn toàn vô nhận biết về trung tâm riêng của nó. Xã hội cho nó một trung tâm và đứa trẻ dần dần bị thuyết phục rằng đây là trung tâm, bản ngã mà xã hội trao cho.
Đứa trẻ quay về nhà nó. Nếu nó được nhất lớp, cả gia đình sung sướng. Bạn ôm và hôn nó, và bạn công kênh đứa trẻ trên vai và nhảy múa và bạn nói: Đứa trẻ giỏi làm sao! Con là niềm tự hào của chúng ta. Bạn đang cho nó bản ngã, bản ngã tinh vi. Và nếu đứa trẻ về nhà chán nản, không thành công, thất bại, nó không thể đỗ, hay nó chỉ trên hàng chót, thế thì không ai khen ngợi nó và đứa trẻ cảm thấy bị bác bỏ. Nó sẽ cố gắng vất vả lần sau, vì trung tâm cảm thấy bị rung chuyển.
Bản ngã bao giờ cũng bị rung chuyển, bao giờ cũng trong việc tìm thức ăn, rằng ai đó phải khen ngợi nó. Đó là lí do tại sao bạn liên tục đòi có sự chú ý.
Nếu chồng đi vào phòng và không nhìn vợ, rắc rối có đó. Nếu anh ta quan tâm tới báo của mình hơn, rắc rối có đó. Làm sao bạn dám quan tâm tới báo chí nhiều hơn khi vợ bạn có đó? Đó là lí do tại sao điều đó bao giờ cũng là khổ. Nếu một người rất, rất vĩ đại thế thì vợ người đó bao giờ cũng là vấn đề. Điều ngược lại cũng sẽ là vậy: nếu vợ rất, rất vĩ đại, chồng cô ấy sẽ là vấn đề. Cứ hỏi vợ những người đàn ông vĩ đại mà xem. Người vĩ đại có nhiều thứ sâu hơn để làm. Một Socrates; ông ấy quan tâm tới suy ngẫm nhiều hơn tới vợ ông ấy, và đó là vết thương. Vợ của Socrates liên tục đay nghiến. Ông ấy đã chăm chú ở đâu đó khác. 'Cái gì đó quan trọng hơn mình sao?' Điều nay làm rung chuyển bản ngã.
Tôi đã nghe: Mulla Nasrudin và vợ anh ta đang đi dự bữa tiệc rượu, và Mulla nói: 'Em yêu, Có người nào đã bao giờ nói với em: em quyến rũ làm sao, đẹp làm sao, kì diệu làm sao?' Vợ anh ta cả thấy rất, rất sướng âm ỉ. Cô ta nói: 'Em tự hỏi tại sao không ai đã bao giờ nói với em điều này.' Nasrudin nói: 'Thế thì em có cái ý tưởng đó từ đâu?'
Bạn có ý tưởng về bạn là ai từ những người khác. Nó không phải là kinh nghiệm trực tiếp. Chính là từ những người khác mà bạn có ý tưởng về bạn là ai. Họ hình thành nên trung tâm của bạn. Trung tâm này là giả, vì bạn mang trung tâm thực của bạn. Nó không là việc của bất kì ai. Không ai hình thành nên nó. Bạn đi cùng nó. Bạn được sinh ra cùng nó.
Cho nên bạn có hai trung tâm. Một trung tâm bạn tới cùng nó, cái do đích thân sự tồn tại trao cho. Đó là cái Ngã. Và trung tâm kia, được xã hội tạo ra, là bản ngã - nó là thứ giả - và nó là thủ đoạn rất lớn. Qua bản ngã xã hội đang kiểm soát bạn. Bạn phải cư xử theo cách nào đó, vì chỉ thế thì xã hội ca ngợi bạn. Bạn phải bước đi theo cách nào đó; bạn phải cười theo cách nào đó; bạn phải tuân theo phong tục tập quán nào đó, đạo đức, chuẩn mực. Chỉ thế thì xã hội sẽ ca ngợi bạn, và nếu nó không vậy, bản ngã của bạn sẽ bị đập tan. Và khi bản ngã bị đập tan, bạn không biết bạn ở đâu, bạn là ai. Người khác đã cho bạn ý tưởng. Ý tưởng đó là bản ngã.
Cố hiểu nó sâu nhất có thể được đi, vì điều này phải bị vứt đi. Và chừng nào bạn chưa vứt nó đi bạn sẽ không bao giờ có khả năng đạt tới cái Ngã. Vì bạn bị nghiện với trung tâm này, bạn không thể hành động, và bạn không thể nhìn vào cái Ngã.
Và nhớ, sẽ có một thời kì chuyển tiếp, một khoảng hở, khi bản ngã sẽ bị đập tan, khi bạn sẽ không biết bạn là ai, khi bạn sẽ không biết bạn đang đi đâu, khi mọi biên giới sẽ tan ra. Bạn sẽ đơn giản hoang mang, sự hỗn độn. Vì hỗn độn này, bạn sợ mất bản ngã. Nhưng nó phải là như vậy. Người ta phải trải qua hỗn độn trước khi người ta đạt tới trung tâm thực.
Và nếu bạn mạnh dạn, thời kì này sẽ là nhỏ. Nếu bạn sợ, và bạn lại rơi trở lại bản ngã, và bạn lại bắt đầu thu xếp nó, thế thì điều đó có thể rất, rất lâu; nhiều kiếp có thể bị phí hoài.
Chứng ngộ bao giờ cũng là bất thần. Không có cái gì giống như chứng ngộ dần dần. Sự dần dần tới nếu bạn không đủ can đảm, nó bắt nguồn từ nỗi sợ của bạn. Thế thì bạn lấy một bước tới trung tâm, trung tâm thực, và bạn trở nên sợ - bạn lui lại. Nó cũng giống như trẻ nhỏ đứng trên cửa nghĩ tới đi, nhưng có bóng tối. Nó nhìn ra, quay lại, lại thu lấy chút dũng cảm, lại nhìn.
Tôi đã nghe nói: Một cậu bé đi thăm ông bà. Nó mới bốn tuổi. Trong đêm khi bà cho nó đi ngủ, nó đột nhiên bắt đầu kêu khóc và nói: 'Cháu muốn về nhà. Cháu sợ tối.' Nhưng bà nói: 'Bà biết rõ là ở nhà cháu cũng ngủ trong tối, bà chưa bao giờ thấy đèn bật lên. Thế sao cháu sợ ở đây?' Cậu bé nói: 'Dạ, điều đó đúng - nhưng đó là tối của cháu.' Tối này hoàn toàn không được biết.
Ngay cả với tối bạn cảm thấy: Cái này là của tôi. Bên ngoài - cái tối không biết. Với bản ngã bạn cảm thấy: Đây là tối của tôi. Nó có thể phiền hà, có thể nó tạo ra nhiều khổ, nhưng dầu vậy - của tôi. Cái gì đó để ôm giữ, cái gì đó để níu bám, cái gì đó ở bên dưới chân; bạn không trong chân không, không trong trống rỗng. Bạn có thể khổ, nhưng ít nhất bạn hiện hữu. Ngay cả bị khổ cũng cho bạn một cảm giác về 'tôi đây'. Hành động từ nó, nỗi sợ tiếp quản; bạn bắt đầu cảm thấy sợ cái tối không biết và hỗn độn - vì xã hội đã xoay xở để xoá đi phần nhỏ của bản thân bạn.
Điều đó cũng giống như đi vào trong rừng. Bạn làm quang đãng chút ít, bạn dọn quang mảnh đất nhỏ; bạn làm hàng rào, bạn làm lều nhỏ; bạn làm cái vườn nhỏ, bãi cỏ, và bạn thấy được. Bên ngoài hàng rào của bạn - rừng, thú hoang. Ở đây mọi thứ là được; bạn đã lập kế hoạch mọi thứ. Đây là cách nó đã xảy ra.
Xã hội đã làm việc dọn quang chút ít trong ý thức của bạn. Xã hội đã dọn sạch hoàn toàn chỉ một phần nhỏ, ràu dậu nó lại. Mọi thứ là được ở đó. Đó là điều mọi đại học đang làm. Toàn thể nền văn hoá và việc ước định chỉ là để dọn sạch một phần để cho bạn có thể cảm thấy như ở nhà tại đó.
Và thế rồi bạn trở nên sợ. Bên ngoài hàng rào có nguy hiểm. Bên ngoài hàng rào bạn hiện hữu như bên trong hàng rào bạn hiện hữu - và tâm trí có ý thức của bạn chỉ là một phần, một phần mười của toàn thể bản thân bạn. Chín phần mười đang chờ đợi trong bóng tối. Và trong chín phần mười đó, ở đâu đó trung tâm thực của bạn đang được ẩn kín.
Người ta phải táo bạo, dũng cảm. Người ta phải tiến một bước vào trong cái Không biết. Một thoáng chốc mọi biên giới sẽ mất đi. Một thoáng chốc bạn sẽ cảm thấy chóng mặt. Một thoáng chốc, bạn sẽ cảm thấy rất sợ và run lên, dường như động đất đã xảy ra. Nhưng nếu bạn dũng cảm và bạn không quay lui, nếu bạn không rơi lại vào bản ngã và bạn đi tiếp đi tiếp, có một trung tâm ẩn kín bên trong bạn mà bạn đã từng mang đi trong nhiều kiếp. Đó là linh hồn bạn, atma, cái Ngã. Một khi bạn tới gần nó, mọi thứ thay đổi, mọi thứ lắng đọng. Nhưng bây giờ việc lắng đọng này không được làm bởi xã hội. Bây giờ mọi thứ trở thành hài hoà, không hỗn độn; một trật tự mới nảy sinh. Nhưng điều này không còn là trật tự của xã hội - nó là chính trật tự của bản thân sự tồn tại.
Đó là điều Phật gọi là dhamma-pháp, Lão Tử gọi là đạo, Heraclitus gọi là logos. Nó không do con người làm ra. Nó là chính trật tự của bản thân sự tồn tại. Thế thì mọi thứ đột nhiên lại là đẹp, và lần đầu tiên thực sự đẹp, vì những thứ con người làm không thể là đẹp. Nhiều nhất bạn có thể che giấu cái xấu của chúng, có vậy thôi. Bạn có thể trang hoàng cho chúng nhưng chúng không bao giờ có thể là đẹp.
Sự khác biệt cũng giống như khác biệt giữa hoa thực và hoa nhựa hay hoa giấy. Bản ngã là hoa nhựa - chết. Nó có vể như hoa, nó không là hoa. Bạn không thể thực sự gọi nó là hoa. Ngay cả về mặt ngôn ngữ, gọi nó là hoa là sai, vì hoa là cái gì đó nở hoa. Và thứ nhựa này chỉ là một vật, không phải là việc nở hoa. Nó là chết. Không có sự sống trong nó.
Bạn có một trung tâm nở hoa bên trong. Đó là lí do tại sao người Hindus gọi nó là hoa sen - nó là việc nở hoa. Họ gọi nó là hoa sen một nghìn cánh. Một nghìn ngụ ý vô hạn cánh hoa. Và nó liên tục nở hoa, nó không bao giờ dừng, nó không bao giờ chết.
Nhưng bạn được thoả mãn với bản ngã nhựa. Có một số lí do tại sao bạn được thoả mãn. Với thứ chết, có nhiều thuận tiện hơn. Một là ở chỗ thứ chết không bao giờ chết. Nó không thể chết được - nó đã không bao giờ sống. Cho nên bạn có thể có hoa nhựa, chúng là tốt theo cách nào đó. Chúng là thường hằng; chúng không vĩnh hằng, nhưng chúng là thường hằng. Hoa thực bên ngoài trong vườn là vĩnh hằng, nhưng không thường hằng.
Và cái vĩnh hằng có cách riêng của nó để là vĩnh hằng. Cách của vĩnh hằng là được sinh và chết lặp đi lặp lại. Qua chết nó làm tươi mới bản thân nó, làm khoẻ lại bản thân nó. Với chúng ta dường như là hoa thực đã chết - nó không bao giờ chết. Nó đơn giản đổi thân thể, cho nên nó bao giờ cũng tươi tắn. Nó bỏ lại thân thể cũ, nó đi vào thân thể mới. Nó nở hoa ở đâu đó khác; nó liên tục nở hoa. Nhưng chúng ta không thể thấy được sự liên tục này vì sự liên tục là vô hình. Chúng ta chỉ thấy hoa này, hoa khác; chúng ta không bao giờ thấy sự liên tục. Nó là cùng hoa đã nở hôm qua. Nó là cùng mặt trời, nhưng trong cách ăn mặc khác.
Bạn cần con mắt rất xuyên thấu để thấy sự liên tục vô hình. Sự liên tục vô hình là Thượng đế. Nếu bạn có thể thấy, đây là cùng hoa trong thân thể khác. Đó là điều người Hindus gọi là lí thuyết đầu thai. Ki tô giáo, Do Thái giáo, Mô ha mét giáo, tất cả họ bỏ lỡ cái đẹp của nó, cho nên cả ba tôn giáo này dần dần trở thành duy vật. Họ phải vậy, vì cái vô hình đã bị bỏ lỡ.
Tôi ở đây. Bạn ở đây. Bạn đã từng ở đây hàng triệu lần trước đây. Nó là việc trở lại vĩnh hằng; trong các thân thể khác nhau, các hình dạng khác nhau - nhưng sự liên tục là như nhau. Và chúng ta gọi sự liên tục đó là linh hồn. Không phải thân thể này, hình tướng thay đổi; cái vô hình tướng, nó còn lại. Và đây là cách để nó là vĩnh hằng; bằng không nó không thể là vĩnh hằng.
Chết là cách để làm khoẻ lại bản thân người ta lần nữa. Bạn thở ra; đây là cách hít vào lần nữa. Bạn chết; đây là cách để được tái sinh. Từng khoảnh khắc bạn chết; thân thể đang làm cùng điều đó.
Bạn hỏi nhà sinh lí học - họ nói rằng thân thể chết và làm mới bản thân nó mọi khoảnh khắc. Mọi tế bào sẽ chết. Nếu bạn sống bẩy mươi năm, thế thì ít nhất mười lần thân thể sẽ chết hoàn toàn. Nhưng nó là thay đổi dần dần. Một tế bào chết, tế bào khác được thay thế, lá rụng xuống. Nó tiếp diễn.
Mới vài ngày trước đây, cây hạnh bên ngoài đã trở nên hoàn toàn trụi lá. Mọi lá của nó rụng xuống. Đây là cách thức. Giờ nó trẻ lại. Giờ lá mới đã tới. Lá cũ đã mất đi, lá mới đã tới. Nhưng lá không phải là cây. Cây là cội nguồn mà từ đó lá tới, và cội nguồn đó là ẩn kín.
Lá già rụng đi để cho lá mới có thể tới. Thân thể cũ chết đi để cho thân thể mới có thể tới. Đây là cách sự tồn tại tồn tại vĩnh hằng, bao giờ cũng chết đi bao giờ cũng quay lại. Nó là cái bánh xe; nan hoa đi lên, thế rồi chúng đi xuống. Đây là cách bánh xe chuyển động.
Bản ngã là thứ đồ nhựa, nhưng nó có vẻ thường hằng. Nhớ, vĩnh hằng không phải là thường hằng. Vĩnh hằng hoạt động qua chuyển động. Vĩnh hằng chuyển động qua thay đổi. Vĩnh hằng là thay đổi liên tục, và vậy mà nó vẫn còn như vậy: thay đổi, vậy mà vẫn còn như vậy, vậy mà không bao giờ chuyển động.
Bản ngã có phẩm chất nào đó - nó là chết. Nó là thứ đồ nhựa. Và rất dễ có nó, vì người khác cho nó. Bạn không cần tìm nó. Không có việc tìm kiếm được bao hàm. Đó là lí do tại sao chừng nào bạn chưa trở thành người tìm kiếm cái Không biết, bạn vẫn còn chưa trở thành một cá nhân. Bạn chỉ là một phần của đám đông. Bạn chỉ là khối người. Khi bạn không có trung tâm thực, làm sao bạn có thể là cá nhân được?
Bản ngã không phải là cá nhân. Bản ngã là hiện tượng xã hội - nó là xã hội, nó không phải là bạn. Nhưng nó cho bạn sự vận hành trong xã hội, hệ thống cấp bậc trong xã hội. Và nếu bạn vẫn còn được thoả mãn với nó, bạn sẽ bỏ lỡ toàn thể cơ hội để tìm ra cái Ngã.
Và đó là lí do tại sao bạn khổ thế. Với cuộc sống nhựa, làm sao bạn có thể hạnh phúc? Với cuộc sống giả, làm sao bạn có thể cực lạc và phúc lạc? Và thế rồi bản ngã này tạo ra nhiều khổ sở, hàng triệu khổ. Bạn không thể thấy được, vì nó là 'tối riêng của bạn'. Bạn được hoà hợp theo nó.
Bạn đã bao giờ để ý rằng mọi kiểu khổ đều đi vào qua bản ngã không? Nó không thể làm cho bạn phúc lạc; nó chỉ có thể làm cho bạn khổ. Bản ngã là địa ngục. Bất kì khi nào bạn khổ, cứ thử quan sát và phân tích, và bạn sẽ thấy, ở đâu đó bản ngã là nguyên nhân cho khổ. Và bản ngã liên tục tìm nguyên nhân của khổ.
Có lần tôi đã ở nhà Mulla Nasrudin. Cô vợ nói những điều rất khó chịu về Mulla Nasrudin, rất giận dữ, thô lỗ, hùng hổ, ngay trên bờ bùng nổ, rất bạo hành. Còn Mulla Nasrudin chỉ ngồi im lặng và nghe. Thế rồi đột nhiên cô ấy quay sang anh ta và nói: 'Vậy lần nữa, anh cãi lại tôi!' Mulla nói: 'Nhưng anh thậm chí đã không nói một lời.' Cô vợ nói: 'Điều đó tôi biết - nhưng anh đang nghe một cách rất hùng hổ.'
Bạn là người bản ngã, như mọi người vậy. Một số người rất thô thiển, chỉ trên bề mặt, và họ không khó khăn thế. Một số người rất tinh tế, sâu bên dưới, và họ là vấn đề thực. Bản ngã này liên tục tới trong xung đột với bản ngã khác vì mọi bản ngã đều không tự tin thế về bản thân nó. Điều đó phải vậy - nó là thứ giả. Khi bạn không có cái gì trong tay và bạn cứ nghĩ rằng cái gì đó có đó, thế thì sẽ có vấn đề. Nếu ai đó nói: 'Không có gì cả,' lập tức đánh nhau sẽ bắt đầu, vì bạn cũng cảm thấy rằng không có cái gì. Người kia làm cho bạn nhận biết về sự kiện này.
Bản ngã là giả, nó không là gì cả. Điều đó bạn cũng biết. Làm sao bạn có thể bỏ lỡ việc biết nó? Điều đó là không thể được! Người có ý thức, làm sao người đó có thể bỏ lỡ việc biết rằng bản ngã này chỉ là giả? Và thế rồi người khác nói nó không là gì - và bất kì khi nào người khác nói rằng nó không là gì, họ đánh vào vết thương, họ nói ra chân lí - và chẳng cái gì đánh như chân lí. Bạn phải phòng thủ, vì nếu bạn không phòng thủ, nếu bạn không trở nên có tính phòng thủ, thế thì bạn sẽ ở đâu? Bạn sẽ bị mất. Căn cước sẽ bị vỡ tan. Cho nên bạn phải phòng thủ và đánh nhau - đó là va chạm.
Người đạt tới cái Ngã không bao giờ trong bất kì va chạm nào. Người khác có thể tới và va chạm với người đó, nhưng người đó không bao giờ va chạm với bất kì ai.
Chuyện xảy ra là một Thiền sư đi qua một phố. Một người chạy tới và va mạnh vào ông ấy. Thầy ngã nhào. Thế rồi thầy đứng dậy và bắt đầu bước đi theo cùng hướng mà thầy đã đi trước đó, thậm chí không nhìn lại sau. Một đệ tử đã đi cùng thầy. Anh ta đơn giản bị choáng. Anh ta nói: 'Người này là ai? Đây là cái gì? Nếu người ta sống theo cách như thế, thế thì bất kì ai cũng có thể tới và giết thầy. Và thầy thậm chí đã không nhìn người đó, người đó là ai, và tại sao người đó đã làm điều đó.' Thầy nói: 'Đó là vấn đề của người đó, không phải của ta. Ông có thể va vào một người đã chứng ngộ, nhưng đó là vấn đề của ông, không phải của người đó. Và nếu ông bị đau trong va chạm đó, điều đó nữa là vấn đề của riêng ông. Người đó không thể làm đau ông. Và nó cũng giống như đâm vào tường - ông sẽ bị đau, nhưng tường đã không làm đau ông.'
Bản ngã bao giờ cũng tìm rắc rối nào đó. Tại sao? Vì nếu không ai chú ý tới bạn, bản ngã cảm thấy đói. Nó sống trên sự chú ý. Cho nên ngay cả nếu ai đó đánh và giận bạn, điều đó nữa là tốt vì ít nhất sự chú ý được dành cho bạn. Nếu ai đó yêu, điều đó là được. Nếu ai đó không yêu bạn, thế thì ngay cả giận sẽ là tốt. Ít nhất sự chú ý sẽ tới với bạn. Nhưng nếu không ai chú ý gì tới bạn, không ai nghĩ bạn là ai đó quan trọng, có ý nghĩa, thế thì làm sao bạn sẽ nuôi dưỡng bản ngã của bạn? Sự chú ý của người khác được cần tới.
Theo cả triệu cách bạn thu hút sự chú ý của người khác: bạn ăn mặc theo cách nào đó, bạn cố để trông đẹp, bạn cư xử, bạn trở nên rất lịch sự, bạn thay đổi. Khi bạn cảm thấy kiểu tình huống nào có đó, bạn lập tức thay đổi để cho mọi người chú ý tới bạn.
Đây là việc ăn xin sâu. Người ăn xin thực là người đòi hỏi và yêu cầu sự chú ý. Và hoàng đế thực là người sống trong bản thân người đó; người đó có trung tâm của riêng mình, người đó không phụ thuộc vào bất kì người nào khác. Phật ngồi dưới cây bồ đề... nếu toàn thể thế giới đột nhiên biến mất, sẽ không tạo ra bất kì khác biệt nào cho Phật sao? - không. Nó sẽ không tạo ra bất kì khác biệt chút nào. Nếu toàn thể thế giới biến mất, điều đó sẽ không tạo ra bất kì khác biệt nào vì ông ấy đã đạt tới trung tâm.
Nhưng bạn, nếu vợ trốn đi, li dị bạn, đi với ai đó khác, bạn hoàn toàn bị tan nát - vì cô ấy đã chú ý tới bạn, chăm nom, yêu thương, đi quanh bạn, giúp bạn cảm thấy rằng bạn là ai đó. Toàn thể vương quốc của bạn bị mất đi, bạn đơn giản tan nát cõi lòng. Bạn bắt đầu nghĩ về tự tử. Tại sao? Tại sao, nếu vợ bỏ bạn, bạn phải tự tử? Tại sao, nếu chồng bỏ bạn, bạn phải tự tử? Vì bạn không có trung tâm nào của riêng bạn. Vợ đã cho bạn trung tâm; chồng đã cho bạn trung tâm.
Đây là cách mọi người tồn tại. Đây là cách mọi người trở thành phụ thuộc vào người khác. Nó là sự nô lệ sâu. Bản ngã phải là nô lệ. Nó phụ thuộc người khác. Và chỉ người không có bản ngã lần đầu tiên mới là người chủ; người đó không còn là nô lệ.
Cố hiểu điều này đi. Và bắt đầu tìm bản ngã, không trong người khác, điều đó không phải là việc của bạn, mà trong bản thân bạn. Bất kì khi nào bạn cảm thấy khổ, lập tức nhắm mắt lại và cố tìm ra khổ này đang tới từ đâu và bạn bao giờ cũng sẽ thấy chính trung tâm giả, cái đã va chạm với ai đó.
Bạn mong đợi cái gì đó, và nó đã không xảy ra. Bạn mong đợi cái gì đó, và chính cái ngược lại đã xảy ra - bản ngã của bạn bị rung chuyển, bạn trong khổ. Cứ nhìn mà xem, bất kì khi nào bạn khổ, cố tìm ra tại sao.
Nguyên nhân không ở bên ngoài bạn. Nguyên nhân cơ bản là ở bên trong bạn - nhưng bạn bao giờ cũng nhìn ra ngoài, bạn bao giờ cũng hỏi: 'Ai làm cho mình khổ? Ai là nguyên nhân của cơn giận của mình? Ai là nguyên nhân cho phiền não của mình?' Và nếu bạn nhìn ra ngoài, bạn sẽ bỏ lỡ. Chỉ nhắm mắt lại và bao giờ cũng nhìn vào bên trong. Cội nguồn của mọi khổ, giận, phiền não, được ẩn bên trong bạn, bản ngã của bạn. Và nếu bạn tìm ra cội nguồn, sẽ dễ dàng đi ra ngoài nó. Nếu bạn có thể thấy rằng chính bản ngã riêng của bạn đem cho bạn rắc rối, bạn sẽ muốn bỏ nó đi - vì không ai có thể mang cội nguồn của khổ nếu người đó hiểu nó.
Và nhớ, không có nhu cầu bỏ bản ngã. Bạn không thể bỏ được nó. Nếu bạn cố bỏ nó, bạn sẽ đạt tới bản ngã tinh vi nào đó, cái nói: 'Mình đã trở nên khiêm tốn.' Đừng cố là khiêm tốn. Điều đó lại là bản ngã giấu mình - nhưng nó không chết.
Đừng cố là khiêm tốn. Không ai có thể cố khiêm tốn được. Và không ai có thể tạo ra khiêm tốn qua bất kì nỗ lực nào của riêng mình - không. Khi bản ngã không còn nữa, khiêm tốn tới với bạn. Nó không phải là việc tạo ra. Nó là cái bóng của trung tâm thực. Và người khiêm tốn thực không khiêm tốn, không bản ngã. Người đó đơn giản bình dị. Người đó thậm chí không nhận biết rằng người đó khiêm tốn. Nếu bạn nhận biết rằng bạn khiêm tốn, bản ngã có đó.
Nhìn người khiêm tốn. Có hàng triệu người nghĩ rằng họ rất khiêm tốn. Họ cúi mình rất thấp, nhưng quan sát họ mà xem - họ là những bản ngã tinh vi nhất. Bây giờ khiêm tốn là nguồn lương thực chính của họ. Họ nói: 'Tôi khiêm tốn đây,' và thế rồi họ nhìn bạn và họ đợi bạn khen họ. 'Anh thực sự khiêm tốn.' Họ muốn bạn nói: 'Thực ra, anh là người khiêm tốn nhất trên thế giới; không ai khiêm tốn được như anh.' Thế rồi xem nụ cười tới trên mặt họ.
Bản ngã là gì? Bản ngã là hệ thống cấp bậc nói: 'Không ai giống tôi.' Nó có thể nuôi dưỡng trên khiêm tốn - 'Không ai giống tôi, tôi là người khiêm tốn nhất.'
Một lần chuyện xảy ra: Một sư tới tôi và ông ấy nói về khiêm tốn của ông ấy, và tôi nói: 'Ông không là gì cả. Tôi biết người còn khiêm tốn hơn ông.' Đột nhiên giận dữ, bản ngã, và ông ấy nói: 'Người đó là ai? Chỉ người đó cho tôi.' Điều đó không phải là vấn đề - tôi bảo ông ấy: 'Điều đó không phải là vấn đề. Tôi sẽ không chỉ người đó cho ông đâu.' Nhưng cố hiểu đi, vì đột nhiên bản ngã bước vào và nói: 'Làm sao ai đó khác dám là khiêm tốn hơn tôi?'
Có lần chuyện xảy ra: Một fakir, người ăn xin, đang cầu nguyện trong nhà thờ Hồi giáo, ngay sáng sớm khi trời vẫn còn tối. Đó là ngày tôn giáo nào đó cho người Mô ha mét giáo, và ông ấy đang cầu nguyện, và ông ấy nói: 'Con là không ai cả. Con là người nghèo nhất trong những người nghèo, kẻ tội lỗi lớn nhất trong những kẻ tội lỗi.' Đột nhiên có một người nữa đang cầu nguyện. Ông ta là hoàng đế của nước đó, và ông ta không nhận biết rằng có ai đó khác ở đó đang cầu nguyện - trời còn tối, và hoàng đế cũng đang nói: 'Con là không ai cả. Con là hư không. Con chỉ là trống rỗng, kẻ ăn xin ở cửa của ngài.' Khi ông ta nghe thấy rằng ai đó khác đang nói cùng điều, ông ta nói: 'Dừng lại! Ai đang cố vượt ta? Ông là ai? Làm sao ông dám nói trước hoàng đế rằng ông là không ai cả khi hoàng đế nói rằng ông ấy là không ai cả.'
Đây là cách bản ngã diễn ra. Nó tinh vi thế. Cách thức của nó là tinh vi và tinh ranh thế, bạn phải rất, rất tỉnh táo, chỉ thế thì bạn sẽ thấy nó. Đừng cố là khiêm tốn. Cứ cố thấy rằng mọi khổ, mọi phiền não đều tới qua nó. Chỉ quan sát! Không cần bỏ nó. Bạn không thể bỏ nó được. Ai sẽ bỏ nó? Thế thì người bỏ sẽ trở thành bản ngã. Nó bao giờ cũng quay lại.
Bất kì cái gì bạn làm, đứng ra khỏi nó, và nhìn và quan sát. Bất kì cái gì bạn làm - khiêm tốn, nhún nhường, đơn giản - không cái gì sẽ giúp ích. Duy nhất một điều là có thể, và đó là chỉ quan sát và thấy rằng nó là cội nguồn của mọi khổ. Đừng nói, đừng lặp lại 'quan sát', vì nếu bạn nói nó là cội nguồn của mọi khổ và bạn lặp lại nó, thế thì điều đó là vô dụng. Bạn phải đi tới hiểu biết đó.
Bất kì khi nào bạn khổ, cứ nhắm mắt lại và không cố tìm nguyên nhân nào đó bên ngoài. Cố nhìn khổ này đang tới từ đâu. Nó là bản ngã riêng của bạn. Nếu bạn liên tục cảm thấy và hiểu, và việc hiểu rằng bản ngã là nguyên nhân trở nên được bắt rễ sâu thế, một ngày nào đó bạn sẽ đột nhiên thấy rằng nó đã biến mất.
Không ai bỏ nó - không ai có thể bỏ nó. Bạn đơn giản thấy; nó đã đơn giản biến mất, vì chính việc hiểu rằng bản ngã gây ra mọi khổ trở thành việc bỏ. Chính việc hiểu là sự biến mất của bản ngã.
Và bạn láu lỉnh thế trong việc thấy bản ngã trong người khác. Bất kì người nào đều có thể thấy bản ngã của ai đó khác. Khi việc thấy động tới bản ngã riêng của bạn, thế thì vấn đề nảy sinh - vì bạn không biết lãnh thổ này, bạn không bao giờ du hành trên nó. Toàn thể con đường hướng tới điều Thiêng liêng, điều Tối thượng, phải đi qua lãnh thổ này của bản ngã. Cái giả phải được hiểu là giả. Cội nguồn của khổ phải được hiểu là cội nguồn của khổ - thế thì nó đơn giản mất đi. Khi bạn biết nó là độc, nó mất đi. Khi bạn biết nó là lửa, nó mất đi. Khi bạn biết đây là địa ngục, nó mất đi. Và thế thì bạn không bao giờ nói: 'Tôi đã bỏ bản ngã.' Thế thì bạn đơn giản cười vào toàn thể sự việc, trò đùa rằng bạn là người tạo ra toàn thể khổ.
Tôi mới xem vài phim hoạt hình về Charlie Brown. Trong một phim hoạt hình ông ấy đang chơi với các khối lắp, làm nhà từ các khối lắp của trẻ con. Ông ấy ngồi ở giữa các khối lắp xây tường. Thế rồi một khoảnh khắc tới khi ông bị vây kín; khắp xung quanh ông ấy đã làm ra tường. Thế rồi ông ấy kêu lên: 'Cứu tôi với, cứu tôi với!' Ông ấy đã làm toàn thể mọi thứ. Giờ ông ấy bị vây kín, bị cầm tù. Điều này là trẻ con, nhưng đây là toàn thể mọi điều bạn cũng đã làm. Bạn đã làm nhà khắp xung quanh bạn, và giờ bạn đang kêu khóc: 'Cứu tôi với, cứu tôi với!' Và khổ trở nên gấp cả triệu lần - vì có những người giúp đỡ người cũng trong cùng con thuyền.
Chuyện xảy ra là một người đàn bà rất đẹp đi tới gặp nhà tâm thần lần đầu tiên. Nhà tâm thần nói: 'Xin mời lại gần hơn.' Khi cô ấy lại gần hơn, ông ta đơn giản nhảy tới và ôm chầm và hôn người đàn bà này. Cô ấy bị choáng. Thế rồi ông ta nói: 'Bây giờ ngồi xuống. Điều này giải quyết vấn đề của tôi, giờ vấn đề của cô là gì?' Vấn đề trở nên được nhân lên, vì có những người giúp đỡ, người trong cùng thuyền. Và họ muốn giúp, vì khi họ giúp ai đó bản ngã cảm thấy rất hả hê, rất, rất hả hê - vì bạn là người giúp đỡ lớn lao, một guru lớn, một thầy; bạn đang giúp đỡ nhiều người thế. Đám đông những người đi theo bạn càng lớn, bạn càng cảm thấy sướng hơn. Nhưng bạn đang trong cùng con thuyền - bạn không thể giúp được. Thay vì thế, bạn sẽ làm hại.
Những người vẫn có vấn đề riêng của họ không thể giúp được gì mấy. Chỉ ai đó không có vấn đề riêng nào của mình mới có thể giúp bạn. Chỉ thế thì mới có sự sáng tỏ để thấy, để nhìn qua bạn. Tâm trí không có vấn đề của riêng nó có thể thấy bạn, bạn trở thành trong suốt. Tâm trí không có vấn đề riêng của nó có thể thấy qua bản thân nó, đó là lí do tại sao nó trở nên có khả năng thấy qua người khác.
Ở phương Tây, có nhiều trường phái phân tâm, nhiều trường phái, và không giúp đỡ nào đạt tới mọi người, nhưng thay vì thế, lại gây hại. Vì những người đi giúp đỡ người khác, hay cố giúp đỡ, hay làm ra vẻ là người giúp đỡ, là trong cùng thuyền.
Tôi đọc tự truyện của vợ Wilhelm Reich. Ông ấy là một trong những nhà phân tâm có ý nghĩa nhất, một trong những người cách mạng nhất - nhưng khi câu hỏi tới với một trong những vấn đề riêng của ông ấy, khó khăn nảy sinh. Vợ ông ấy đã viết trong tự truyện của bà ấy rằng ông ấy đã dạy những người khác không ghen tuông - rằng yêu là không sở hữu, nó là tự do. Nhưng về vợ riêng của ông ấy, ông ấy bao giờ cũng ghen tuông. Nếu bà ấy cười với ai đó, sẽ có khổ ngay lập tức. Và ông ấy đã làm tình với nhiều đàn bà, nhưng sẽ không cho phép vợ riêng của ông ấy thậm chí mỉm cười với ai đó; thậm chí chỉ ngồi và nói chuyện ông ấy sẽ không cho phép. Bất kì khi nào ông ấy đi ra ngoài - đôi khi ông ấy phải đi thăm bệnh nhân - điều đầu tiên ông ấy sẽ làm khi ông ấy về nhà là truy hỏi về vợ ông ấy đã đi đâu, bà ấy đã gặp ai, ai đã tới nhà, và sẽ có kiểm tra chéo. Vợ ông ấy nói rằng bà ấy đơn giản ngạc nhiên. Người đàn ông này khôn thế với những người khác - nhưng với vợ riêng của ông ấy....
Khó thấy được bản ngã riêng của người ta. Rất dễ thấy bản ngã của người khác. Nhưng đó không phải là vấn đề, bạn không thể giúp được họ. Cố thấy bản ngã riêng của bạn đi. Chỉ quan sát nó. Đừng vội vàng bỏ nó, chỉ quan sát nó. Bạn càng quan sát, bạn sẽ càng trở nên có năng lực hơn. Đột nhiên một ngày nào đó, bạn đơn giản thấy rằng nó đã mất đi. Và khi nó mất đi bởi bản thân nó, chỉ thế thì nó mới mất. Không có cách khác.
Chưa chín muồi bạn không thể bỏ được nó. Nó mất đi cũng giống như lá vàng. Cây không làm cái gì cả. Chỉ làn gió thổi, một tình huống, và chiếc lá vàng đơn giản rụng xuống. Cây thậm chí không nhận biết rằng lá vàng đã rụng. Nó không gây ra tiếng động nào, nó không phàn nàn - không cái gì. Lá vàng đơn giản rụng xuống và vụn ra trên đất, giống điều đó.
Khi bạn chín chắn qua việc hiểu, nhận biết, và bạn đã cảm thấy một cách toàn bộ rằng bản ngã là nguyên nhân của mọi khổ của bạn, đơn giản một ngày nào đó bạn thấy lá vàng rụng xuống. Nó đọng trên đất, chết đi theo cách riêng của nó. Bạn đã không làm cái gì cho nên bạn không thể tuyên bố được rằng bạn đã bỏ nó. Bạn thấy rằng nó đã đơn giản biến mất, và thế thì trung tâm thực nảy sinh. Và trung tâm thực đó là linh hồn, cái Ngã, Thượng đế, Chân lí, hay bất kì cái gì bạn muốn gọi nó. Nó là vô danh, cho nên mọi tên đều được. Bạn có thể cho nó bất kì cái tên nào của việc thích riêng của bạn. Bây giờ lắng nghe câu chuyện hay này.
Thừa tướng Quách Tử Nghi, thuộc triều nhà Đường, là một chính trị gia nổi bật, một vị tướng lỗi lạc, và là một anh hùng dân tộc được ngưỡng mộ nhất trong thời của ông ấy.
Nhớ, khi bạn ở tại đỉnh, rất dễ dàng là khiêm tốn. Tôi sẽ lặp lại điều đó - khi bạn thành công, khi bạn đã lên tới đỉnh, rất dễ là khiêm tốn. Khi bạn không ở đâu, không ở đâu trong hệ thống cấp bậc, rất khó là khiêm tốn. Người nghèo thấy khó là khiêm tốn hơn người giầu. Một chính khách đã thua thấy khó là khiêm tốn hơn chính khách đã thắng. Nhìn vào người trên đỉnh thế giới mà xem. Họ bao giờ cũng khiêm tốn. Họ có thể đảm đương được là vậy. Bây giờ không có nguy hiểm cho bản ngã của họ. Họ đã đạt tới. Họ không bận tâm về sự chú ý của bạn. Bạn không ngụ ý cái gì với họ - bây giờ họ đã đạt tới rồi. Họ có thể khiêm tốn; họ có thể đảm đương được là vậy. Đó là lí do tại sao những nhà lãnh đạo lớn bao giờ cũng khiêm tốn. Nhưng khiêm tốn đó không phải là khiêm tốn của vị Phật, không phải là khiêm tốn của một Lão Tử; khiêm tốn đó là giả.
Khi bạn không là ai cả, thế thì là khiêm tốn là rất khó. Khi bạn bị thua, thế thì khiêm tốn là rất khó vì bản ngã bị tổn thương thế - nó cần thức ăn, nó đói. Khi bạn đã thắng, bạn chiến thắng, bạn ở trên đỉnh con sóng đang vươn lên ngày càng cao hơn; bạn có thể cúi xuống vì mọi người biết chẳng có gì mà nói, bạn là ai. Không có nhu cầu cho bạn tuyên bố điều đó, toàn thế giới đã biết điều đó. Thế thì bạn có thể cúi mình xuống và khiêm tốn.
Vua là khiêm tốn hơn người ăn xin. Và thế rồi mọi người nghĩ: 'Những vua này là người hay làm sao, những người lãnh đạo này.' Chẳng cái gì là hay. Bạn có thể thấy mặt thực của họ khi họ bị thất bại, không bao giờ trước đó. Thế thì là khiêm tốn là rất, rất khó. Khi toàn thể cuộc sống bị làm bẽ mặt, thế thì là khiêm tốn là khó. Khi mọi người khen ngợi và mọi người tung hô bạn, thế thì bạn có thể cúi mình với bộ mặt mỉm cười. Không cần bạn phải tuyên bố - nó đã được thiết lập. Đây đã từng là kinh nghiệm của tôi với mọi người. Nếu ai đó tới tôi, và người đó đã đạt tới đâu đó trong cuộc sống, người đó bao giờ cũng khiêm tốn. Người đó cúi mình sâu sắc, người đó ngồi trên sàn. Người đó có địa vị. Khiêm tốn này là tốt cho bản ngã của người đó. Bất kì khi nào ai đó tới, người bị thất vọng, người đã đánh bạc và thua, người là không ai cả, thế thì khó cho người đó ngồi trên sàn.
Một người đã viết một lá thư cho tôi nói: 'Tôi có thể tới và gặp thầy chỉ nếu tôi cũng có chiếc ghế, bằng không tôi sẽ không đến.' Tôi biết người này đã bị rất, rất thất bại, mất mặt bởi cuộc sống. Người đó không thể cúi mình, người đó không thể buông xuôi, người đó không thể khiêm tốn. Người đó bị mất mặt tới mức điều đó đã trở thành vết thương. Bây giờ khiêm tốn có vẻ giống mất mặt.
Nhưng cả hai là trong cùng một thuyền. Một người bị thất bại, người cảm thấy tổn thương; người cảm thấy rằng người đó phải đứng, người đó phải tuyên bố, người đó phải tranh đấu cho nó, người kia có địa vị, không có tranh đấu - người này đã biết.
Chuyện xảy ra là Henry Ford một lần tới nước Anh. Tại sân bay ông ấy hỏi về khách sạn rẻ nhất ở London. Và người này nhận ra ông ấy, vì mới hôm nọ đã có ảnh trên báo chí về việc tới của Henry Ford. Cho nên ông ta nói: 'Nếu như tôi không quên, nếu tôi còn nhớ tốt, ông có vẻ như là Henry Ford với tôi. Nhưng ông ăn mặc xoàng xĩnh thế; áo choàng của ông cũ nát thế và tại sao ông đòi khách sạn rẻ nhất?' Henry Ford nói: 'Dù tôi có áo choàng mới hay cũ, tôi vẫn là Henry Ford và mọi người đều biết về điều đó. Nó không tạo ra khác biệt nào - tôi là Henry Ford. Dù áo choàng là cũ hay mới không tạo ra khác biệt gì.' Người này nói: 'Và tôi biết rõ rằng khi các con trai của ông tới, họ đòi khách sạn đắt nhất.' Henry Ford cười và nói: 'Họ vẫn còn chưa có địa vị và họ cảm thấy bất an ninh. Họ được biết tới là 'con trai của Henry Ford', họ không là gì bởi bản thân họ. Tôi là cái gì đó bởi bản thân tôi, cho nên khách sạn rẻ nhất sẽ không tạo ra khác biệt gì.'
Người giầu không cần tuyên bố rằng mình là giầu. Người nghèo bao giờ cũng tuyên bố. Bạn càng trở nên giầu, càng ít có tuyên bố. Bạn có quan sát điều đó trong cuộc sống không? Điều đó xảy ra ở mọi nơi. Và đàn bà xấu sẽ có nhiều đồ trang sức hơn, đàn bà đẹp không cần. Một nước càng trở nên đẹp, đàn bà càng trở nên đẹp, càng nhiều thứ mất đi, dần dần. Không có nhu cầu về đồ trang sức và vàng. Bởi bản thân họ, họ là đủ. Nhưng đàn bà xấu không thể đảm đương được điều đó. Cô ấy phải mang nhiều, nhiều đồ trang sức - kim cương, đá quí, vì chỉ qua những đồ trang sức đó cô ấy mới là ai đó, bằng không thì không. Điều này xảy ra ở khắp mọi chiều cuộc sống. Nhưng cả hai đều trong cùng một thuyền.
Thừa tướng này là người rất khiêm tốn. Nhưng danh vọng, quyền lực, của cải và thành công không thể làm ông ấy sao lãng khỏi mối quan tâm thiết tha và sự sùng kính với Phật giáo. Tự coi mình là một Phật tử thành tâm khiêm tốn và ngay thẳng, ông ấy thường tới thăm Thiền sư yêu mến của mình để học dưới sự chỉ bảo của Thiền sư.
Điều này nữa phải được hiểu: Nhưng danh vọng, quyền lực, của cải và thành công không thể làm ông ấy sao lãng khỏi mối quan tâm thiết tha.... Chúng không bao giờ làm sao lãng được bất kì người nào. Khó để được thành tâm với tôn giáo khi bạn là nghèo, kẻ thất bại. Rất, rất dễ khi bạn thành công để có mối quan tâm thiết tha tới tôn giáo, vì bạn đã thành công trong cuộc đời này, bạn đã đạt tới đỉnh. Và người này là thừa tướng, người này đã đạt tới đỉnh; không còn chỗ nào khác để đi bây giờ. Bây giờ người này sẽ lấy mối quan tâm thiết tha vào thiền, tôn giáo, Thượng đế - vì một người như Quách Tử Nghi, một thừa tướng, một anh hùng, phải sở hữu cả Thượng đế nữa. Người thành công thể phải thành công trong thế giới khác nữa. Đó là lí do tại sao bất kì khi nào một nước trở nên giầu, sung túc, lập tức mối quan tâm thiết tha vào tôn giáo nảy sinh.
Bây giờ không chỗ nào khác trên thế giới có nhiều mối quan tâm thiết tha tới tôn giáo như ở Mĩ. Nó phải như vậy. Nếu bạn hỏi người Ấn Độ nghèo tại sao nhiều người phương Tây thế tới Ấn Độ, họ đơn giản nghĩ những người đó dở hơi - chẳng có gì ở đây.
Tôi ở đây tại Poona; bạn thấy bao nhiêu người ở đây là từ Poona? - không một người nào bạn có thể nhận ra: Họ đơn giản tự hỏi tại sao các bạn những người điên đã tới đây từ phương Tây để nghe tôi. Bạn phải đã phát rồ, hay tôi phải đã thôi miên bạn. Cái gì đó là sai. Họ không cần bận tâm ngay cả việc tới và nghe và xem liệu cái gì đó sai hay không. Họ đã bị thuyết phục về nó rồi. Tại sao?
Họ không giầu, họ không thành công, họ không có địa vị. Khi bạn thất bại trong thế giới này - bạn vật lộn để thành công ở đây trong thế giới vật chất này trước hết. Khi bạn thành công, thế thì bạn muốn thành công ở thế giới kia nữa.
Cho nên đây là việc hiểu của tôi: rằng chỉ nước giầu có thể có tính tôn giáo; nước nghèo không bao giờ có thể có tính tôn giáo. Đôi khi người nghèo có thể có tính tôn giáo, vì các cá nhân có thể là ngoại lệ, nhưng đám đông - không bao giờ. Đôi khi chuyện xảy ra là người nghèo trở nên có tính tôn giáo và đạt tới điều Tối thượng - một Nanak, một Kabir, một Jesus - nhưng bình thường quần chúng không thể đảm đương được việc có tính tôn giáo chừng nào họ chưa đạt được địa vị. Tôn giáo là thứ xa xỉ cuối cùng. Và tôi mói điều đó không với giọng điệu kết án. Nó là vậy; bạn phải có khả năng đảm đương nó. Và khi bạn có được mọi thứ và bạn cảm thấy bạn không có gì, thế thì lần đầu tiên mối quan tâm tha thiết nảy sinh để tìm kiếm cái Không biết.
Ông ấy và Thiền sư dường như rất tâm đầu ý hợp. Sự kiện là ông ấy là thừa tướng dường như chẳng có ảnh hưởng nào tới liên kết của họ. Không có dấu vết đáng để ý nào về sự lễ phép về phần Thiền sư, hay về sự kiêu căng hão huyền về phần thừa tướng; mối liên kết dường như là liên kết tôn giáo thanh tịnh của một thầy đáng kính và một đệ tử vâng lời.
Nhưng đây chỉ là trên bề mặt. Sâu bên dưới thừa tướng là Thừa tướng. Sâu bên dưới ông ấy là ai đó rất, rất quan trọng. Sâu bên dưới ông ấy có cùng bản ngã như mọi người khác. Tình huống này, dáng vẻ trên bề mặt này chỉ là như làn da. Để tìm thấy thực tại bạn sẽ phải đi sâu hơn chút ít. Thừa tướng có thể đã bị lừa, nhưng thầy không bị lừa bởi điều đó. Người khác có thể đã bị lừa; họ có thể đã nghĩ: Thừa tướng này là người vĩ đại làm sao, khiêm tốn thế, tới và ngồi dưới chân thầy, tôn giáo thế, hiếm khi tìm ra người như vậy - nhưng thầy không bị lừa bởi dáng vẻ. Dáng vẻ không ngụ ý cái gì.
Điều thực là cái ở sâu hơn. Và Thừa tướng này là người tao nhã. Ông ấy đã thành công với thế giới, bây giờ ông ấy đang cố thành công với thầy cũng bằng phong cách tao nhã của mình. Nhưng bạn không thể lừa được thầy. Nếu bạn có thể lừa được thầy, ông ấy không phải là thầy chút nào.
Tuy nhiên, một hôm, khi ông ấy theo thường lệ tới thăm Thiền sư, ông ấy đã hỏi câu hỏi sau: 'Kính thầy, Phật giáo giải thích thế nào về duy ngã độc tôn?'
Sâu bên dưới, bạn thực sự không thể lừa được bản thân bạn nữa. Làm sao bạn có thể lừa được? Bạn biết bạn đang làm gì. Trong khi bạn đang lừa, thế nữa bạn biết rằng bạn đang lừa. Bạn có thể lừa toàn thế giới, nhưng làm sao bạn có thể lừa bản thân bạn? Điều đó là không thể được. Bạn có thể không tỉnh táo, nhưng khoảnh khắc bạn trở nên tỉnh táo, bạn biết bạn đã từng làm gì.
Điều này nữa là việc lừa dối. Ông ấy không hỏi câu hỏi trực tiếp. Ông ấy không nói: 'Tôi là người duy ngã độc tôn, cho nên thưa thầy, xin thầy bảo tôi phải làm gì về nó.' Những người tinh ranh này bao giờ cũng hỏi câu hỏi gián tiếp. Tôi biết nhiều người trong số họ. Một người tới tôi và người đó nói: 'Một trong những người bạn của tôi bị bất lực. Vậy phải làm gì?' Và tôi có thể thấy rằng người này bị bất lực, nhưng người đó đang nói về bạn của mình. Cho nên tôi hỏi anh ta: 'Sao bạn không bảo bạn của bạn tới? Anh ta có thể nói với tôi rằng một trong những người bạn của anh ta bị bất lực - Về điều đó thì sao? Phải làm gì? Tại sao bạn bận tâm tới? Bạn của bạn có thể đã tới và nói cho tôi cùng điều đó.' Thế là anh ta trở nên bị rối.
Mọi người nói một cách gián tiếp và vấn đề là vấn đề cá nhân. Và họ nói triết lí; họ hỏi câu hỏi như: 'Duy ngã độc tôn trong Phật giáo được giải thích thế nào?' Vô nghĩa làm sao! Nó liên quan gì tới Phật giáo? Duy ngã độc tôn là vấn đề của bạn. Sao làm nó thành gián tiếp? Nếu bạn làm nó thành gián tiếp, bạn sẽ bỏ lỡ. Bạn sẽ không có khả năng hiểu vì từ chính ban đầu bạn đang lừa dối. Và bạn có thể nghĩ rằng bạn đang hỏi về Phật giáo và duy ngã độc tôn, thế thì một lí thuyết có thể được trao cho bạn, một giả thuyết, một triết lí, một hệ thống, nhưng điều đó sẽ không giúp ích - vì từng cá nhân có vấn đề riêng của mình, và từng cá nhân có vấn đề riêng của mình theo cách duy nhất.
Nếu bạn nói: 'Tôi là người duy ngã độc tôn, phải làm gì về nó?' Câu trả lời của tôi sẽ khác. Nếu bạn hỏi Phật giáo nói gì, câu trả lời sẽ khác. Phật giáo - thế thì nó trở thành một thứ chung chung, và không cá nhân nào là thứ chung chung. Mọi cá nhân là cá nhân, cá nhân đích thực tới mức bạn không thể giúp cho cá nhân bằng lí thuyết chung. Không, nó sẽ không phù hợp. Mọi cá nhân cần cách tiếp cận trực tiếp.
Đừng bao giờ hỏi câu hỏi triết lí. Nó là vô dụng. Cứ hỏi câu hỏi cá nhân riêng, hỏi trực tiếp.
Và đó là điều thầy phải làm với Thừa tướng này. Thầy phải mang ông ấy xuống từ các đỉnh của Phật giáo đề với thực tại của bản thân riêng ông ấy, vì những đỉnh đó đã không thuộc vào ông ấy. Đó không thực là vấn đề của ông ấy.

Mọi người tới tôi; họ hỏi liệu Thượng đế có tồn tại hay không. Bạn định làm gì với Thượng đế? Để Ngài là Bản thân ngài đi. Bạn định làm gì? Nếu Ngài tồn tại, bạn sẽ làm gì? Nếu Ngài không tồn tại, bạn sẽ làm gì? Điều đó có vẻ giống như tâm trí bạn không đối diện với vấn đề thực và né tránh chúng qua các vấn đề tưởng tượng.
Thượng đế là vấn đề tưởng tượng của bạn. Giận, bản ngã, dục, đam mê, ghét: chúng là vấn đề thực. Bạn không hỏi về chúng - bạn hỏi về Thượng đế. Bạn đề cập tới Thượng đế thế nào? Không có mối quan hệ. Tôi gặp những người tin vào Thượng đế và những người không tin vào Thượng đế. Tôi không thấy bất kì khác biệt gì. Bạn có thể phát hiện liệu một người là vô thần chỉ bằng việc nhìn vào hành vi của người đó không? - không. Làm sao bạn có thể biết liệu người này tin vào Thượng đế và người kia không tin vào Thượng đế? Họ cả hai đều cư xử theo cùng cách. Nếu bạn xúc phạm họ, cả hai sẽ nổi giận. Khác biệt là gì? Nếu bạn làm tổn thương bản ngã của họ, cả hai sẽ phát điên. Cho nên Thượng đế bước vào chỗ nào? Đây là thủ đoạn - bạn muốn né tránh vấn đề thực. Các từ 'thượng đế', 'moksha', 'chân lí', giống như những cái chăn. Bạn che đậy mọi vấn đề bằng chúng và che giấu chúng. Chúng không phải là vấn đề, chúng là chăn. Và những người trả lời chúng giúp bạn né tránh thực tại.
'Kính thầy, Phật giáo giải thích thế nào về duy ngã độc tôn?' Mặt Thiền sư đột nhiên tái xanh, và theo một cách cực kì ngạo mạn và khinh bỉ ông ấy nói với thừa tướng: 'Ông nói gì vậy đồ đần độn?'
Mọi thứ đã thay đổi ngay lập tức bây giờ. Thầy đã mang ngay Thừa tướng về thực tại, về đất bằng, chỉ bằng một lời, 'đồ đần độn'. Một lời có thể làm phép màu đó xảy ra - vì bạn không nhận biết, đó là lí do tại sao. Bằng không, Thừa tướng chắc đã cười, và ông ấy chắc đã nói: 'Vâng, thầy đúng.' Bây giờ về Phật giáo và cách nó giải thích duy ngã độc tôn sao? Nhưng chỉ một lời....
Bạn bị nghiện với lời nhiều làm sao! Một lời, và toàn thể tình huống thay đổi sao? Và lời là gì? Chỉ là âm thanh không thực sự có nghĩa, vì nghĩa chỉ là thoả thuận của xã hội, giữa con người: Chúng ta sẽ ngụ ý cái này bằng cái này. Nó chỉ là một bản thoả thuận xã hội. 'Đồ đần độn' ngụ ý gì? - chả cái gì, chỉ là âm thanh. Nếu bạn không hiểu tiếng Việt, nó ngụ ý gì? Chẳng cái gì, chỉ các âm thanh. Nếu bạn hiểu tiếng Việt, thế thì có rắc rối. Ai đó đang gọi bạn là 'đồ đần độn' sao? - lập tức triết lí biến mất và thực tại thò ra. Mọi cung cách xã giao chỉ bề ngoài. 'Kính Thầy' - toàn bề ngoài. Ông ấy cúi mình và nói 'Kính Thầy'. Đây là kiểu kính trọng gì mà một lời có thể phá huỷ nó? Thiền sư thực khéo léo.
'Ông nói gì vậy đồ đần độn?' Việc coi thường vô lí và bất ngờ này làm tổn thương tình cảm của thừa tướng tới mức làm cho mặt ông ấy sị ra vì giận.
Vâng, nó là vô lí. Và bất ngờ. Thầy là vô lí và bất ngờ. Bạn không thể dự đoán được họ. Họ giống như gió, hay giống như mây bay qua bầu trời. Họ đi đâu không ai có thể nói, vì họ không theo bất kì bản đồ nào. Họ đơn giản đi bất kì chỗ nào gió thổi tới. Họ không có mục đích, họ không có chiều hướng. Họ đơn giản sống trong khoảnh khắc này. Bạn không thể nói thầy sẽ làm cái gì - không bao giờ. Thầy là không thể dự đoán được vì thầy không được lập kế hoạch cho tương lai. Thầy không được chuẩn bị theo bất kì cách nào. Thầy di chuyển trong khoảnh khắc, nhìn vào tình huống, và đáp ứng. Thầy không bao giờ phản ứng, thầy đáp ứng. Người có nhận biết không bao giờ phản ứng, người đó đáp ứng. Bạn phản ứng. Cố hiểu sự khác biệt.
Phản ứng là thói quen bắt rễ sâu. Đáp ứng không phải là thói quen. Nó là nhạy cảm sống với khoảnh khắc. Đáp ứng là thực. Phản ứng bao giờ cũng không thực. Ai đó xúc phạm bạn và bạn phản ứng. Phản ứng ngụ ý: giữa xúc phạm và điều bạn làm, giữa hai điều này, không có một khoảnh khắc của nhận biết. Bạn phản ứng qua thói quen như bạn đã phản ứng trong quá khứ - nhưng tình huống là khác toàn bộ. Ai đó xúc phạm bạn trên phố và thế rồi một thầy xúc phạm bạn. Tình huống là khác toàn bộ. Ai đó xúc phạm bạn trên phố là giống như bạn. Nó là tình huống khác toàn bộ. Và thế rồi một thầy, vị Phật xúc phạm bạn - ông ấy xúc phạm theo cách khác toàn bộ. Ông ấy tạo ra tình huống. Ông ấy cho bạn cơ hội để không phản ứng, không đi theo hình mẫu thói quen cũ, không hành động và cư xử như robot, mà trở nên tỉnh táo và nhận biết.
Nếu như người này đã chút ít tỉnh táo, chút ít nhận biết, chút ít lưu tâm, ông ấy chắc đã cười, ông ấy chắc đã cúi mình và chạm chân thầy, vì thầy xúc phạm bạn chỉ khi có tình yêu và từ bi sâu sắc. Bằng không, hữu dụng gì? Thầy xúc phạm bạn để chỉ ra cho bạn cái gì đó. Thầy có thể nổi giận trong khoảnh khắc nào đó, nhưng thầy không giận - nó là một phần của từ bi của thầy.
Mới hôm nọ, một sannyasin bảo tôi rằng anh ấy đã trong tiếp xúc với nhóm của Gurdjieff, và anh ấy nói dường như không có từ bi trong hệ thống đó. Anh ấy đúng. Gurdjieff là từ bi sâu sắc; ông ấy không bao giờ biểu lộ điều đó. Ông ấy rất dữ tợn - ngay cả các Thiền sư cũng không thể thắng được ông ấy. Nhưng nếu bạn có thể dung thứ ông ấy một chút, nếu bạn có thể cùng ông ấy, mặc ông ấy, thế thì dần dần bạn sẽ cảm thấy ông ấy có từ bi sâu sắc nào. Và chính chỉ bởi vì từ bi sâu sắc mà ông ấy khắc nghiệt thế, vì ông ấy biết rằng với bạn từ bi sẽ không giúp ích. Con tim của bạn đã thành chết thế, chúng đã trở thành đá. Nhiều việc gian nan được cần.
Nếu ai đó đơn giản tốt với bạn, người đó sẽ không có khả năng thay đổi bạn. Ông ấy phải rất nghiêm khắc. Nhưng nếu bạn có thể nhận biết một chút, sống cùng người như Gurdjieff, ở quanh ông ấy, trong sự hiện diện của ông ấy trong vài ngày, dần dần bạn sẽ thấy cốt lõi bên trong - một trong những người sâu sắc nhất - sâu trong từ bi, nhưng ông ấy đã trở nên nghiêm khắc qua kinh nghiệm. Nếu ông ấy bầy tỏ từ bi từ đầu, bạn nghĩ bạn được phép có nhược điểm, bạn nghĩ bạn được phép vẫn còn như bạn vậy; bạn nghĩ không có nhu cầu về bất kì biến đổi nào. Từ bi của ông ấy trở thành thức ăn cho nhược điểm của bạn. Không, điều đó sẽ không có tác dụng.
Khi một thầy xúc phạm hay trở nên giận, đừng phán xét bởi các chuẩn mực bình thường, đừng phán xét bằng kinh nghiệm bình thường của bạn. Đợi thêm chút ít và không phản ứng. Thừa tướng đã phản ứng ngay lập tức.
Việc coi thường vô lí và bất ngờ này làm tổn thương tình cảm của thừa tướng tới mức làm cho mặt ông ấy sị ra vì giận.
Ông ấy phải thực sự là người tao nhã. Ngay cả giận có tới, nhưng rất thoáng qua. Nó không bùng nổ.
Ông ấy phải đã kìm nén bản thân ông ấy rất sâu. Ông ấy là người có văn hoá, thực sự có văn hoá. Nhưng ngay cả người có văn hoá đó, chỉ một lời nhỏ, 'đồ đần độn', và cách diễn đạt sị mặt ra và hơi thoáng giận bắt đầu biểu lộ trên mặt ông ấy. Bây giờ tình huống là thực. Thầy có đó, không có bản ngã nào; và Thừa tướng có đó - bây giờ bản ngã thò ra, bây giờ cái thực đã nổi lên bề mặt.
Thế rồi Thiền sư mỉm cười và nói: 'Thưa đại vương, đây là duy ngã độc tôn.'
Và điều đó chẳng liên quan gì tới Phật giáo. Nó có cái gì đó liên quan với bạn. Thầy thực sự tài nghệ. Thầy đã tạo ra tình huống như thế chỉ bằng việc dùng một lời.
Có lần chuyện xảy ra là một phóng viên báo chí đi tới gặp Gurdjieff. Và bạn không thể tìm được kẻ đần độn nào lớn hơn phóng viên báo chí. Họ là những người trên bề mặt nhất; họ phải vậy vì báo chí tồn tại trên bề mặt. Gurdjieff nhìn người này, thế rồi nhìn người đàn bà đang đứng ngay bên cạnh anh ta, một đệ tử, và ông ấy hỏi người đàn bà: 'Hôm nay là ngày nào nhỉ?' Cô ấy nói: 'Thứ bẩy.' Gurdjieff đột nhiên nổi giận và nói: 'Làm sao điều đó là có thể được? Hôm qua là thứ sáu, vậy làm sao hôm nay có thể là thứ bẩy được, cô ngu!' Người đàn bà bị choáng. Ông ấy có đột nhiên phát điên không? Và chàng phóng viên đơn giản bỏ đi. Thế rồi Gurdjieff cười. Cách gạt bỏ đồ đần độn hay làm sao! Và ông ấy nói: 'Nếu người này không thể thấy ra vấn đề về sự vô lí và điên của ta, anh ta sẽ không có khả năng hiểu điều ta đang làm ở đây.' Điều đó sẽ là không thể được, vì nó không có lí do. Nó là phi lí, nó là bất hợp lí. Và bạn không thể phân loại điều đó qua cái đầu. Nếu anh ta không thể đợi được, nếu anh ta phán xét ngay lập tức thế, thế thì anh sẽ không có khả năng phán xét điều ta đang làm ở đây. Cho nên tốt hơn cả là gạt bỏ anh ta ngày từ đầu.
Bạn sống qua lí trí, và bất kì khi nào bạn thấy cái gì đó bất hợp lí, bạn lập tức đưa ra phán xét. Ngay lập tức! Đó là phản ứng. Bằng không có cả triệu khả năng.
Phóng viên báo chí này có thể đã nghĩ: Đó có thể chỉ là chuyện đùa, không cần phán xét. Phóng viên báo chí này có thể đã nghĩ: Người này dường như huyền bí. Chúng ta hãy xem - đợi đã. Và toàn thể sự việc là ngớ ngẩn thế, Gurdjieff này đang khẳng định rằng hôm nay không thể là thứ bẩy khi mới hôm qua là thứ sáu. Toàn thể sự việc là ngớ ngẩn thế. Phải có nghĩa ẩn sâu nào đó trong nó chứ. Đợi đã, đừng phán xét. Nhưng điều này cần nhận biết. Và bạn sẽ mất gì nếu bạn đợi?
Gurdjieff đã tạo ra nhiều tình huống, và hàng triệu hiểu nhầm vẫn còn được đồn về ông ấy trên khắp thế giới. Không ai biết ông ấy là kiểu người nào. Không ai có thể biết, vì bạn cố đạt tới qua lí trí, và công việc mà một thầy đang làm là bên ngoài lí trí - nó là siêu hợp lí. Nhưng với bạn nó sẽ có vẻ như bất hợp lí vì bạn không biết siêu hợp lí là gì. Với bạn nó sẽ có vẻ bất hợp lí; đó là vì quan điểm của bạn, chỗ bạn đứng, từ nơi bạn nhìn, thái độ của bạn, việc quá nghiện với lí trí. Nó sẽ có vẻ bất hợp lí. Nếu bạn theo một thầy, dần dần bạn bắt đầu cảm thấy rằng nó không phải là bất hợp lí, nó là siêu hợp lí.
Nó không phải là hợp lí, điều đó là đúng, nhưng nó cũng không là bất hợp lí. Nó có thể không có vẻ hợp lí với bạn, nhưng khi phẩm chất bản thân bạn thay đổi, thế thì một cái nhìn mới, sự sáng tỏ mới, cảm nhận mới xảy ra cho bạn. Và thế thì mọi thứ lắng đọng theo cách khác. Thế thì nó bắt đầu dường như là siêu hợp lí; không bất hợp lí, mà cao siêu hơn lí trí, vĩ đại hơn lí trí, bao la hơn lí trí. Nhưng thế thì người ta phải đợi. Và các thầy bao giờ cũng cố tạo ra các tình huống, vì qua tình huống thực tại nổi lên bề mặt.
Và điều thầy nói hay làm sao. Thế rồi thầy mỉm cười. Bạn không thể mỉm cười ngay lập tức sau giận - không, vì bạn không phải là thầy. Cho dù bạn cố mỉm cười, bạn sẽ cảm thấy căng thẳng nhiều trong môi bạn, tới mức bạn sẽ không có khả năng thả lỏng chúng. Sau giận bạn không thể mỉm cười ngay lập tức được; bạn sẽ cần thời gian, để cho giận nguôi đi.
Người ta nói về Gurdjieff rằng đôi khi ông ấy sẽ tạo ra hai ấn tượng lên hai người trong một tình huống. Nếu ai đó đang ngồi bên phải ông ấy và ai đó ngồi bên trái ông ấy, ông ấy sẽ nhìn sang trái với giận dữ thế, và thế rồi ông ấy sẽ nhìn sang phải với bộ mặt mỉm cười đẹp thế - thế thì cả hai người bạn sẽ mang các diễn giải khác nhau. Một người sẽ nói: Người này là nguy hiểm, có vẻ giống kẻ giết người. Người kia sẽ nói: Tôi chưa bao giờ thấy người tốt bụng thế, mỉm cười, mặt như Phật. Với ai đó, ông ấy sẽ giống như một Rasputin, một Thành Cát tư Hãn, một Thiết Mộc Nhi; với ai đó, ông ấy sẽ có vẻ như một Phật, một Jesus, một Socrates - và ông ấy có thể tạo ra điều này ngay lập tức chỉ bằng việc quay trái và phải.
Điều này là có thể. Điều này là không thể với bạn, vì bạn phản ứng. Khi bạn phản ứng, bạn là nạn nhân, bạn bị sở hữu bởi xúc động, bạn không là người chủ. Khi bạn không phản ứng, bạn đơn giản tạo ra tình huống.
Thầy có vẻ giận, kết án, khi thầy xúc phạm Thừa tướng. Và khi việc xúc phạm đã làm xong việc của nó, và
Thừa tướng thực đã lộ diện, thầy mỉm cười và nói: 'Thưa Đại vương, đây là duy ngã độc tôn.'
Xem tiếp Chương 6 Quay về Mục lục

0 Đánh giá

Ads Belove Post