Chương 4. Tin cậy

Chương 4. Tin cậy

Price:

Read more

Thiền sư lớn Đại Huệ - Tập 1 - Osho
Suy nghĩ về biến đổi từ trí thức sang chứng ngộ
Chương 4. Tin cậy


Osho kính yêu,
Cung người ta chớ cầm.
Cố gắng tích cực dọn sạch tâm trí của ông, thì ông sẽ không đi sai; vì ông không đi sai, chú tâm đúng đứng một mình. Khi chú tâm đúng đứng một mình, chân lí bên trong thích ứng với hiện tượng; khi chân lí bên trong thích ứng với biến cố và sự vật, biến cố và sự vật đi tới trộn lẫn vào trong chân lí bên trong.
Khi hiện tượng trộn lẫn với chân lí bên trong, ông lưu giữ quyền lực; khi ông cảm thấy việc lưu giữ, đây là việc trao quyền về học đạo. Khi thu được quyền lực ông lưu giữ được quyền lực vô giới hạn; trong lưu giữ quyền lực ông thu được quyền lực vô giới hạn.
Việc này cho người thông minh lanh lợi gánh vác, nhưng nếu ỷ thông minh lanh lợi thì chẳng có phần để gánh vác. Kẻ thông minh lanh lợi dù dễ nhập mà khó nơi bảo nhiệm, vì chỗ nhập cạn mà sức yếu. Vì người thông minh lanh lợi vừa nghe thiện tri thức nói ra liền đem tâm ý thức lãnh hội ngay vậy. Nếu cứ lãnh hội như thế là tự làm chướng ngại, suốt kiếp không khi nào được ngộ, vì ma quỷ bên ngoài gây hoạ còn có thể trị, còn chính tự tâm mình chướng ngại thì vô phương trị.
Những người như thế này đang tạo ra cản trở riêng của họ, và sẽ không bao giờ có khoảnh khắc thức tỉnh. "Khi quỉ từ bên ngoài gây tai hoạ, điều đó có thể vẫn còn được chữa," nhưng việc nhờ cậy vào phân biệt trí tuệ rốt cuộc là "Khi gia đình riêng của người ta tạo ra thảm hoạ, nó không thể bị ngăn ngừa." Đây là điều Vĩnh Gia ngụ ý khi ông ấy nói, "Việc mất sự giầu có về pháp, và chuyển nhượng đức hạnh, tất cả đều xuất phát từ trí tuệ biện biệt của tâm trí."
Sự chướng đạo của tâm ý thức còn quá hơn rắn độc, cọp dữ. Tại sao vậy? Vì rắn độc, cọp dữ còn có thể trốn tránh, còn những người thông minh lanh lợi lấy tâm ý thức làm hang ổ, đi đứng nằm ngồi chưa từng có khoảnh khắc xa lìa nó, lâu ngày bất tri bất giác cùng nó kết thành một khối, cũng chẳng phải muốn thành một khối vì từ vô thủy đến nay đã đi con đường này quá quen thuộc, dù bỗng khám phá được cái hại của nó nhưng muốn xa lìa cũng chẳng thễ được. Cho nên nói: "Đối với độc cọp dữ còn có thể trốn tránh nhưng với tâm ý thức thực chẳng có chỗ để trốn tránh."
Vấn đề lớn với những người như Đại Huệ là trí tuệ của họ. Cho dù họ nói chống lại trí tuệ, nó không là gì ngoài trí tuệ riêng của họ. Trí tuệ có khả năng tạo ra ảo tưởng rằng bạn đang đi ra ngoài trí tuệ, nhưng ảo tưởng này có thể dễ dàng bị phát hiện.
Những điều Đại Huệ đang nói trong kinh này, ông ấy phải đã nghe từ chính cội nguồn đúng. Nhưng bản thân ông ấy chỉ là một sĩ phu; do đó mọi thứ đi qua trí tuệ của ông ấy đổi hình dạng của nó. Thay đổi này tinh vi tới mức chừng nào người ta tự bản thân mình chưa trở nên chứng ngộ, người đó sẽ không bao giờ thấy trí tuệ đã lừa người đó ở đâu.
Lắng nghe điều ông ấy nói:
Cố gắng tích cực dọn sạch tâm trí của ông.
Bạn là ai? Bạn có biết bản thân bạn là phân biệt khỏi tâm trí không? Nếu bạn biết bản thân bạn là phân biệt khỏi tâm trí, tâm trí bị dọn sạch. Vấn đề về cố gắng tích cực để dọn sạch tâm trí không nảy sinh. Tâm trí có đó vì bạn không có đó; bạn đang ngủ say, bạn không tỉnh táo. Bóng tối có đó vì bạn đã không đem ngay cả một chiếc nến vào, và chỉ một chiếc nến nhỏ là đủ xua tan bóng tối bao la. Đây là cách tâm trí diễn giải sai - và dầu vậy nó vẫn cảm thấy rằng người ta đang đi trên đường đúng.
Người chứng ngộ có thể nói với bạn, "Xua tan mọi bóng tối." Nhưng cách duy nhất để xua tan bóng tối là mang ánh sáng vào. Người trí thức sẽ hiểu rằng xua tan bóng tối nghĩa là tranh đấu tích cực với bóng tối, ném nó ra khỏi nhà. Nhưng bạn có thể xoay xở làm trống rỗng căn phòng tối chỉ bằng việc mang các thùng đầy bóng tối và ném nó đi không? Căn phòng sẽ vẫn còn tối. Điều duy nhất sẽ xảy ra sẽ là thất vọng vô cùng, mệt mỏi, chán chường với toàn thể ý tưởng này. Nhưng nếu bạn có hiểu biết mà không là từ tâm trí, mà từ cõi bên kia.... cái tới chỉ qua thiền, và người này không nói về thiền chút nào.
Chính chỉ qua thiền mà ánh sáng bên trong của bạn, cái đang ngủ, đột nhiên trở nên tích cực và sống động. Nó là cội nguồn ánh sáng vĩnh hằng. Một khi ánh sáng có đó, bóng tối tự động bị xua tan. Ngay cả nói bị xua tan cũng sai, vì bóng tối không tồn tại; nó chỉ là thiếu vắng ánh sáng. Bóng tối không có sự tồn tại riêng của nó, cho nên bạn không thể làm được bất kì cái gì trực tiếp với nó.
Bất kì cái gì bạn muốn làm với bóng tối, bạn sẽ phải làm cái gì đó với ánh sáng. Nếu bạn muốn bóng tối, tắt đèn đi. Nếu bạn không muốn bóng tối, bật đèn lên. Nhưng bạn có thể hành động chỉ với ánh sáng, vì ánh sáng là sự tồn tại khẳng định. Bóng tối đơn giản là việc thiếu vắng ánh sáng - và do vậy là trạng thái của tâm trí chúng ta.
Tâm trí là việc thiếu vắng của bạn. Khoảnh khắc bạn hiện diện, không có tâm trí.
Cho nên nhấn mạnh tuyệt đối của mọi chư phật mọi thế kỉ đã từng đơn giản là thế này: Đi tới ý thức, trở thành sự hiện diện, và sẽ không có chỗ cho tâm trí và mọi chất liệu của nó - tham, giận, ảo tưởng, mơ, ảo giác, tham vọng, toàn thể những cái đó.
Nếu bạn bắt đầu lắng nghe những người như Đại Huệ và làm việc tương ứng với ý tưởng của họ, bạn sẽ ngày càng lâm vào đống lộn xộn. Ông ấy đang nói, cố gắng tích cực để dọn sạch tâm trí bạn. Ông ấy đang cho bạn chiều hướng sai, không có bất kì ý định nào để đem bạn vào con đường sai. Nhưng ý định không thành vấn đề. Điều thành vấn đề là liệu chỉ dẫn này có theo chiều hướng đúng hay không.
Không cái gì có thể được làm trực tiếp với tâm trí.
Ông ấy nói, cố gắng tích cực dọn sạch tâm trí ông, thì ông sẽ không đi sai, nhưng điều kiện thứ nhất không thể được hoàn thành. Bạn sẽ đi sai mọi lúc. Nhưng ông ấy chấp nhận rằng điều kiện thứ nhất có thể được hoàn thành.
Không một người chứng ngộ nào đã bao giờ nói rằng bạn có thể làm bất kì cái gì trực tiếp với tâm trí, nhưng bởi vì ông ấy chấp nhận ý tưởng đó, ông ấy liên tục mãi... thì ông sẽ không đi sai; vì ông không đi sai, chú tâm đúng đứng ra một mình. Dầu vậy, nó là chú tâm.
Thiền không phải là chú tâm.
Thiền là trạng thái của vô trí.
Chú tâm vẫn là thông minh. Bạn có thể thông minh cao - điều đó không có nghĩa là bạn biết thiền.
Một triết gia Anh đương đại vĩ đại, C.E.M. Joad, rất bối rối bởi ý tưởng của George Gurdjieff và đệ tử của ông ấy, P.D. Ouspensky. Ông ấy ốm, và ông ấy đọc cuốn sách của P.D. Ouspensky về giáo huấn của Gurdjieff. Ông ấy là một trong những triết gia lớn của thế kỉ này.
Joad nói với một người bạn của ông ấy, "Tôi nghe nói Ouspensky ở London, nhưng tôi không trong hoàn cảnh đủ tốt để đi và nói chuyện với ông ấy. Bác sĩ nói tôi phải nghỉ ngơi trên giường. Nhưng tôi không thể đợi được, vì có thể là tôi đang đếm những ngày cuối cùng của mình, bất kì ngày nào cũng có thể là cái kết. Ông có thể đi tới Ouspensky và kể cho ông ấy tình huống của tôi... và nếu ông ấy có thể tới, đó sẽ là lòng tốt của ông ấy. Tôi muốn nói chuyện với ông ấy, vì tôi không hiểu vô trí này là gì. Bên ngoài tâm trí, tôi không thể hiểu được có cái gì."
Joad đã làm việc cả đời ông ấy với tâm trí, và ông ấy biết tâm trí là gì, nhưng ông ấy không bao giờ đi ra ngoài biên giới. "Thực ra," ông ấy nói với người bạn, "những người đi ra ngoài tâm trí là đi vào trong nhà thương điên. Chúng ta nói người điên là 'ở ngoài tâm trí họ.' Và người kì lạ Gurdjieff này liên tục nói về vô trí. Ông đi và thuyết phục Ouspensky đi! Có lẽ, biết tới tên tôi, ông ấy có thể tới."
Ouspensky tới, và Joad nói với ông ấy, "Tôi không thể hiểu được chút nào cái vô trí này là gì. Tôi có thể hiểu tâm trí, tôi thậm chí có thể hiểu chú tâm, nhưng vô trí đơn giản ở bên ngoài khả năng quan niệm của tôi."
Ouspensky nói, "Đó là việc rất đơn giản. Tôi đang ngồi đây. Ông cứ nhắm mắt lại và nhớ một điều: bất kì cái gì diễn ra trước con mắt bên trong của ông đều là tâm trí, và sự hiện diện ở trước cái mà tâm trí đang trôi qua là vô trí."
Joad không bao giờ làm điều như vậy. Ông ấy nhắm mắt lại...nửa giờ trôi qua, một giờ trôi qua, và mặt ông ấy trông im lặng thế, chân thành thế. Ouspensky có cuộc hẹn gặp khác, cho nên ông ấy phải đánh thức ông này dậy. Ông ấy bảo ông này, "Tôi lấy làm tiếc phải quấy rầy ông - ông đã thực sự đi sâu."
Và Joad nói, "Tôi biết ơn vô cùng. Tôi không thể diễn đạt được lòng biết ơn của tôi... Tôi chưa bao giờ nghĩ về khả năng rằng tôi có thể quan sát tâm trí; điều đó chắc chắn nghĩa là tôi không phải là tâm trí. Người quan sát chắc chắn khác với cái được quan sát. Và thay vì giải thích nó cho tôi một cách trí tuệ, ông đã cho tôi bản thân kinh nghiệm này. Nó đẹp thế và im lặng thế. Những ngày cuối cùng này, ở trên giường, tôi không có cái gì khác để làm. Tôi sẽ tiếp tục quan sát tâm trí tôi.
"Có lẽ Gurdjieff là đúng, và có lẽ các nhà huyền bí phương Đông là đúng. Và đây là thời điểm đúng cho tôi. Nếu tôi có thể đi xa khỏi tâm trí vào trong bản thân tôi, vào trong việc chứng kiến của tôi, vào trong việc quan sát của tôi - điều họ gọi là vô trí - có lẽ tôi sẽ đi khỏi cuộc sống mang cảm giác rằng tôi đã sống một cách không có nghĩa."
Chỉ sau mười ngày ông ấy chết. Nhưng trước khi chết, ông ấy đã đọc cho thư kí viết một phát biểu nhỏ để gửi cho George Gurdjieff và cho Ouspensky. Ông ấy nói, "Tôi đang chết với lòng biết ơn lớn lao - các ông đã chỉ cho tôi cách thức. Bây giờ chết không thành vấn đề, bây giờ không cái gì thành vấn đề. Tôi đã nếm trải cái gì đó của cõi bên kia, của cái vĩnh hằng. Tâm trí là rào chắn. Tôi đã nghĩ tâm trí là tất cả những điều chúng ta có, nhưng tôi không bao giờ nghĩ rằng tâm trí chỉ là công cụ, giống như bất kì công cụ nào khác."
Bạn có thận, bạn có tay, bạn có chân; nếu tay bạn bị chặt rời ra, điều đó không có nghĩa là bạn bị tiêu diệt. Bạn là nhiều hơn tổng các bộ phận của bạn - đó là nghĩa của vô trí. Bạn không phải là thực thể số học, bạn là thực thể tâm linh.
Tôi muốn nhắc lại để cho bạn nhớ điều đó: Bạn là nhiều hơn tổng các bộ phận của bạn, và cái nhiều hơn tổng các bộ phận của bạn là bản thể thực của bạn. Máy không nhiều hơn tổng các bộ phận; máy đích xác bằng tổng các bộ phận của nó.
Duy nhất sự sống là nhiều hơn tổng các bộ phận của nó.
Và khi sự sống trở thành có ý thức, nó thậm chí còn nhiều hơn nữa.
Và khi tâm thức trở thành tuyệt đối chiếu sáng, nó cực kì nhiều hơn nữa. Tổng các bộ phận của bạn vẫn còn ở xa đằng sau, một thứ rất nhỏ, tí hon. Bạn trở thành bao la như bản thân bầu trời.
Nhưng Đại Huệ chưa có hiểu biết. Ông ấy vẫn nói như nhà tư tưởng.
Khi chú tâm đúng đứng một mình, chân lí bên trong thích ứng với hiện tượng; khi chân lí bên trong thích ứng với biến cố và sự vật, biến cố và sự vật đi tới trộn lẫn vào trong chân lí bên trong. Khi hiện tượng trộn lẫn với chân lí bên trong, ông lưu giữ quyền lực.
Điều đó nữa phải được hiểu. Quyền lực từ môi của Đại Huệ không phải là cùng quyền lực mà Phật Gautam có thể nói tới.
Quyền lực - theo tâm trí - bao giờ cũng là quyền lực trên người khác. Tâm trí liên tục cố gắng chi phối, bắt làm nô lệ, là mạnh trên người khác, vì tâm trí không có quyền lực riêng của nó. Mọi quyền lực của nó là được vay mượn. Thủ tướng của một nước có cái gì là quyền lực của ông ấy? Chỉ các phiếu bầu mà ông ấy đã đi xin. Ông ấy thực sự là kẻ ăn xin lớn nhất nước. Mọi quyền lực của ông ấy đều thuộc vào mọi người; ông ấy không có bất kì quyền lực nào của riêng ông ấy.
Cho nên khi tâm trí nói về quyền lực, nó nói về chính trị, nó nói về chi phối, nó nói về sở hữu; nó nói về làm tăng vương quốc của những người giầu, của quyền lực, của danh vọng, theo bất kì cách nào, để cho bạn có thể trở thành nhân vật chi phối.
Nhưng quyền lực mà người thức tỉnh nói tới không phải là quyền lực trên người khác. Người đó nói về nó như sự bùng nổ cố hữu, cũng như vụ nổ nguyên tử. Nó không phải là quyền lực tới từ bên ngoài; nó là quyền lực ở sâu bên trong tế bào nguyên tử. Vì nguyên tử đã bùng nổ, quyền lực là ở khắp mọi chỗ.
Một mẩu thông tin rất kì lạ đã tới tôi mới hôm nọ... một nhà khoa học Nhật Bản đã liên tục quan sát, nghiên cứu tác động của năng lượng nguyên tử và phóng xạ của nó trong và quanh Hiroshima và Nagasaki. Bốn mươi năm đã trôi qua từ vụ nổ nguyên tử đã xảy ra ở đó, khi bom nguyên tử được thả xuống Nagasaki và Hiroshima.
Nhà khoa học này thực sự đã liều mạng mình; không ai tới Hiroshima vì mọi thứ đầy phóng xạ, nhưng anh ta đã đi và sống ở đó vài tuần, chỉ để xem phóng xạ có tác động gì. Và khi anh ta quay về anh ta đã đem ngạc nhiên lớn cho các nhà khoa học bạn bè anh ta. Anh ta có vẻ trẻ hơn mười tuổi, và khoẻ hơn anh ta đã từng vậy.
Họ tất cả đều ngạc nhiên, vì không ai đã nghĩ... người ta bao giờ cũng nghĩ rằng phóng xạ sẽ giết chết, nhưng anh ấy đã khám phá ra rằng phóng xạ sẽ giết chết chỉ theo số lượng lớn nào đó. Nó là vấn đề mức độ. Với số lượng nhỏ nó có thể giúp tiêu diệt bệnh tật, cho con người cuộc sống lâu hơn, giữ cho con người trẻ cho tới chết. Bây giờ anh ta đã chuẩn bị một mảnh giấy gốm nhỏ, có liều phóng xạ rất nhỏ phát ra từ nó. Anh ta nghĩ rằng giữ cái đó trong phòng ngủ của bạn sẽ là đủ cho bạn vẫn còn mạnh khoẻ và trẻ hơn!
Tôi bao giờ cũng nói rằng năng lượng là trung lập: rằng cái có thể phá huỷ, cũng có thể sáng tạo; chúng ta chỉ phải khám phá ra cách nó phá huỷ và cách nó sáng tạo.
Nhà khoa học Nhật Bản này đã làm việc phục vụ vô cùng cho nhân loại đang tới. Nó có nghĩa là nếu các quốc gia sẵn lòng, và nếu các chính khách ngu xuẩn của họ không cản trở nó, thế thì mọi năng lượng nguyên tử và vũ khí hạt nhân mà họ đã thu thập có thể được mang ra phục vụ sự sống - đem tới nhiều mạnh khoẻ hơn cho thế giới, xua đi ốm đau, xua đi đói, xua đi tuổi già, làm cho con người sống lâu hơn và vẫn còn trẻ hơn.
Sức mạnh của bom nguyên tử không phải là sức mạnh tới từ bên ngoài; nó là sức mạnh của nguyên từ đã từng ngủ, và đã được đánh thức dậy. Nếu điều này là có thể qua nguyên tử - mà là một phần của điện, chỉ một hạt nhỏ - khả năng là gì nếu chúng ta cho nổ sự hiện hữu sống của con người? Một hạt nhỏ của tâm thức người đó, nếu nó bùng nổ, sẽ đem tới nhiều ánh sáng thế và nhiều quyền lực thế.
Có lẽ các nhà huyền bí, những người bao giờ cũng nói về quyền lực, đã nói về quyền lực mà họ cảm thấy bên trong bản thân họ. Nó không liên quan gì tới chi phối bất kì người nào. Quyền lực của họ đã được dùng như từ bi, quyền lực của họ đã được dùng để trút hoa lên người khác. Quyền lực của họ không bao giờ được dùng cho bất kì chủ định phá huỷ nào, trong việc phục vụ cái chết.
Nhưng từ 'quyền lực' bản thân nó là nguy hiểm, vì bình thường liên kết của nó là với chính trị. Khi Đại Huệ dùng từ quyền lực ông ấy không hiểu rằng các nhà huyền bí đã dùng nó theo cách khác, đối lập toàn bộ. Ông ấy nói,
Khi hiện tượng trộn lẫn với chân lí bên trong, ông lưu giữ quyền lực; khi ông cảm thấy việc lưu giữ, đây là việc trao quyền về học đạo. Khi thu được quyền lực ông lưu giữ được quyền lực vô giới hạn; trong lưu giữ quyền lực ông thu được quyền lực vô giới hạn.
Cách ông ấy đang nói nó là rõ ràng: quyền lực vô giới hạn - trên ai? Tại sao có nhấn mạnh này vào quyền lực?
Quyền năng tới từ thiền không tới như quyền lực. Nó tới dường như hoa đang trút lên bạn; nó tới như hương thơm, nó tới như yêu, nó tới như từ bi. Nó đem mọi phẩm chất lớn lao và mọi giá trị lớn lao của cuộc sống đột nhiên đi tới việc nở bung của chúng. Nó là mùa xuân của tâm thức bạn. Mọi thứ đột nhiên trở thành xanh tươi, mọi thứ trở thành mát mẻ; làn gió thoảng trở thành đầy hương thơm, vì bạn đang ở trong hoa mà không thể thấy được bằng mắt. Nhưng những người có trái tim và dũng cảm mở nó ra chắc chắn sẽ cảm thấy nó. Họ sẽ cảm thấy bài ca của nó, họ sẽ cảm thấy điệu vũ của nó.
Nhưng từ quyền lực không nên được dùng. Nó đã được liên kết với những người sai - họ đã làm ô uế nó.
Việc này cho người thông minh lanh lợi gánh vác... và bản thân ông ấy không là gì ngoài anh chàng thông minh lanh lợi..
Nhưng nếu ỷ thông minh lanh lợi thì chẳng có phần để gánh vác. Kẻ thông minh lanh lợi dù dễ nhập đạo mà khó nơi bảo nhiệm, vì chỗ nhập cạn mà sức yếu. Vì người thông minh lanh lợi vừa nghe thiện tri thức nói ra liền đem tâm ý thức lãnh hội ngay vậy.
Đại Huệ có hiểu lầm. Tâm trí chỉ có một quyền lực và đó là trí tuệ suy xét; nó không có quyền lực khác.
Vì trí tuệ suy xét, tâm trí hữu dụng thế trong khoa học, và nó tuyệt đối là cản trở cho trưởng thành tâm linh. Ở đó bạn không cần bất kì trí tuệ nào. Mọi điều bạn cần là tin cậy sâu sắc vào sự tồn tại, kính trọng sâu sắc sự sống.
Trí tuệ không bao giờ tin cậy, nó bao giờ cũng hoài nghi. Trưởng thành tâm linh bị cản trở bởi hoài nghi nhiều hơn bất kì cái gì khác, nhưng làm sao bạn có thể thu được tin cậy? Hoài nghi là tự nhiên cho tâm trí; tin cậy không phải là một phần của tâm trí. Làm sao bạn có thể đi tới tin cậy?
Đó là lí do tại sao mọi giáo huấn tâm linh đều nhấn mạnh vào mối quan hệ thân thiết với ai đó người đã đi trước bạn. Bạn cần có quan hệ với người đã thức tỉnh. Chính việc thức tỉnh của người đó sẽ trở thành bằng chứng, luận cứ cho bạn xua đi mọi hoài nghi, và xua đi mọi tâm trí.
Bạn phải đi vào trong tiếp xúc với người sống như vô trí, người sống như im lặng.
Im lặng của người đó là chói sáng. Nó lây nhiễm. Nếu bạn tới gần người như thế, bạn nhất định bị mắc vào trong cái lưới yêu toả sáng của người đó, nhận biết toả sáng của người đó. Duy nhất kinh nghiệm đó sẽ tạo ra tin cậy trong bạn, sẽ cho bạn cảm giác rằng nếu việc nở hoa đẹp này có thể xảy ra cho một người... và mình cũng là một người. Nó sẽ nhắc bạn về tiềm năng riêng của bạn: không có nhu cầu hoài nghi; nếu người này có thể nở hoa thành đoá hoa đẹp thế... mình cũng là một người.
Sự hiện diện của người chứng ngộ đem tới chân giá trị lớn cho bạn, lòng tự hào lớn, cái không phải là bản ngã... tự hào rằng bạn là con người đầy tiềm năng của việc là vị phật.
Và một khi tin cậy đã nảy sinh trong bạn, bạn đang trên đường rồi.
Tin cậy là cái tên khác của con đường.
Hoài nghi là cái tên của đi lạc lối.
Trí tuệ không là gì ngoài cái tên khác của hoài nghi. Hoài nghi là công cụ hay khi có liên quan tới khoa học, nhưng hoài nghi không giúp đỡ gì để đi ra ngoài tâm trí. Để đi ra ngoài tâm trí bạn cần tin cậy, và tin cậy có cái đẹp của riêng nó. Hoài nghi không có cái đẹp, nó là xấu. Nó không cho bạn tính toàn vẹn, nó bao giờ cũng giữ bạn nghi ngờ.
Một khi tin cậy đã nảy sinh trong bạn, bạn ở bên ngoài nguy hiểm của tâm trí.
Nhưng Đại Huệ đã không hiểu, mặc dầu ông ấy đã ở với hết thầy này sang thầy khác - với nhiều thầy. Có lẽ điều đó đã tạo ra toàn thể lẫn lộn này trong ông ấy. Trong nhiều thầy đó, vài thầy có thể chỉ là thầy giáo, vài thầy có thể thậm chí không là thầy giáo, nhưng là người ưa thích cho lời khuyên bảo - dù họ biết cái gì hay không. Họ tận hưởng việc khuyên bảo, vì trong khuyên bảo họ trở nên cao hơn bạn; bạn là người dốt nát và họ là thông thái.
Tôi đã dạy ở khoa tâm lí ở đại học. Có bốn nhà tâm lí khác trong khoa, và họ tất cả đều thực hành phân tâm, trừ tôi. Tôi không bao giờ tin vào bất kì loại phân tích nào, bất kì loại tâm lí nào, vì tôi không muốn làm bất kì cái gì với tâm trí chút nào. Nhưng bạn sẽ ngạc nhiên, họ đã cho lời tư vấn cho người ốm - ốm tinh thần, ốm tâm lí. Họ phân tích, và họ kiếm nhiều tiền, nhưng họ cũng bị cùng vấn đề này.
Tôi là người duy nhất sẵn có, cho nên tất cả họ đều hỏi tôi, "Phải làm gì với vấn đề này mà không bao giờ rời bỏ chúng tôi?"
Tôi nói, "Các anh là những nhà phân tâm lớn; các anh tư vấn cho mọi người, các anh giúp mọi người mà."
Họ nói, "Đừng làm chúng tôi thành trò cười! Chúng tôi biết kĩ thuật, chúng tôi đã học phân tâm, và chúng tôi khuyên nhủ."
Nhưng tôi nói, "Nếu các anh không thể theo được lời khuyên riêng của các anh, các anh có quyền gì để trao nó cho ai đó khác?"
Tôi hay kể cho họ câu chuyện Sufi cổ. Một người đàn bà rất bị bối rối bởi đứa con nhỏ của mình - cô ấy chỉ có một con, và chồng cô ấy đã chết. Cô ấy giầu, nhưng cô ấy đã mất mọi quan tâm vào cuộc sống. Cô ấy sống đơn giản vì đứa trẻ nhỏ này, và chắc chắn trong hoàn cảnh như thế, con cái bị hư; đứa trẻ sẽ không ăn bất kì cái gì ngoại trừ đồ ngọt. Các bác sĩ nói, "Điều này là xấu, toàn thể sức khoẻ của nó sẽ bị phá hỏng." Nhưng đứa trẻ này không nghe lời.
Người đàn bà này hay đi tới nhà huyền bí Sufi, cho nên một hôm cô ấy nghĩ, "Nó không nghe mình, nhưng có lẽ nó có thể nghe nhà huyền bí, vì người này toả sáng tới mức bất kì ai tới gần người đó đều cảm thấy bị ấn tượng."
Cô ấy đem đứa con tới và cô ấy bảo nhà huyền bí, "Nó không nghe bất kì người nào. Các bác sĩ bảo nó rằng sức khoẻ của nó sẽ bị phá hỏng, và tôi bảo nó mọi ngày. Toàn thể thức ăn của nó chỉ là đồ ngọt; bằng không nó thích chịu đói. Nó là đứa con duy nhất của tôi, chồng tôi chết rồi, và tôi chỉ sống vì nó. Tôi không thể nhìn nó đói được, cho nên tôi phải cho nó đồ ngọt, vẫn biết rõ rằng tôi đang cho nó chất độc - đường trắng là chất độc. Cho nên tôi phải mang nó tới. Ông nói cho nó cái gì đó đi! Ông là con người của Thượng đế, có lẽ lời của ông có thể có tác động khác."
Nhà huyền bí nhìn đứa trẻ, "Con ta, ta không ở vị trí trả lời cho con ngay bây giờ được, vì bản thân ta thích ăn đồ ngọt. Con quay lại sau hai tuần nữa. Trong hai tuần ta sẽ không ăn đồ ngọt, nếu ta có thể xoay xở được điều đó. Chỉ thế thì ta có thể khuyên bảo; bằng không ta không phải là người đúng để khuyên bảo."
Người đàn bà không thể tin được vào điều đó. Điều này thậm chí có thể là nguy hiểm... nhưng đứa trẻ bị ấn tượng mênh mông. Nó chạm chân nhà huyền bí. Nó nói, "Cháu đã từng được đưa tới nhiều người; mẹ cháu liên tục đem cháu tới hết người khôn ngoan này, tới người khôn ngoan kia, và tất cả họ liên tục khuyên bảo ngay lập tức. Ông là người đầu tiên mà chân thành. Cháu sẽ tới sau hai tuần, và bất kì điều gì ông nói, cháu sẽ làm. Cháu có thể tin cậy ông."
Người này thú nhận trước đứa trẻ..."Ngay bây giờ ta không ở vị trí đúng ngay cả cho cháu lời khuyên, vì bản thân ta thích đồ ngọt; cho nên trong hai tuần ta sẽ phải thử lời khuyên của ta trên bản thân ta, và thế rồi cháu tới.
"Nếu ta thất bại, ta sẽ nói, 'Ta lấy làm tiếc, ta không thể khuyên cháu được.' Nếu ta thành công, thế thì ta sẽ nói, 'Đừng lo nghĩ, nếu ta có thể thành công - một ông già - cháu còn trẻ thế và mạnh mẽ thế và thông minh thế, cháu cũng có thể thành công. Cứ thử đi!'"
Người mẹ choáng. Nếu nhà huyền bí nói sau hai tuần rằng ông ấy không thể thành công được, thế thì toàn thể vấn đề bị kết thúc; thế thì không có ai khác mà cô ấy có thể đưa đứa trẻ tới.
Sau hai tuần, họ quay lại. Nhà huyền bí nói, "Con ta, điều đó là khó nhưng không phải là không thể được. Ta đã xoay xở không ăn đồ ngọt trong hai tuần, và ta hứa với con rằng cả đời mình ta sẽ không chạm tới đồ ngọt nữa. Con nghĩ ta có thể khuyên được cháu không? Nếu con cho phép ta khuyên, chỉ thế ta sẽ làm như vậy."
Đứa trẻ nói, "Không có nhu cầu nói bất kì cái gì. Con đã nhận được thông điệp. Con biết ơn ông. Một người như ông, người sẵn sàng bỏ ăn đồ ngọt cả đời mình chỉ để cho con lời khuyên rằng bản thân ông thực hành rồi, là đáng tin cậy. Con tin cậy ông. Con cũng hứa với ông rằng con sẽ không ăn đồ ngọt từ khoảnh khắc này trở đi."
Tôi thường bảo các nhà tâm lí này, "Khi các ông khuyên bảo người khác, các ông có bao giờ nghĩ rằng lời khuyên bảo tới từ ai đó mà bản thân người đó chịu đựng cùng vấn đề đó không?"
Cho nên Đại Huệ này phải đã đi tới những người có học thức, tới người thông thái, tới các thầy giáo đủ mọi loại. Thỉnh thoảng có lẽ ông ấy có thể đã tình cờ gặp người chứng ngộ, một thầy, nhà huyền bí, và ông ấy đã thu thập từ tất cả những nguồn này; cho nên thỉnh thoảng có một phát biểu dường như tuyệt đối đúng. Nhưng phần lớn ông ấy đã thu thập đủ mọi loại mảnh mẩu từ các nguồn mà cũng dốt nát như ông ấy, nhưng họ sẵn lòng khuyên bảo như ông ấy sẵn lòng khuyên bảo.
Tôi muốn người của tôi nhớ điều đó: không bao giờ khuyên bảo chừng nào nó chưa là kinh nghiệm của bạn. Trong thế giới này, khuyên bảo là thứ duy nhất mà mọi người cho và không ai nhận, cho nên sao bận tâm? Mọi người tận hưởng việc cho lời khuyên bảo và không ai đã bao giờ nhận nó, và lí do là ở chỗ mọi người đều biết rằng lời khuyên bảo được ngụ ý cho người khác - không cho bản thân người đi khuyên.
Tôi muốn mọi người của tôi nhớ: không bao giờ khuyên bảo, chừng nào nó chưa là kinh nghiệm đích thực của riêng bạn. Thế nữa bạn có thể đơn giản nói, "Đây đã là kinh nghiệm của tôi. Không nhất thiết là nó sẽ là đúng cho bạn - bạn có thể thực nghiệm. Nếu bạn cảm thấy rằng nó đem lại hài hoà hơn cho cuộc sống của bạn, vui vẻ hơn, bạn có thể tiến lên trước. Nếu bạn cảm thấy nó không đem lại cái gì... vì các cá nhân là khác. Cái khớp với tôi có thể không khớp với bạn, cái là thuốc cho tôi có thể đơn giản là chất độc cho bạn."
Người tuyệt đối tỉnh táo bao giờ cũng tỉnh táo về cho lời khuyên bảo nào và không cho cái gì. Cho dù người đó cho lời khuyên bảo, nó bao giờ cũng có điều kiện - điều kiện theo thực nghiệm. Người đó nói nó chỉ như giả thuyết: "Bạn thử chút ít xem sao - có lẽ nó có tác dụng. Nếu nó có tác dụng, tốt. Nếu nó không có tác dụng, đừng liên tục làm nó. Nó đã giúp đỡ tôi, điều đó đúng, nhưng điều đó không có nghĩa là nó sẽ giúp mọi người trên trái đất."
Mọi người là khác nhau; từng cá nhân là duy nhất, và từng cá nhân cần cách thức duy nhất phù hợp mình.
Những người như thế này đang tạo ra cản trở riêng của họ, và sẽ không bao giờ có khoảnh khắc thức tỉnh. "Khi quỉ từ bên ngoài gây tai hoạ, điều đó có thể vẫn còn được chữa," nhưng việc nhờ cậy vào phân biệt trí tuệ rốt cuộc là "Khi gia đình riêng của người ta tạo ra thảm hoạ, nó không thể bị ngăn ngừa."
Ông ấy đang cho lời khuyên bảo tốt, nhưng ông ấy không có kinh nghiệm. Tôi chắc chắn thế rằng ông ấy không có kinh nghiệm vì nhiều câu thế, nhiều kinh thế cho chỉ dẫn rõ ràng về dốt nát.
Đây là điều Vĩnh Gia ngụ ý khi ông ấy nói, "Việc mất sự giầu có về pháp, và chuyển nhượng đức hạnh, tất cả đều xuất phát từ trí tuệ biện biệt của tâm trí."
Điều ông ấy nói là đúng, nhưng bản thân ông ấy không phải là người đúng để nói nó. Mọi việc hiểu biết đều dựa trên trí tuệ.
Phát biểu của Vĩnh Gia là tuyệt đối đúng:
"Việc mất sự giầu có về pháp, và chuyển nhượng đức hạnh, tất cả đều xuất phát từ trí tuệ biện biệt của tâm trí."
Vĩnh Gia là một thầy chứng ngộ. Ông ấy đang nói rằng vì tâm trí, thế giới đã trở thành phi tôn giáo; vì tâm trí, mọi điều là vĩ đại đã biến mất. Điều đó hoàn toàn đúng cho Vĩnh Gia nói nó; đó là kinh nghiệm riêng của ông ấy. Nhưng Đại Huệ đơn giản lặp lại nó. Các lời là hay, câu là hay - ông ấy đang thu thập các đoá hoa từ mọi nơi.
Sự chướng đạo của tâm ý thức còn quá hơn rắn độc, cọp dữ.
Người ta đơn giản không thể tin được rằng một người đang nói những điều mà người đó đã không trải nghiệm! Và ông ấy đã không đi ra ngoài chúng.
Tại sao vậy? Vì rắn độc, cọp dữ còn có thể trốn tránh, còn những người thông minh lanh lợi lấy tâm ý thức làm hang ổ, đi đứng nằm ngồi chưa từng có khoảnh khắc xa lìa nó, lâu ngày bất tri bất giác cùng nó kết thành một khối, cũng chẳng phải muốn thành một khối vì từ vô thủy đến nay đã đi con đường này quá quen thuộc, dù bỗng khám phá được cái hại của nó nhưng muốn xa lìa cũng chẳng thễ được. Cho nên nói: "Đối với độc cọp dữ còn có thể trốn tránh nhưng với tâm ý thức thực chẳng có chỗ để trốn tránh."
Mọi điều ông ấy nói đều đúng - nhưng ông ấy không đúng. Điều này phải được hiểu rõ ràng: người sai có thể nói điều đúng, nhưng người đúng không bao giờ có thể nói điều sai. Với người đúng, nói điều sai là không thể được, nhưng với người sai, nói điều đúng là rất có thể vì nó che giấu cái sai của người đó. Nó trở thành cái che đậy lên dốt nát của người đó.
Trong thế giới có hàng triệu thầy giáo, tu sĩ, sư sãi, thuộc vào các tôn giáo khác nhau và các con đường khác nhau; họ tất cả đều lặp lại những lời hay, nhưng vì chúng tới từ họ, chúng mất mọi cái đẹp.
Chúng là cùng những lời đã được nói ra bởi Zarathustra, bởi Lão Tử, bởi Jesus Christ, bởi Phật Gautam; chúng là cùng lời, nhưng người nói là không là cùng người. Và những lời đó có ý nghĩa chỉ nếu chúng được hỗ trợ bởi cá nhân có tính tồn tại đứng đằng sau chúng. Những lời đó sống chỉ nếu chúng tới từ cội nguồn sống. Do đó, nhấn mạnh của tôi là: không bao giờ bận tâm về các thánh nhân chết, không bao giờ bận tâm về kinh sách linh thiêng.
Cố tìm ra thầy sống đi.
Thầy sống chứa mọi kinh sách và mọi thánh nhân đã chết. Qua thầy sống, bất kì cái gì tới với bạn đều đi thẳng vào tâm bạn.
Thầy sống không bao giờ bỏ lỡ mục tiêu.
Một câu chuyện hay để kết thúc. Có một lễ hội hoá trang diễn ra trong một thị trấn, và Mulla Nasruddin yêu cầu mọi đệ tử của ông ấy tới cùng ông ấy. Ông ấy sẽ đưa họ tới lễ hội hoá trang để dạy cho họ vài điều; đó là phương pháp thông thường của ông ấy, đưa đệ tử vào tình huống thực tại. Khi họ bước vào, toàn thể đám đông ở đó trở nên quan tâm, vì họ bao giờ cũng biết rằng bất kì chỗ nào Nasruddin hiện diện, cái gì đó thú vị sắp xảy ra.
Ông ấy ở đó với năm mươi đệ tử đi theo. Ông ấy đi thẳng vào một phòng nhỏ, nơi mọi người thả tiền vào; nếu họ có thể bắn trúng điểm đen bằng mũi tên, người trông phòng sẽ cho họ gấp ba lần số tiền thả vào, và nếu họ bắn trượt, tiền của họ mất. Nhiều người đã thử, nhưng không dễ chừng nào bạn không là cung thủ.
Mulla Nasruddin đi tới đó, để mười ru pi lên bàn, và lấy cung và tên. Có im lặng lớn. Năm mươi đệ tử của ông ấy đang đứng đằng sau ông ấy, và một đám đông lớn quan sát và nghĩ, "Chúng ta chưa bao giờ nghĩ rằng Mulla Nasruddin cũng là cung thủ. Bây giờ chúng ta hãy xem cái gì xảy ra!" Ông ấy bắn một phát, và mũi tên đơn giản bay xa trên điểm đen.
Mọi người cười ồ! Ông ấy nói, "Thôi!" Ông ấy quay sang đệ tử của mình và nói, "Trông đấy, đây là mũi tên của người quá tham vọng. Anh ta bao giờ cũng bỏ lỡ vấn đề, anh ta đi xa xôi." Ngay cả người trông phòng cũng trở nên quan tâm....
Nasruddin lấy mũi tên khác, bắn một phát, và mũi tên rơi ngay trước ông ấy. Mọi người lại cười ồ. Ông ấy nói, "Các ông ngốc, thôi đi! Ta đã mang đệ tử của ta tới đây để dạy họ cái gì đó." Và ông ấy quay sang các đệ tử, và nói, "Trông đấy, đây là mũi tên của người bao giờ cũng ngần ngại, không chính kiến - chết hay không chết? Vì tình huống hoặc/hoặc này, anh ta bao giờ cũng không tới đích; anh ta không bao giờ bắn trúng điểm đen." Mọi người trở nên im lặng - "Ông ấy đúng."
Ông ấy rút ra mũi tên thứ ba, và người trông phòng cũng im lặng - "Người này có ý tưởng nào đó và ông ấy không sai." Và Mulla bắn trúng điểm đen, lấy tờ mười ru pi của mình, và đòi thêm hai mươi ru pi nữa.
Người coi phòng nói, "Cái gì!"
Mulla nói, "Đây là mũi tên của Mulla Nasruddin; ông ấy không bao giờ trượt mục tiêu. Ông đem hai mươi ru pi lại đây!"
Mọi người cười, nhưng người trông phòng phải đưa hai mươi ru pi. Các đệ tử cũng nói, "Thế này thì quá thể! Thực ra, nếu thầy bắn trượt nữa, thầy chắc lại đem tới giải thích nào đó; điều này chỉ là ngẫu nhiên. Nhưng thầy là người vĩ đại, không có hoài nghi về điều đó."
Ông ấy có khả năng đem tới nhiều giải thích nhất có thể được. Nếu bạn tiếp tục bắn, một lần nào đó nó sẽ bắn trúng; bất kì khi nào nó bắn trúng, đó là mũi tên của Mulla Nasruddin.
Mulla Nasruddin bước đi với ba mươi ru pi và các đệ tử của ông ấy. Ông ấy nói, "Đi thôi, các ông có thể tận hưởng bánh kẹo nào đó, quả nào đó. Cầm lấy hai mươi ru pi đi. Chỉ để lại mười ru pi của ta, vì chỉ mười ru pi đó thuộc về ta; hai mươi ru pi kia chỉ tới từ thủ đoạn."
Cái gọi là thầy giáo như Đại Huệ liên tục nói mọi thứ, và trong nhiều thứ thế, thỉnh thoảng có thể có một mũi tên trúng mục tiêu. Nhưng mối quan tâm của tôi là chỉ cho bạn cách nhân loại đã từng bị lừa bởi các thầy giáo. Đại Huệ được hoàng đế Trung Quốc tôn vinh là Thiền sư lớn, thầy Thiền lớn, và ông ấy đã được chấp nhận như Thiền sư lớn kể từ đó trở đi. Khi hoàng đế tôn vinh ông ấy bằng danh hiệu này, ai sẽ nghi ngờ về điều đó?
Chuyện đó tới giờ đã gần một nghìn năm trước rồi, và không ai đã nêu ra câu hỏi rằng đây không phải là lời của người được chứng ngộ. Nó về căn bản dạy bạn nhận biết nào đó và sự sáng tỏ, để cho khi bạn nghe ai đó hay đọc ai đó, bạn có thể cảm thấy liệu nó tới từ nguồn chứng ngộ hay từ nguồn tăm tối - từ ai đó biết cách thu thập những lời hay, từ ai đó người là thông thái, từ ai đó người có thể lừa ngay cả hoàng đế. Nhưng hoàng đế chẳng là gì ngoài con người - hệt như bạn!
Trong một nghìn năm, ngay cả Thiền nhân cũng đã không lấy Đại Huệ ra thử thách. Điều đó cũng là cái gì đó cần được hiểu. Mọi truyền thống liên tục bảo vệ người của nó; dù họ là đúng hay sai cũng không thành vấn đề. Vấn đề là ở chỗ những người đó thuộc vào truyền thống của họ; họ phải đúng.
Điều này đã làm lộn xộn toàn thể bầu khí quyển thế giới. Nó đã tạo ra lẫn lộn thế cho toàn thể nhân loại. Dường như là mọi người không quan tâm tới việc giúp cho nhân loại trưởng thành trong tâm thức; họ quan tâm nhiều hơn tới dòng truyền thừa riêng của họ, trong di sản kế thừa riêng của họ, và trong chứng minh rằng nó là đúng.
Một cách tự nhiên không ai khác can thiệp vào. Có lẽ tôi là người duy nhất liên tục tìm tòi. Tôi không bận tâm liệu người đó là người Hindu, hay người Mô ha mét giáo, hay người Ki tô giáo, hay Phật tử, hay người Do Thái, hay người Jaina.
Với tôi toàn thể nhân loại là một.
Và toàn thể di sản kế thừa của quá khứ là tâm trí.
Tôi muốn làm phân biệt rõ ràng cho tương lai, để cho tất cả những người không đúng phải được biết là không đúng, và những người là đúng - dù bất kì truyền thống nào họ thuộc vào - đều phải được tuyên bố là đúng.
Thực ra, nói cách khác: Tôi muốn trong thế giới chỉ có hai truyền thống - những người đúng và những người sai - để làm đơn giản hoá mọi chuyện. Thế hệ tương lai của họ không phải lo nghĩ; bằng không nó là đống lộn xộn thế. Bạn bị đòi hỏi không nói bất kì cái gì sai là sai, vì nó thuộc vào di sản kế thừa của bạn.
Chuyện xảy ra là trong làng tôi, giữa nhà tôi và ngôi đền, có một mảnh đất. Vì lí do kĩ thuật nào đó, bố tôi đã có khả năng thắng vụ kiện nếu ông ấy đưa nó ra toà - chỉ theo các lí do kĩ thuật. Mảnh đất đó không phải của chúng tôi, mảnh đất đó thuộc về ngôi đền. Nhưng lí do kĩ thuật là thế này: bản đồ của ngôi đền không chỉ ra rằng mảnh đất đó ở trong lãnh thổ của họ. Đó là lỗi nào đó của nhân viên thư kí của uỷ ban thành phố; họ đã để mảnh đất đó vào tài sản riêng của bố tôi.
Một cách tự nhiên ở toà án đã không có câu hỏi; ngôi đền không có quyền nói rằng nó là của họ. Mọi người đều biết nó đã là đất của họ, bố tôi biết nó là đất của họ. Nhưng đất là quí giá, nó ở ngay trên phố chính, và mọi hỗ trợ kĩ thuật và pháp lí đều đứng về phía bố tôi. Ông ấy đưa vụ kiện này ra toà án.
Tôi bảo ông ấy, "Bố nghe này" - tôi phải chưa đủ mười một tuổi - "con sẽ đi ra toà để hỗ trợ cho ngôi đền. Con không có bất kì cái gì liên quan với ngôi đền, con thậm chí chưa bao giờ đi vào bên trong ngôi đền, dù nó là bất kì cái gì, nhưng bố biết hoàn toàn rõ rằng mảnh đất đó không phải là của bố."
Ông ấy nói, "Con là loại con gì vậy? Con sẽ làm nhân chứng chống lại bố riêng của con sao?"
Tôi nói, "Không thành vấn đề về bố và con; ở toà án đó là vấn đề cái gì là đúng. Và không chỉ con của bố sẽ ở đó; bố của bố, con cũng đã thuyết phục rồi."
Ông ấy nói, "Cái gì!"
Tôi có tình bạn rất sâu với ông tôi, cho nên chúng tôi đã tư vấn. Tôi đã bảo ông tôi, "Ông phải hỗ trợ cho cháu vì cháu chỉ là đứa bé mười một tuổi. Toà án có thể không chấp nhận việc làm chứng của cháu vì cháu không phải là người lớn, cho nên ông phải hỗ trợ cho cháu. Ông biết hoàn toàn rõ rằng mảnh đất đó không phải của chúng ta."
Ông nói, "Ông ở cùng phe cháu."
Thế là tôi bảo bố tôi, "Bố nghe này, từ cả hai phía, từ bố của bố và từ con của bố... bố đơn giản xin rút vụ kiện này đi; bằng không bố sẽ trong rắc rối lắm, bố sẽ thua vụ kiện. Nó chỉ là về mặt kĩ thuật mà bố có khả năng đòi đất. Nhưng chúng ta không hỗ trợ cho sai lầm kĩ thuật về phần thư kí của thành phố."
Ông ấy nói, "Con không hiểu một điều đơn giản, rằng gia đình nghĩa là... con phải hỗ trợ cho gia đình con chứ."
Tôi nói, "Không, con sẽ hỗ trợ cho gia đình chỉ nếu gia đình là đúng. Con sẽ hỗ trợ cho bất kì ai là đúng."
Ông ấy nói chuyện với ông tôi, ông tôi nói, "Bố đã hứa với con của con rằng bố sẽ đi cùng nó."
Bố tôi nói, "Điều đó có nghĩa là con sẽ phải rút vụ kiện này và mất mảnh đất giá trị đó!"
Ông nói, "Cái gì có thể được làm về nó? Con trai của con sẽ tạo ra rắc rối cho con, và thấy tình huống này, rằng nó sẽ không được thuyết phục theo bất kì cách nào, bố đã đồng ý với nó - chỉ để làm cho lập trường của nó mạnh hơn để con có thể rút; rút đi là tốt hơn bị thất bại."
Bố tôi nói, "Nhưng đây là gia đình kì lạ! Tôi làm việc vì tất cả mọi người. Tôi làm việc vì bố, tôi làm việc vì con tôi - tôi không làm việc vì bản thân tôi. Nếu chúng ta có thể có cửa hàng tốt hơn trên mảnh đất đó bố sẽ có tuổi già tốt hơn, tiện nghi hơn; nó sẽ có giáo dục tốt hơn ở đại học tốt hơn. Và mọi người chống lại tôi."
Ông tôi nói, "Bố không chống lại bất kì ai, nhưng nó đã có lời hứa của bố, và bố không thể đi ngược lại lời của bố - ít nhất khi có liên quan tới nó - vì nó là nguy hiểm, nó có thể đẩy bố vào rắc rối nào đó. Cho nên bố không thể lừa nó được; bố sẽ nói bất kì cái gì nó nói. Và nó đang nói chân lí - và con biết điều đó."
Thế là bố tôi phải rút vụ kiện này - ngần ngại... nhưng ông ấy phải rút vụ kiện. Tôi đề nghị ông tôi đem một số kẹo để chúng tôi có thể phân phát chúng cho hàng xóm. Bố tôi đi tới nhận biết, nó phải được mở hội. Ông ấy nói, "Điều đó dường như là điều đúng để làm."
Khi bố tôi thấy rằng tôi đã phân phát kẹo, ông ấy hỏi, "Con đang làm gì? - để làm gì? Cái gì xảy ra?"
Tôi nói, "Bố đã quay về với nhận biết của bố. Chân lí thắng lợi." Và tôi cho ông ấy kẹo nữa.
Ông ấy cười. Ông ấy nói, "Bố có thể hiểu quan điểm của con, và bố của bố ở cùng phía con, cho nên bố nghĩ tốt hơn cả là bố cũng nên ở cùng phía con. Tốt hơn cả là rút vụ kiện mà không có vấn đề gì. Nhưng bố đã học được bài học." Ông ấy nói với tôi, "Bố không thể phụ thuộc vào gia đình bố được. Nếu có bất kì rắc rối nào họ sẽ không hỗ trợ cho bố chỉ bởi vì họ thuộc về bố như người bố, như người con, như người anh. Họ sẽ hỗ trợ bất kì cái gì là đúng."
Và kể từ lúc đó không tình huống nào khác đã xảy ra, vì ông ấy không bao giờ làm bất kì cái gì mà chúng tôi phải bất đồng. Ông ấy vẫn còn chân thực và chân thành.
Nhiều lần trong đời mình ông ấy bảo tôi, "Con thực tốt thế; bằng không bố chắc đã lấy mảnh đất đó, và bố chắc đã phạm phải tội lỗi một cách có chủ ý. Con đã ngăn cản bố, và không chỉ khỏi tội đó, con đã ngăn cản bố kể từ đó trở đi. Bất kì khi nào có tình huống tương tự, bố bao giờ cũng quyết định thiên về chân lí, dù bất kì tổn thất nào. Nhưng bây giờ bố có thể thấy: chân lí là kho báu duy nhất. Con có thể đánh mất cả đời con, nhưng đừng đánh mất chân lí."
Đây là điều tôi muốn bạn học từ các giáo lí của Đại Huệ: thực nghiệm để xem cái gì là đúng và tại sao nó đúng, cái gì là sai và tại sao nó sai, và cũng biết rằng ngay cả cái đúng cũng trở thành sai khi nó tới từ tâm trí sai, từ người sai.
Chân lí cần được sinh ra từ kinh nghiệm về tính chân lí. Nó là hoa rất tinh tế nhưng là kho báu quí giá nhất trong cuộc sống, vì nó đem tới giải thoát, nó đem tới tự do, nó đem tới cho bạn tính bất tử riêng của bạn.
Nhưng đừng bao giờ là người vay mượn, đừng bao giờ lệ thuộc vào tri thức của người khác. Một mảnh nhỏ kinh nghiệm riêng của bạn là quan trọng hơn nhiều so với mọi Vedas, mọi Korans, mọi Kinh Thánh, mọi Talmuds. Chút ít kinh nghiệm về bản thể bên trong riêng của bạn là có giá trị hơn mọi chư phật của mọi thời đại. Chân lí phải là của riêng bạn.
Chỉ thế thì nó là sống động, với trái tim đập.
Được chứ, Maneesha?

Vâng, thưa Osho.

0 Đánh giá

Ads Belove Post