Vigyan Bhairav Mật Tông Tập 2 Chương 29. Phương pháp âm thanh cho việc bỏ tâm trí

Vigyan Bhairav Mật Tông Tập 2 Chương 29. Phương pháp âm thanh cho việc bỏ tâm trí

Price:

Read more

Vigyan Bhairav Mật Tông Tập 2 - Osho
Sách về các Bí mật: Bình luận mới
Chương 29. Phương pháp âm thanh cho việc bỏ tâm trí


18. Niệm một âm một cách rõ ràng, thế rồi ngày càng ít rõ ràng khi cảm thấy sâu hơn trong hài hoà im lặng này.
19. Với mồm hơi mở, giữ tâm trí ở giữa lưỡi. Hay, khi hơi thở đi vào một cách im lặng, cảm thấy âm thanh "HH".
20. Định tâm vào âm thanh "Aum" mà không có bất kì "a" hay "m" nào.
Mật Tông chia cuộc sống thành hai chiều: một chiều là sansar - cái chính là thế giới; và chiều kia là moksha - cái có thể là cái tối thượng, cái được ẩn kín mà có thể trở thành biểu lộ. Nhưng không có mâu thuẫn giữa hai chiều này. Cái ẩn kín là ở đây và bây giờ, trong thế giới - tất nhiên, không được biết với bạn, nhưng không phải là vô tồn tại. Nó có đó. Cái tối thượng và cái tức khắc không phải là hai thứ, mà chỉ là hai chiều của một sự tồn tại.
Cho nên với Mật Tông không có mâu thuẫn, không có nhị nguyên. Cái một xuất hiện là hai vì giới hạn của chúng ta; vì chúng ta không thể thấy được cái toàn thể. Khoảnh khắc chúng ta thấy cái toàn thể, một xuất hiện như là một. Phân chia không có trong thực tại, nhưng có trong tri thức giới hạn của chúng ta. Cái mà chúng ta biết là sansar - thế giới; và cái không được biết nhưng là cái có thể được biết là moksha - cái siêu việt, cái tối thượng, cái tuyệt đối.
Với các tín ngưỡng khác, có xung đột giữa hai điều này; với Mật Tông không có xung đột. Điều này phải được hiểu rất sâu trong trí và trong tâm. Chừng nào điều này chưa được hiểu sâu, bạn sẽ không bao giờ có khả năng hiểu quan điểm của Mật Tông. Và dù niềm tin của bạn là bất kì cái gì, niềm tin đó là của nhị nguyên. Dù bạn là người Ki tô giáo hay người Mô ha mét giáo hay người Hindu hay người Jain, niềm tin của bạn là của nhị nguyên, của xung đột. Thế giới dường như là cái gì đó chống lại điều thiêng liêng, và bạn phải tranh đấu với thế giới để đạt tới điều thiêng liêng. Đây là niềm tin chung của mọi cái gọi là tôn giáo, đặc biệt các tôn giáo có tổ chức.
Tâm trí có thể hiểu nhị nguyên rất dễ dàng. Đúng hơn, nó có thể hiểu nhị nguyên vì chính chức năng của tâm trí là phân chia. Chính chức năng của tâm trí là cắt cái toàn thể thành các mảnh.
Tâm trí làm việc như lăng kính, và khi một tia sáng đi vào lăng kính nó bị chia thành bẩy mầu. Tâm trí là lăng kính và thực tại bị chia ra qua nó. Đó là lí do tại sao tâm trí say sưa trong phân tích. Nó liên tục phân chia mọi thứ thành các mảnh mẩu, và nó không thể ngăn cản bản thân nó chừng nào không có gì để được phân chia thêm nữa. Cho nên tâm trí có xu hướng đạt tới nguyên tử, phân chia thấp nhất. Nó liên tục phân chia, phân chia, chừng nào một khoảnh khắc chưa tới mà không phân chia nào là có thể. Nếu phân chia vẫn còn có thể, nó sẽ phân chia thêm nữa.
Tâm trí đi vào mảnh mẩu, tới mảnh mẩu chi li, và thực tại là một toàn thể, không phải mảnh mẩu. Cho nên một quá trình đảo ngược hoàn toàn được cần để biết cái thực: quá trình của tổng hợp, không của phân tích; quá trình làm kết tinh lại, không phải quá trình phân chia. Quá trình vô trí được cần.
Mật Tông phủ nhận phân chia và Mật Tông nói rằng cái toàn thể là toàn thể. Phần mà chúng ta biết là thế giới, phần mà bị ẩn kín là điều thiêng liêng, hay Thượng đế, hay bất kì cái gì bạn đặt tên cho nó - nhưng cái ẩn kín là ở ngay đây và bây giờ. Nó đã có rồi. Với bạn nó sẽ là trong tương lai, nhưng trong sự tồn tại nó là ở đây và bây giờ. Bạn có thể phải du hành tới nó; bạn có thể phải đạt tới thái độ vô trí của việc nhìn vào mọi thứ - thế thì nó sẽ được hiển lộ ra. Bạn chỉ đứng và mặt trời buổi sáng lên, nhưng bạn đang đứng với mắt nhắm. Buổi sáng ở đây và bây giờ, nhưng với bạn nó không ở đây và bây giờ. Khi bạn mở mắt bạn ra, chỉ thế thì nó mới trở thành sự kiện cho bạn.
Trong sự tồn tại buổi sáng tồn tại, nhưng không tồn tại cho bạn. Bạn bị đóng với nó, nó bị ẩn kín với bạn. Với bạn chỉ có bóng tối và ánh sáng bị ẩn kín. Nhưng nếu bạn mở mắt ra, bất kì khoảnh khắc nào buổi sáng sẽ trở thành sự kiện với bạn. Nó đã là sự kiện rồi, chỉ bạn bị mù.
Mật Tông nói rằng thế giới đã là điều thiêng liêng rồi, nhưng bạn mù. Cho nên bất kì cái gì bạn biết trong sự mù của bạn đều được gọi là thế giới, và bất kì cái gì bị ẩn kín vì sự mù của bạn là điều thiêng liêng. Đây là một trong những nguyên lí cơ sở - rằng sansar này là moksha, chính thế giới này là thiêng liêng, chính thế giới này là điều tối thượng. Cái tức khắc và cái tối thượng không phải là hai, mà là một. Cái ở đây và ở kia không phải là hai, mà là một. Vì sự nhấn mạnh này, nhiều thứ trở thành có thể cho Mật Tông. Một: Mật Tông có thể chấp nhận mọi thứ, và việc chấp nhận sâu làm bạn thảnh thơi hoàn toàn. Không cái gì khác có thể làm bạn thảnh thơi.
Nếu không có phân chia giữa thế giới này và cái đó, nếu cái siêu việt nhất định là ở đây và bây giờ, nếu vật chất chỉ là thân thể của điều thiêng liêng, thế thì không cái gì bị phủ nhận, không cái gì bị kết án và bạn không cần bị căng thẳng. Cho dù có thể mất nhiều thời đại để bạn đi tới nhận ra điều thiêng liêng, không có vội vàng đối với Mật Tông. Nó đã có đó rồi, và thời gian thì không thiếu. Nó ở đây vĩnh hằng; bất kì khi nào bạn mở mắt ra bạn sẽ thấy nó. Và bất kì cái gì bạn đã có được đều là điều thiêng liêng ẩn kín.
Cho nên thái độ kết án của Ki tô giáo, về tội lỗi, hay các thái độ tôn giáo khác như vậy, toàn bộ đều là dối trá với Mật Tông - và ngớ ngẩn, vì nếu bạn kết án cái gì đó bạn cũng trở thành bị phân chia bên trong. Bạn không thể phân chia mọi thứ chỉ ở bên ngoài. Nếu bạn phân chia, bạn cũng sẽ bị phân chia song song. Nếu bạn nói thế giới này là sai, thế thì thân thể bạn sẽ trở thành sai vì thân thể bạn là một phần của thế giới này.
Nếu bạn nói thế giới này là cái gì đó cản trở việc đạt tới điều tối thượng, thế thì toàn thể cuộc sống của bạn sẽ bị kết án và bạn sẽ cảm thấy mặc cảm. Thế thì bạn không thể tận hưởng, thế thì bạn không thể sống, thế thì bạn không thể cười. Thế thì nghiêm trang sẽ trở thành mặt của bạn. Bạn chỉ có thể nghiêm trang; bạn không thể không nghiêm trang được, bạn không thể vui đùa được.
Điều đó đã xảy ra cho mọi tâm trí trên khắp thế giới. Họ trở thành chết, nghiêm trang. Qua nghiêm trang họ trở thành chết vì họ không thể chấp nhận được sống như nó vậy. Họ phủ nhận nó, và họ cảm thấy rằng chừng nào họ chưa phủ nhận họ không thể đạt tới thế giới kia.
Cho nên thế giới kia trở thành lí tưởng, tương lai, ham muốn, viễn kiến, và thế giới này trở thành tội lỗi. Thế thì người ta cảm thấy mặc cảm với nó. Và bất kì tôn giáo nào làm cho bạn mặc cảm đều làm cho bạn thành thần kinh. Nó lái bạn tới điên rồ! Theo nghĩa này, Mật Tông là tôn giáo lành mạnh duy nhất. Và bất kì khi nào bất kì tôn giáo nào trở nên lành mạnh, nó trở thành Mật Tông - nó trở thành có tính Mật Tông. Cho nên mọi tôn giáo đều có hai mặt. Một mặt là mặt bên ngoài: nhà thờ, tổ chức, được đưa ra công khai, mặt công khai, công truyền. Mặt này bao giờ cũng phủ nhận sống. Mặt kia là cốt lõi bên trong. Mọi tôn giáo đều có điều đó nữa: bí truyền. Nó bao giờ cũng có tính Mật Tông - chấp nhận toàn bộ.
Chừng nào bạn chưa chấp nhận thế giới một cách toàn bộ, bạn không thể thoải mái bên trong. Không chấp nhận tạo ra căng thẳng. Một khi bạn chấp nhận mọi thứ như nó vậy, bạn là ở nhà trong thế giới. Mật Tông nói đây là điều cơ bản: bạn phải ở nhà. Chỉ thế thì làm cái gì đó nhiều hơn mới trở thành có thể. Nếu bạn căng thẳng, bị phân chia, trong xung đột, trong phiền não, trong mặc cảm, làm sao bạn có thể siêu việt được? Bạn điên thế bên trong, bạn không thể du hành xa hơn. Bạn bị dính líu nhiều thế bởi ở đây, bị ám ảnh nhiều thế bởi ở đây, bạn không thể đi ra ngoài được.
Điều này dường như là ngược đời. Những người quá chống lại thế giới là ở trong nó quá nhiều; họ phải vậy. Bạn không thể đi xa khỏi kẻ thù của bạn, bạn bị ám ảnh bởi kẻ thù. Nếu thế giới là kẻ thù của bạn, không thành vấn đề bạn làm gì hay giả vờ làm gì, bạn sẽ vẫn còn là trần tục. Bạn thậm chí có thể từ bỏ nó, nhưng chính cách tiếp cận của bạn sẽ là trần tục.
Tôi đã thấy một thánh nhân, một người rất danh tiếng... Ông ấy sẽ không động tới tiền, và nếu bạn để vài đồng xu trước ông ấy, ông ấy sẽ nhắm mắt lại. Điều này là thần kinh, người này ốm! Người đó đang làm gì? Nhưng mọi người tôn thờ ông ấy vì điều này. Họ nghĩ ông ấy là người thế giới khác thế. Ông ấy không phải vậy, ông ấy quá nhiều trong thế giới này. Ngay cả bạn cũng không ở nhiều trong thế giới như thế. Ông ấy đang làm gì? Ông ấy chỉ đảo ngược lại quá trình; bây giờ ông ấy đang đứng trên đầu ông ấy. Ông ấy là cùng người - cùng người đã tham tiền. Ông ấy thường xuyên nghĩ về tiền, tích luỹ của cải. Bây giờ ông ấy đã trở thành đối lập hoàn toàn, nhưng ông ấy vẫn còn là cùng người bên trong. Bây giờ ông ấy chống lại tiền, bây giờ ông ấy không thể động vào nó.
Tại sao có sợ này? Tại sao có hận này? Nhớ, bất kì khi nào có hận, nó là yêu đảo ngược. Bạn có thể ghét một thứ chỉ nếu bạn đã từng trong yêu nó. Ghét bao giờ cũng là có thể chỉ qua yêu. Bạn có thể chống lại cái gì đó chỉ nếu bạn đã từng ủng hộ nó nhiều thế, nhưng thái độ cơ bản là như nhau: người này tham.
Tôi hỏi người này, "Tại sao ông sợ nhiều thế?"
Ông ấy nói, "Tiền là cản trở. Chừng nào tôi không dùng ý chí chống lại tham của tôi hướng tới tiền, tôi không thể đạt tới điều thiêng liêng."
Cho nên bây giờ đó là một loại tham mới. Ông ấy đang mặc cả: nếu ông ấy động vào tiền ông ấy mất điều thiêng liêng. Và ông ấy muốn có điều thiêng liêng, ông ấy muốn sở hữu điều thiêng liêng, cho nên ông ấy chống lại tiền.
Mật Tông nói, đừng ủng hộ thế giới, đừng chống lại thế giới, chỉ chấp nhận nó như nó vậy. Đừng tạo ra bất kì vấn đề gì từ nó. Làm sao điều này sẽ giúp bạn? Nếu bạn không tạo ra vấn đề nào từ nó, nếu bạn không phát triển chứng thần kinh qua nó - cách này hay cách nọ - nếu bạn vẫn còn đơn giản trong nó và chấp nhận nó như nó vậy, toàn thể năng lượng của bạn được giảm nhẹ khỏi nó và có thể chuyển vào cõi ẩn kín, vào chiều ẩn kín.
Chấp nhận trong thế giới này trở thành siêu việt với thế giới. Chấp nhận toàn bộ ở đây sẽ đưa bạn, sẽ biến đổi bạn sang chiều khác, chiều ẩn kín, vì mọi năng lượng của bạn được giảm nhẹ; nó không bị dính líu vào ở đây. Mật Tông tin sâu sắc vào khái niệm về niyati - thiên mệnh. Mật Tông nói, coi thế giới này như thiên mệnh của bạn và không lo nghĩ về nó. Một khi bạn coi nó như niyati của bạn, như thiên mệnh của bạn, bạn chấp nhận nó, dù nó là bất kì cái gì. Bạn không lo nghĩ về thay đổi nó, về làm cho nó khác đi, về làm cho nó tương ứng với ham muốn của bạn. Một khi bạn chấp nhận nó như nó vậy, và bạn không bị bận tâm bởi nó, toàn thể năng lượng của bạn được giảm nhẹ, và thế thì năng lượng này có thể xuyên thấu vào trong.
Những kĩ thuật này có thể giúp ích chỉ nếu bạn lấy thái độ này; bằng không chúng sẽ không giúp ích đâu. Và chúng có vẻ đơn giản thế. Nếu bạn bắt đầu chúng một cách trực tiếp như bạn vậy, chúng sẽ dường như đơn giản, nhưng bạn sẽ không thành công trong chúng. Khuôn khổ cơ bản bị thiếu.
Chấp nhận là khuôn khổ cơ bản. Một khi chấp nhận có đó trong nền tảng, những phương phát rất đơn giản này sẽ có tác dụng kì diệu.
Phương pháp thứ sáu liên quan tới âm thanh:
Niệm một âm một cách rõ ràng, thế rồi ngày càng ít rõ ràng khi cảm thấy sâu hơn trong hài hoà im lặng này.
Bất kì âm thanh nào cũng được, nhưng nếu bạn thích âm thanh nào đó nó sẽ là tốt hơn, vì nếu bạn thích âm thanh nào đó thể thì âm thanh này không chỉ là âm thanh. Khi bạn niệm âm thanh này, thế thì bạn cũng niệm cảm giác ẩn kín cùng nó, và dần dần âm thanh này sẽ bị mất đi và chỉ cảm giác sẽ còn lại.
Âm thanh phải được dùng như lối chuyển hướng tới cảm giác. Âm thanh là tâm trí và cảm giác là tâm. Tâm trí phải dùng lối chuyển hướng tới tâm. Khó đi vào tâm một cách trực tiếp. Vì chúng ta đã từng bỏ lỡ nó nhiều thế và trong nhiều kiếp thế, chúng ta không biết di chuyển tới tâm từ đâu. Làm sao đi vào nó? Cánh cửa dường như bị đóng.
Chúng ta liên tục nói về tâm, nhưng việc nói đó cũng chỉ là trong tâm trí. Chúng ta nói rằng chúng ta yêu qua tâm, qua tim, nhưng điều đó nữa cũng là qua não; trong đầu. Ngay cả nói về tâm là nói trong đầu. Và chúng ta không biết tâm ở đâu. Tôi không ngụ ý phần vật lí của nó, chúng ta biết về cái đó. Nhưng thế rồi bác sĩ điều trị sẽ nói, y học sẽ nói, rằng không có khả năng nào của yêu trong nó. Nó chỉ là hệ thống bơm. Không cái gì khác trong nó, và mọi cái khác chỉ là huyền thoại và thơ ca và mơ mộng.
Nhưng Mật Tông biết một trung tâm sâu ẩn đằng sau trái tim vật lí. Trung tâm sâu đó chỉ có thể được đạt tới qua tâm trí vì chúng ta đang đứng trong tâm trí. Chúng ta ở đó trong đầu, và bất kì cuộc du hành vào bên trong nào cũng phải bắt đầu từ đó. Tâm trí là âm thanh. Nếu mọi âm thanh dừng lại, bạn sẽ không có tâm trí nào. Trong im lặng không có tâm trí - đó là lí do tại sao có nhiều nhấn mạnh thế vào im lặng. Im lặng là trạng thái vô trí.
Bình thường chúng ta nói, "Tâm trí tôi im lặng." Điều này là ngớ ngẩn, vô nghĩa, vì tâm trí ngụ ý thiếu vắng im lặng. Cho nên bạn không thể nói rằng tâm trí là im lặng. Nếu tâm trí hiện hữu, không thể có im lặng nào, và khi im lặng hiện hữu, không có tâm trí. Cho nên không có điều như là tâm trí im lặng; không thể có được. Điều đó cũng giống như nói rằng ai đó là sống-chết. Điều đó không tạo ra nghĩa gì. Nếu người đó chết, thế thì người đó không sống. Nếu người đó sống, thế thì người đó không chết. Bạn không thể sống-chết.
Cho nên không có gì giống như tâm trí im lặng. Khi im lặng tới, tâm trí không có đó. Thực sự, tâm trí đi ra và im lặng bước vào; tâm trí bước vào và im lặng đi ra. Cả hai không thể có đó. Tâm trí là âm thanh. Nếu âm thanh có hệ thống, bạn là lành mạnh, nếu âm thanh đã đi sang hỗn độn bạn không lành mạnh; nhưng trong cả hai trường hợp âm thanh đều có đó, và chúng ta đi ra ở điểm của tâm trí.
Vậy làm sao bỏ được từ điểm đó để đến điểm bên trong của tâm? Dùng âm thanh, niệm âm thanh. Một âm thanh sẽ giúp ích. Nếu có nhiều âm thanh trong tâm trí, khó rời bỏ chúng. Nếu chỉ có một âm thanh, nó có thể được bỏ lại dễ dàng. Cho nên điều đầu tiên nhiều âm thanh phải được hi sinh cho một âm thanh. Đó là việc dùng tập trung.
Niệm một âm thanh. Liên tục niệm nó, đầu tiên niệm thành tiếng để cho bạn có thể nghe thấy nó, và thế rồi dần dần, từ từ, không thành tiếng. Thế thì không người nào khác có thể nghe thấy nó, nhưng bạn có thể nghe thấy nó từ bên trong. Niệm nó yên tĩnh hơn, niệm nó ngày càng ít nghe thấy được, và đột nhiên bỏ nó. Sẽ có im lặng, bùng nổ của im lặng - nhưng việc cảm sẽ có đó. Bây giờ sẽ không có ý nghĩ, nhưng việc cảm sẽ có đó.
Đó là lí do tại sao điều tốt là dùng một âm thanh, một cái tên, một mật chú, với nó bạn có tình cảm nào đó. Nếu người Hindu dùng "Ram," người đó có tình cảm nào đó với nó. Nó không đơn giản là một lời cho người đó, nó không chỉ ở trong đầu người đó. Rung động đạt tới tâm người đó nữa. Người đó có thể không nhận biết, nhưng nó được bắt rễ sâu trong xương người đó, trong chính máu người đó. Đã có một truyền thống dài lâu, việc ước định dài lâu, trong nhiều kiếp. Nếu bạn đã bị gắn bó với một âm thanh liên tục, nó được bắt rễ rất sâu. Dùng nó đi. Nó có thể được dùng.
Người Ki tô giáo có thể dùng "Ram," nhưng nó sẽ vẫn còn trong tâm trí, nó sẽ không đi sâu. Tốt hơn cả người đó dùng "Jesus" hay "Maria" hay cái gì đó khác. Rất dễ bị ảnh hưởng bởi ý tưởng mới, nhưng khó dùng nó. Bạn không có bất kì tình cảm nào với nó. Cho dù bạn được thuyết phục trong tâm trí rằng điều này sẽ là tốt, thuyết phục này là trên bề mặt.
Một trong những người bạn của tôi đã sống ở Đức. Anh ấy ở đó trong ba mươi năm và anh ấy hoàn toàn quên mất tiếng mẹ đẻ - anh ấy là người Maharashtrian và tiếng mẹ đẻ của anh ấy là Marathi. Nhưng anh ấy đã quên nó, trong ba mươi năm anh ấy đã dùng tiếng Đức. Tiếng Đức trở thành giống như tiếng mẹ đẻ của anh ấy. Tôi nói chỉ giống vì không thứ tiếng khác nào có thể trở thành tiếng mẹ đẻ của bạn. Không có khả năng nào vì tiếng mẹ đẻ vẫn còn nằm sâu bên dưới bên trong bạn. Anh ấy quên nó một cách có ý thức, và anh ấy không có khả năng nói hay hiểu nó.
Thế rồi anh ấy ngã bệnh, và anh ấy bị ốm tới mức cả gia đình phải đi tới đó thăm anh ấy. Anh ấy bị vô ý thức, nhưng đôi khi ý thức lại tới. Bất kì khi nào anh ấy trở nên có ý thức anh ấy sẽ nói tiếng Đức và bất kì khi nào anh ấy trở nên vô ý thức anh ấy sẽ thốt ra tiếng Marathi. Có ý thức anh ấy không thể hiểu được cái gì trong tiếng Marathi; vô ý thức anh ấy không thể hiểu được bất kì cái gì trong tiếng Đức.
Sâu trong vô ý thức tiếng Marathi vẫn còn lại; nó là tiếng mẹ đẻ. Và anh ấy không thể thay thế được tiếng mẹ đẻ. Bạn có thể để các thứ khác đè lên trên nó, bạn có thể chồng chất các thứ khác, nhưng bạn không thể thay thế được nó. Sâu bên dưới, nó sẽ vẫn còn lại.
Cho nên nếu bạn có tình cảm với âm thanh nào đó, tốt hơn cả là dùng nó. Đừng dùng âm thanh trí tuệ, nó sẽ không giúp ích gì vì âm thanh phải được dùng để làm bước chuyển từ tâm trí tới tâm. Cho nên dùng âm thanh nào đó mà với nó bạn có tình yêu sâu sắc, có tình cảm nào đó.
Nếu người Mô ha mét giáo dùng "Ram," điều đó rất khó, từ này chả có nghĩa gì với người đó. Đó là lí do tại sao hai tôn giáo cổ nhất không bao giờ tin vào cải đạo - Hindu giáo và Do Thái giáo. Họ là hai tôn giáp cổ nhất, hai tôn giáo nguyên bản, mọi tôn giáo khác chỉ là nhánh của hai tôn giáo này. Ki tô giáo và Hồi giáo là những chi nhánh của tín ngưỡng Do Thái; Phật giáo, Jaina giáo, Sikh giáo là những chi nháng của Hindu giáo. Hai tôn giáo nguyên thuỷ này không bao giờ tin vào cải đạo, và lí do là thế này: rằng bạn có thể cải đạo con người về mặt trí tuệ, nhưng bạn không thể cải đạo con người từ tâm người đó. Bạn có thể cải đạo người Hindu thành người Ki tô giáo, bạn có thể cải đạo người Ki tô giáo thành người Hindu, nhưng việc cải đạo sẽ vẫn còn là của tâm trí.
Sâu bên dưới người Hindu được cải đạo vẫn còn là người Hindu. Người đó có thể đi tới nhà thờ và người đó có thể cầu nguyện tới Mary hay tới Jesus, nhưng lời cầu nguyện của người đó vẫn còn ở trong đầu. Bạn không thể thay đổi được vô thức. Và nếu bạn thôi miên người đó, bạn sẽ thấy người đó là người Hindu. Nếu bạn thôi miên người đó và để người đó bộc lộ vô thức của mình, bạn sẽ thấy người đó là người Hindu.
Người Hindu và người Do Thái không bao giờ tin vào cải đạo vì sự kiện cơ sở này. Bạn không thể thay đổi được tôn giáo của một người vì bạn không thể thay đổi được tâm của người đó và tình cảm vô ý thức. Và nếu bạn thử, thế thì bạn quấy rối người đó, vì bạn cho người đó cái gì đó mà vẫn còn trên bề mặt và bạn phân chia người đó. Thế thì người đó trở thành nhân cách chia chẻ. Sâu bên dưới người đó là người Hindu; trên bề mặt người đó là người Ki tô giáo. Người đó sẽ dùng âm thanh, mật chú Ki tô giáo, điều sẽ không đi sâu, và người đó không thể dùng âm thanh cái có thể đi sâu. Bạn đã khuấy đảo đời người đó.
Cho nên tìm ra âm thanh nào đó mà theo đó bạn có tình cảm nào đó. Ngay cả tên riêng của bạn cũng có thể giúp ích. Nếu bạn không có bất kì tình cảm nào với bất kì cái gì khác, thế thì tên riêng của bạn sẽ giúp ích. Có nhiều trường hợp được ghi lại... Một nhà huyền bí rất nổi tiếng, Bukkh, đã dùng tên riêng của ông ấy, vì ông ấy nói, "Tôi không tin vào bất kì Thượng đế nào. Tôi không biết về ngài, tôi không biết tên ngài là gì. Có nhiều cái tên, nhưng không có bằng chứng nào rằng chúng là tên của ngài. Và tôi đang đi tìm bản thân tôi, cho nên sao không dùng tên riêng của tôi?" Thế là ông ấy dùng tên riêng của mình, và chỉ bằng việc dùng tên riêng của mình ông ấy rơi vào trong im lặng.
Nếu bạn không có bất kì tình yêu nào với bất kì cái gì khác, dùng tên riêng của bạn đi. Nhưng điều đó là rất khó vì bạn có tính kết án về bản thân bạn tới mức bạn không có bất kì tình cảm nào, bạn không có bất kì kính trọng nào hướng tới bản thân bạn. Người khác có thể kính trọng hướng tới bạn, nhưng bạn không kính trọng hướng tới bản thân bạn.
Cho nên điều đầu tiên là tìm ra bất kì âm thanh nào mà sẽ giúp ích: chẳng hạn, tên người yêu của bạn, tên người được bạn yêu. Nếu bạn yêu hoa, thế thì “hoa hồng” sẽ có tác dụng, bất kì cái gì - bất kì âm thanh nào bạn cảm thấy thoải mái khi dùng, khi thốt ra, khi lắng nghe, mà từ đó bạn cảm thấy sự phấn chấn nào đó tới với bạn. Nếu bạn không thể tìm được âm thanh nào, thế thì có vài gợi ý từ các nguồn truyền thống. "Aum" có thể được dùng, "Amen" có thể được dùng, "Maria" có thể được dùng, "Ram" có thể được dùng, hay tên của Phật, hay tên của Mahavir, hay bất kì cái tên nào bạn cảm thấy yêu mến. Nhưng tình cảm phải có đó. Đó là lí do tại sao tên của Thầy có thể giúp ích, nếu bạn có tình cảm. Nhưng tình cảm là điều bản chất!
Niệm một âm một cách rõ ràng, thế rồi ngày càng ít rõ ràng khi cảm thấy sâu hơn trong hài hoà im lặng này. Và liên tục giảm âm thanh này đi. Niệm mỗi lúc một chậm hơn, mỗi lúc một ít rõ ràng hơn để cho ngay bạn cũng phải làm nỗ lực để nghe nó bên trong. Liên tục bỏ, liên tục bỏ, và bạn sẽ cảm thấy thay đổi. Âm thanh càng bị bỏ đi, bạn sẽ càng được chất đầy với tình cảm. Khi âm thanh biến mất, chỉ tình cảm còn lại. Tình cảm này không thể được đặt tên. Nó là tình yêu, tình yêu sâu sắc, nhưng không hướng tới bất kì người nào - đây là sự khác biệt.
Khi bạn dùng một âm thanh hay một lời, tình yêu được gắn với cái nhãn. Bạn nói, "Ram, Ram, Ram..." Bạn có tình cảm sâu sắc với lời này nhưng tình cảm được gửi tới "Ram," bị làm hẹp lại tới "Ram." Khi bạn liên tục thu nhỏ "Ram," một khoảnh khắc sẽ tới khi "Ram" biến mất, âm thanh này biến mất. Bây giờ chỉ tình cảm này còn lại, tình cảm về yêu - không hướng tới Ram, nó bây giờ không có địa chỉ. Đơn giản có tình cảm về yêu - không hướng tới bất kì người nào, thậm chí không hướng tới đâu; đơn giản có tình cảm yêu, dường như bạn đang trong đại dương yêu.
Khi nó không có địa chỉ, thế thì nó là của tâm. Khi nó có địa chỉ, nó là của đầu. Yêu hướng tới ai đó là qua cái đầu; yêu đơn giản là của tâm. Và khi yêu là đơn giản, không địa chỉ, nó trở thành lời cầu nguyện. Nếu nó có địa chỉ, nó chưa là lời cầu nguyện; bạn chỉ đang trên đường. Đó là lí do tại sao tôi nói nếu bạn là người Ki tô giáo bạn không thể bắt đầu như người Hindu, bạn phải bắt đầu như người Ki tô giáo. Nếu bạn là người Mô ha mét giáo bạn không thể bắt đầu như người Ki tô giáo, bạn phải bắt đầu như người Mô ha mét giáo. Nhưng bạn càng đi sâu hơn, bạn sẽ càng ít là người Mô ha mét giáo hay Ki tô giáo hay Hindu.
Chỉ chỗ bắt đầu sẽ là người Hindu, người Mô ha mét giáp hay người Ki tô giáo. Bạn càng tiến tới tâm nhiều, khi âm thanh này sẽ ngày càng ít hơn và tình cảm sẽ ngày càng nhiều hơn, bạn sẽ càng ít là người Hindu, ít là người Mô ha mét giáo. Khi âm thanh biến mất, bạn sẽ đơn giản là con người - không Hindu, không Mô ha mét giáo, không Ki tô giáo.
Điều đó giống như khác biệt giữa các 'giáo phái' và 'tôn giáo'. Tôn giáo là một, giáo phái là nhiều. Giáo phái giúp bạn bắt đầu. Nếu bạn nghĩ rằng chúng là chỗ cuối, thế thì bạn bị kết thúc. Chúng chỉ là bắt đầu. Bạn phải bỏ chúng và đi ra ngoài, vì cái bắt đầu không phải là cái kết thúc. Đến kết thúc có tôn giáo; lúc bắt đầu chỉ có giáo phái. Dùng giáo phái để đi tới tôn giáo; dùng cái bị giới hạn để đi tới cái vô giới hạn; dùng cái hữu hạn để đi tới cái vô hạn.
Bất kì âm thanh nào cũng sẽ có tác dụng. Tìm ra âm thanh riêng của bạn đi. Và khi bạn niệm nó, bạn sẽ cảm thấy liệu bạn có mối quan hệ tình cảm với nó hay không, vì tâm sẽ bắt đầu rung động. Toàn thân bạn sẽ bắt đầu nhạy cảm hơn. Bạn sẽ cảm thấy dường như bạn rơi vào cái gì đó ấm áp, hệt như lòng người yêu của bạn; cái gì đó ấm áp bao bọc bạn. Và đây là tình cảm vật lí nữa, không chỉ đơn giản là tình cảm tinh thần. Nếu bạn niệm âm nào đó mà bạn yêu thích, bạn sẽ cảm thấy hơi ấm nào đó bao quanh bạn, bên trong bạn. Thế thì thế giới không phải là thế giới lạnh lẽo, nó là ấm áp.
Nếu bạn đã vào một ngôi đền Hindu, thế thì bạn phải đã nghe nói tới garbhagriha - nhà bụng mẹ. Trung tâm bên trong nhất của ngôi đền được biết là garbha - bụng mẹ. Bạn không cần quan sát tại sao nó được gọi là bụng mẹ. Nếu bạn niệm âm thanh của đền này - và mọi đền đều có âm thanh riêng của nó, mật chú riêng của nó, ishta devata riêng của nó, vị thần riêng của nó, và mật chú liên quan của vị thần này - nếu bạn niệm âm thanh đó, cùng hơi ấm đó có đó, như có trong bụng mẹ của người mẹ, được tạo ra. Đó là lí do tại sao garbha, bụng mẹ của ngôi đền, được tạo ra tương tự như bụng mẹ của người mẹ: hình tròn, gần như đóng kín, chỉ với một lối mở.
Khi người Ki tô giáo tới Ấn Độ lần đầu tiên và khám phá các ngôi đền Hindu, họ cảm thấy rằng những ngôi đền này thực sự là không vệ sinh - không thông gió chút nào, có mỗi một cửa ra vào nhỏ. Nhưng bụng mẹ chỉ có một cửa ra vào và không thông gió chút nào. Đó là lí do tại sao ngôi đền được làm chỉ có một cửa ra vào, cũng giống như bụng mẹ, và nếu bạn niệm âm thanh đó, bụng mẹ đó trở thành sống động. Và nó cũng được gọi là garbha vì bạn có thể có được việc sinh thành mới ở đó, bạn có thể trở thành con người mới.
Nếu bạn niệm một âm thanh mà bạn yêu thích, âm thanh bạn có tình cảm, bạn sẽ tạo ra bụng mẹ âm thanh quanh bạn. Cho nên điều tốt là không thực hành phương pháp này dưới bầu trời mở. Bạn rất yếu, bạn không thể rót đầy toàn thể bầu trời bằng âm thanh của bạn. Tốt hơn cả là chọn một phòng nhỏ, và nếu phòng này nhỏ tới mức nó rung động theo âm thanh của bạn, điều đó là tốt, nó sẽ giúp bạn. Và nếu bạn có thể chọn cùng chỗ đó mọi ngày, điều đó sẽ là rất tốt. Nó trở nên được tích điện. Nếu cùng âm thanh này được lặp lại mọi ngày, mọi nguyên tử, chính không gian này trở thành một môi trường.
Đó là lí do tại sao những người đi theo của các tôn giáo khác không được phép ở trong đền. Ở Mecca, không người nào có thể vào nếu người đó không là người Mô ha mét giáo, và điều này là tốt. Không cái gì sai trong nó, chính bởi vì Mecca thuộc vào một khoa học đặc biệt. Người không là người Mô ha mét giáo tới đó với âm thanh sẽ quấy rối toàn thể môi trường này. Nếu người Mô ha mét giáo không được phép vào đền thời Hindu, không có xúc phạm trong điều đó. Và mọi nhà cải cách xã hội đó, những người không biết gì về những ngôi đền, tôn giáo và khoa học bí truyền, họ liên tục cho những khẩu hiệu, những khẩu hiệu vô nghĩa, và họ khuấy đảo mọi thứ.
Ngôi đền Hindu dành cho người Hindu vì đền Hindu là một chỗ đặc biệt - chỗ được tạo ra. Trong hàng nghìn năm họ đã từng làm việc trên nó để làm cho nó sống động, và bất kì người nào cũng có thể quấy rối nó. Việc quấy rối đó là rất nguy hiểm. Ngôi đền không phải là chỗ công cộng. Nó được dành cho chủ định đặc biệt và cho những người đặc biệt; nó không dành cho khách thăm. Đó là lí do tại sao khách thăm không được phép vào trong thời xưa. Ngày nay họ được phép vì chúng ta không biết chúng ta đang làm gì. Khách thăm không nên được phép. Nó không phải là chỗ để xem, để tới vãng cảnh. Nó là không gian được tạo ra với rung động đặc biệt.
Nếu đó là ngôi đền Ram và bạn đã được sinh trong một gia đình nơi cái tên Ram đã là linh thiêng, yêu mến, thế thì khi bạn đi vào một không gian sống động mà bao giờ cũng được rót đầy bằng cái tên Ram, cho dù bạn không muốn niệm, cho dù bạn không dùng mật chú Ram, bạn sẽ bắt đầu niệm. Không gian khắp xung quanh bạn sẽ thúc ép bạn. Những rung động đó ở khắp xung quanh sẽ đập vào bạn, và bạn sẽ bắt đầu tụng từ sâu bên dưới. Cho nên dùng một chỗ - ngôi đền là tốt.
Những phương pháp này là phương pháp ngôi đền. Ngôi đền là tốt, hay nhà thờ hồi giáo, hay nhà thờ đều được. Nhà riêng của bạn là không tốt cho những phương pháp này, vì bạn có nhiều âm thanh thế trong không gian hỗn độn quanh bạn, và bạn không mạnh tới mức chỉ bằng âm thanh của bạn mà bạn có thể làm thay đổi được không gian. Cho nên tốt hơn cả là đi tới chỗ nào đó thuộc vào âm thanh nào đó, và thế rồi dùng nó. Điều tốt là đi tới cùng một chỗ mọi ngày.
Dần dần bạn sẽ trở nên mạnh mẽ. Dần dần bạn sẽ rớt từ tâm trí xuống tới tâm. Thế thì bạn có thể làm phương pháp này và toàn thể vũ trụ trở thành ngôi đền của bạn. Thế thì không có vấn đề gì. Nhưng lúc bắt đầu điều tốt là chọn nơi chốn, và nếu bạn thậm chí có thể chọn thời gian, đích xác cùng thời gian mọi ngày, điều đó là tốt vì thế thì ngôi đền đợi bạn. Vào đích xác thời gian, ngôi đền chờ đợi bạn. Nó nhiều đón nhận hơn; nó vui mừng rằng bạn đã tới. Và tôi ngụ ý về mặt vật lí; Đây không phải là thứ biểu tượng, mà là thứ vật lí.
Cũng giống như bạn ăn bữa ăn hàng ngày vào một giờ đặc biệt. Vào giờ đặc biệt đó toàn thân bạn cảm thấy đói. Thân thể có đồng hồ bên trong riêng của nó, nó cảm thấy đói đích xác vào thời gian đó. Nếu bạn đi ngủ mọi ngày vào một giờ đặc biệt, toàn thân bạn sẽ sẵn sàng vào thời kì đó. Nếu bạn thay đổi mọi ngày thời gian cho việc ngủ của bạn và thời gian cho việc ăn của bạn, bạn đang làm rối loạn thân thể bạn.
Bây giờ họ nói tuổi của bạn sẽ bị ảnh hưởng bởi điều đó. Nếu bạn liên tục thay đổi hàng ngày thường lệ thân thể của bạn, thế thì đáng ra bạn sẽ sống tám mươi năm, bạn sẽ sống chỉ bẩy mươi năm thôi. Mười năm sẽ bị mất. Và nếu bạn đều đặn đi theo đồng hồ thân thể của bạn, thế thì đáng ra bạn sẽ sống tám mươi năm, bạn sẽ sống chín mươi năm rất dễ dàng. Mười năm có thể được thêm vào.
Đích xác giống điều này, mọi thứ quanh bạn đều có đồng hồ riêng của nó, và thế giới chuyển vận theo thời gian vũ trụ. Nếu bạn đi vào đền vào đích xác cùng giờ mọi ngày, đền sẵn sàng cho bạn và bạn sẵn sàng cho đền. Hai sự sẵn sàng này gặp gỡ, và kết quả được khuếch đại lên nghìn lần.
Hay bạn có thể tạo ra một góc nhỏ trong nhà bạn. Nhưng thế thì đừng dùng góc đó cho bất kì mục đích nào khác, vì mọi mục đích đều có rung động riêng của nó. Nếu bạn dùng góc đó cho mục đích kinh doanh hay bạn chơi bài ở đó, không gian đó trở nên bị trộn lẫn. Và bây giờ những lẫn lộn này thậm chí có thể được ghi lại trên thiết bị cơ khí; nó có thể được biết tới liệu không gian này có bị trộn lẫn không.
Nếu bạn có thể tạo ra một góc trong nhà bạn, một ngôi đền nhỏ, điều đó là rất tốt. Nếu bạn có thể đảm đương có một ngôi đền nhỏ, đó là điều đầu tiên cần được thử. Nhưng đừng dùng nó cho bất kì mục đích nào khác. Để nó tuyệt đối riêng tư cho bạn, và kết quả sẽ tới rất sớm.
Kĩ thuật âm thanh thứ bẩy:
Với mồm hơi mở, giữ tâm trí ở giữa lưỡi. Hay, khi hơi thở đi vào một cách im lặng, cảm thấy âm thanh "HH".
Tâm trí có thể được hội tụ vào bất kì chỗ nào trong thân thể. Bình thường, chúng ta đã hội tụ nó vào trong đầu, nhưng nó có thể được hội tụ vào bất kì chỗ nào. Và với thay đổi về hội tụ, phẩm chất của bạn thay đổi. Chẳng hạn, ở nhiều nước phương Đông - Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc - về truyền thống người ta được dạy rằng tâm trí là ở trong bụng, không trong đầu. Và bởi vì điều này, những người nghĩ rằng tâm trí ở trong bụng có phầm chất khác cho tâm trí. Bạn không thể có được những phẩm chất đó vì bạn nghĩ tâm trí ở trong đầu.
Thực sự, tâm trí không ở đâu cả. Não ở trong đầu; tâm trí không ở đó. "Tâm trí" ngụ ý sự hội tụ của bạn. Bạn có thể hội tụ nó vào bất kì chỗ nào, và một khi được hội tụ rất khó loại bỏ nó khỏi điểm đó.
Chẳng hạn, bây giờ các nhà tâm lí và công nhân đang làm việc trong nghiên cứu con người chiều sâu nói rằng khi bạn đang làm tình tâm trí của bạn phải di chuyển từ đầu tới khu vực sinh dục; bằng không dục của bạn sẽ là sự thất vọng. Nếu nó vẫn còn trong đầu, bạn không thể đi sâu vào trong dục. Không cực thích nào sẽ xảy ra, kinh nghiệm này sẽ không là cực thích. Nó sẽ không cho bạn đỉnh. Bạn có thể tạo ra con cái, nhưng bạn sẽ không biết đỉnh cao nhất của yêu là gì.
Bạn đã không biết điều Mật Tông nói hay Khajuraho mô tả, bạn không thể biết. Bạn đã bao giờ thấy Khajuraho chưa? Hay nếu bạn đã không thấy Khajuraho, bạn có thể đã thấy ảnh ngôi đền Khajuraho. Thế rồi nhìn vào mặt, vào các đôi đang làm tình. Nhìn vào mặt, mặt có vẻ thiêng liêng. Họ đang trong hành động dục, nhưng mặt là cực lạc như mặt của bất kì phật nào. Cái gì đang xảy ra cho họ? Dục này không có tính chất não. Họ không làm tình qua đầu; họ không nghĩ về nó. Họ đã tụt xuống từ đầu. Việc hội tụ của họ đã thay đổi.
Vì việc tụt xuống từ đầu này, ý thức đã chuyển tới khu vực sinh dục. Tâm trí không còn nữa. Tâm trí đã trở thành vô trí. Mặt họ có cùng cực lạc như phật có. Dục này đã trở thành thiền. Tại sao? Vì sự hội tụ đã thay đổi. Nếu một lần bạn có thể thay đổi sự hội tụ của tâm trí của bạn, nếu bạn có thể loại nó ra khỏi đầu, đầu được thảnh thơi, mặt được thảnh thơi. Thế thì mọi căng thẳng đã tan biến. Bạn không có đó, bản ngã không có đó.
Đó là lí do tại sao tâm trí càng trở nên trí thức, hợp lí, nó càng ít có khả năng trở thành yêu, vì yêu cần việc hội tụ khác. Trong yêu bạn cần việc hội tụ gần tâm; trong dục bạn cần việc hội tụ gần trung tâm dục. Nếu bạn đang làm toán, cái đầu là được. Nhưng yêu không phải là toán và dục tuyệt đối không. Và nếu toán tiếp tục trong đầu và bạn đang làm tình, bạn đơn giản làm phí hoài năng lượng. Thế thì toàn thể nỗ lực này sẽ thành chán ghét.
Nhưng tâm trí có thể được thay đổi. Mật Tông nói có bẩy trung tâm, và tâm trí có thể được thay đổi sang bất kì trung tâm nào. Từng trung tâm đều có vận hành khác nhau. Nếu bạn tập trung vào một trung tâm đặc biệt, bạn trở thành một người khác.
Ở Nhật Bản đã có một nhóm quân sự, mà giống như kshatriyas ở Ấn Độ, được biết tới là samurai. Họ được huấn luyện để là người lính, và việc huấn luyện đầu tiên của họ là để đem tâm trí xuống chỉ ba phân dưới rốn. Ở Nhật Bản trung tâm này được gọi là hara - đan điền. Người samurai được huấn luyện để đem tâm trí xuống hara. Chừng nào người lính còn chưa thể mang việc hội tụ của tâm trí mình xuống hara, người đó không được phép đi chiến đấu, và điều này là đúng. Người samurai là những chiến sĩ vĩ đại nhất mà thế giới đã từng biết tới, những chiến binh vĩ đại nhất; trên thế giới không có so sánh nào với người samurai. Người đó là người khác, sinh linh khác, vì việc hội tụ của người đó là khác.
Họ nói rằng khi bạn chiến đấu không có thời gian. Tâm trí cần thời gian để vận hành; nó tính toán. Nếu bạn bị tấn công và tâm trí bạn nghĩ về cách bảo vệ, bạn đã bỏ lỡ vấn đề, bạn đã thua. Không có thời gian. Bạn phải hoạt động vô thời gian và tâm trí không thể vận hành theo vô thời gian được, tâm trí cần thời gian. Dù ngắn thế nào, tâm trí cần thời gian.
Dưới rốn có một trung tâm, hara - đan điền, cái hoạt động vô thời gian. Nếu việc hội tụ là ở hara và chiến sĩ đang chiến đấu, thế thì việc chiến đấu này có tính trực giác, không trí tuệ. Trước khi bạn tấn công người đó, người đó biết. Đó là cảm giác tinh tế trong hara, không trong đầu. Nó không phải là suy diễn, nó là viễn cảm siêu linh. Trước khi bạn tấn công người đó, trước khi bạn nghĩ về tấn công người đó, ý nghĩ này đã tới người đó. Hara của người đó bị đập vào và người đó sẵn sàng bảo vệ bản thân mình. Ngay cả trước khi bạn tấn công, người đó ở trong phòng thủ rồi, người đó đã tự bảo vệ mình.
Đôi khi, nếu hai người đang đánh nhau và cả hai đều là samurai, đánh bại người kia là vấn đề. Không người nào có thể đánh bại được người kia; đó là vấn đề. Không người nào có thể được tuyên bố là người thắng. Theo một cách nào đó điều đó là không thể được vì bạn không thể tấn công người này - trước khi bạn tấn công, người đó biết.
Đã có một nhà toán học Ấn Độ... Toàn thế giới kinh ngạc vì ông ấy không tính toán. Ramanujam là tên của ông ấy. Bạn đưa cho ông ấy bài toán và ông ấy sẽ cho bạn lời giải ngay lập tức. Một trong những nhà toán học Anh giỏi nhất, Hardy, tới thăm Ramanujam. Hardy là một trong những nhà toán học giỏi nhất đã từng được sinh ra, và ông ấy phải làm với một vấn đề đặc biệt trong sáu giờ. Nhưng Ramanujam đã được cho cùng vấn đề đó và ông ấy đã trả lời ngay lập tức. Không có khả năng nào cho tâm trí làm việc theo cách đó, vì tâm trí cần thời gian.
Ramanujam được hỏi đi hỏi lại mãi, "Làm sao ông làm được nó?" Ông ấy nói, "Tôi chẳng biết. Ông cho tôi vấn đề, và câu trả lời tới với tôi. Nó tới từ đâu đó bên dưới. Nó không từ đầu tôi." Nó đã tới từ hara. Ông ấy đã không nhận biết, ông ấy đã không được huấn luyện, nhưng đây là cảm giác của tôi: ông ấy phải đã là người Nhật Bản trong lần sinh trước vì ở Ấn Độ chúng ta đã không làm việc mấy trên hara.
Mật Tông nói, hội tụ tâm trí của ông vào các trung tâm khác nhau và kết quả sẽ là khác nhau. Kĩ thuật này liên quan tới việc hội tụ vào lưỡi, vào giữa lưỡi. Với mồm hơi mở - dường như bạn sắp nói. Không ngậm, nhưng hơi mở dường như bạn sắp nói; không giống khi bạn nói, nhưng giống khi bạn sắp nói.
Thế rồi giữ cho tâm trí ở giữa lưỡi. Bạn sẽ có cảm giác rất lạ, vì lưỡi có trung tâm ngay ở giữa mà kiểm soát ý nghĩ của bạn. Nếu bạn đột nhiên trở nên nhận biết và bạn hội tụ vào đó, ý nghĩ của bạn sẽ dừng lại. Hội tụ dường như toàn thể tâm trí bạn đã đi tới lưỡi - ở ngay giữa. Để cho mồm hơi mở dường như bạn sắp nói, và thế rồi hội tụ tâm trí dường như nó không ở trong đầu. Cảm thấy nó dường như nó ở trên lưỡi, ở ngay chính giữa.
Lưỡi có trung tâm nói, và ý nghĩ là nói. Bạn làm gì khi bạn nghĩ? Nói bên trong. Bạn có thể nghĩ bất kì cái gì mà không nói bên trong không? Bạn một mình; bạn không nói với bất kì người nào, bạn đang nghĩ. Bạn làm gì khi bạn nghĩ? Nói bên trong, nói cho bản thân bạn. Lưỡi bạn được tham gia. Lần sau, khi bạn nghĩ, nhận biết đi: cảm lưỡi của bạn đi. Nó đang rung động dường như bạn đang nói với ai đó khác. Thế rồi cảm nó lần nữa đi, và bạn có thể cảm thấy rằng các rung động đang được định tâm ở giữa. Chúng nảy sinh từ giữa và thế rồi chúng lan ra khắp lưỡi.
Suy nghĩ là nói bên trong. Nếu bạn có thể mang toàn bộ ý thức của bạn, tâm trí của bạn, tới trung tâm của lưỡi, suy nghĩ dừng lại. Cho nên những người đã từng thực hành im lặng, họ đơn giản thực hành không nói. Nếu bạn dừng nói bên ngoài, thế thì bạn sẽ trở nên nhận biết rất sâu về việc nói bên trong. Và nếu bạn vẫn còn hoàn toàn im lặng trong một tháng hay nhiều tháng hay một năm, không nói, bạn sẽ cảm thấy lưỡi của bạn rung động một cách mãnh liệt. Bạn không cảm thấy điều đó vì bạn liên tục nói và các rung động được xả ra. Nhưng ngay cả bây giờ, nếu bạn dừng lại và trở nên có ý thức trong khi nghĩ, bạn sẽ cảm thấy lưỡi của bạn rung động tí chút. Dừng lưỡi lại hoàn toàn và thế rồi thử nghĩ mà xem - bạn không thể nghĩ được. Dừng lưỡi lại hoàn toàn dường như nó bị đông cứng; không cho phép nó chuyển động. Thế thì bạn không thể nghĩ được.
Trung tâm ở ngay chính giữa, cho nên đem tâm trí của bạn tới đó. Với mồm hơi mở, giữ tâm trí ở giữa lưỡi. Hay, khi hơi thở đi vào một cách im lặng, cảm thấy âm thanh "HH".
Đây là kĩ thuật thứ hai. Nó cũng tương tự: Hay, khi hơi thở đi vào một cách im lặng, cảm thấy âm thanh "HH".
Với kĩ thuật thứ nhất suy nghĩ của bạn sẽ dừng lại, bạn sẽ cảm thấy sự vững chắc bên trong - dường như bạn đã trở thành rắn chắc. Khi ý nghĩ không có đó bạn trở thành bất động; ý nghĩ là sự chuyển động bên trong. Và khi các ý nghĩ không có đó và bạn đã trở thành bất động, bạn đã trở thành một phần của điều vĩnh hằng, điều chỉ dường như chuyển động nhưng lại là bất động, vẫn còn không chuyển động.
Trong vô ý nghĩ bạn trở thành một phần của cái vĩnh hằng, cái bất động. Có ý nghĩ bạn là một phần của chuyển động, vì tự nhiên là chuyển động. Thế giới là chuyển động, đó là lí do tại sao chúng ta đã gọi nó là sansar, bánh xe - nó chuyển động và chuyển động và chuyển động. Thế giới là chuyển động và cái ẩn kín, cái tối thượng, là bất động, không chuyển động, không thể chuyển động.
Điều đó cũng giống như chiếc bánh xe đang chuyển động, nhưng bánh xe đang chuyển động trên cái gì đó mà không bao giờ chuyển động. Bánh xe có thể chuyển động được chỉ bởi vì ở trung tâm có cái gì đó mà không bao giờ chuyển động, cái vẫn còn bất động. Thế giới chuyển động và cái siêu việt vẫn còn bất động. Nếu ý nghĩ của bạn dừng lại, đột nhiên bạn rơi từ thế giới này sang thế giới khác. Với chuyển động dừng lại bên trong, bạn trở thành một phần của cái vĩnh hằng - cái không bao giờ thay đổi.
Hay, khi hơi thở đi vào một cách im lặng, cảm thấy âm thanh "HH". Hơi mở mồm ra, dường như bạn sắp nói. Thế rồi hít vào, và nhận biết về âm thanh được tạo ra bởi việc hít vào. Nó chỉ là "HH" - dù bạn thở ra hay hít vào. Bạn không làm ra âm thanh này, bạn chỉ cảm thấy hơi thở đi vào trên lưỡi bạn. Nó rất im lặng. Bạn sẽ cảm thấy "HH." Nó sẽ rất im lặng, hơi nghe thấy được. Bạn phải rất tỉnh táo để nhận biết về nó. Nhưng đừng cố tạo ra nó. Nếu bạn tạo ra nó, bạn đã bỏ lỡ vấn đề. Âm thanh được tạo ra của bạn sẽ không giúp gì, nó phải là âm thanh tự nhiên xảy ra khi bạn hít vào hay thở ra.
Nhưng kĩ thuật này nói khi hít vào, không thở ra - vì trong khi thở ra bạn sẽ đi ra, và với âm thanh này bạn sẽ đi ra, trong khi nỗ lực là đi vào. Cho nên trong khi hít vào, nghe âm thanh "HH." Liên tục hít vào và liên tục cảm thấy âm thanh "HH." Sớm hay muộn bạn sẽ cảm thấy rằng âm thanh này không chỉ được tạo ra ở lưỡi, nó được tạo ra trong họng nữa. Nhưng thế thì nó rất, rất không nghe được. Với tỉnh táo rất sâu bạn có thể trở nên nhận biết về nó.
Bắt đầu từ lưỡi đi, thế rồi dần dần tỉnh táo; liên tục cảm thấy nó. Bạn sẽ nghe thấy nó trong họng, thế rồi bạn sẽ bắt đầu nghe thấy nó trong tâm. Và khi nó tới tâm, bạn đã đi ra ngoài tâm trí. Mọi kĩ thuật này chỉ để cho bạn chiếc cầu từ nơi bạn có thể di chuyển tới từ ý nghĩ sang vô ý nghĩ, từ tâm trí sang vô trí, từ bề mặt tới trung tâm.
Kĩ thuật âm thanh thứ tám:
Định tâm vào âm thanh "Aum" mà không có bất kì "a" hay "m" nào.
Định tâm vào âm thanh "Aum" mà không có bất kì "A" hay "M" nào. Chỉ "U" còn lại. Đây là kĩ thuật khó, nhưng với một số người nó có thể là phù hợp, đặc biệt với những người làm việc với âm thanh: nhạc sĩ, nhà thơ, những người có tai rất nhạy cảm, với họ kĩ thuật này có thể giúp ích. Với người khác, những người không có tai nhạy cảm, điều này là rất khó vì nó rất tinh tế.
Bạn phải niệm Aum, và bạn phải cảm thấy trong Aum này có ba âm một cách tách biệt: A-U-M. Niệm Aum, và trong âm thanh này bạn phải cảm thấy ba âm - A-U-M. Chúng có đó, quyện lẫn với nhau. Cái tai rất tinh tế có thể nhận biết, có thể nghe thấy A-U-M một cách tách rời trong khi niệm. Chúng là tách rời - rất gần, nhưng tách rời. Nếu bạn không thể nghe thấy chúng một cách tách rời, thế thì kĩ thuật này không thể được làm. Tai bạn sẽ phải được huấn luyện về điều đó.
Ở Nhật Bản, đặc biệt trong Thiền, họ huấn luyện tai trước hết. Họ có phương pháp huấn luyện tai. Gió đang thổi bên ngoài - nó có âm thanh. Thầy sẽ nói, "Tập trung vào nó. Cảm thấy mọi sắc thái, những thay đổi: khi âm thanh này là giận dữ, khi âm thanh này là bực bội, khi âm thanh này là từ bi, khi âm thanh này là yêu thương, khi âm thanh này là mạnh, khi âm thanh này là tinh tế. Cảm thấy các sắc thái của âm thanh này. Gió đang thổi qua cây - cảm thấy nó đi. Sông đang chảy - cảm thấy sắc thái."
Trong nhiều tháng liền người tìm kiếm, thiền nhân, sẽ ngồi bên cạnh bờ sông, lắng nghe nó. Nó có những âm thanh khác nhau. Mọi thứ đang thay đổi. Trong mưa sông sẽ bị ngập nước; nó sẽ sống động rất nhiều, tràn ngập. Âm thanh sẽ khác. Trong hè nó sẽ bị co lại thành không cái gì, âm thanh sẽ ngừng. Nhưng sẽ có những âm thanh không nghe thấy được nếu người ta đang lắng nghe, nếu bạn lắng nghe. Suốt cả năm tròn sông sẽ thay đổi, và người ta phải nhận biết.
Trong cuốn Siddhartha của Hermann Hesse, Siddhartha sống cùng một người chèo thuyền. Và không có người nào, chỉ có dòng sông, người chèo thuyền và Siddhartha. Và người chèo thuyền là một người rất im lặng. Ông ấy đã sống cả đời mình cùng dòng sông. Ông ấy đã trở nên im lặng, hiếm khi ông ấy nói. Bất kì khi nào Siddhartha cảm thấy đơn độc, ông ấy bảo Siddhartha đi ra sông, lắng nghe sông. Điều đó là tốt hơn lắng nghe lời con người.
Và thế rồi dần dần, Siddhartha được hoà điệu với sông. Thế rồi ông ấy bắt đầu cảm thấy các tâm trạng của nó - sông đổi tâm trạng. Lúc thì nó bạn bè và lúc thì nó không, và lúc thì nó hát và lúc thì nó khóc và than, và lúc thì có tiếng cười và lúc thì có buồn bã. Và thế rồi ông ấy bắt đầu cảm thấy những khác biệt tinh tế, hơi chút xíu. Tai ông ấy trở nên được hoà điệu.
Cho nên lúc ban đầu bạn có thể cảm thấy điều đó là khó, nhưng cứ thử đi. Niệm Aum, liên tục niệm nó, cảm thấy A-U-M. Ba âm thanh được tổ hợp với nhau trong nó: Aum là việc tổng hợp của ba âm thanh này. Một khi bạn bắt đầu cảm thấy chúng khác biệt, thế thì bỏ "A" và "M". Thế thì bạn không thể nói Aum: "A" sẽ bị bỏ đi, "M" sẽ bị bỏ đi. Thế thì "U" sẽ còn lại. Tại sao? Cái gì sẽ xảy ra? Điều thực không phải là mật chú này. Nó không phải là A-U-M hay việc bỏ. Điều thực là tính nhạy cảm của bạn.
Đầu tiên bạn trở nên nhạy cảm với ba âm này, điều là rất khó. Và khi bạn trở nên nhạy cảm tới mức bạn có thể bỏ "A" và "M" và chỉ âm giữa còn lại, trong nỗ lực này bạn sẽ đánh mất tâm trí của bạn. Bạn sẽ mê mải trong nó, chăm chú vào nó, nhạy cảm với nó tới mức bạn sẽ quên nghĩ. Và nếu bạn nghĩ, bạn không thể làm được điều này.
Đây chỉ là cách gián tiếp để đem bạn ra khỏi cái đầu của bạn. Cho nên nhiều cách thức đã được thử, và chúng có vẻ rất đơn giản. Bạn tự hỏi, "Cái gì có thể xảy ra? Không cái gì sẽ xảy ra bởi các phương pháp đơn giản thế." Nhưng phép màu xảy ra, vì nó chỉ là gián tiếp. Tâm trí bạn bị hội tụ vào cái gì đó rất tinh tế. Nếu bạn hội tụ, bạn không thể liên tục nghĩ; tâm trí sẽ rơi rụng đi. Đột nhiên một ngày nào đó bạn sẽ trở nên nhận biết, và bạn sẽ ngạc nhiên điều đã xảy ra.
Trong Thiền họ dùng công án. Một trong những công án nổi tiếng họ nói cho người mới bắt đầu là, "Đi và thử nghe tiếng vỗ tay của một bàn tay. Ông có thể tạo ra âm thanh bằng hai bàn tay. Nếu một bàn tay có thể tạo ra âm thanh, nghe nó đi."
Một cậu bé đã theo hầu một Thiền sư. Nó thấy nhiều người tới. Họ tới thầy, cúi đầu dưới chân thầy, và thế rồi họ xin thầy nói cho họ cái gì đó để thiền. Thầy cho họ công án. Cậu bé đang làm việc nào đó cho thầy, cậu ta đang hầu thầy. Cậu ta mới chín hay mười tuổi.
Thấy mọi ngày nhiều người tới và đi, một hôm cậu ta cũng tới một cách rất nghiêm chỉnh, cúi đầu dưới chân thầy, và thế rồi xin thầy, "Xin thầy cho con công án nào đó, vật nào đó để thiền." Thầy cười, nhưng cậu bé rất nghiêm chỉnh, cho nên thầy nói, "Được! Thử nghe tiếng vỗ tay của một bàn tay. Và khi con đã nghe thấy nó, thế thì tới ta và kể cho ta."
Cậu bé thử và thử. Nó không thể ngủ được cả đêm. Đến sáng nó tới và nó nói, "Con đã nghe thấy. Nó là tiếng gió thổi qua cây." Thầy nói, "Nhưng bàn tay tham gia vào trong nó ở đâu? Đi và thử lại đi." Thế là cậu bé mọi ngày đều tới. Cậu sẽ thấy âm thanh nào đó và thế rồi cậu ta tới, và thầy nói, "Cái này cũng không là nó. Tiếp tục thử đi, tiếp tục thử đi!"
Thế rồi một hôm cậu bé không tới. Thầy đợi và đợi, và thế rồi thầy bảo các đệ tử khác đi và tìm xem cái gì đã xảy ra - dường như cậu bé đã nghe thấy. Thế là họ đi tìm quanh. Cậu bé đang ngồi dưới cây, bị cuốn hút - chỉ là một phật mới sinh. Họ quay lại và họ nói, "Nhưng chúng tôi sợ quấy rối cậu bé. Nó có vẻ như một vị phật mới sinh. Dường như nó đã nghe thấy âm thanh này." Thế là thầy đến, cúi đầu dưới chân cậu bé và hỏi cậu bé, "Con có nghe thấy không? Dường như con đã nghe thấy." Cậu bé nói, "Dạ có, nhưng nó là sự vô âm."
Cậu bé này đã phát triển thế nào? Sự nhạy cảm của cậu bé đã phát triển. Nó đã thử mọi âm thanh, nó đã nghe một cách chăm chú. Chăm chú đã phát triển. Nó chắc không ngủ. Cả đêm nó sẽ lắng nghe tiếng vỗ tay của một bàn tay là gì. Nó không trí tuệ thế như các bạn, cho nên nó không bao giờ nghĩ rằng không thể có bất kì âm thanh nào từ một bàn tay. Nếu công án này được trao cho bạn, bạn sẽ không thử. Bạn sẽ nói ngay, "Vô nghĩa làm sao! Không thể có bất kì âm thanh nào bởi một bàn tay."
Nhưng cậu bé đã thử. Thầy đã nói phải có cái gì đó trong nó, cho nên cậu bé đã thử. Nó là một cậu bé đơn giản, cho nên bất kì khi nào nó nghe thấy cái gì đó, bất kì khi nào nó cảm thấy đây là cái gì đó mới, nó sẽ lại tới. Nhưng bởi quá trình này tính nhạy cảm của nó đã phát triển. Nó trở nên chăm chú, tỉnh táo, nhận biết. Nó trở thành được tập trung vào một điểm. Nó đã trong tìm kiếm, và tâm trí rơi đi vì thầy đã nói, "Nếu con liên tục suy nghĩ con có thể bỏ lỡ. Đôi khi có âm thành từ một bàn tay đấy. Thật tỉnh táo tới mức con không bỏ lỡ nó."
Nó đã thử và thử. Không có âm thanh nào của một bàn tay, nhưng đó chỉ là phương pháp gián tiếp để tạo ra tính nhạy cảm, nhận biết. Rồi một hôm, đột nhiên, mọi thứ biến mất. Nó đã chăm chú tới mức chỉ chăm chú có đó, nhạy cảm tới mức chỉ tính nhạy cảm có đó, nhận biết thế - không nhận biết về cái gì đó, nhưng đơn giản nhận biết! Và thế rồi nó nói, "Con đã nghe thấy nó, nhưng nó là sự vô âm. Nó là vô âm!" Nhưng bạn phải được huấn luyện để có tính chăm chú, có tỉnh táo.
Đây chính là phương pháp làm cho bạn nhận biết rất tinh tế về sắc thái tinh tế của âm thanh. Làm điều này, bạn sẽ quên Aum. Không chỉ "A" rơi rụng đi, không chỉ "M" sẽ rơi rụng đi, mà một ngày nào đó đột nhiên bạn cũng sẽ rơi rụng đi, và sẽ có vô âm, và bạn sẽ là vị phật mới sinh ngồi dưới cây.

0 Đánh giá

Ads Belove Post