Read more
Osho kính yêu,
Giải thoát
Một hôm Cổ Sơn tới Tuyết Phong. Phong biết
Cổ Sơn cơ duyên đã thuần thục, nên ông ấy bỗng chụp ngay ngực Cổ Sơn hỏi rằng:
"Cái gì vậy?" Được mở ra, Cổ Sơn ngay đó liễu ngộ. Luôn cả cái tâm liễu
cũng mất luôn, ông ấy chỉ mỉm cười và khoát tay mà thôi. Tuyết Phong hỏi:
"Ông được đạo lý sao?"
Rời khỏi chỗ của Tổ thứ năm, Huệ Năng đi về
phương nam trong hai tháng và tới Đại Du Lãnh. Huệ Minh đuổi theo Tổ Huệ Năng,
ông này nguyên là tướng, đi cùng vài trăm người, muốn đoạt y bát (biểu tín của
việc kế tục Tổ). Minh là người đầu tiên đuổi kịp. Tổ thứ sáu để y bát trên tảng
đá nói: "Y này có ý nghĩa đức tín, há có thể dùng sức tranh giành ư? Ông cứ
lấy đi."
Huệ Minh tận sức giở lên không nổi mới kinh
hãi thưa: "Tôi nay cầu pháp chứ chẳng vì cầu y bát, xin hành giả khai thị."
Tổ nói, "Vì ông cầu pháp, ông phải dẹp
mọi động lực, và không sinh ý, và ta sẽ giải thích cho ông." Sau khi im lặng,
Huệ Năng nói: "Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, ngay lúc ấy cái gì là bản
lai diện mục của ông?"
Huệ Minh ngay đó đại ngộ, toàn thân xuất mồ
hôi, rơi lệ đảnh lễ rằng: "Ngoài mật ý mật ngữ kể trên, còn có ý chỉ nào nữa
chăng?"
Huệ Năng nói: "Nay vì ngươi nói ra thì
chẳng phải mật ý rồi. Ngươi nếu tự phản chiếu diện mục mình thì mật ở bên
ngươi. Nếu ta nói được thì chẳng phải là mật vậy." Minh nói, "Mặc dù
tôi ở Hoàng Mai, tôi chưa bao giờ thực sự có cái nhìn sâu vào mặt riêng của
mình. Giờ, đương đầu với khai thị của ngài, tôi giống như người được uống nước,
người biết cho bản thân mình nước là lạnh hay ấm."
"Chỉ cần biết làm Phật, chớ đừng lo Phật
chẳng biết nói. Xưa nay những người đắc đạo, tự mình đã viên mãn, đều dùng cái
của mình sẵn có tùy cơ tiếp vật như gương sáng trên đài, ngọc sáng trong tay, khi
người ngoài đến, người ngoài hiện hình, và khi người bản xứ đến, người bản xứ
hiện hình, mà chẳng cần tác ý vậy. Nếu có tác ý ắt có pháp thật cho người rồi.
Ông muốn thấu rõ đại pháp ứng cơ vô ngại, hãy cứ vẫn y như trước, chẳng cần hỏi
người, lâu ngày sẽ tự gật đầu vậy."
Đại Huệ vẫn tiếp tục với nghĩa
của việc giải thoát. Vấn đề này là nền tảng tới mức dù nó phải được lặp lại thường
xuyên, nó sẽ không bao giờ được nói một cách đầy đủ.
Có những thứ bạn chỉ có thể chỉ
dẫn, và việc chỉ dẫn bao giờ cũng có khả năng bị hiểu lầm - có lẽ nhất nó sẽ bị
hiểu lầm - vì việc chỉ dẫn chỉ là mũi tên. Chừng nào bạn chưa biết nhìn theo hướng
đó, chừng nào bạn chưa nhận biết rằng mũi tên đang trỏ tới cái gì đó bên ngoài
bản thân nó, có mọi khả năng bạn có thể bám lấy bản thân mũi tên.
Vì sự phức tạp này, mọi thứ đã
được nói về tự do của con người đã trở thành việc cầm tù của con người. Nhà thờ,
đền chùa và giáo đường của bạn là gì ngoại trừ các nhà tù của linh hồn bạn?
Kinh sách linh thiêng của bạn là gì? Chúng được ngụ ý là các mũi tên trỏ tới
bên ngoài lời, nhưng ngay cả cái gọi là người có học cũng bám lấy lời và quên
hoàn toàn rằng những lời đó chỉ là mũi tên; chúng chỉ trỏ tới cái gì đó mà là
vô lời - cái gì đó mà chúng không thể nói được, nhưng chúng có thể trỏ được.
Nhưng chúng chỉ là ngón tay trỏ tới trăng.
Do đó cứ phải gõ búa đi gõ búa
lại vào tâm trí bị ước định của bạn từ các mặt khác nhau, nghĩa của việc giải
thoát là gì. Đại Huệ cho bạn vài ví dụ về khi nào việc giải thoát đã xảy ra. Và
nó đã xảy ra một cách tuyệt đối bất hợp lí; không có sự cần thiết cho nó xảy ra
- ngoại trừ rằng đệ tử đã chín chắn và sáng suốt của thầy là rõ ràng tới mức thầy
không bỏ lỡ khoảnh khắc này. Thầy đánh, thầy tát, thầy hét, thầy làm cái gì đó
và đột nhiên có lối mở - mây biến mất.
Một hôm Cổ Sơn tới Tuyết Phong.
Phong biết Cổ Sơn cơ duyên đã thuần thục. Khi người đàn bà mang thai, cô ấy biết
cô ấy đang mang thai, và khi đứa trẻ đủ chín tháng người mẹ biết rằng thời gian
đã tới để nhận vị khách mới vào thế giới. Không có chỉ dẫn từ đứa trẻ, nhưng
chính việc chín muồi có tác dụng riêng của nó. Ở phương Đông khi rừng xoài đầy
quả xoài chín, khi đi qua đường, đột nhiên bạn nhận biết rằng toàn thể bầu
không khí đầy tính ngọt của xoài.
Các nhà khoa học đã từng làm việc
trong gần nửa thế kỉ về ong, vì họ ngờ rằng ong biết loại ngôn ngữ nào đó. Điều
rất háo hức là tìm ra loại ngôn ngữ nào ong dùng; điều đó sẽ mở ra khu vực cực
kì mới của trao đổi. Một con ong bay đi hàng dặm đường theo hướng nào đó chẳng
có lí do nào cả - nhưng nó tìm thấy chỗ hoa đang nở, và nó bay thẳng tới những
hoa đó, dường như nó đi theo bản đồ.
Một khi nó đã tìm thấy hoa, nó
quay về, và nó múa theo cách nào đó trước cả toán ong đang ngắm nhìn điệu múa.
Điệu múa có mọi chỉ dẫn - theo hướng nào, bao xa bạn sẽ thấy hoa - và đột nhiên
cả nghìn con ong bắt đầu bay theo hướng đó, không sai lầm nào, không đi theo bất
kì hướng khác nào.
Trong điệu múa của con ong này
có những chỉ dẫn mà vẫn chưa được giải mã. Trong nửa thế kỉ, công việc đã được
tiến hành, nhưng nó rất khó vì chúng ta biết ngôn ngữ, nhưng chúng ta không biết
làm sao điệu múa... và cùng loại điệu múa đó với những khác biệt nhỏ có thể cho
các nghĩa khác nhau. Nếu không có hoa nở điệu vũ sẽ gần như vậy, nhưng với hơi
chút khác biệt tới mức chỉ ong mới có thể giải mã được nó; các nhà khoa học vẫn
còn không có khả năng.... Điều chắc chắn là có khác biệt vì không con ong nào
bay theo hướng đó; chúng sẽ đợi, và ngày mai lại con ong đó sẽ đi.
Con ong nào đó là ong sứ giả,
người đưa thư. Ong có cấp bậc; có lính, có người đưa thư, có người lao động, và
có hoàng hậu, và tất cả chúng làm các loại công việc khác nhau. Nếu có nguy hiểm...
cùng điệu múa nhưng có hơi khác.
Giữa thầy và đệ tử cái gì đó xảy
ra cho nên khi đệ tử chín chắn, anh ta biết anh ta chín chắn và thầy anh ta biết
anh ta chín chắn. Đây là lúc cho phép anh ta có đột phá.
Có hàng nghìn sự vụ hay. Câu
chuyện này là đơn giản nhưng hàm chứa thế.
Phong biết Cổ Sơn cơ duyên đã
thuần thục. Nếu bạn nhận biết, làm sao bạn có thể bỏ lỡ việc biết nó? Phong biết
Cổ Sơn đã chín... nên ông ấy bỗng chụp ngay ngực Cổ Sơn hỏi rằng: "Cái gì
vậy?" và có lối mở: Mở ra, Cổ Sơn ngay đó liễu ngộ. Không cái gì đặc biệt
đã xảy ra; chỉ thầy biết, đệ tử biết, rằng cái gì đó đã đi tới cực đỉnh. Và thầy
chụp ngay ngực của đệ tử và nói, "Cái gì vậy?" Nó không phải là câu hỏi
để được trả lời; nó là câu hỏi mở ra chiều hướng mới trong đệ tử.
Khi mở ra, Cổ Sơn ngay đó liễu
ngộ. Luôn cả cái tâm liễu cũng mất luôn. Kinh nghiệm này lớn lao, sự huy hoàng
tràn ngập tới mức ông ấy thậm chí quên mất việc biểu lộ tôn kính thầy, hay nói
lời đúng nào đó để diễn đạt lòng biết ơn của mình. Ông ấy chỉ mỉm cười và khoát
tay mà thôi. Việc khoát tay này là cách diễn đạt câm rằng "Tôi đã được nó!
Thầy đã làm cho tôi vào đúng khoảnh khắc - nó đã xảy ra!"
Ông ấy chỉ mỉm cười và khoát
tay mà thôi. Tuyết Phong hỏi: "Ông được đạo lý sao?" Nhưng có im lặng
tuyệt đối, câu chuyện đã chấm dứt. Câu hỏi của thầy - "Ông đã khoát tay,
đó là phải rồi. Nhưng ông sẽ diễn đạt nguyên lí nào đó mà ông đã hiểu, đã trải
nghiệm chứ?" - đệ tử đã không trả lời. Không có câu trả lời! Ông ấy phải
đã đứng trước thầy, là bản thân ông ấy là câu trả lời - im lặng của ông ấy, niềm
vui của ông ấy, việc mở ra bất thần của ông ấy... Cử chỉ kì dị của ông ấy về
khoát tay đơn giản chỉ ra rằng nó ở bên ngoài tâm trí và bên ngoài việc hiểu thấu
của ông ấy... nguyên lí gì? - chỉ có im lặng và không nguyên lí nào.
Nó là cái gì đó hiếm hoi; chỉ
chuyện Thiền mới có thể kết thúc theo cách như vậy. Thầy hỏi câu hỏi, và đệ tử
vẫn còn im lặng - đó là câu trả lời. Nếu như ông ấy mà nói ông ấy chắc đã bị cú
đánh đau,vì trong việc nói của ông ấy chắc đã biểu lộ rằng ông ấy đã bỏ lỡ, rằng
ông ấy không thể điều khiển mở bản thân ông ấy một cách toàn thể, rằng ông ấy vẫn
còn trong tâm trí.
Nhưng im lặng của ông ấy chỉ ra
rằng bây giờ không có câu hỏi, không câu trả lời; không có nguyên lí, không có
triết lí. Không có thầy, không có tôi, mà chỉ có chân thành toàn bộ, và im lặng
vĩnh hằng không bao giờ bị rối loạn.
Đây không phải là câu chuyện;
câu chuyện không kết thúc theo cách như vậy. Đây là sự vụ thực tại. Im lặng này
được thầy hiểu. Không cái gì được nói, nhưng mọi thứ được nghe.
Sự vụ thứ hai... chỉ để cho bạn
các khía cạnh khác, từ những cánh cửa khác.
Rời khỏi chỗ của Tổ thứ năm, Huệ
Năng đi về phương nam trong hai tháng và tới Đại Du Lãnh. Ông ấy bị Huệ Minh đuổi
theo, ông này nguyên là tướng, đi cùng vài trăm người, muốn đoạt y bát (biểu
tín của việc kế tục Tổ).
Trong Thiền, mọi tổ đều trao y
và bát của mình cho người kế tục mình, và một cách tự nhiên có tranh giành lớn
và nhược điểm của con người, ghen tị....
Người này, Huệ Minh, là người rất
có học, theo mọi cách là rất có văn hoá. Ông ấy đã từ bỏ chức tướng, và đã trở
thành đệ tử; ông ấy đã thiền trong thời gian dài. Nhưng thầy đã chọn một người rất
kì lạ, Huệ Năng, làm người kế tục của thầy. Trong tu viện của thầy, đã có ít nhất
mười hai nghìn sư, và không một người nào đã nghĩ rằng Huệ Năng sẽ trở thành
người kế tục.
Thành tựu duy nhất của Huệ Năng
là ở chỗ từ khi ông ấy tới, hai mươi năm trước, ông ấy đã giã gạo cho mười hai
nghìn sư từ sáng tới khuya trong đêm. Trong hai mươi năm ông ấy đã không làm bất
kì cái gì khác. Ông ấy không bao giờ dự bất kì bài nói nào của thầy, ông ấy
không bao giờ đọc bất kì kinh sách nào - thực ra ông ấy là người thất học. Ông ấy
là một dân làng, nhưng là một người có quyết tâm vô cùng.
Ngày ông ấy được khai tâm, Huệ
Năng hỏi thầy, "Thầy cần tôi làm gì?"
Thầy nói, "Xuống làm bếp,
giã gạo và không bao giờ quay lại ta" - và ông ấy không bao giờ quay lại.
Hai mươi năm của chờ đợi im lặng... vì thầy đã nói, "Nếu cần, ta sẽ tới
ông. Nhưng ông phải không bao giờ ló mặt ra với ta. Ông đơn giản giã gạo từ
sáng tới đêm, thế rồi đi ngủ; lại giã gạo, rồi đi ngủ."
Bạn có thể hiểu, hai mươi năm
chỉ giã gạo và đi ngủ, tâm trí ông ấy trở nên im lặng. Không thiền nào được cần.
Ông ấy không bao giờ tới dự bất kì bài giảng nào - không có thời gian. Không ai
nói với ông ấy vì ông ấy bị coi là thuộc loại thấp nhất, chỉ là dân làng nghèo
không biết gì, và ông ấy không bao giờ hỏi bất kì cái gì từ bất kì ai. Mọi người
đi qua ông ấy dường như ông ấy không có đó. Ông ấy bị coi là đương nhiên có đó.
Ngày thầy rời khỏi thân thể
mình tới, và thầy nói, "Trước khi ta rời khỏi thân thể ta muốn chọn người
kế tục ta. Cách ta chọn là thế này: bất kì ai biết câu trả lời đúng phải tới
trong đêm và viết nó lên cửa nhà ta; nếu câu trả lời là đúng, người đó sẽ nhận
được y bát của ta."
Ông cựu tướng này, Huệ Minh, chắc
chắn là người quan trọng nhất của toàn thể những người theo thầy, và mọi người
tưởng rằng ông ấy sẽ là người chiến thắng. Cho nên trong đêm ông ấy tới và ông ấy
viết lên cửa, "Vô trí là câu trả lời." Nhưng ông ấy sợ thầy - sợ rằng
nếu nó bị thấy là sai, ông ấy sẽ bị đánh đau - tới mức ông ấy đã không kí lên
nó. Ông ấy nghĩ, "Nếu nó là đúng, ta sẽ tuyên bố rằng ta đã viết nó; nếu
nó là sai thế thì tốt hơn cả là giữ im lặng."
Đến sáng khi thầy thức dậy, thầy
nói, "Thằng ngốc đó là ai?" Nghe thấy điều này, Huệ Minh trốn khỏi tu
viện - ai đó có thể thông báo cho thầy vì vài người đã có ý tưởng này... họ đã
nhìn ra xem ai định viết. Thực ra chính hiểu biết chung là đấy là do Huệ Minh!
Hai sư, sau khi ăn cơm, chỉ đi
qua Huệ Năng và thảo luận, nói, "Thầy quá nghiêm. Câu trả lời này dường
như đúng: "vô trí" là toàn thể triết lí của Phật Gautam. Cái gì hơn
còn có thể được nói?" Mọi người đã hoàn toàn quên mất rằng Huệ Năng thậm
chí có thể nói; trong hai mươi năm ông ấy đã không nói lấy một lời với bất kì
ai. Ông ấy đơn giản làm công việc của mình, sẽ đi ngủ, thức dậy, lại bắt đầu
công việc. Hôm đó, nghe thấy hai sư này nói rằng câu trả lời dường như đúng và
thầy lại quá nghiêm, ông ấy cười. Hai sư đó dừng lại và họ nói, "Sao ông
cười?"
Ông ấy nói, "Bất kì ai viết
điều đó đều là kẻ ngốc." Đây đích xác là điều thầy đã nói, "Ai là kẻ
ngốc đã bôi bẩn cửa nhà ta?" Các sư đó không thể tin được vào điều đó,
nhưng họ thông báo lại cho thầy rằng một người có tên là Huệ Năng, người mà thầy
từ hai mươi năm trước đã cho xuống làm bếp, đã nói đích xác cùng điều: "Bất
kì ai đã viết điều này đều là kẻ ngốc."
Thầy nói, "Ta biết. Ông ấy
là người duy nhất... Ta đã hi vọng rằng ông ấy sẽ tới và viết câu trả lời.
Nhưng ta quên hoàn toàn rằng ngay điều đầu tiên ông ấy là không tham vọng; điều
thứ hai ông ấy không thể viết được, ông ấy thất học; điều thứ ba ta đã cấm ông ấy:
'Bất kì khi nào thời gian tới ta sẽ tới ông, ông phải vẫn còn trong công việc
ta đã trao cho ông. Không bao giờ ló mặt ra.'"
Ngay giữa đêm thầy tới, đánh thức
Huệ Năng dậy, đưa cho ông ấy y bát và nói, "Bây giờ trốn đi, vì ông là người
đơn giản. Có tranh giành lớn, và có những người nguy hiểm - người kia Huệ Minh
đã từng là tướng, ông ấy là chiến binh. Họ sẽ cố giằng lấy y bát, cho nên ông
đơn giản trốn đi xa nhất có thể được."
Huệ Năng nói, "Nhưng tôi
không biết gì cả. Hơn nữa, tôi đã không phạm tội lỗi nào. Tại sao thầy làm tôi
thành người kế tục của thầy? Tại sao tôi không thể được bỏ lại để sống một cách
an bình? Thầy có thể tìm ra... nhiều người hăm hở, muốn là người kế tục, tại
sao thầy làm phiền tôi?"
Nhưng thầy nói, "Đây là lí
do tại sao ta làm phiền ông: người không quan tâm chút nào là người đúng. Người
không có tham vọng là xứng đáng. Người có thể từ chối tầng cao nhất trong truyền
thống của Thiền là việc làm Tổ sư, thầy của các thầy..."
Huệ Năng vẫn cố thuyết phục ông
ấy, "Cứ để tôi giã gạo và đừng quấy rối giấc ngủ của tôi! Tôi mệt rồi và đến
sáng tôi phải bắt đầu lại công việc của tôi, và chỉ nghĩ tới mười hai nghìn sư
và cơm của họ..."
Thầy nói, "Dừng mọi điều
này lại! Nếu mọi người trở nên nhận biết rằng ta đã chọn ông, họ sẽ giết ông. Cứ
cầm lấy bát này và y này và chạy xa đi, vì sáng mai ta sẽ chết, và trước điều
đó ta muốn ông ở xa nhiều dặm đường." Đó là cách Huệ Năng đã được chọn là
người kế tục.
Những người kì lạ... và kì lạ
là câu chuyện của họ, nhưng cực kì quan trọng. Huệ Năng này đã bị Huệ Minh, cựu
tướng, đuổi theo với hàng nghìn người, để bắt giữ ông ấy và đoạt lấy y bát để
cho Huệ Minh có thể tuyên bố bản thân mình là thầy. Đây là bối cảnh của câu
chuyện.
Minh là người đầu tiên đuổi kịp
Huệ Năng, và có nhiều người khác cũng đi theo. Tổ thứ sáu để y bát trên tảng đá
nói: Y này có ý nghĩa đức tín, há có thể dùng sức tranh giành ư? Ông cứ lấy đi.
Đức tín không thể được lấy bằng sức mạnh. Đức tín trưởng thành chỉ trong khí hậu
của yêu. Đức tín là việc nở hoa cao nhất; nó không thể bị lấy đi bởi sức mạnh.
"Vậy đây là y và đây là
bát. Nhưng nhớ lấy, Y này có ý nghĩa đức tín, và ông chỉ là tướng - ông biết
cách thức của sức mạnh, ông không biết cách thức của yêu. Há có thể dùng sức
tranh giành ư? Nếu ông có thể lấy nó bằng sức mạnh, lấy đi."
Huệ Minh tận sức giở lên không
nổi. Điều đó dường như hư cấu, nhưng trong kinh nghiệm sâu sắc nhất của cái ta
riêng của tôi, tôi không nghĩ nó là hư cấu. Tôi có giải thích riêng của tôi về
tại sao nó đã xảy ra... Huệ Năng là con người của an bình và im lặng, con người
không có ham muốn nào, và khi người như vậy nói, người đó nói với thẩm quyền, lời
của người đó là sức mạnh thuần khiết. Và khi ông ấy nói, "Bát này và y này
đại diện cho đức tín, và đức tín không thể bị lấy bởi sức mạnh," chính phát
biểu của ông ấy đã làm yếu Huệ Minh.
Huệ Minh biết hoàn toàn rõ rằng
ông ấy không có đức tín, ông ấy chỉ biết sức mạnh là gì. Điều đó phải đã làm yếu
toàn thể ý chí của ông ấy. Nó không phải là phép màu; nó là sự kiện tâm lí đơn
giản. Ông ấy đã cố nhặt nó lên... nhưng ông ấy phải đã cố mà biết hoàn toàn rõ
rằng ông ấy không thể nhặt được nó lên.
Có một chỗ gần con sông đẹp,
Narmada, nơi có ngôi đền Shiva. Bên ngoài mọi ngôi đền Shiva là cận vệ của ông ấy,
con bò đực; còn bò ngồi bên ngoài ngôi đền. Có câu chuyện rằng bên dưới con bò
tại ngôi đền đặc biệt đó - nó là ngôi đền cổ - có một không gian nhỏ mà bạn có
thể đi qua... nhưng chỉ nếu bạn có đức tín.
Tôi đã đi tới đó cùng người bạn,
một giáo sư - đầy hoài nghi, mặc dầu ông ấy cũng không béo. Khi tôi bảo ông ấy,
"Thử đi qua không gian nhỏ này bên dưới con bò," ông ấy nói,
"Tôi không thấy có vấn đề gì. Vì tôi không phải là người béo, tôi có thể
qua được."
Tôi nói với ông ấy, "Ông
không thể qua được đâu, vì chừng nào ông chưa có đức tín... Vấn đề không phải
là béo hay gầy; tôi đã thấy người béo đi qua nó, và tôi đã thấy người gầy bị mắc
kẹt."
Ông ấy nói, "Nó toàn là vô
nghĩa, tôi sẽ cho ông xem." Nhưng ngay cả khi ông ấy đang nói điều đó, sâu
bên trong ông ấy đã run. Một đám đông bu lại, điều làm cho việc đó thậm chí còn
đáng sợ hơn, và ông ấy bị mắc ở giữa. Ông ấy bắt đầu kêu lên - "Giúp tôi với!"
Tôi nói, "Trong vấn đề về
đức tín, không ai có thể giúp được. Thử logic của ông, thử lí trí của ông, thử
luận cứ của ông xem." Và mọi người cười! Họ cười vì ông ấy gầy thế, tại
sao ông ấy bị mắc kẹt? Ông ấy chỉ mất dũng khí. Ông ấy biết hoàn toàn rõ ông ấy
không có đức tín, ông ấy không có tin cậy, ông ấy đầy hoài nghi - ông ấy là
hoài nghi và không cái gì khác. Ông ấy biết hoàn toàn rõ trong chiều sâu tâm của
ông ấy rằng ông ấy không thể qua được.
Tôi phải kéo ông ấy ra - tất
nhiên là từ phía sau, "vì," tôi nói, "từ phía trước tôi không thể
kéo được, vì tôi không thể đi ngược lại qui tắc." Cho nên tôi phải kéo
chân ông ấy, lùi lại. Ông ấy có vẻ rất kì lạ.
Ông ấy nói, "Tôi có thể thấy
rằng không gian là đủ, nhưng cái gì đó bên trong tôi đơn giản chịu thua. Tôi
đơn giản mất dũng khí." Bản thân tôi đã đi qua không gian nhỏ đó, và tôi
ít nhất cũng gấp đôi trọng lượng của ông giáo sư này.
Có những thứ mà có thể có vẻ
như hư cấu nếu bạn không hiểu con người và tâm lí con người. Với tôi đây không
phải là hư cấu, đây là sự kiện lịch sử. Nó phải đã xảy ra. Lời của Huệ Năng phải
đã tạo ra bầu không khí, bầu khí hậu, tới mức Huệ Minh mất sức mạnh ý chí của
ông ấy. Ông ấy đã thử, nhưng ông ấy không có sức mạnh. Ông ấy đột nhiên trở nên
bất lực.
Huệ Minh tận sức giở lên không
nổi mới kinh hãi thưa: "Tôi nay cầu pháp chứ chẳng vì cầu y bát, xin hành
giả khai thị."
Tổ nói, "Vì ông cầu pháp,
ông phải dẹp mọi động lực, và không sinh ý, và ta sẽ giải thích cho ông."
Sau khi im lặng, Huệ Năng nói: "Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, ngay lúc ấy
cái gì là bản lai diện mục của ông?"
Khi không có chuyển động của ý
nghĩ, ham muốn, động lực - vào khoảnh khắc như vậy bạn hiện hữu, trong sự thuần
khiết nguyên thuỷ của bạn. Và biết mặt nguyên thuỷ, bản lai diện mục là biết tất
cả.
Huệ Minh ngay đó đại ngộ, toàn
thân xuất mồ hôi, rơi lệ đảnh lễ rằng: "Ngoài mật ý mật ngữ kể trên, còn
có ý chỉ nào nữa chăng?" Huệ Năng nói: "Nay vì ngươi nói ra thì chẳng
phải mật ý rồi." - tạo ra khoảng cách.
Thân mật không phải là trao đổi.
Thân mật là truyền từ tâm sang
tâm...
Trong im lặng, trong yêu, trong
an bình.
Không cái gì được nói, không
cái gì được nghe, nhưng mọi thứ được hiểu... đó là thân mật.
"Nay vì ngươi nói ra thì
chẳng phải mật ý rồi. Ngươi nếu tự phản chiếu diện mục mình thì mật ở bên
ngươi." - nó không ở ngoài ông. Ông là thân mật nhất với bản thân ông;
không ai có thể gần ông hơn bản thân ông. Người nào đó có thể tới với ông dù gần
bao nhiêu, sự gần gụi đó vẫn là khoảng cách. Chỉ ông mới là thân mật.
Minh nói, "Mặc dù tôi ở
Hoàng Mai, tôi chưa bao giờ thực sự có cái nhìn sâu." - ông ấy đã thừa nhận
rằng mặc dầu ông ấy đã ở trong tu viện trong nhiều năm nghiên cứu, lập kỉ luật
cho bản thân ông ấy, ông ấy không bao giờ có bất kì sáng suốt thực nào -
"vào mặt riêng của mình. Giờ, đương đầu với khai thị của ngài, tôi giống
như người được uống nước, người biết cho bản thân mình nước là lạnh hay ấm."
"Chỉ cần biết làm Phật, chớ
đừng lo Phật chẳng biết nói. Xưa nay những người đắc đạo, tự mình đã viên mãn,
đều dùng cái của mình sẵn có tùy cơ tiếp vật như gương sáng trên đài, ngọc sáng
trong tay, khi người ngoài đến, người ngoài hiện hình, và khi người bản xứ đến,
người bản xứ hiện hình, mà chẳng cần tác ý vậy. Nếu có tác ý ắt có pháp thật
cho người rồi. Ông muốn thấu rõ đại pháp ứng cơ vô ngại, hãy cứ vẫn y như trước,
chẳng cần hỏi người, lâu ngày sẽ tự gật đầu vậy."
Đây là hai cách... liệu bạn muốn
được rõ ràng hay bạn muốn là tinh khôn. Dù bạn trở nên tinh khôn thế nào, bạn sẽ
vẫn còn dốt nát, và bạn có thể không biết gì, nhưng nếu bạn rõ ràng - tấm gương
không có bụi nào - bạn sẽ phản xạ chính bản chất của sự tồn tại.
Có một câu chuyện kì lạ rằng
trước khi Huệ Năng chết, nhiều năm sau sự vụ này, ông ấy đã chọn Huệ Minh làm
người kế tục của mình. Điều Minh có thể không có được bằng sức mạnh, ông ấy đã
có được bằng việc trở thành vô tham vọng, có tính thiền. Khi Huệ Năng hỏi ông ấy,
"Bây giờ thời gian đã tới cho ta ra đi và, Huệ Minh, ông đã từng tham vọng
thế để trở thành tổ, ông có thể có y và bát mà ông đã không thể lấy được bằng sức
mạnh của ông. Ông có sẵn sàng bây giờ không?", Huệ Minh nói, "Tôi
không còn quan tâm nữa. Có nhiều người khác."
Huệ Năng, người thất học, trở
thành một trong những Thiền sư vĩ đại nhất, chỉ bởi tính đơn giản của ông ấy,
chỉ bởi cách thức hồn nhiên của ông ấy. Ông ấy đã hấp dẫn nhiều đệ tử có phẩm
chất lớn, và ông ấy có nhiều người theo sau, người có thể đã được chọn làm người
kế tục của ông ấy. Nhưng đầu tiên ông ấy bảo Huệ Minh, "Ông đã ham muốn thế;
ta muốn trao nó cho ông vào chính khoảnh khắc đó, nhưng điều đó không trong
năng lực của ta: ta không thể trao được nó, mà nó cũng không trong năng lực của
ông để nhận nó. Nhưng giờ ta có thể thấy ông chín muồi.
Và Huệ Minh tương truyền đã
nói, "Đó là trò chơi kì lạ. Khi tôi muốn nó tôi không thể có được nó; giờ
tôi không có một thoáng ham muốn nào, và ông lại đề nghị tôi... Ông không thể
tìm được ai đó khác sao?"
Huệ Năng nói, "Đây là chỉ
dẫn về người kế tục đúng."
Thiền là con đường của vô ham
muốn. Không có gì để đạt tới, không có mục đích để đạt tới. Bạn đơn giản thảnh
thơi, thoải mái, và bạn sẽ thấy rằng bạn bao giờ cũng ở đó, nơi bạn muốn ở đó.
Bạn không bao giờ rời khỏi Vườn Eden. Câu chuyện Ki tô giáo là sai.
Tôi đã từng nói về câu chuyện
Ki tô giáo từ nhiều góc độ khác nhau thế... nó là câu chuyện hay và chắc chắn
có tiềm năng vô cùng. Khía cạnh này cũng phải được nhớ, rằng dù bạn ở bất kì chỗ
nào, bạn vẫn trong vườn Eden. Việc đuổi bạn ra thậm chí không phải nằm trong
năng lực của Thượng đế - ngài sẽ đuổi bạn đi đâu? - vì mọi nơi đều là Vườn
Eden. Tôi bao giờ cũng tự hỏi tại sao không một nhà thượng đế học Ki tô giáo
nào đã nêu ra câu hỏi này trong hai nghìn năm: Thượng đế đã đuổi Adam và Eve khỏi
Vườn Eden, nhưng ngài đã đuổi họ đi đâu? Có cái gì đó bên ngoài sự tồn tại
không?
Mọi thứ đều ở bên trong, không
cái gì ở bên ngoài. Không có biên giới cho thực tại - bạn không thể bị ném ra
khỏi thực tại. Nó là sự kiện đơn giản thế: bạn vẫn ở trong Vườn Eden, bạn chỉ
ngủ say.
Giấc ngủ của bạn bao gồm tâm
trí bạn, bao gồm ham muốn của bạn, mơ của bạn, tham vọng của bạn, động cơ của bạn.
Một khi bạn bỏ tất cả những cái tào lao này, đột nhiên bạn thức dậy và bạn sẽ
thấy bản thân bạn trong Vườn Eden. Và Vườn Eden không thuộc về Thượng đế, nó
không phải là độc quyền của ngài. Nó thuộc về mọi người, mọi thực thể sống, vì
Thượng đế chỉ là cái tên tập thể cho mọi tâm thức tồn tại trong thế giới; Thượng
đế không phải là người nào đó.
Câu chuyện Ki tô giáo đã làm
cho Thượng đế thành rất xấu. Nếu tôi phải viết lại câu chuyện này, chỉ dẫn đầu
tiên tôi sẽ cho Adam và Eve - và đó là những chỉ dẫn tôi đang cho bạn - sẽ là:
Ăn quả trí huệ, ăn quả cuộc sống vĩnh hằng. Bạn thuộc về tâm thức tối thượng, bạn
thuộc về sự bất tử.
Bạn là phật.
Bạn chỉ phải được lay dậy.
Không phải là bạn phải làm nhiều
khổ hạnh và gõ lên các cánh cửa và cầu xin và cầu nguyện: "Thượng đế, Cha
ơi, xin mở cửa ra. Con sẽ không bao giờ ăn quả đó, con sẽ không bao giờ nhìn
nó." Bạn đang ngồi dưới cây đó. Chỉ mở mắt ra, và trí huệ là của bạn, và
cuộc sống vĩnh hằng là của bạn. Và đây không phải là hai cây...
Câu chuyện này sai ở nhiều điểm.
Thứ nhất, Thượng đế là người cha không thể ngăn cản bạn khỏi cuộc sống vĩnh hằng,
và không thể ngăn cản bạn khỏi việc là trí huệ. Thứ hai, trí huệ và cuộc sống
vĩnh hằng không phải là hai; chúng là hai mặt của cùng một kinh nghiệm.
Tôi tuyên bố với bạn; đây là Vườn
Eden.
Nếu bạn muốn ngủ thêm chút nữa,
không có hại gì. Không có nhu cầu phải vội vàng nữa. Ngủ cho ngon; chỉ dừng việc
mơ... và bạn sẽ thức dậy. Chính mơ liên tục giữ bạn ngủ.
Nói cách khác, tôi có thể định
nghĩa thiền là tâm thức không mơ.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Osho.
0 Đánh giá