Vigyan Bhairav Mật Tông Tập 2 Chương 31. Từ âm thanh tới im lặng bên trong

Vigyan Bhairav Mật Tông Tập 2 Chương 31. Từ âm thanh tới im lặng bên trong

Price:

Read more

Vigyan Bhairav Mật Tông Tập 2 - Osho
Sách về các Bí mật: Bình luận mới
Chương 31. Từ âm thanh tới im lặng bên trong


21. Im lặng niệm một lời kết thúc trong "ah." Thế rồi trong "hh," một cách vô nỗ lực, tính tự phát.
22. Dừng tai bằng việc ấn và dừng trực tràng bằng việc co, đi vào âm thanh.
23. Đi vào âm thanh của tên ông và, qua âm thanh này, mọi âm thanh.
Mật Tông không phải là triết học. Thay vì thế, nó là khoa học với một khác biệt: khoa học mang tính đối thể, Mật Tông mang tính chủ thể. Nhưng dầu vậy, nó là khoa học và không là triết học. Triết học nghĩ về chân lí, cái không biết, cái tối thượng; khoa học cố gắng khám phá cái đang hiện hữu. Khoa học đi vào cái trước mắt; triết học nghĩ về cái tối thượng. Triết học bao giờ cũng nhìn lên trời; khoa học xuống đất nhiều hơn.
Mật Tông không quan tâm tới điều tối thượng. Nó quan tâm tới cái trước mắt, cái ở đây và bây giờ. Mật Tông nói, cái tối thượng được ẩn kín trong cái sát cạnh, cho nên bạn không cần lo nghĩ về cái tối thượng. Bằng việc lo nghĩ về cái tối thượng bạn sẽ bỏ lỡ cái trước mắt, và cái tối thượng được ẩn kín trong cái trước mắt. Cho nên bằng việc suy nghĩ về cái tối thượng bạn sẽ bỏ lỡ cả hai. Nếu cái trước mắt mà bị bỏ lỡ, vì điều đó bạn sẽ bỏ lỡ điều tối thượng nữa. Cho nên triết học chỉ là khói. Cách tiếp cận của Mật Tông là khoa học, nhưng đối thể là khác với đối thể của cái gọi là khoa học.
Khoa học cố hiểu đối thể, thế giới đối thể, thực tại ở trước mắt bạn. Mật Tông là khoa học của thực tại ở đằng sau mắt bạn, tính chủ thể, nhưng cách tiếp cận là khoa học. Mật Tông không tin vào suy nghĩ, nó tin vào thực nghiệm, vào trải nghiệm. Và chừng nào bạn chưa thể trải nghiệm, mọi thứ chỉ là việc phí hoài năng lượng.
Tôi nhớ về một sự vụ. Mulla Nasruddin đi ngang qua phố. Ngay trước nhà thờ ông ấy bị xe đâm ngã ra, lái xe gây tai nạn rồi bỏ chạy mất. Ông ấy là một ông già, và đám đông tụ tập lại. Ai đó nói rằng "Người kia không thể sống sót được." Linh mục nhà thờ chạy ra. Ông ta tới gần và ông ta thấy rằng ông già này sắp chết, cho nên ông ta chuẩn bị làm nghi lễ cuối cùng. Ông ta tới gần và hỏi Mulla sắp chết, "Ông có tin vào Thượng đế Cha không? Ông có tin vào Thượng đế Con không? Ông có tin vào Thượng đế Thánh thần linh thiêng không?" Mulla mở mắt ra và nói, "Trời đất! Tôi sắp chết và ông ấy đang hỏi thách đố tôi!"
Mọi triết học đều giống điều này: nó đang hỏi câu hỏi thách đố khi bạn sắp chết. Mọi khoảnh khắc bạn đang chết, mọi khoảnh khắc mọi người đều đang trên giường chết của mình - vì chết có thể xuất hiện vào bất kì khoảnh khắc nào. Nhưng triết học liên tục hỏi và trả lời những câu thách đố. Mật Tông nói, triết lí hoá là tốt cho trẻ con nhưng những người trí huệ sẽ không phí thời gian của họ vào triết học. Họ phải cố biết - không nghĩ, vì qua suy nghĩ không có tri thức. Qua suy nghĩ bạn liên tục dệt mạng các lời, tạo ra các hình mẫu lời. Nó không dẫn tới đâu cả, bạn vẫn còn như cũ - không biến đổi, không sáng suốt mới. Con người cũ chỉ liên tục thu thập bụi.
Việc biết là hiện tượng khác. Nó không ngụ ý "nghĩ về," nó ngụ ý đi sâu vào trong bản thân sự tồn tại để biết, chuyển vào trong sự tồn tại. Nhớ điều này, rằng Mật Tông không phải là triết học. Nó là khoa học - khoa học về chủ thể. Cách tiếp cận là khoa học và không triết học. Nó xuống tới đất, liên quan tới cái trước mắt. Cái trước mắt là được dùng như cánh cửa tới cái tối thượng, cái tối thượng xảy ra nếu bạn đi vào cái trước mắt. Nó có đó, và không có cách khác để đạt tới nó.
Triết học không phải là con đường trong con mắt của Mật Tông. Nó là con đường giả! Chỉ dường như đây là con đường. Nó là cánh cửa mà không hiện hữu; nó đơn giản có vẻ là cửa. Nó là cửa giả. Khoảnh khắc bạn cố đi vào nó bạn đi tới biết rằng bạn không thể đi vào được, nó chỉ là cánh cửa được vẽ ra, không có cửa trong thực tại. Triết học là cánh cửa được vẽ. Nếu bạn ngồi bên cạnh và liên tục suy nghĩ và suy nghĩ, nó là tốt. Nếu bạn cố đi vào nó, nó là tường.
Cho nên mọi triết học là tốt cho việc triết lí hoá. Để thực nghiệm, mọi triết học đều bất lực. Đó là lí do tại sao có nhấn mạnh nhiều thế vào kĩ thuật trong Mật Tông - nhấn mạnh nhiều thế vào kĩ thuật, vì khoa học không thể làm được gì ngoài việc cho công nghệ, dù về thế giới bên ngoài hay thế giới bên trong. Chính từ `tantra-Mật Tông' ngụ ý kĩ thuật. Chính từ ‘tantra’ ngụ ý kĩ thuật! Đó là lí do tại sao, trong cuốn sách nhỏ này vậy mà vĩ đại nhất và sâu sắc nhất, chỉ các kĩ thuật được cho, không triết lí, chỉ một trăm mười hai kĩ thuật để đạt tới điều tối thượng qua cái trước mắt.
Kĩ thuật thứ chín liên quan tới âm thanh:
Im lặng niệm một từ có kết thúc trong “AH.” Thế rồi trong "HH,"một cách vô nỗ lực, tự phát.
Im lặng niệm một từ có kết thúc trong “AH.” Bất kì từ nào có kết thúc trong "AH" - niệm nó một cách im lặng. Nhấn mạnh nên được dồn vào phần cuối "AH." Tại sao? Vì khoảnh khắc âm thanh này "AH" được niệm, hơi thở của bạn đi ra. Bạn có thể đã không quan sát điều đó, nhưng bây giờ bạn có thể quan sát: bất kì khi nào hơi thở của bạn đi ra bạn im lặng hơn, và bất kì khi nào hơi thở của bạn đi vào bạn căng thẳng hơn - vì hơi thở đi ra là chết và hơi thở đi vào là sống. Căng thẳng là một phần của sống, không của chết. Thảnh thơi là một phần của chết; chết ngụ ý thảnh thơi toàn bộ. Sống không thể được thảnh thơi toàn bộ; điều đó là không thể được.
Sống nghĩa là căng thẳng, nỗ lực. Chỉ chết được thảnh thơi. Cho nên bất kì khi nào một người trở nên tuyệt đối thảnh thơi, người đó là cả hai - sống động bên ngoài và chết bên trong. Bạn có thể thấy trên mặt của vị phật cả sống và chết đồng thời. Đó là lí do tại sao có nhiều im lặng và bình thản thế, chúng là một phần của chết. Sống không là thảnh thơi. Bạn thảnh thơi trong đêm khi bạn ngủ. Đó là lí do tại sao các tín ngưỡng cổ nói rằng chết và ngủ là tương tự. Ngủ là chết tạm thời và chết là ngủ thường hằng. Đó là lí do tại sao đêm làm bạn thảnh thơi, nó là hơi thở đi ra. Sáng là hơi thở đi vào.
Ngày làm bạn căng thẳng và đêm làm bạn thảnh thơi. Sáng làm bạn căng thẳng, tối làm bạn thảnh thơi. Đó là lí do tại sao bạn không thể ngủ được khi có ánh sáng, khó thảnh thơi vì ánh sáng là tương tự với sống: nó chống lại chết. Bóng tối là tương tự với chết: nó ủng hộ chết.
Cho nên bóng tối có thảnh thơi trong nó, và những người sợ bóng tối không thể thảnh thơi được... không thể được, vì mọi thảnh thơi đều là tối. Và tối bao quanh cuộc sống của bạn cả hai bên. Trước khi bạn được sinh ra bạn ở trong tối; khi sống dừng lại bạn lại ở trong tối. Tối là vô tận, và sáng này và cuộc sống này chỉ là một khoảnh khắc trong nó, chỉ là con sóng dâng lên và thế rồi rút trở lại. Nếu bạn có thể nhớ tối bao quanh cả hai đầu, bạn sẽ được thảnh thơi ở đây và bây giờ.
Sống, chết - cả hai đều là hai mặt của sự tồn tại. Hơi thở đi vào là sống, hơi thở đi ra là chết. Cho nên không phải là bạn chết một ngày nào đó đâu, bạn đang chết với mọi hơi thở. Đó là lí do tại sao người Hindu đã từng đếm sự sống theo hơi thở, họ không đếm sự sống theo năm. Mật Tông, yoga, tất cả các hệ thống Ấn Độ cổ, họ đếm sự sống theo hơi thở: bạn sẽ sống bao nhiêu hơi thở. Cho nên họ nói nếu bạn thở rất nhanh, với quá nhiều việc thở trong thời gian ngắn, bạn sẽ chết rất sớm. Nếu bạn thở rất chậm và hơi thở của bạn ít trong khoảng hở, bạn sẽ sống rất lâu. Và điều này là vậy.
Nếu bạn đi và quan sát con vật, những con vật có việc thở rất chậm đều sống lâu. Lấy con voi: voi sống lâu; hơi thở rất chậm. Thế rồi có chó: chó chết sớm; hơi thở rất nhanh.
Bất kì khi nào bạn thấy một con vật trong đó hơi thở là nhanh, bất kì con vật nào, con vật này sẽ không có cuộc sống dài. Cuộc sống dài bao giờ cũng cùng với hơi thở chậm.
Mật Tông và yoga và các hệ thống Ấn Độ khác đếm sự sống của bạn theo hơi thở. Thực sự, với mọi hơi thở bạn được sinh ra và với mọi hơi thở bạn đang chết đi. Mật chú này, kĩ thuật này, dùng hơi thở ra làm phương pháp, cái trung gian, phương tiện, để đi sâu vào trong im lặng. Nó là phương pháp chết. Im lặng niệm một từ có kết thúc trong "AH." Hơi thở đã đi qua - đó là lí do tại sao một từ có kết thúc trong "AH."
AH này là có nghĩa vì khi bạn nói AH nó hoàn toàn làm trống rỗng bạn. Toàn thể hơi thở đã chuyển ra; không cái gì còn lại bên trong. Bạn là trống rỗng toàn bộ - trống rỗng và chết. Trong một khoảnh khắc, với một khoảng hở rất nhỏ, sống đã chuyển ra khỏi bạn. Bạn chết - trống rỗng. Sự trống rỗng này, nếu được nhận ra, nếu bạn có thể trở nên nhận biết về nó, sẽ thay đổi bạn hoàn toàn. Bạn sẽ là người khác.
Thế thì bạn sẽ biết rõ rằng sống này không phải là sống của bạn và chết này cũng không phải là chết của bạn. Thế thì bạn sẽ biết cái gì đó ở bên ngoài hơi thở đi vào và đi ra - linh hồn chứng kiến. Và việc chứng kiến này có thể xảy ra dễ dàng khi bạn là trống rỗng hơi thở, vì sống đã lắng xuống và với nó mọi căng thẳng đã lắng xuống. Cho nên thử nó đi, nó là phương pháp rất hay. Nhưng quá trình bình thường, thói quen bình thường là nhấn mạnh vào hơi thở đi vào, không bao giờ vào hơi thở đi ra.
Chúng ta bao giờ cũng lấy hơi thở vào. Chúng ta bao giờ cũng lấy nó vào, nhưng chúng ta không bao giờ ném nó ra. Chúng ta lấy nó vào và thân thể ném nó ra. Quan sát việc thở của bạn và bạn sẽ biết. Chúng ta lấy nó vào. Chúng ta không bao giờ thở ra, chúng ta chỉ hít vào. Việc thở ra được thân thể thực hiện vì chúng ta sợ chết, đó là lí do. Nếu nó ở trong quyền lực của chúng ta, chúng ta chắc sẽ không thở ra chút nào, chúng ta chắc sẽ hít vào và thế rồi kiểm soát nó bên trong. Không người nào nhấn mạnh vào thở ra - hít vào được nhấn mạnh. Vì chúng ta phải làm việc thở ra sau hít vào, đó là lí do tại sao chúng ta liên tục "chịu đựng" nó. Chúng ta dung thứ nó vì chúng ta không thể hít vào mà không có thở ra.
Cho nên thở ra được chấp nhận như điều cần phải có, nhưng về căn bản chúng ta không quan tâm tới thở ra. Và điều này không chỉ về hơi thở, đây là toàn thể thái độ của chúng ta hướng tới sự sống. Chúng ta bám lấy mọi thứ tới với chúng ta; chúng ta sẽ không bỏ nó. Đây là keo kiệt của tâm trí.
Và nhớ, có nhiều hệ luỵ trong nó. Nếu bạn bị táo bón, đây sẽ là nguyên nhân cơ bản: bạn bao giờ cũng hít vào và không bao giờ thở ra. Tâm trí không bao giờ thở ra mà chỉ hít vào sẽ bị táo bón. Táo bón là đầu kia của cùng một thứ. Người đó không thể thở ra bất kì cái gì, người đó liên tục tích luỹ, người đó sợ. Sợ có đó. Người đó chỉ có thể tích luỹ, nhưng bất kì cái gì được tích luỹ đều trở thành độc.
Nếu bạn chỉ hít vào và không thở ra, chính hơi thở của bạn trở thành độc cho bạn; bạn sẽ chết vì nó. Bạn có thể biến lực cho sự sống thành chất độc nếu bạn thở ra theo cách keo kiệt, vì việc thở ra là tuyệt đối cần thiết. Nó tống mọi chất độc ra khỏi bạn.
Cho nên thực sự, chết là quá trình làm thuần khiết và sống là quá trình làm độc. Điều này sẽ có vẻ ngược đời. Sống là quá trình làm độc vì để sống bạn phải dùng nhiều thứ - và khoảnh khắc bạn đã dùng chúng, chúng biến thành chất độc, chúng bị cải đổi thành chất độc. Bạn lấy hơi thở vào, bạn dùng ô xi, và thế rồi cái còn lại trở thành chất độc. Nó là sống chỉ bởi vì nó là ô xi, nhưng bạn đã dùng nó rồi. Cho nên sống liên tục làm thay đổi mọi thứ thành chất độc.
Bây giờ có một phong trào lớn ở phương Tây - sinh thái. Con người đã dùng mọi thứ và biến nó thành chất độc, và chính trái đất đang trên bở của chết. Bất kì ngày nào nó có thể chết vì chúng ta đã biến mọi thứ thành chất độc. Chết là quá trình làm thuần khiết. Khi toàn thân bạn đã trở thành độc, chết sẽ làm nhẹ cho bạn phần thân thể. Nó sẽ làm mới lại bạn, nó sẽ cho bạn việc sinh mới; một thân thể mới sẽ được trao cho bạn. Qua chết mọi chất độc được tích luỹ được phân huỷ trở lại trong tự nhiên. Bạn được cho một cái máy mới.
Và điều này xảy ra với mọi hơi thở. Hơi thở đi ra là tương tự với chết - nó đem chất độc ra. Và khi nó đi ra, mọi thứ sút giảm đi bên trong. Nếu bạn có thể ném toàn thể hơi thở ra, hoàn toàn ra hết để cho không hơi thở nào còn lại bên trong, bạn chạm tới điểm im lặng điều không bao giờ có thể được chạm tới trong khi hơi thở đi vào.
Điều đó cũng giống như thuỷ triều rút xuống và dâng lên: với mọi việc hít vào thuỷ triều lên của sống tới với bạn; với mọi việc thở ra, mọi thứ rút đi - sóng triều đã mất đi. Bạn chỉ là bãi biển trống vắng, trống rỗng. Đây là việc dùng của kĩ thuật này. Im lặng niệm một từ có chỗ cuối trong “AH”. Nhấn mạnh vào hơi thở ra. Và bạn có thể dùng nó cho nhiều thay đổi trong tâm trí. Nếu bạn bị táo bón, quên chuyện lấy vào đi. Chỉ thở ra và không hít vào. Để thân thể làm công việc hít vào; bạn chỉ làm công việc thở ra. Bạn buộc hơi thở đi ra và không hít vào. Thân thể sẽ tự nó hít vào; bạn không cần lo nghĩ về điều đó, bạn sẽ không chết. Thân thể sẽ lấy hơi thở vào, bạn chỉ tống nó ra và để thân thể lấy nó vào. Táo bón của bạn sẽ ra đi.
Nếu bạn bị bệnh tim, chỉ thở ra, không hít vào. Thế thì bạn sẽ không bị bệnh tim nữa. Nếu trong khi đi lên cầu thang, hay bất kì chỗ nào, bạn cảm thấy mệt - rất mệt, ngột ngạt, không thở được - đơn giản làm điều này: chỉ thở ra, không hít vào. Thế thì bạn có thể trèo lên bất kì số bậc nào và bạn sẽ không bị mệt. Cái gì xảy ra? Khi bạn đi cùng việc nhấn mạnh vào thở ra, bạn sẵn sàng buông bỏ, và sẵn sàng chết. Bạn không sợ chết; điều đó làm cho bạn thành mở. Bằng không bạn bị đóng - sợ đóng bạn lại.
Khi bạn thở ra, toàn thể hệ thống thay đổi và chấp nhận chết. Không có sợ, bạn sẵn sàng chết. Và người sẵn sàng chết có thể sống. Thực sự, chỉ người sẵn sàng chết mới có thể sống. Một mình người đó trở nên có năng lực sống - vì người đó không sợ.
Người chấp nhận chết thì đón chào nó, đón nhận nó như vị khách, sống cùng nó, đi sâu vào trong sống. Thở ra, không hít vào, và điều đó sẽ thay đổi toàn bộ tâm trí bạn. Vì những kĩ thuật đơn giản mà Mật Tông không bao giờ hấp dẫn, vì chúng ta nghĩ, "Tâm trí tôi là thứ phức tạp thế." Nó không phức tạp - chỉ ngu thôi. Và kẻ ngu là rất phức tạp. Người khôn là đơn giản. Không cái gì là phức tạp trong tâm trí bạn, nó là cái máy rất đơn giản. Nếu bạn hiểu, bạn có thể thay đổi nó rất dễ dàng.
Nếu bạn đã không thấy bất kì người nào chết, nếu bạn đã được bảo vệ khỏi việc nhìn thấy chết như Phật đã được bảo vệ, bạn không thể hiểu được bất kì cái gì về nó. Bố của Phật đã sợ vì nhà chiêm tinh nào đó đã nói rằng "Thằng bé này sẽ là một sannyasin lớn. Nó sẽ từ bỏ thế giới." Người bố hỏi, "Cái gì cần được làm để bảo vệ nó khỏi việc làm điều như vậy?" Thế là những nhà chiêm tinh đó nghĩ và nghĩ, và thế rồi họ kết luận và họ nói, "Không cho phép nó thấy chết, vì nếu nó không nhận biết về chết nó sẽ không bao giờ nghĩ tới từ bỏ sống."
Điều này là hay - rất có nghĩa. Điều đó ngụ ý mọi tôn giáo, mọi triết học, mọi Mật Tông và yoga, về căn bản là hướng theo chết. Nếu bạn nhận biết về chết, chỉ thế thì tôn giáo mới trở nên có nghĩa. Đó là lí do tại sao không con vật nào ngoại trừ con người, có tính tôn giáo, vì không con vật nào nhận biết về chết. Chúng chết, nhưng chúng không nhận biết. Chúng không thể quan niệm hay tưởng tượng được rằng sẽ có chết.
Khi một con chó chết, các con chó khác không bao giờ hình dung được rằng chết cũng sẽ xảy ra cho chúng. Bao giờ cũng ai đó khác chết, cho nên làm sao chó có thể tưởng tượng được rằng "Mình sẽ chết"? Nó không bao giờ thấy bản thân nó chết. Ai đó khác, con chó khác nào đó chết, cho nên làm sao nó có thể kết nối rằng "Mình sẽ chết"? Không con vật nào nhận biết về chết; đó là lí do tại sao không con vật nào từ bỏ. Không con vật nào có thể trở thành sannyasin. Chỉ phẩm chất rất cao của tâm thức mới có thể đưa bạn tới từ bỏ - khi bạn trở nên nhận biết về chết. Và nếu ngay cả là người, bạn không nhận biết về chết, bạn thuộc về vương quốc loài vật; bạn chưa là người. Bạn trở thành người chỉ khi bạn đương đầu với chết. bằng không thì không có khác biệt giữa bạn và con vật.
Mọi thứ là tương tự; duy nhất chết tạo ra khác biệt. Với chết được đương đầu, bạn không còn là con vật, cái gì đó đã xảy ra cho bạn mà không bao giờ xảy ra cho con vật. Bây giờ bạn sẽ là tâm thức khác.
Cho nên bố của Phật đã bảo vệ ông ấy khỏi nhìn thấy bất kì kiểu chết nào - không chỉ chết của người, mà chết của con vật và thậm chí của hoa. Cho nên những người làm vườn được chỉ dẫn không cho phép đứa trẻ này thấy hoa chết, hoa tàn chết trên cành, lá úa, lá khô. Không, đứa bé phải không đi tới nhận ra rằng cái gì đó chết ở bất kì chỗ nào - nó có thể suy ra từ đó rằng "Mình sẽ chết." Và bạn không suy diễn điều đó ngay cả khi thấy vợ bạn chết, mẹ bạn, bố bạn, con bạn chết. Bạn khóc cho họ, nhưng bạn không bao giờ quan niệm rằng đây là dấu hiệu rằng "Mình sẽ chết."
Nhưng các nhà chiêm tinh nói, "Đứa bé này rất, rất nhạy cảm, cho nên bảo vệ nó khỏi mọi kiểu chết." Và người bố là người quá chu đáo. Ông ấy thậm chí không cho phép cậu bé nhìn thấy ông già hay bà già, vì sự già chính là chết được biết tới từ một khoảng cách; chết có đó từ một khoảnh cách, chỉ đang tới. Cho nên bố của Phật sẽ không cho phép bất kì ông già hay bà già nào được đứa bé này nhìn thấy. Nếu Phật đột nhiên trở nên nhận biết rằng bằng việc dừng thở con người có thể chết, sẽ rất khó khăn cho ông ấy. "Chỉ bởi vì không hơi thở nào đi vào, làm sao con người có thể chết?" ông ấy sẽ tự hỏi. "Sống là quá trình lớn, phức tạp thế."
Nếu bạn đã không thấy bất kì ai chết, ngay cả bạn cũng không thể quan niệm được rằng chỉ bằng việc dừng hơi thở con người sẽ chết. Chỉ bằng việc dừng hơi thở sao? Điều đơn giản thế! Và làm sao cuộc sống phức tạp thế có thể chết được?
Đó là cùng điều với những phương pháp này. Chúng có vẻ đơn giản, nhưng chúng chạm tới thực tại cơ bản. Khi hơi thở đi ra, khi bạn hoàn toàn bị trống rỗng sự sống, bạn chạm vào chết: bạn ở ngay gần nó, và mọi thứ trở thành bình thản và im lặng bên trong bạn.
Dùng nó như mật chú đi. Bất kì khi nào bạn cảm thấy mệt mỏi, bất kì khi nào bạn cảm thấy căng thẳng, dùng bất kì từ nào có kết thúc trong "AH." "Allah" sẽ có tác dụng - bất kì từ nào đem ra toàn bộ hơi thở của bạn để cho bạn thở ra hoàn toàn và bạn được trống rỗng hơi thở. Khoảnh khắc bạn được trống rỗng hơi thở bạn được trống rỗng sự sống nữa. Và mọi vấn đề của bạn đều thuộc vào sống: không vấn đề nào thuộc về chết. Lo âu của bạn, phiền não của bạn, giận dữ của bạn, buồn bã của bạn, tất cả chúng đều thuộc về sống.
Chết không có tính vấn đề. Chết không bao giờ gây bất kì vấn đề nào cho bất kì ai. Và cho dù bạn nghĩ rằng "Mình sợ chết và chết tạo ra vấn đề," không phải là chết tạo ra vấn đề mà việc níu bám vào sống của bạn mới tạo ra vấn đề. Chỉ sống tạo ra vấn đề; chết làm tan biến mọi vấn đề. Cho nên khi hơi thở đã chuyển ra hoàn toàn, "AH," bạn được làm trống rỗng sống. Nhìn vào bên trong ở khoảnh khắc đó khi hơi thở hoàn toàn đi ra ngoài. Trước khi lấy hơi thở khác vào, đi sâu xuống trong khoảng hở đó và trở nên nhận biết về bình thản bên trong, im lặng. Trong khoảnh khắc đó bạn là phật.
Nếu bạn có thể bắt được khoảnh khắc đó, bạn đã biết hương vị của điều mà Phật có thể đã biết. Và một khi được biết, bạn có thể tách rời hương vị này khỏi hơi thở đi vào-đi ra. Thế thì hơi thở có thể liên tục đi vào, đi ra, và bạn có thể vẫn còn trong phẩm chất tâm thức đó mà bạn đã đi tới biết. Nó bao giờ cũng có đó; người ta chỉ phải khám phá ra nó. Và dễ khám phá hơn khi sự sống bị làm trống rỗng ra.
Im lặng niệm một từ có kết thúc trong “AH.” Thế rồi trong "HH,"một cách vô nỗ lực, tự phát. Và khi hơi thở đi ra, "HH," mọi thứ được làm trống rỗng. Một cách vô nỗ lực: trong khoảnh khắc này, không có nhu cầu làm bất kì nỗ lực nào. Tự phát: chỉ nhận biết, tự phát, nhạy cảm, và nhận ra khoảnh khắc chết này.
Trong khoảnh khắc này bạn ở ngay gần cửa, chỉ ngay gần cửa!- rất, rất gần điều tối thượng. Cái trước mắt đã chuyển ra ngoài, cái không cần thiết đã chuyển ra ngoài. Trong khoảnh khắc này bạn không là sóng: bạn là đại dương - ngay gần, ngay gần! Nếu bạn có thể trở nên nhận biết bạn sẽ quên rằng bạn là sóng. Lần nữa sóng sẽ tới, nhưng bây giờ bạn không bao giờ có thể bị đồng nhất với nó, bạn sẽ vẫn còn là đại dương. Một khi bạn đã biết rằng bạn là đại dương, bạn không bao giờ có thể lại là sóng nữa.
Sống là sóng... chết là đại dương. Đó là lí do tại sao Phật nhấn mạnh nhiều thế về niết bàn rằng nó tựa chết. Ông ấy không bao giờ nói bạn sẽ đạt tới sống bất tử, ông ấy nói bạn sẽ đơn giản chết một cách toàn bộ. Jesus nói, "Tới ta và ta sẽ cho ông sống, và sống dư thừa." Phật nói, "Tới ta để nhận ra chết của ông. Ta sẽ cho ông chết một cách toàn bộ." Và cả hai ngụ ý cùng một điều, nhưng thuật ngữ của Phật là cơ bản hơn. Nhưng bạn sẽ trở nên sợ nó. Đó là lí do tại sao Phật không có hấp dẫn ở Ấn Độ; ông ấy đã bị bật rễ hoàn toàn. Và chúng ta liên tục nói rằng mảnh đất này là mảnh đất tôn giáo, nhưng người tôn giáo nhất đã không thể bắt rễ được ở đây.
Đây là kiểu mảnh đất tôn giáo gì vậy? Chúng ta đã không tạo ra được Phật khác; ông ấy là vô song. Và bất kì khi nào thế giới nghĩ Ấn Độ là tôn giáo, thế giới nhớ tới Phật - không tới người nào khác. Vì Phật, Ấn Độ được coi là có tính tôn giáo. Đây là kiểu mảnh đất tôn giáo gì vậy? Phật không có rễ ở đây; ông ấy đã bị nhổ bật rễ toàn bộ. Ông ấy đã dùng ngôn ngữ của chết - đó là nguyên nhân, và những người brahmins đã dùng ngôn ngữ của sống. Họ nói Brahman còn ông ấy nói niết bàn: `Brahman' ngụ ý sống - sống, sống vô hạn; còn `Niết bàn' ngụ ý chỉ dừng lại, chết - chết toàn bộ.
Phật nói, "Chết thường của ông không phải là toàn bộ; ông sẽ được sinh ra lần nữa. Nó không là toàn bộ! Ông sẽ được sinh ra lần nữa! Ta sẽ cho ông cái chết toàn bộ, và ông sẽ không bao giờ được sinh ra lần nữa." Chết toàn bộ ngụ ý bây giờ không sinh nào là có thể. Cho nên cái gọi là chết này, Phật nói, không phải là chết. Nó chỉ là thời kì nghỉ ngơi, bạn sẽ trở nên sống động lần nữa. Nó chỉ là hơi thở được đi ra. Bạn sẽ lấy hơi thở vào lần nữa, bạn sẽ được tái sinh. Phật nói, "Ta sẽ cho ông con đường để cho hơi thở sẽ đi ra và sẽ không bao giờ đi vào lần nữa - chết toàn bộ, niết bàn, dừng lại."
Chúng ta trở nên sợ vì chúng ta bám lấy sống. Nhưng đây là điều ngược đời: bạn càng bám lấy sống, bạn sẽ càng chết hơn, và bạn càng sẵn sàng chết, thế thì bạn trở nên càng bất tử hơn. Nếu bạn sẵn sàng chết, thế thì không có khả năng của chết. Không ai có thể cho bạn chết nếu bạn chấp nhận nó, vì qua việc chấp nhận đó bạn trở nên nhận biết về cái gì đó bên trong bạn mà là bất tử.
Hơi thở đi vào và hơi thở đi ra này là sống và chết của thân thể, không của "tôi." Nhưng "tôi" không biết bất kì cái gì khác hơn thân thể; "tôi" bị đồng nhất với thân thể. Thế thì sẽ khó nhận biết khi nào hơi thở đi vào, dễ nhận biết khi nào hơi thở đi ra. Khi hơi thở đi ra, với khoảnh khắc đó bạn đã trở thành già, chết, bị trống rỗng hoàn toàn hơi thở; bạn là chết cho một khoảnh khắc.
Trong "HH,"một cách vô nỗ lực, tự phát. Thử nó đi! Bất kì khoảnh khắc nào bạn có thể thử nó. Đi trên xe bus hay đi trong tầu hoả hay đi đến văn phòng, bất kì khi nào bạn có thời gian lại niệm một âm như "Allah" - bất kì âm thanh nào có kết thúc bằng "AH." "Allah" này giúp nhiều thế trong Hồi giáo - không phải bởi vì bất kì đấng Allah nào có đó trên trời đâu, nhưng bởi vì "AH" này. Lời này là hay. Và thế rồi người ta càng liên tục dùng lời "Allah, Allah..." này nó càng trở nên được rút gọn. Thế thì cái còn lại là "Lah, Lah..." Thế rồi nó được thu gọn thêm nữa; thế thì nó còn lại là "Ah, Ah..." Điều đó là tốt, nhưng bạn có thể dùng bất kì lời nào có kết thúc trong "AH" - hay chỉ "AH" sẽ có tác dụng.
Bạn có quan sát rằng bất kì khi nào bạn căng thẳng bạn sẽ thở dài - "AH" - và bạn sẽ cảm thấy được thảnh thơi. Hay bất kì khi nào bạn đang vui, vui mừng khôn xiết, bạn nói "AH," và toàn thể hơi thở được tống ra và bạn cảm thấy bên trong sự bình lặng mà bạn chưa bao giờ cảm thấy. Thử điều này: khi bạn đang cảm thấy rất thoải mái, lấy hơi thở vào và thế rồi xem điều bạn cảm thấy. Bạn không thể cảm thấy sung sướng đó mà tới cùng "AH." Nó tới vì hơi thở ra.
Cho nên các ngôn ngữ khác nhau, nhưng hai điều này không bao giờ khác. Trên khắp thế giới, bất kì khi nào ai đó cảm thấy mệt mỏi người đó sẽ nói "AH." Thực sự, người đó đang mời gọi chết tới và thảnh thơi mình. Bất kì khi nào người ta cảm thấy vui mừng khôn xiết, phúc lạc, người đó nói "AH." Người đó được ngập đầy vui mừng tới mức người đó không sợ chết bây giờ. Người đó có thể làm nhẹ bản thân mình hoàn toàn, thảnh thơi hoàn toàn.
Và cái gì sẽ xảy ra nếu bạn liên tục thử nó, thử nó? Bạn sẽ trở nên nhận biết đầy đủ về cái gì đó bên trong bạn - tính tự phát của con người bạn; của sahaj của việc là tự phát. Điều đó bạn đã là vậy rồi, nhưng bạn quá dính líu với sống, bận bịu quá nhiều với sống. Bạn không thể trở nên nhận biết về người đang ở đằng sau.
Khi bạn không bận bịu với sống, với hơi thở đi vào, người đằng sau được lộ ra; có thoáng nhìn. Nhưng thoáng nhìn này sẽ trở thành việc nhận ra, một cách dần dần. Và một khi nó được biết tới bạn không thể quên được nó - và đây không phải là cái gì đó mà bạn tạo ra. Đó là lí do tại sao nó là tự phát: nó không phải là cái gì đó bạn tạo ra. Nó có đó, bạn đã đơn giản quên mất. Đó là việc nhớ lại! Đó là việc khám phá lại!
Thử nhìn trẻ con mà xem, lũ trẻ rất nhỏ, đang thở. Chúng thở theo cách khác. Nhìn đứa trẻ đang ngủ. Bụng nó phồng lên xẹp xuống, không phải ngực. Nếu bạn ngủ và bạn được quan sát, ngực bạn dâng lên và hạ xuống; hơi thở của bạn không bao giờ đi xuống tới bụng. Hơi thở có thể đi xuống tới bụng chỉ nếu bạn thở ra và không hít vào. Nếu bạn hít vào và không thở ra, hơi thở không thể đi xuống bụng được. Lí do tại sao hơi thở đi xuống bụng là ở chỗ khi người ta thở ra, toàn thể hơi thở bị tống ra và thế rồi thân thể lấy nó vào. Và thân thể chỉ lấy khối lượng được cần tới - không bao giờ nhiều hơn, không bao giờ ít hơn.
Thân thể có trí huệ riêng của nó, và nó trí huệ hơn bạn. Đừng quấy rối nó. Bạn có thể lấy nhiều hơn - thế thì nó sẽ bị quấy rối. Bạn có thể lấy ít hơn - thế thì nó sẽ bị quấy rối. Thân thể có trí huệ riêng của nó, nó chỉ lấy chừng nấy khối lượng được cần. Khi nhiều hơn được cần, nó tạo ra tình huống. Khi ít hơn được cần, nó tạo ra tình huống. Nó không bao giờ đi tới cực đoan, nó bao giờ cũng được cân bằng.
Nhưng nếu bạn hít vào nó không bao giờ cân bằng, vì bạn không biết bạn đang làm gì, bạn không biết cái gì được cần của thân thể. Và nhu cầu thay đổi mọi khoảnh khắc.
Cho phép thân thể đi! Bạn chỉ thở ra, bạn chỉ tống nó ra, và thế rồi thân thể sẽ lấy hơi thở vào - và nó sẽ lấy hơi thở sâu và chậm, và hơi thở sẽ đi xuống bụng. Nó sẽ đập vào điểm rốn đích xác và bụng bạn sẽ phồng lên và xuống. Nếu bạn hít vào thế thì thực sự, bạn không bao giờ thở ra toàn bộ. Thế thì hơi thở là vào và bạn liên tục hít vào, cho nên hơi thở đã có đó sẽ không cho phép hơi thở của bạn đi xuống tới tận đáy. Thế thì chỉ thở nông xảy ra. Bạn liên tục lấy hơi thở vào, và hơi thở độc có đó, rót đầy bạn.
Họ nói rằng bạn có sáu nghìn túi khí trong phổi bạn và chỉ hai nghìn túi được chạm tới bởi hơi thở của bạn. Bốn nghìn túi bao giờ cũng đầy với khí độc mà cần được thở ra, và phần chiếm hai phần ba đó của ngực bạn tạo ra nhiều lo âu, nhiều phiền não và khổ trong tâm trí, trong thân thể. Đứa trẻ thở ra, nó không bao giờ hít vào. Việc hít vào được bản thân thân thể thực hiện.
Khi đứa trẻ được sinh ra, điều đầu tiên nó sẽ làm là khóc. Với việc khóc đó họng nó mở ra, với việc khóc đó "AH" đầu tiên đi vào. Ô xi và không khí đã được trao bởi người mẹ được thở ra. Đây là nỗ lực đầu tiên của nó với việc thở. Đó là lí do tại sao nếu đứa trẻ không khóc, thế thì bác sĩ sẽ trở nên không thoải mái, vì nó đã không biểu lộ dấu hiện của sống. Nó vẫn cảm thấy phụ thuộc vào người mẹ. Nó phải khóc! Việc khóc đó chỉ ra rằng bây giờ nó đang trở thành một cá nhân; người mẹ không được cần, nó sẽ lấy hơi thở riêng của nó. Và điều đầu tiên là ở chỗ nó sẽ khóc để thở ra cái đã được người mẹ trao cho, và thế rồi thân thể nó sẽ bắt đầu vận hành, hít vào.
Đứa trẻ bao giờ cũng thở ra, và khi đứa trẻ bắt đầu hít vào, khi nhấn mạnh chuyển sang hít vào, nhận biết đi. Nó đã trở thành già; nó đã học mọi thứ từ bạn. Nó đã trở nên căng thẳng. Bất kì khi nào bạn căng thẳng, bạn không thể lấy hơi thở sâu. Tại sao? Dạ dầy của bạn trở thành cứng ngắc. Bất kì khi nào bạn căng thẳng dạ dầy của bạn trở thành cứng ngắc, nó sẽ không cho phép hơi thở đi xuống. Thế thì bạn phải lấy hơi thở nông.
Thử với "AH" đi. Nó có cảm giác hay quanh nó. Bất kì khi nào bạn cảm thấy mệt, "AH" - ném hơi thở ra. Và làm thành điểm cần nhấn mạnh vào thở ra. Bạn sẽ là người khác, và tâm trí khác sẽ tiến hoá. Với nhấn mạnh vào thở vào, bạn đã phát triển tâm trí keo kiệt và thân thể keo kiệt. Với thở ra, tính keo kiệt đó sẽ biến mất và cùng với nó nhiều vấn đề biến mất. Tính sở hữu sẽ biến mất.
Cho nên Mật Tông sẽ không nói bỏ tính sở hữu. Mật Tông nói, đổi hệ thống thở của bạn; thế thì bạn không thể sở hữu. Quan sát việc thở riêng của bạn và tâm trạng của bạn, và bạn sẽ trở nên nhận biết. Bất kì cái gì sai bao giờ cũng được liên kết với việc nhấn mạnh được đặt vào hơi thở vào và bất kì cái gì là tốt, đức hạnh, đẹp, đúng, bao giờ cũng được liên kết với việc thở ra. Bất kì khi nào bạn nói dối, bạn sẽ giữ lại hơi thở vào. Bất kì khi nào bạn nói thực, bạn không bao giờ giữ lại hơi thở. Bạn sợ rằng "Mình đang nói lời dối trá," cho nên bạn giữ lại hơi thở. Bạn sợ cái gì đó có thể đi ra cùng nó - hơi thở đi ra. Cái thực ẩn kín của bạn có thể bị lộ ra, cho nên bạn sợ.
Liên tục thử "AH" này ngày càng nhiều đi. Bạn sẽ mạnh khoẻ hơn trong thân thể, lành mạnh hơn trong tâm trí, và phẩm chất khác về bình thảnh, thoải mái, yên bình sẽ phát triển.
Phương pháp âm thanh thứ mười:
Dừng tai bằng việc bịt và dừng trực tràng bằng việc co, đi vào âm thanh.
Chúng ta thậm chí không nhận biết về thân thể hay cách thân thể vận hành và đạo của nó là gì, con đường của nó là gì. Nhưng nếu bạn quan sát, thế thì bạn có thể trở nên nhận biết rất dễ dàng. Nếu bạn bịt tai lại và co trực tràng lên, mọi thứ sẽ dừng lại cho bạn. Dường như là toàn thể thế giới đã trở thành bất động - dường như mọi thứ đã trở thành tĩnh tại, bị dừng lại. Không chỉ các chuyển động, bạn sẽ cảm thấy dường như thời gian đã dừng lại.
Cái gì xảy ra khi bạn kéo trực tràng lên, co nó lại? Cái gì xảy ra? Khi cả hai tai bị bịt lại đồng thời, với tai bị bịt bạn sẽ nghe âm thanh bên trong. Nhưng nếu trực tràng không được co lên, âm thanh đó được xả ra bởi trực tràng. Âm thanh đó rất tinh tế. Nếu trực tràng được kéo lên, bị co lại, và tai bị bịt, bạn sẽ thấy bên trong bạn một cột âm thanh - và âm thanh đó là của im lặng. Nó là âm thanh phủ định. Khi mọi âm thanh đã dừng lại, thế thì bạn cảm thấy âm thanh của im lặng hay âm thanh của vô âm. Nhưng nó sẽ được xả ra từ trực tràng.
Cho nên bịt tai và co trực tràng đi. Thế thì bạn bị đóng từ cả hai phía, và thân thể bạn trở thành bị đóng và chỉ chất đầy bằng âm thanh. Cảm giác này về việc được chất đầy bằng âm thanh cho sự hoàn thành sâu. Cho nên chúng ta sẽ phải hiểu nhiều điều quanh nó, chỉ thế thì sự việc mới trở thành có thể cho bạn để có cảm giác về điều xảy ra.
Chúng ta không nhận biết về thân thể - đó là một trong những vấn đề cơ bản cho người tìm kiếm. Và xã hội chống lại việc trở nên nhận biết về thân thể vì xã hội sợ thân thể. Cho nên chúng ta huấn luyện mọi đứa trẻ không nhận biết về thân thể, chúng ta làm cho mọi đứa trẻ thành không nhạy cảm. Chúng ta tạo ra khoảng cách giữa tâm trí và thân thể của đứa trẻ, để cho nó không nhận biết thật nhiều về thân thể, vì nhận biết thân thể sẽ tạo ra vấn đề cho xã hội.
Nhiều điều được ngụ ý. Nếu đứa trẻ nhận biết về thân thể, sớm hay muộn nó sẽ trở nên nhận biết về dục. Và nếu nó quá nhận biết về thân thể, nó sẽ cảm thấy tính dục, nhục dục. Cho nên chúng ta phải giết chính rễ. Nó phải bị làm cho “đờ đẫn” về thân thể nó, không nhạy cảm, để cho nó không bao giờ cảm thấy điều đó. Bạn không cảm thấy thân thể bạn. Bạn cảm thấy nó chỉ khi cái gì đó sai xảy ra, khi cái gì đó đi sai.
Bạn bị đau trong đầu, thế thì bạn cảm thấy đầu bạn. Gai nào đó có đó, thế thì bạn cảm thấy chân bạn. Khi thân thể bạn đau, bạn cảm thấy rằng bạn có thân thể. Bạn cảm thấy nó chỉ khi cái gì đó đi sai, và thế nữa cũng không ngay tức thì. Bạn không bao giờ nhận biết về bệnh của bạn ngay lập tức. Bạn trở nên nhận biết chỉ khi một thời kì đã trôi qua và khi bệnh liên tục gõ vào ý thức của bạn rằng, "Tôi đang ở đây." Chỉ thế thì bạn mới trở nên nhận biết. Cho nên không ai thực sự đi tới bác sĩ đúng lúc. Mọi người tới đó thường muộn, khi bệnh đã đi vào sâu và đã làm nhiều thứ sai.
Nếu đứa trẻ đã lớn lên với sự nhạy cảm nó sẽ trở nên nhận biết về bệnh ngay trước khi bệnh xảy ra. Và bây giờ, đặc biệt ở Nga, họ đang làm việc trên lí thuyết rằng bệnh thậm chí có thể được biết tới sáu tháng trước việc xảy ra của nó nếu ai đó có nhạy cảm rất sâu về thân thể mình, vì những thay đổi tinh tế bắt đầu lâu từ trước. Họ chuẩn bị cho thân thể về bệnh này. Tác động được cảm thấy ngay cả từ sáu tháng trước.
Nhưng không bao giờ để ý tới bệnh, chúng ta không bao giờ trở nên nhận biết ngay cả về chết! Nếu bạn sẽ chết ngày mai, hôm nay bạn thậm chí không nhận biết. Một thứ như chết mà có thể xảy ra vào khoảnh khắc tiếp, và bạn không nhận biết về khoảnh khắc này. Bạn chết toàn bộ với thân thể bạn, không nhạy cảm. Toàn thể xã hội này, toàn thể nền văn hoá mãi cho tới giờ, tạo ra sự đờ đẫn này, tính chết này, vì nó đã từng chống lại thân thể. Bạn không được phép cảm thấy nó. Chỉ trong những tai nạn bạn mới có thể được tha thứ, thứ lỗi về việc nhận biết về nó; bằng không thì "không nhận biết về thân thể."
Điều này tạo ra nhiều vấn đề, đặc biệt với Mật Tông, vì Mật Tông tin vào nhạy cảm sâu sắc và tri thức về thân thể. Bạn liên tục di chuyển và thân thể bạn liên tục làm nhiều thứ và bạn vô nhận biết. Bây giờ nhiều công việc đang được làm trên ngôn ngữ thân thể. Thân thể có ngôn ngữ riêng của nó, và các nhà tâm thần và nhà tâm lí và nhà phân tâm nói riêng đang được huấn luyện về ngôn ngữ thân thể, vì họ nói bạn không thể tin được vào con người hiện đại. Bất kì cái gì người đó nói đều không thể tin được. Thay vì thế, người ta phải quan sát thân thể người đó, cái sẽ cho manh mối đúng hơn.
Một người đi vào văn phòng của nhà tâm thần. Nhà tâm thần già, phân tâm kiểu Freud, cứ nói và nói mãi với người này để đem ra bất kì cái gì đang bị ẩn kín trong tâm trí ông ta. Tâm thần hiện đại sẽ quan sát thân thể người đó vì việc đó cho manh mối. Nếu một người là người bản ngã, nếu bản ngã là vấn đề của người đó, người đó đứng theo cách khác hơn người khiêm tốn. Cổ người đó có góc ngẩng khác hơn người khiêm tốn, xương sống của người đó không linh hoạt và chết, cố định. Người đó có vẻ như gỗ, không sống. Nếu bạn chạm vào thân thể người đó, nó cho cảm giác gỗ, không ấm áp của thân thể sống. Người đó giống như người lính đi ra mặt trận.
Nhìn người lính đi ra mặt trận. Người đó có hình dáng như gỗ, cảm giác như gỗ, và điều đó được cần cho người lính vì người đó sẽ chết hoặc giết. Người đó phải không nhận biết mấy về thân thể, cho nên toàn thể huấn luyện của người đó là để tạo ra thân thể gỗ. Lính tráng hành quân có vẻ giống đồ chơi, như đồ chơi chết hành quân.
Nếu bạn khiêm tốn bạn có thân thể khác; bạn ngồi khác bạn đứng khác. Nếu bạn cảm thấy kém cỏi, bạn đứng khác; nếu bạn cảm thấy cao siêu bạn đứng khác. Nếu bạn bao giờ cũng trong sợ, bạn đứng theo cách dường như bạn đang bảo vệ bản thân bạn khỏi lực không biết nào đó. Điều đó bao giờ cũng có đó. Nếu bạn không sợ, bạn chỉ giống như đứa trẻ đang chơi với mẹ nó; không có sợ. Bất kì khi nào bạn không sợ, bạn là ở nhà cùng với vũ trụ bao quanh bạn. Người sợ được bọc sắt. Và khi tôi nói được bọc sắt đó không chỉ là biểu tượng, về mặt thể chết người đó được bọc sắt đấy.
Wilhelm Reich đã làm việc rất nhiều trên cấu trúc thân thể, và ông ấy đi tới thấy một số liên kết sâu giữa tâm trí và thân thể. Nếu một người sợ hãi, dạ dầy của người đó là không linh hoạt. Bạn chạm vào dạ dầy của người đó và nó giống như đá. Nếu người đó trở thành bạo dạn, dạ dầy người đó thảnh thơi ngay lập tức. Hay nếu bạn thảnh thơi dạ dầy, thế thì sợ biến mất. Xoa bóp dạ dầy để thảnh thơi, và bạn sẽ cảm thấy bạo dạn nhiều hơn, ít sợ hơn.
Một người đang yêu có phẩm chất thân thể và hơi ấm khác - người đó ấm về mặt thân thể. Người không yêu là lạnh, về mặt thể chất người đó lạnh. Lạnh và các thứ khác đã chuyển vào trong thân thể bạn và chúng đã trở thành rào chắn, chúng không cho phép bạn biết về thân thể bạn. Nhưng thân thể liên tục làm việc theo cách riêng của nó và bạn liên tục làm việc theo cách riêng của bạn - vết nứt được tạo ra. Vết nứt đó phải bị phá vỡ.
Tôi đã thấy rằng nếu ai đó có tính đè nén, nếu bạn đã đè nén giận của bạn, thế thì ngón tay của bạn, bàn tay của bạn, có cảm giác của cơn giận bị đè nén. Và người biết cách cảm nó có thể cảm thấy chỉ bằng việc chạm vào tay bạn rằng bạn đã kìm nén giận. Và tại sao ở tay? Vì giận phải được xả ra bằng tay. Nếu bạn đã đè nén giận thế gì trong răng bạn, trong lợi bạn, nó bị đè nén - và nó có thể được cảm thấy bằng việc chạm. Nó cho rung động rằng "Tôi bị kìm nén ở đây."
Nếu bạn đã đè nén dục, thế thì trong vùng tình dục của bạn nó có đó. Nếu một người đã đè nén dục, thế thì nếu bạn chạm vào vùng tình dục của người đó, bạn có thể cảm thấy nó. Với bất kì vùng tình dục nào bị chạm vào, dục có đó nếu nó đã bị đè nén. Vùng này sẽ trở thành sợ hãi và sẽ rút lại từ cái chạm của bạn, nó sẽ không mở. Vì người này bên trong đang rút lại, phần này của thân thể sẽ rút lại. Nó sẽ không cho phép bạn làm ra chỗ mở.
Bây giờ họ nói rằng năm mươi phần trăm đàn bà là lãnh cảm, và lí do là vì chúng ta dạy con gái phải có tính đè nén hơn con trai. Cho nên họ đã đè nén, và khi con gái đè nén các cảm giác dục của mình mãi cho tới hai mươi tuổi, nó đã trở thành thói quen dài - hai mươi năm đè nén. Thế thì khi cô ấy yêu, cô ấy sẽ nói về yêu, nhưng thân thể cô ấy sẽ không mở; thân thể sẽ bị đóng. Và thế thì cái đối lập, hiện tượng đối lập đối xứng xảy ra: hai dòng chảy đối lập lẫn nhau. Cô ấy muốn yêu nhưng thân thể cô ấy đang bị kìm nén, thân thể rút lại; nó không sẵn sàng tới gần hơn.
Nếu bạn thấy người đàn bà ngồi cùng người đàn ông, nếu người đàn bà yêu người đàn ông, cô ấy sẽ nghiêng về phía anh ta, thân thể sẽ nghiêng. Nếu họ ngồi trên ghế sofa, cả hai thân thể họ sẽ nghiêng vào nhau. Họ không nhận biết, nhưng bạn có thể thấy điều đó. Nếu người đàn bà sợ người đàn ông, thân thể cô ấy sẽ nghiêng sang hướng đối lập. Nếu người đàn bà yêu người đàn ông, cô ấy sẽ không bao giờ bắt chéo chân khi ngồi cùng anh ấy. Nếu cô ấy sợ người đàn ông, cô ấy sẽ bắt chéo chân mình. Cô ấy không nhận biết; điều này không được làm một cách có ý thức. Đó là áo giáp thân thể. Thân thể tự bảo vệ nó và làm việc theo cách riêng của nó.
Mật Tông trở nên nhận biết về hiện tượng này; nhận biết đầu tiên về việc cảm thân thể sâu, sự nhạy cảm, là với Mật Tông. Và Mật Tông nói rằng nếu bạn có thể dùng thân thể bạn một cách có ý thức, thân thể trở thành phương tiện để chuyển vào linh hồn. Mật Tông nói, điều ngu xuẩn, tuyệt đối xuẩn ngốc, là chống lại thân thể. Dùng nó đi! Nó là phương tiện!
Và dùng năng lượng của nó theo cách mà bạn có thể đi ra ngoài nó.
Bây giờ, Dừng tai bằng việc bịt và dừng trực tràng bằng việc co, đi vào âm thanh. Nhiều lần bạn đã từng co trực tràng và đôi khi trực tràng được xả ra cho dù không có ý thức của bạn. Nếu bạn đột nhiên trở nên sợ, trực tràng được xả ra. Bạn có thể vãi cứt trong sợ, bạn có thể vãi đái ra trong sợ. Thế thì bạn không thể kiểm soát được nó. Nếu nỗi sợ đột nhiên nắm giữ bạn, bàng quang của bạn sẽ xả ra, trực tràng của bạn sẽ xả ra. Cái gì xảy ra? Trong sợ, cái gì xảy ra? Sợ là thứ tinh thần, cho nên tại sao bạn vãi đái ra trong sợ? Tại sao kiểm soát bị mất? Phải có gốc rễ kết nối sâu nào đó.
Sợ xảy ra trong đầu, trong tâm trí. Khi bạn không sợ điều này không bao giờ xảy ra. Đứa trẻ thực sự không có kiểm soát tâm trí trên thân thể nó. Không con vật nào kiểm soát việc đi đái, bàng quang hay bất kì cái gì. Bất kì khi nào bàng quang đầy nó được xả ra. Không con vật nào kiểm soát điều đó, nhưng con người phải kiểm soát nó do sự cần thiết. Cho nên chúng ta buộc đứa trẻ kiểm soát khi nào nó đáng phải đi vào phòng vệ sinh và khi nào không. Chúng ta bảo nó phải kiểm soát; chúng ta cho chọn thời gian. Cho nên tâm trí tiếp quản kiểm soát chức năng điều là không tự nguyện. Đó là lí do tại sao khó huấn luyện đứa trẻ đi vệ sinh. Và bây giờ các nhà tâm lí nói rằng nếu chúng ta thôi không huấn luyện đi vệ sinh, nhân loại sẽ cải thiện rất nhiều.
Huấn luyện đi vệ sinh là kìm nén đầu tiên của đứa trẻ và tính tự phát tự nhiên của nó, nhưng dường như khó nghe theo các nhà tâm lí này. Chúng ta không thể nghe theo họ được vì thế thì trẻ con sẽ tạo ra nhiều vấn đề. Chúng ta phải huấn luyện chúng do sự cần thiết. Chỉ xã hội rất, rất giầu, sung túc mới có khả năng không bận tâm. Các xã hội nghèo phải xoay xở. Chúng ta không thể đảm đương được điều đó. Nếu đứa trẻ đái lung tung bất kì chỗ nào, chúng ta không thể chịu được điều đó. Nếu nó đái lên ghế sofa chúng ta không thể chịu được điều đó, cho nên chúng ta phải huấn luyện. Huấn luyện này là về tâm trí. Thân thể thực sự không có chương trình dựng sẵn cho nó. Thân thể không có chương trình dựng sẵn cho nó!
Con người là con vật khi có liên quan tới thân thể, và thân thể không biết tới văn hoá, không biết tới xã hội. Đó là lí do tại sao khi bạn trong sợ sâu sắc, cơ chế kiểm soát mà bạn đã áp đặt lên thân thể được thả lỏng. Bạn không trong kiểm soát; bạn bị ném ra khỏi kiểm soát. Bạn chỉ có thể kiểm soát trong những hoàn cảnh bình thường. Trong lúc khẩn cấp bạn không thể kiểm soát được vì với hoàn cảnh khẩn cấp bạn không bao giờ được huấn luyện. Bạn chỉ được huấn luyện cho thế giới thường lệ, hàng ngày, bình thường. Trong trường hợp khẩn cấp kiểm soát bị mất, thân thể bạn bắt đầu vận hành theo cách con vật riêng của nó. Nhưng một liên hệ có thể được hiểu, rằng với người bạo dạn điều này sẽ không bao giờ xảy ra. Cho nên điều này đã trở thành dấu hiệu của người hèn.
Nếu trong sợ bạn vãi đái hay vãi cứt, điều này chỉ ra bạn là người hèn. Người bạo dạn sẽ không hành xử theo cách này, vì người bạo dạn lấy hơi thở sâu. Thân thể của người đó và hệ thống thở của người đó có quan hệ; không có kẽ hở. Với người là người hèn có kẽ hở, và vì kẽ hở đó người đó bao giờ cũng bị quá nặng gánh với vãi đái và vãi cứt. Cho nên bất kì khi nào tình huống khẩn cấp tới, việc quá nặng gánh đó phải bị tống ra: người đó phải được làm nhẹ gánh. Và nó có lí do trong tự nhiên. Người hèn mà không bị nặng gánh có thể thoát dễ dàng hơn với dạ dầy của người đó được làm thảnh thơi, có thể chạy dễ dàng hơn. Dạ dầy bị nặng sẽ trở thành cản trở, cho nên được làm thảnh thơi là giúp ích cho người hèn.
Tại sao tôi nói về điều này? Tôi chỉ nói điều này, rằng bạn phải nhận biết về các quá trình tâm trí của bạn và quá trình dạ dầy của bạn; chúng có quan hệ sâu sắc. Các nhà tâm lí nói rằng năm mươi tới chín mươi phần trăm các giấc mơ của bạn là vì các quá trình dạ dầy của bạn. Nếu bạn ăn bữa ăn rất nặng bạn nhất định thấy ác mộng. Chúng không có liên quan tới tâm trí, đó chỉ là việc dạ dầy nặng tạo ra chúng.
Nhiều giấc mơ có thể được tạo ra bởi các thủ đoạn bên ngoài. Nếu bạn đang ngủ, tay bạn có thể để bắt chéo trên ngực bạn và lập tức bạn sẽ bắt đầu mơ ác mộng nào đó. Gối có thể được đặt lên ngực bạn và bạn sẽ mơ rằng con quỉ nào đó đang ngồi trên ngực bạn sắp giết bạn. Và đây đã từng là một trong các vấn đề. Tại sao có gánh nặng thế từ trọng lượng nhỏ của chiếc gối? Nếu bạn thức, không có trọng lượng; bạn không cảm thấy gì nặng cả. Nhưng tại sao có chuyện chiếc gối nhỏ đó được đặt lên bạn trong đêm khi bạn đang ngủ bị cảm thấy là nặng tới mức dường như bạn đã bị đè nặng bởi hòn đá hay tảng đá lớn? Tại sao trọng lượng nhiều thế được cảm thấy?
Lí do là thế này: khi bạn nhận biết, khi bạn thức, tâm trí và thân thể bạn không có tương quan với nhau; kẽ hở có đó. Bạn không thể cảm thấy thân thể và tính nhạy cảm của nó. Trong khi ngủ, việc kiểm soát, văn hoá, ước định, tan biến đi; bạn lại trở thành đứa trẻ và thân thể bạn đã trở thành nhạy cảm. Vì sự nhạy cảm đó, chiếc gối nhỏ bị cảm thấy như tảng đá. Nó được khuếch đại lên vì sự nhạy cảm - sự nhạy cảm khuếch đại nó lên. Cho nên các quá trình thân-tâm có quan hệ sâu sắc, và nếu bạn biết cái gì xảy ra bạn có thể dùng điều này.
Trực tràng đóng, bị thót lên, bị co lại, tạo ra tình huống trong thân thể mà trong đó âm thanh có thể được cảm thấy nếu nó hiện diện. Bạn sẽ cảm thấy một cột trụ âm thanh trong im lặng bên trong không gian đóng trong thân thể bạn. Bịt tai lại và thót trực tràng lên, và thế rồi vẫn còn với điều đang xảy ra bên trong bạn. Vẫn còn trong trạng thái trống vắng đó, điều được tạo ra bởi hai điều này. Sinh lực của bạn đang di chuyển bên trong và nó không có đường đi ra. Âm thanh đi ra hoặc từ tai bạn hoặc từ trực tràng của bạn. Đó là hai cánh cửa từ đó âm thanh có thể chuyển ra. Nếu không có chuyển ra, bạn có thể cảm thấy nó dễ dàng hơn.
Và cái gì sẽ xảy ra khi bạn cảm thấy âm thanh bên trong này? Với chính hiện tượng nghe âm thanh bên trong, ý nghĩ của bạn tan biến. Thử nó bất kì lúc nào trong ngày: thót trực tràng lên và bịt ngón tay vào tai. Ấn chặt tai và thót trực tràng lên. Bạn sẽ cảm thấy rằng tâm trí bạn đã dừng lại. Nó sẽ không vận hành; ý nghĩ sẽ dừng lại. Luồng ý nghĩ thường xuyên đó không có đó. Điều đó là tốt! Và nếu người ta liên tục làm điều đó bất kì khi nào có thời gian, trong ngày nếu bạn có thể làm điều đó năm hay sáu lần, trong vòng ba hay bốn tháng bạn sẽ trở thành chuyên gia về nó. Và thế thì sự mạnh khoẻ thế tuôn chảy ra từ nó!
Và âm thanh bên trong, một khi được nghe thấy, còn lại với bạn. Thế thì bạn có thể nghe thấy nó cả ngày. Chợ ồn ào, đường ồn ào, giao thông ồn ào, nhưng ngay cả trong tiếng ồn đó bạn đã nghe thấy âm thanh bên trong, bạn sẽ cảm thấy tiếng nói tĩnh lặng diễn ra bên trong. Và thế thì không cái gì sẽ quấy rối bạn. Nếu bạn có thể cảm thấy âm thanh bên trong của bạn, thế thì không cái gì từ bên ngoài có thể quấy rối bạn. Bạn vẫn còn im lặng; bất kì cái gì xảy ra quanh bạn đều không tạo ra khác biệt.
Kĩ thuật âm thanh cuối cùng:
Đi vào âm thanh của tên ông và, qua âm thanh này, mọi âm thanh.
Tên riêng của bạn có thể được dùng như mật chú rất dễ dàng, và nó rất giúp đỡ vì tên của bạn đã đi rất sâu trong vô thức của bạn. Không cái gì khác đã đi sâu thế. Nếu tất cả chúng ta ngồi ở đây, và tất cả chúng ta rơi vào giấc ngủ và ai đó tới và gọi "Ram," không ai sẽ lắng nghe ngoại trừ người có tên là Ram. Người đó sẽ lắng nghe nó; người đó sẽ bị quấy rối trong giấc ngủ. Không ai khác sẽ lắng nghe âm thanh "Ram," nhưng tại sao người này lắng nghe? Nó đã đi sâu xuống dưới; nó không là ý thức bây giờ, nó đã trở thành vô thức.
Tên của bạn đã đi rất sâu bên trong bạn, nhưng có hiện tượng rất hay về tên của bạn: bạn không bao giờ gọi nó, người khác gọi nó. Người khác dùng nó; bạn không bao giờ dùng nó.
Tôi đã nghe rẳng trong chiến tranh thế giới thứ nhất, lần đầu tiên ở Mĩ chế độ phân phối được tạo ra. Thomas Edison đã là nhà khoa học rất vĩ đại, nhưng ông ấy rất nghèo cho nên ông ấy phải đứng xếp hàng nhận phiếu phân phối của mình. Và ông ấy là con người vĩ đại tới mức không ai đã bao giờ dùng tên ông ấy trước ông ấy. Không có nhu cầu dùng tên ông ấy cho bản thân ông ấy, và không người nào khác sẽ dùng tên ông ấy vì ông ấy được kính trọng nhiều thế. Mọi người đều gọi ông ấy là Giáo sư, cho nên ông ấy đã quên mất tên ông ấy là gì.
Ông ấy đứng xếp hàng, và khi tên ông ấy được gọi, khi người ta hỏi ai là Thomas Alva Edison, ông ấy cứ ngây người ra nhìn. Tên ông ấy lại được gọi lần nữa, thế rồi ai đó hàng xóm của Edison nói với ông ấy, "Sao ông vẫn đứng đấy? Tên ông được gọi rồi. Đó là tên ông, thưa Giáo sư." Thế là ông ấy trở nên nhận biết và ông ấy nói, "Nhưng làm sao tôi có thể nhận ra nó được? Không ai gọi tôi là Edison. Đã lâu quá rồi... họ chỉ gọi tôi là Giáo sư."
Bạn không bao giờ dùng tên riêng của bạn. Chỉ người khác dùng nó - bạn đã nghe thấy nó được người khác dùng. Nhưng nó đã đi sâu, rất sâu. Nó đã xuyên thấu như mũi tên vào trong vô thức của bạn. Nếu bản thân bạn dùng nó, thế thì nó trở thành mật chú. Và nó giúp đỡ theo hai lí do: một, khi bạn dùng tên riêng của bạn, nếu tên của bạn là "Ram" và bạn dùng "Ram, Ram, Ram...", đột nhiên bạn cảm thấy dường như bạn đang dùng tên của ai đó khác - dường như nó không phải là của bạn. Hay nếu bạn cảm thấy rằng đây là tên của bạn, bạn cảm thấy rằng có thực thể tách rời bên trong bạn đang dùng nó. Nó có thể thuộc về thân thể, nó có thể thuộc về tâm trí, nhưng người đang gọi "Ram, Ram..." trở thành nhân chứng.
Bạn bao giờ cũng gọi tên của người khác. Khi bạn gọi tên riêng của bạn nó có vẻ dường như thuộc vào ai đó khác, không vào bạn, và đó là hiện tượng rất hiển lộ. Bạn có thể trở thành nhân chứng cho tên riêng của bạn, và với cái tên này toàn thể cuộc đời bạn được tham gia vào. Bị tách rời khỏi cái tên, bạn bị tách rời khỏi toàn thể cuộc sống của bạn. Và cái tên này đã xuyên thấu sâu vào bên trong bạn vì mọi người đã gọi bạn qua cái tên này từ chính việc sinh của bạn, bạn bao giờ cung đã nghe thấy cái tên này. Cho nên dùng âm thanh này đi, và với âm thanh này bạn có thể đi tới chính chiều sâu mà cái tên này đã đi tới.
Vào thời xưa chúng ta đã cho mọi người cái tên của Thượng đế - mọi người. Ai đó là Ram, ai đó là Narayan, ai đó là Krishna, ai đó là Vishnu, hay cái gì đó kiểu như điều đó. Họ nói mọi cái tên người Mô ha mét giáo đều là tên của Thượng đế - mọi cái tên người Mô ha mét giáo! Và trên khắp thế giới điều đó đã là thực hành, việc cho cái tên thực sự là tên của Thượng đế.
Điều này đã là vì những lí do tốt. Một lí do là kĩ thuật này - vì nếu tên của bạn có thể được dùng như mật chú nó sẽ phục vụ bạn cho chủ định kép. Nó sẽ là tên của bạn - và bạn đã nghe nó nhiều thế, nhiều lần thế, và với mọi thứ trong cuộc sống của bạn nó đã xuyên sâu. Thế rồi thêm nữa, nó là tên của Thượng đế. Cho nên liên tục lặp lại nó bên trong, và đột nhiên bạn sẽ trở nên nhận biết rằng "Cái tên này là khác với mình." Thế thì dần dần cái tên này sẽ có phần thưởng của riêng nó. Bạn sẽ nhớ bất kì ngày nào rằng "Narayan" hay "Ram," đây là tên của Thượng đế. Tên của bạn đã biến thành mật chú.
Dùng nó đi! Điều này rất tốt! Bạn có thể thử nhiều thứ bằng tên bạn. Nếu bạn muốn được thức dậy vào năm giờ sáng, không báo thức nào là đích xác thế như tên riêng của bạn. Chỉ lặp lại ba lần bên trong, "Ram, mình phải thức dậy trước năm giờ đúng." Lặp lại nó ba lần, và thế rồi rơi vào giấc ngủ. Bạn sẽ thức dậy vào năm giờ vì "Ram," tên bạn, ở rất sâu trong vô thức.
Gọi tên bạn và tự nhủ mình rằng "Vào năm giờ sáng, để mình thức dậy." Ai đó sẽ đánh thức bạn. Và nếu bạn liên tục thực hành này, một ngày nào đó bạn sẽ ngạc nhiên nhận ra rằng vào năm giờ ai đó gọi bạn và nói, "Ram, thức dậy đi." Đó là vô thức của bạn gọi bạn.
Kĩ thuật này nói, Đi vào âm thanh của tên ông và, qua âm thanh này, mọi âm thanh. Tên bạn trở thành cánh cửa cho mọi cái tên. Nhưng đi vào âm thanh này. Trước hết, khi bạn lặp lại "Ram, Ram, Ram..." nó chỉ là lời. Nhưng nó ngụ ý cái gì đó khi bạn liên tục lặp lại "Ram, Ram, Ram..."
Bạn phải đã nghe câu chuyện về Valmiki. Ông ấy được cho mật chú "Ram" này, nhưng ông ấy là người dốt nát - vô giáo dục, đơn giản, hồn nhiên, như trẻ con. Ông ấy bắt đầu lẩm nhẩm "Ram, Ram, Ram..." nhưng ông ấy lặp lại nhiều tới mức ông ấy quên hoàn toàn và đảo ngược lại toàn thể sự việc. Thay vì thế ông ấy tụng "Mara, Mara..." Ông ấy tụng "Ram, Ram, Ram..." nhanh tới mức nó trở thành "Mara, Mara, Mara..." Và ông ấy đạt tới mục đích qua "Mara, Mara, mara..."
Nếu bạn liên tục lặp lại cái tên này thật nhanh bên trong, chẳng mấy chốc nó sẽ không là lời: nó sẽ trở thành âm thanh, chỉ vô nghĩa. Và thế thì không có khác biệt giữa Ram và Mara - không khác biệt! Dù bạn gọi Ram hay Mara, nó không tạo ra nghĩa, chúng không là lời. Nó chỉ là âm thanh, chỉ âm thanh mới thành vấn đề. Đi vào âm thanh này của tên bạn. Quên nghĩa của nó đi, chỉ đi vào âm thanh. Nghĩa là với tâm trí, âm thanh là với thân thể. Nghĩa là ở trong đầu, âm thanh lan toả khắp thân thể. Cho nên quên nghĩa đi. Chỉ lặp lại nó như âm thanh vô nghĩa, và qua âm thanh này bạn sẽ đi vào mọi âm thanh. Âm thanh này sẽ trở thành cánh cửa tới mọi âm thanh. Và "mọi âm thanh" ngụ ý mọi thứ tồn tại.
Đây là một trong những giáo lí cơ bản của việc tìm kiếm bên trong của Ấn Độ, đơn vị cơ bản đó của sự tồn tại là âm thanh và không là điện. Khoa học hiện đại nói rằng đơn vị cơ bản của sự tồn tại là điện, không phải âm thanh, nhưng họ cũng nói rằng âm thanh là một dạng của điện. Tuy nhiên người Ấn Độ bao giờ cũng nói rằng điện không là gì ngoài một dạng của âm thanh.
Bạn có thể đã nghe nói rằng qua một raga đặc biệt, một âm thanh đặc biệt, lửa có thể được tạo ra. Nó có thể được tạo ra - vì đây là ý tưởng Ấn Độ, rằng âm thanh là cơ sở của mọi điện. Cho nên nếu bạn đập âm thanh theo tần số đặc biệt, điện sẽ được tạo ra.
Trên những cầu dài, nếu một đội quân đi qua, họ không được phép đều bước vì nhiều lần chuyện đã xảy ra là vì họ đi đều bước chiếc cầu đổ sụp. Đó là vì âm thanh, không vì trọng lượng của họ. Họ sẽ đi qua bằng cách nào đó, nhưng nếu họ đi bước đều, thế thì âm thanh đặc biệt của chân họ phá vỡ cầu.
Trong lịch sử Do Thái cổ, thành phố Jericho đã được bảo vệ kĩ càng bởi những bức tường lớn và không thể nào phá được những bức tường đó bằng súng. Nhưng qua một âm thanh đặc biệt các bức tường đã bị phá, và âm thanh đó là bí mật của việc phá những bức tường đó. Nếu âm thanh đó được tạo ra trước các bức tường, tưởng sẽ nhường bước.
Bạn đã nghe câu chuyện về Ali Baba: một âm thanh đặc biệt và đá chuyển. Đây là chuyện ngụ ngôn. Dù chúng là đúng hay không, một điều là chắc chắn: nếu bạn có thể tạo ra một âm thanh đặc biệt liên tục tới mức nghĩa bị mất, tâm trí bị mất, đá ở tâm bạn sẽ được loại bỏ.

0 Đánh giá

Ads Belove Post