Read more
Vigyan Bhairav Mật Tông Tập 2 - Osho
Sách về các Bí mật: Bình luận mới
Chương 35. Quay vào trong hướng tới cái thực
Ôi người mắt sen, dịu dàng của cái chạm,
khi hát, nhìn, nếm, nhận biết ông hiện hữu và khám phá cái sống mãi.
Bất kì khi nào sự thoả mãn được tìm thấy,
trong bất kì hành động nào, thực tại hoá điều này.
Tại điểm ngủ, khi giấc ngủ còn chưa tới và
việc thức tỉnh bên ngoài tan biến, tại điểm này hiện hữu được khải lộ.
Ảo vọng lừa dối, mầu sắc bao quanh, ngay cả
cái phân chia được cũng là không phân chia được.
Văn minh là việc huấn luyện về
cách trở thành không thực. Mật Tông là quá trình đảo ngược - cách ngăn cản bản
thân bạn khỏi trở thành không thực, và nếu bạn đã trở thành không thực, Mật Tông
là cách chạm vào thực tại được ẩn kín bên trong bạn, cách tiếp xúc lại với nó lần
nữa, cách lại là thực. Điều đầu tiên cần được hiểu là cách chúng ta liên tục trở
thành không thực, và một khi quá trình này được hiểu, nhiều điều thay đổi ngay
lập tức. Chính việc hiểu trở thành chuyển hoá.
Con người được sinh ra không bị
phân chia. Con người không là thân thể không là tâm trí. Con người được sinh ra
không bị phân chia, như một cá nhân. Con người là cả thân thể và tâm trí. Ngay
cả nói rằng người đó là cả hai cũng là sai. Con người là thân-tâm. Thân thể và
tâm trí là hai mặt của hiện hữu của người đó, không phải là hai phân chia - hai
cực của cái gì đó mà chúng ta có thể gọi là sự sống, năng lượng hay bất kì cái
gì - X,Y,Z - nhưng thân thể và tâm trí không phải là hai thứ.
Chính quá trình văn minh hoá,
giáo dục, văn hoá, ước định, đều bắt đầu bằng phân chia. Mọi người được dạy rằng
người đó là hai, không là một, và thế rồi, tất nhiên, người ta bắt đầu bị đồng
nhất với tâm trí và không với thân thể. Chính quá trình suy nghĩ trở thành
trung tâm của bạn và quá trình suy nghĩ chỉ là ngoại vi. Nó không phải là trung
tâm bởi vì bạn có thể tồn tại mà không suy nghĩ. Có thời bạn đã tồn tại không
suy nghĩ: suy nghĩ không phải là điều cần thiết để tồn tại. Nếu bạn đi sâu vào
trong thiền, bạn sẽ hiện hữu, và sẽ không có suy nghĩ. Nếu bạn trở nên vô ý thức,
bạn sẽ hiện hữu, nhưng sẽ không có suy nghĩ. Chuyển vào trong ngủ say bạn sẽ hiện
hữu, nhưng sẽ không có suy nghĩ. Suy nghĩ chỉ ở trên ngoại vi; con người bạn ở
đâu đó khác - sâu hơn suy nghĩ. Nhưng bạn liên tục được dạy rằng bạn là hai,
thân thể và tâm trí, và rằng, thực sự, bạn là tâm trí và bạn sở hữu thân thể.
Tâm trí trở thành chủ và thân thể trở thành tớ, và bạn liên tục vật lộn chống lại
thân thể. Điều này tạo ra đứt gãy, kẽ hở, và kẽ hở đó là vấn đề. Mọi chứng thần
kinh đều được sinh ra từ kẽ hở đó; mọi lo âu được sinh từ kẽ hở đó.
Con người bạn được bắt rễ trong
thân thể bạn, và thân thể bạn không chỉ là cái gì đó tách rời khỏi sự tồn tại.
Nó là một phần của sự tồn tại. Thân thể bạn là toàn thể vũ trụ. Nó không phải
là cái gì đó bị giới hạn, hữu hạn. Bạn có thể đã không quan sát nó, nhưng thử
quan sát xem thân thể bạn kết thúc ở chỗ nào - chỗ nào! Bạn nghĩ rằng thân thể
bạn kết thúc ở làn da của bạn sao?
Nếu mặt trời ở xa xăm thế mà chết
đi, lập tức bạn sẽ chết ở đây. Nếu tia sáng mặt trời dừng tới, bạn sẽ không còn
ở đây nữa. Thân thể bạn không thể tồn tại mà không có mặt trời đang ở đó xa xăm
kia. Mặt trời và bạn bằng cách nào đó có quan hệ sâu sắc. Mặt trời phải được chứa
trong thân thể bạn; bằng không bạn không thể tồn tại được. Bạn là một phần của
những tia sáng của nó.
Buổi sáng bạn thấy hoa nở: việc
nở ra của chúng thực sự là việc lên của mặt trời. Trong đêm chúng sẽ khép lại:
việc khép lại của chúng là việc lặn của mặt trời. Chúng chính là những tia sáng
lan toả ra. Bạn tồn tại ở đây bởi vì ở kia, xa xăm thế, mặt trời tồn tại. Da bạn
không thực sự là da bạn đâu. Da bạn liên tục lan toả; ngay cả mặt trời cũng được
bao hàm. Bạn đang thở: bạn có thể thở bởi vì không khí có đó, bầu khí quyển có
đó. Từng khoảnh khắc bạn thở ra và hít vào, bầu khí quyển vào và ra.
Nếu trong một khoảnh khắc không
có không khí, bạn chắc chết. Hơi thở của bạn là cuộc sống của bạn. Nếu hơi thở
của bạn là cuộc sống của bạn, thế thì toàn thể bầu khí quyển là một phần của bạn.
Bạn không thể tồn tại mà không có nó. Cho nên thân thể bạn thực sự kết thúc ở
đâu? Giới hạn là ở đâu? Không có giới hạn! Nếu bạn quan sát, nếu bạn đi sâu, bạn
sẽ thấy không có giới hạn. Hay, giới hạn của vũ trụ là giới hạn thân thể bạn.
Toàn thể vũ trụ được bao hàm trong bạn, cho nên thân thể bạn không chỉ là thân
thể bạn; nó là vũ trụ của bạn và bạn được tiếp đất trong nó. Tâm trí bạn nữa
không thể tồn tại mà không có thân thể. Nó là một phần của thân thể, một quá
trình của thân thể.
Phân chia có tính phá huỷ, và với
phân chia bạn nhất định trở nên bị đồng nhất với tâm trí. Bạn nghĩ, và không có
việc nghĩ, không có phân chia. Bạn nghĩ, và bạn trở nên bị đồng nhất với việc
nghĩ của bạn. Thế rồi bạn cảm thấy dường như bạn sở hữu thân thể. Đây là việc đảo
ngược hoàn toàn của chân lí. Bạn không sở hữu thân thể; thân thể cũng không sở
hữu bạn. Chúng không phải là hai thứ. Sự tồn tại của bạn là một, sự hài hoà sâu
sắc của các cực đối lập. Nhưng các cực đối lập không bị phân chia, chúng được nối
với nhau. Chỉ thế thì chúng mới có thể trở thành các cực đối lập. Và đối lập là
tốt. Nó cho thách thức, nó cho sức chịu đựng, nó tạo ra năng lượng. Nó là biện
chứng.
Nếu bạn mà thực sự là một,
không có các cực đối lập bên trong, bạn chắc sẽ là đờ đẫn và chết. Hai cực đối
lập này, thân thể và tâm trí, cho bạn sự sống. Chúng là đối lập và đồng thời bù
nhau - và về căn bản và chung cuộc là một. Một dòng chảy của năng lượng chạy
trong cả hai. Nhưng một khi chúng ta bị đồng nhất với quá trình suy nghĩ, chúng
ta nghĩ rằng chúng ta được định tâm trong đầu. Nếu chân bạn bị chặt đi, bạn sẽ
không cảm thấy rằng bạn bị chặt. Bạn sẽ nói, "Chân tôi bị chặt."
Nhưng nếu đầu bạn bị chặt, bạn bị chặt. Bạn bị giết chết.
Nếu bạn nhắm mắt lại để cảm xem
bạn ở đâu, lập tức bạn sẽ cảm thấy bạn ở trong đầu. Bạn không ở đó - vì khi lần
đầu tiên bạn đi vào cuộc sống trong bụng mẹ bạn, khi các nguyên tử nam và nữ gặp
gỡ, đã không có đầu. Nhưng sự sống đã bắt đầu. Bạn ở đó, và đã không có đầu.
Trong việc gặp gỡ đầu tiên đó của hai tế bào sống, bạn đã được tạo ra. Cái đầu
tới muộn về sau, nhưng con người bạn đã có đó. Con người đó ở đâu? Nó không ở
trong đầu bạn. Thực sự, nó không ở đâu cả - hay ở mọi nơi trong thân thể bạn.
Nó không ở đâu cả; bạn không thể chỉ ra nó ở đâu. Và khoảnh khắc bạn chỉ ra nó,
bạn bỏ lỡ toàn thể sự việc. Nó ở mọi nơi. Cuộc sống của bạn ở mọi nơi, nó lan
toả khắp trên bạn. Và không chỉ khắp trên bạn; nếu bạn đi theo nó, bạn sẽ phải
đi tới chính tận cùng của vũ trụ. Nó ở mọi nơi!
Với sự đồng nhất rằng
"Mình là tâm trí," mọi thứ trở thành giả. Bạn trở thành không thật vì
sự đồng nhất này là giả. Điều này phải bị phá vỡ. Các kĩ thuật Mật Tông là để đập
tan sự đồng nhất này. Nỗ lực của Mật Tông là để làm cho bạn vô đầu, không được
định tâm, mọi nơi hay không nơi nào. Và tại sao nhân loại, tại sao con người trở
thành giả và không thực với tâm trí? Vì tâm trí là hiện tượng phụ - một quá
trình cần thiết, hữu dụng, nhưng là phụ; quá trình bao gồm lời, không bao gồm
thực tại. Lời `yêu' không phải là yêu, lời `thượng đế' không phải là Thượng đế.
Nhưng tâm trí bao gồm các lời, các quá trình lời nói, và thế bản thân yêu trở
thành ít ý nghĩa hơn lời `yêu'. Với tâm trí, lời là nhiều ý nghĩa hơn. Thượng đế
trở thành ít ý nghĩa hơn lời `Thượng đế'. Với tâm trí nó là vậy. Lời trở thành
có nghĩa, ý nghĩa hơn. Chúng trở thành chính, và chúng ta bắt đầu sống trong lời.
Và bạn càng sống trong lời, bạn càng trở nên nông cạn hơn, và bạn sẽ liên tục bỏ
lỡ thực tại cái không phải là lời. Thực tại là sự tồn tại.
Sống trong tâm trí là dường như
ai đó sống trong gương. Ban đêm, nếu bạn đi ra hồ và hồ im lặng và không có gợn
sóng, hồ trở thành gương. Bạn có thể nhìn vào trăng trong hồ, nhưng trăng đó là
giả - chỉ là sự phản xạ. Cái phản xạ tới từ cái thực, nhưng cái phản xạ không
phải là thực. Tâm trí chỉ là hiện tượng phản xạ. Thực tại được phản xạ trong
nó, nhưng cái phản xạ không phải là thực. Và nếu bạn bị mắc vào trong cái phản
xạ, bạn sẽ bỏ lỡ thực tại hoàn toàn. Đó là lí do tại sao, với tâm trí, với cái
phản xạ, mọi thứ đều lay động. Một con sóng nhẹ, một làn gió nhẹ, sẽ làm rối
tâm trí bạn. Thực tại không bị làm rối, nhưng tâm trị bị làm rối bởi bất kì cái
gì. Tâm trí là hiện tượng phản xạ, và chúng ta đang sống trong tâm trí.
Mật Tông nói bước xuống đi. Đi
xuống từ ngai vàng của bạn, đi xuống từ cái đầu của bạn. Quên cái phản xạ và
chuyển tới thực tại đi. Mọi kĩ thuật mà chúng ta đang thảo luận đều liên quan tới
điều này: làm sao xa khỏi tâm trí để cho bạn có thể chuyển vào trong thực tại.
Bây giờ chúng ta thảo luận về các kĩ thuật.
Kĩ thuật thứ nhất:
“Ôi người mắt sen, dịu dàng của cái chạm,
khi hát, nhìn, nếm, nhận biết ông hiện hữu và khám phá cái sống mãi.”
Chúng ta đang sống, nhưng chúng
ta không nhận biết rằng chúng ta hiện hữu hay rằng chúng ta đang sống. Không có
việc tự nhớ. Bạn đang ăn hay bạn đang tắm hay bạn đang đi dạo: bạn không nhận
biết rằng bạn hiện hữu khi bước đi. Mọi thứ hiện hữu, chỉ bạn không hiện hữu.
Cây, nhà, giao thông, mọi thứ hiện hữu. Bạn nhận biết về mọi thứ quanh bạn,
nhưng bạn không nhận biết về con người riêng của bạn - rằng bạn hiện hữu. Bạn
có thể nhận biết về toàn thế giới, nhưng nếu bạn không nhận biết về bản thân bạn,
nhận biết đó là giả. Tại sao? Vì tâm trí bạn có thể phản xạ mọi thứ, nhưng tâm
trí bạn không thể phản xạ bạn. Nếu bạn nhận biết về bản thân bạn, thế thì bạn
đã siêu việt trên tâm trí.
Việc tự nhớ của bạn không thể
được phản xạ trong tâm trí bạn vì bạn ở đằng sau tâm trí. Nó có thể phản xạ chỉ
các thứ ở trước nó. Bạn chỉ có thể nhìn thấy người khác, nhưng bạn không thể
nhìn thấy bản thân bạn. Mắt bạn có thể thấy mọi người, nhưng mắt bạn không thể
thấy bản thân chúng. Nếu bạn muốn thấy bản thân bạn, bạn sẽ cần chiếc gương. Chỉ
trong gương bạn mới có thể thấy được bản thân bạn, nhưng thế thì bạn sẽ phải đứng
trước gương. Nếu tâm trí bạn là gương, nó có thể phản xạ toàn thế giới. Nó
không thể phản xạ được bạn vì bạn không thể đứng trước nó được. Bạn bao giờ
cũng ở sau, ẩn đằng sau gương này.
Kĩ thuật này nói trong khi làm
bất kì cái gì - hát, nhìn, nếm - nhận biết rằng bạn hiện hữu và khám phá cái sống
mãi, và khám phá bên trong bản thân bạn dòng chảy, năng lượng, sự sống, cái sống
mãi. Nhưng chúng ta không nhận biết về bản thân chúng ta.
Gurdjieff đã dùng tự nhớ như một
kĩ thuật cơ bản ở phương Tây. Tự nhớ được dẫn ra từ lời kinh này. Toàn thể hệ
thống của Gurdjief được dựa trên một lời kinh này. Nhớ tới bản thân bạn, dù bạn
đang làm bất kì cái gì. Nó rất khó. Nó có vẻ rất dễ, nhưng bạn sẽ liên tục
quên. Ngay cả trong ba hay bốn giây bạn không thể nhớ được bản thân bạn. Bạn sẽ
có cảm giác rằng bạn đang nhớ, và đột nhiên bạn đã chuyển sang ý nghĩ khác nào
đó. Ngay cả với ý nghĩ này rằng "Được, mình đang nhớ tới bản thân
mình," bạn sẽ bỏ lỡ, vì ý nghĩ này không phải là tự nhớ. Trong tự nhớ sẽ
không có ý nghĩ; bạn sẽ hoàn toàn trống rỗng. Và tự nhớ không phải là quá trình
tâm trí. Không phải là bạn nói, "Vâng, tôi hiện hữu." Nói "Vâng,
tôi hiện hữu," bạn đã lỡ. Đây là một thứ của tâm trí, đây là quá trình tâm
trí: "Tôi hiện hữu."
Cảm thấy "Tôi hiện hữu,"
không phải là những lời "Tôi hiện hữu." Đừng lời hoá, chỉ cảm thấy rằng
bạn hiện hữu. Không nghĩ, cảm thôi! Thử nó đi. Khó đấy, nhưng nếu bạn liên tục
kiên trì, nó xảy ra. Trong khi bước đi, nhớ bạn hiện hữu, và có cảm giác về hiện
hữu của bạn, không về bất kì ý nghĩ nào, không về bất kì ý tưởng nào. Chỉ cảm.
Tôi chạm tay bạn hay tôi đặt tay lên đầu bạn: đừng nói thành lời. Chỉ cảm cái
chạm, và trong việc cảm đó, cảm không chỉ cái chạm, mà cảm cả người được chạm nữa.
Thế thì ý thức của bạn trở thành mũi tên kép.
Bạn đang bước đi dưới cây: cây
có đó, làn gió thoảng có đó, mặt trời đang lên. Đây là thế giới khắp xung quanh
bạn; bạn nhận biết về nó. Đứng một chốc và đột nhiên nhớ rằng bạn hiện hữu,
nhưng không nói thành lời. Chỉ cảm rằng bạn hiện hữu. Cảm không nói ra lời, cho
dù chỉ trong một khoảnh khắc, sẽ cho bạn một thoáng nhìn - thoáng nhìn mà không
LSD nào có thể cho bạn, thoáng nhìn mà là của cái thực. Trong một khoảnh khắc bạn
được ném trở lại trung tâm của hiện hữu của bạn. Bạn ở đằng sau tấm gương; bạn
đã siêu việt trên thế giới của phản xạ; bạn mang tính tồn tại. Và bạn có thể
làm điều đó bất kì lúc nào. Không cần bất kì chỗ đặc biệt nào hay bất kì thời
gian đặc biệt nào. Và bạn không thể nói, "Tôi không có thời gian."
Khi ăn bạn có thể làm nó, khi tắm bạn có thể làm nó, khi đi hay ngồi bạn có thể
làm nó - bất kì lúc nào. Không thành vấn đề bạn đang làm gì, bạn có thể đột nhiên
nhớ tới bản thân bạn, và thế rồi cố gắng liên tục có thoáng nhìn đó về hiện hữu
của bạn.
Điều đó sẽ là khó. Khoảnh khắc
này bạn sẽ cảm thấy nó có đó, khoảnh khắc tiếp bạn đã chuyển đi mất rồi. Ý nghĩ
nào đó sẽ đi vào, nhận xét nào đó sẽ tới với bạn, và bạn đã trở nên bị dính líu
vào nhận xét này. Nhưng đừng buồn và đừng thất vọng. Điều này là vậy vì trong
nhiều kiếp rồi chúng ta đã từng quan tâm tới nhận xét. Điều này đã trở thành cơ
chế tựa robot. Ngay lập tức, một cách tự động, chúng ta bị ném vào nhận xét.
Nhưng cho dù một khoảnh khắc bạn có thoáng nhìn này, thế là đủ cho phần bắt đầu.
Và tại sao nó là đủ? Vì bạn sẽ không bao giờ có hai khoảnh khắc cùng nhau. Chỉ
một khoảnh khắc bao giờ cũng cùng bạn. Và nếu bạn có thể có thoáng nhìn này
trong một khoảnh khắc, bạn có thể vẫn còn trong nó. Chỉ nỗ lực được cần - nỗ lực
liên tục được cần.
Một khoảnh khắc được trao cho bạn.
Bạn không thể có hai khoảnh khắc cùng nhau, cho nên đừng lo nghĩ về hai khoảnh
khắc. Bạn bao giờ cũng sẽ có được chỉ một khoảnh khắc. Và nếu bạn có thể nhận
biết trong một khoảnh khắc, bạn có thể nhận biết cho toàn thể cuộc đời bạn. Bây
giờ nỗ lực duy nhất được cần, và điều này có thể được làm cả ngày. Bất kì khi
nào bạn nhớ, nhớ tới bản thân bạn.
"Ôi người mắt sen, dịu
dàng của cái chạm, khi hát, nhìn, nếm, nhận biết ông hiện hữu và khám phá cái sống
mãi." Khi kinh này nói "Nhận biết ông hiện hữu", bạn sẽ làm gì? Bạn
có nhớ rằng, "Tên tôi là Ram" hay "Jesus" hay cái gì đó
khác không? Bạn có nhớ rằng bạn thuộc về gia đình như thế, tôn giáo và tín ngưỡng
như thế không? Thuộc vào đất nước và đẳng cấp và tín điều như thế không? Bạn có
nhớ rằng bạn là người cộng sản hay người Hindu hay người Ki tô giáo không? Bạn
sẽ nhớ cái gì?
Kinh này nói nhận biết bạn hiện
hữu; nó đơn giản nói "Ông hiện hữu". Không cái tên nào được cần,
không đất nước nào được cần. Để chỉ có sự tồn tại đơn giản: ông hiện hữu! Cho
nên đừng nói với bản thân bạn, bạn là ai. Đừng trả lời rằng, "Tôi là cái
này và cái nọ." Để có sự tồn tại đơn giản, rằng bạn hiện hữu.
Nhưng điều đó trở thành khó vì
chúng ta không bao giờ nhớ sự tồn tại đơn giản. Chúng ta bao giờ cũng nhớ cái
gì đó chỉ là cái nhãn, không phải bản thân sự tồn tại. Bất kì khi nào bạn nghĩ
về bản thân bạn, bạn nghĩ về cái tên của bạn, tôn giáo, đất nước, nhiều thứ
nhưng không bao giờ nghĩ tới sự tồn tại đơn giản rằng bạn hiện hữu.
Bạn có thể thực hành điều này:
thảnh thơi trong ghế hay chỉ ngồi dưới cây, quên mọi thứ đi và cảm điều này
“tôi hiện hữu.” Không người Ki tô giáo, không người Hindu, không Phật tử, không
người Ấn Độ, không người Anh, không người Đức - đơn giản, bạn hiện hữu. Có việc
cảm về nó, và thế thì sẽ dễ dàng cho bạn nhớ kinh này nói cái gì: "Nhận biết
ông hiện hữu và khám phá cái sống mãi." Và khoảnh khắc bạn nhận biết rằng
bạn hiện hữu, bạn bị ném vào trong dòng chảy của cái sống mãi. Cái giả sẽ chết
đi; chỉ cái thực sẽ còn lại.
Đó là lí do tại sao chúng ta sợ
chết thế: vì cái không thực sẽ chết. Cái không thực không thể hiện hữu mãi mãi
được, và chúng ta bị gắn với cái không thực, bị đồng nhất với cái không thực. Bạn
như người Hindu sẽ phải chết; bạn như Ram hay Krishna sẽ phải chết; bạn như người
cộng sản, như người vô thần, như người hữu thần, sẽ phải chết; bạn như cái tên
và hình tướng sẽ phải chết. Và nếu bạn được gắn với cái tên và hình tướng, hiển
nhiên nỗi sợ chết sẽ tới với bạn, nhưng cái thực, cái tồn tại, cái cơ bản trong
bạn, là bất tử. Một khi hình tướng và tên tuổi bị quên đi, một khi bạn có cái
nhìn bên trong vào cái vô danh và vô hình tướng, bạn đã đi vào trong cái vĩnh hằng.
"Nhận biết ông hiện hữu và
khám phá cái sống mãi": Kĩ thuật này là một trong những kĩ thuật giúp đỡ
nhiều nhất, và nó đã được dùng trong hàng nghìn năm bởi nhiều thầy giáo, thầy.
Phật đã dùng nó, Mahavira đã dùng nó, Jesus đã dùng nó, và trong thời hiện đại
Gurdjieff đã dùng nó. Trong số mọi kĩ thuật này, đây là một trong những kĩ thuật
tiềm năng nhất. Thử nó đi. Sẽ mất thời gian; nhiều tháng sẽ trôi qua.
Khi Ouspensky học cùng với
Gurdjieff, trong ba tháng ông ấy đã phải làm nhiều nỗ lực, nỗ lực gian nan, để
có thoáng nhìn về tự nhớ là gì. Cho nên liên tục, trong ba tháng, Ouspensky đã
sống trong ngôi nhà tách biệt chỉ làm một điều - tự nhớ. Ba mươi người bắt đầu
thực nghiệm đó, và đến cuối tuần thứ nhất hai mươi bẩy người đã thoát đi; chỉ
ba người còn lại. Cả ngày họ cố gắng nhớ - không làm bất kì cái gì khác, chỉ nhớ
rằng "Tôi hiện hữu." Hai mươi bẩy người cảm thấy họ đã phát rồ. Họ cảm
thấy rằng bâu giờ điên đã ở thật gần, cho nên họ thoát đi. Họ không bao giờ
quay lại; họ không bao giờ gặp lại Gurdjieff.
Tại sao? Như chúng ta vậy, thực
sự, chúng ta điên. Không nhớ chúng ta là ai, chúng ta là gì, chúng ta điên,
nhưng cái điên này bị coi như lành mạnh. Một khi bạn cố quay lại, một khi bạn cố
tiếp xúc với cái thực, điều đó sẽ có vẻ giống như rồ dại, nó sẽ có vẻ giống như
điên. So với điều chúng ta đang là vậy, nó chỉ là điều đảo ngược, cái đối lập.
Nếu bạn cảm thấy rằng đây là
lành mạnh, điều đó sẽ có vẻ như điên.
Nhưng ba người vẫn kiên trì. Một
trong ba người là P. D. Ouspensky. Trong ba tháng họ đã kiên trì. Chỉ sau tháng
thứ nhất họ đã bắt đầu có thoáng nhìn về sự hiện hữu đơn giản - về "Tôi hiện
hữu." Sau tháng thứ hai, ngay cả "tôi" cũng bị rơi rụng đi, và họ
bắt đầu có những thoáng nhìn về "hiện hữu" - về chỉ hiện hữu, thậm
chí không có "tôi", vì "tôi" cũng là cái nhãn. Hiện hữu thuần
khiết không phải là "tôi" và "người"; nó chỉ là hiện hữu.
Và đến tháng thứ ba thậm chí việc
cảm về "hiện hữu" cũng tan biến vì việc cảm đó về sự hiện hữu vẫn là
lời. Ngay cả từ đó cũng tan biến. Thế thì bạn hiện hữu, và thế thì bạn biết bạn
là gì. Trước khi điểm đó tới bạn không thể hỏi, "Tôi là ai?" Hay bạn
có thể liên tục hỏi, "Tôi là ai?", chỉ liên tục truy vấn, "Tôi
là ai? Tôi là ai?", và mọi câu trả lời được tâm trí cung cấp sẽ được thấy
là giả, không liên quan. Bạn liên tục hỏi, "Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là
ai?" và một điểm tới nơi bạn không thể hỏi thêm được câu hỏi này. Mọi câu
trả lời sụp đổ, và thế thì bản thân câu hỏi này sụp đổ và biến mất. Và khi ngay
cả câu hỏi, " Tôi là ai?" biến mất, bạn biết bạn là ai.
Gurdjieff thử từ góc này: chỉ cố
nhớ bạn hiện hữu. Raman Maharshi thử từ góc khác. Ông ấy làm ra việc thiền từ
việc hỏi, truy hỏi, "Tôi là ai?" Và không tin vào bất kì câu trả lời
nào mà tâm trí có thể cung cấp. Tâm trí sẽ nói, "Mình đang hỏi cái vô
nghĩa gì vậy? Mình là cái này, mình là cái kia, mình là đàn ông, mình là đàn
bà, mình có giáo dục hay vô giáo dục, giầu hay nghèo." Tâm trí sẽ cung cấp
những câu trả lời, nhưng liên tục hỏi. Không chấp nhận bất kì câu trả lời nào
vì mọi câu trả lời được tâm trí cho đều là giả. Chúng là từ phần không thực của
bạn. Chúng tới từ lời, chúng tới từ kinh sách, chúng tới từ ước định, chúng tới
từ xã hội, chúng tời từ người khác. Liên tục hỏi. Để mũi tên này về "Tôi
là ai?" xuyên ngày càng sâu hơn. Một khoảnh khắc sẽ tới khi không câu trả
lời nào sẽ tới.
Đó là khoảnh khắc đúng. Bây giờ
bạn ở gần câu trả lời. Khi không câu trả lời nào tới, bạn ở gần câu trả lời vì
tâm trí đang trở nên im lặng - hay bạn đã đi xa khỏi tâm trí. Khi không có câu
trả lời và chân không sẽ được tạo ra quanh bạn, các câu hỏi của bạn sẽ có vẻ ngớ
ngẩn. Bạn đang hỏi ai? Không có người nào trả lời bạn. Đột nhiên, ngay cả việc
hỏi của bạn sẽ dừng lại. Với việc hỏi, phần cuối cùng của tâm trí đã tan biến
vì câu hỏi này cũng là của tâm trí. Những câu trả lời kia của tâm trí và câu hỏi
này cũng của tâm trí. Cả hai đã tan biến, cho nên bây giờ bạn hiện hữu.
Thử điều này đi. Có mọi khả năng,
nếu bạn kiên trì, rằng kĩ thuật này có thể cho bạn một thoáng nhìn về cái thực
- và cái thực sống mãi.
Kĩ thuật thứ hai:
Bất kì khi nào sự thoả mãn được tìm thấy, trong bất kì hành động nào, thực tại hoá điều này.
Bạn cảm thấy khát, cho nên bạn uống nước. Việc thoả mãn tinh tế được đạt tới. Quên nước đi, quên cơn khát đi. Vẫn còn lại với sự thoả mãn tinh tế mà bạn đang cảm thấy. Đượ rót đầy bởi nó; đơn giản cảm thấy được thoả mãn.
Nhưng tâm trí con người là tinh quái. Nó chỉ cảm thấy không thoả mãn, không hài lòng. Nó không bao giờ cảm thấy thoả mãn; nó không bao giờ cảm thấy hài lòng. Nếu bạn không được thoả mãn, bạn sẽ cảm thấy điều đó và bạn sẽ được rót đầy bởi điều đó. Khi bạn khát, bạn cảm thấy nó: bạn được rót đầy bởi khát; bạn cảm thấy nó trong họng. Nếu nó phát triển bạn cảm thấy nó trên khắp thân thể bạn, và một khoảnh khắc sẽ tới khi không phải là bạn khát, bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đã trở thành cơn khát. Nếu bạn đang trong sa mạc và không có hi vọng nào lấy được nước, bạn sẽ không cảm thấy rằng bạn khát; bạn sẽ cảm thấy rằng bạn đã trở thành cơn khát.
Không thoả mãn được cảm thấy, khổ được cảm thấy, đau được cảm thấy. Bất kì khi nào bạn khổ, bạn trở thành việc khổ. Đó là lí do tại sao toàn thể cuộc sống trở thành địa ngục. Bạn không bao giờ cảm thấy cái khẳng định; bạn bao giờ cũng cảm thấy cái phủ định. Sống là khổ thế như chúng ta đã làm ra nó; khổ chỉ là diễn giải của chúng ta. Phật hạnh phúc ở đây và bây giờ, trong chính cuộc sống này. Một Krishna đang nhảy múa và thổi sáo. Trong chính cuộc sống này ở đây và bây giờ, nơi chúng ta khổ, Krishna đang nhảy múa. Sống không khổ, sống cũng không phúc lạc. Phúc lạc và khổ là diễn giải của chúng ta, thái độ của chúng ta, cách tiếp cận của chúng ta, cách chúng ta nhìn vào nó. Đó là tâm trí bạn - cách nó nhận điều đó.
Nhớ, và phân tích cuộc sống riêng của bạn đi. Đã bao giờ bạn tính tới những khoảnh khắc của hạnh phúc, của hài lòng, của thoả mãn, của thoáng nhìn phúc lạc không? Bạn đã không tính tới chút nào, nhưng bạn đã tính mọi cái đau của bạn, khổ, khốn khổ của bạn, và bạn liên tục tích luỹ. Bạn là địa ngục được tích luỹ, và đây là chọn lựa riêng của bạn.
Không người nào khác ép buộc bạn vào địa ngục này; đây là chọn lựa riêng của bạn. Tâm trí nhận cái phủ định, tích luỹ nó và trở thành bản thân việc phủ định. Và thế thì đây là khổ tự kéo dài mãi. Bạn càng có nhiều phủ định trong tâm trí, bạn càng trở nên phủ định hơn, càng nhiều phủ định được tích luỹ. Cái tương tự hấp dẫn cái tương tự, và điều này đã là vậy trong hết kiếp nọ tới kiếp kia. Bạn bỏ lỡ mọi thứ vì cách tiếp cận phủ định của bạn.
Kĩ thuật này cho bạn cách tiếp cận khẳng định, việc đảo ngược toàn bộ với tâm trí thông thường và quá trình của nó. Bất kì chỗ nào sự thoả mãn được thấy, trong bất kì hành động nào, thực tại hoá điều này đi, cảm nó, trở thành một với nó. Không coi nó chỉ như một pha đi qua. Sự thoả mãn có thể trở thành thoáng nhìn về sự tồn tại khẳng định lớn hơn.
Mọi thứ chỉ là cửa sổ. Nếu bạn trở nên bị đồng nhất với đau, bạn đang nhìn từ cửa sổ, và cửa sổ của đau, của khổ, chỉ mở hướng tới địa ngục. Nếu bạn là một với khoảnh khắc thoả mãn, khoảnh khắc phúc lạc, khoảnh khắc cực lạc, bạn đang mở ra cửa sổ khác. Sự tồn tại vẫn là vậy, nhưng cửa sổ của bạn là khác.
Bất kì chỗ nào sự thoả mãn được thấy, trong bất kì hành động nào, thực tại hoá nó đi - bất kì chỗ nào! Vô điều kiện: bất kì chỗ nào! Bạn gặp một người bạn và bạn cảm thấy hạnh phúc; bạn gặp người yêu của bạn và bạn cảm thấy hạnh phúc: thực tại hoá điều này. Là hạnh phúc trong khoảnh khắc đó, và làm cho hạnh phúc đó thành cánh cửa. Thế thì bạn đang thay đổi tâm trí, và bạn sẽ bắt đầu tích luỹ hạnh phúc. Tâm trí bạn sẽ chuyển sang khẳng định, và cùng thế giới đó sẽ có vẻ khác.
Một Thiền sư, Bokuju, tương truyền đã nói, "Thế giới vẫn vậy, nhưng không cái gì còn là như vậy vì tâm trí thay đổi. Mọi thứ vẫn còn như vậy, nhưng không cái gì còn như vậy vì ta không còn như vậy."
Bạn liên tục cố thay đổi thế giới, và không thành vấn đề bạn làm gì, thế giới sẽ vẫn còn như vậy vì bạn vẫn còn như vậy. Bạn có thể có nhà lớn hơn, bạn có thể có xe hơi lớn hơn, bạn có thể có vợ đẹp hơn hay chồng đẹp hơn, nhưng không cái gì sẽ thay đổi. Nhà lớn hơn sẽ không là lớn hơn. Vợ đẹp hay chồng đẹp sẽ không là đẹp hơn. Xe lớn hơn sẽ vẫn còn là xe nhỏ hơn vì bạn vẫn là vậy. Tâm trí bạn, cách tiếp cận của bạn, cách nhìn của bạn vẫn là vậy. Bạn liên tục thay đổi mọi thứ mà không thay đổi bản thân bạn. Cho nên chỉ người khổ bỏ chiếc lều và chuyển vào cung điện, nhưng người khổ vẫn còn như vậy. Người đó đã khổ trong lều; bây giờ người đó sẽ khổ trong cung điện. Khổ này có thể nguy nga, nhưng người đó sẽ khổ.
Bạn liên tục mang khổ của bạn đi cùng bạn, và bất kì chỗ nào bạn chuyển tới bạn sẽ ở cùng với bản thân bạn. Cho nên không thay đổi bên ngoài nào về căn bản là thay đổi; nó chỉ là dáng vẻ bên ngoài. Bạn đơn giản cảm thấy rằng đã có thay đổi, nhưng không có thay đổi. Duy nhất một thay đổi, duy nhất một cuộc cách mạng, duy nhất một chuyển hoá có thể có đó, và đó là nếu tâm trí bạn thay đổi từ phủ định sang khẳng định. Nếu cái nhìn của bạn được hội tụ vào khổ, bạn sống trong địa ngục; nếu cái nhìn của bạn được hội tụ vào hạnh phúc, chính địa ngục trở thành cõi trời. Thử điều này đi! Điều này sẽ thay đổi chính phẩm chất sống của bạn.
Nhưng bạn quan tâm tới số lượng. Bạn quan tâm tới làm sao được giầu hơn - về số lượng, không về chất lượng. Bạn có thể có hai nhà và hai xe, tài khoản ngân hàng lớn hơn, nhiều thứ. Lượng đổi: nó trở thành ngày càng nhiều hơn.
Nhưng phẩm chất của bạn vẫn còn như cũ, và giầu có không phải là về các thứ đồ vật. Giầu có là do phẩm chất của tâm trí bạn, do cuộc sống của bạn. Ngay cả người nghèo cũng có thể là người giầu khi có liên quan tới phẩm chất, và thậm chí người giầu có thể là người nghèo. Gần như bao giờ đây cũng là hoàn cảnh, vì người quan tâm tới đồ vật và số lượng là vô nhận biết toàn bộ rằng một chiều hướng khác có đó bên trong người đó - chiều hướng của phẩm chất. Và chiều hướng đó thay đổi chỉ khi tâm trí bạn là khẳng định.
Từ sáng mai, trong cả ngày, nhớ điều này: bất kì khi nào bạn cảm thấy cái gì đó đẹp, thoả mãn, cái gì đó phúc lạc - và có nhiều khoảnh khắc trong một ngày hai mươi bốn tiếng - nhận biết về nó. Có nhiều khoảnh khắc khi cõi trời ở gần bạn, nhưng bạn bị gắn và bị dính líu với địa ngục nhiều tới mức bạn liên tục bỏ lỡ nó. Mặt trời mọc, hoa nở, chim hót và làn gió thoảng qua rặng cây. Nó đang xảy ra! Một chú bé ngước nhìn bạn với con mắt hồn nhiên, và cảm giác phúc lạc tinh tế đi vào trong bạn; hay ai đó mỉm cười và bạn cảm thấy phúc lạc.
Nhìn khắp xung quanh, và cố tìm ra phúc lạc; được rót đầy bởi nó đi. Trong khoảnh khắc đó quên mọi thứ. Được rót đầy với nó, thưởng thức nó, và cho phép nó xảy ra cho toàn thể hiện hữu của bạn. Là một với nó. Hương thơm của nó sẽ theo bạn. Nó sẽ liên tục vang vọng bên trong bạn cả ngày, và việc vang vọng, việc cảm thấy tiếng vọng, sẽ giúp bạn có tính khẳng định hơn.
Điều này là tích luỹ. Nếu bạn bắt đầu vào buổi sáng, đến tối bạn sẽ mở hơn với sao, với trăng, với đêm, với bóng tối. Làm điểu đó trong hai mươi bốn giờ một cách thực nghiệm, chỉ để có cảm giác về nó là gì. Một khi bạn có thể cảm thấy rằng cái khẳng định dẫn bạn tới một thế giới khác vì bạn trở thành khác, bạn sẽ không bỏ nó. Toàn thể nhấn mạnh sẽ thay đổi từ phủ định sang khẳng định. Thế thì bạn nhìn vào thế giới theo cách khác, cách mới.
Tôi nhớ lại một giai thoại. Một trong những đệ tử của Phật xin phép ra đi khỏi thầy. Tên đệ tử đó là Purnakashyapa. Ông ấy hỏi Phật, "Tôi sẽ đi đâu? Tôi sẽ đi đâu để thuyết giảng thông điệp của thầy?"
Phật nói, "Bản thân ông có thể chọn chỗ."
Thế là ông ấy nói, "Tôi sẽ đi tới góc xa xôi của Bihar" - Nó được biết tới là Sukha - "Tôi sẽ chuyển tới tỉnh Sukha."
Phật nói, "Tốt hơn cả ông nên đổi chọn lựa đó vì người ở tỉnh đó rất độc ác, bạo hành, gây hại, và không ai đã dám đi tới đó để dạy họ bất bạo hành, yêu, từ bi. Cho nên ông đổi chọn lựa đó đi."
Nhưng Purnakashyapa nói, "Cho phép tôi đi tới đó vì không ai đã từng đi tới đó, và ai đó phải ở đó chứ."
Phật nói, "Thế thì ta sẽ hỏi ông ba câu hỏi trước khi ta cho phép ông đi. Nếu mọi người ở tỉnh đó xúc phạm ông, làm bẽ mặt ông, ông sẽ cảm thấy điều đó thế nào?"
Purnakashyapa nói, "Tôi sẽ cảm thấy họ rất tốt nếu họ đơn giản xúc phạm tôi. Thế thì họ không đánh tôi. Họ là người tốt; họ đáng ra có thể đã đánh tôi."
Phật nói, "Thế thì câu hỏi thứ hai: nếu họ bắt đầu đánh ông, ông sẽ cảm thấy thế nào?"
Purnakashyapa nói, "Tôi sẽ cảm thấy họ là những người rất tốt. Họ có thể giết tôi chứ, nhưng họ đơn giản đánh tôi."
Thế rồi Phật nói, "Bây giờ câu hỏi thứ ba: nếu họ thực sự giết ông và sát hại ông, thế thì vào khoảnh khắc mà ông chết, ông sẽ cảm thấy thế nào?"
Purnakashyapa nói, "Tôi sẽ cám ơn thầy và họ. Nếu họ giết tôi, họ sẽ giải phóng cho tôi khỏi cuộc sống nơi nhiều sai sót là có thể. Họ sẽ giải phóng tôi cho nên tôi sẽ cảm thấy cám ơn."
Thế là Phật nói, "Bây giờ ông có thể đi bất kì chỗ nào. Toàn thế giới là cõi trời với ông. Bây giờ không có vấn đề gì. Thế giới là cõi trời, cho nên ông có thể đi bất kì chỗ nào."
Với tâm trí này, không cái gì là sai với thế giới. Với tâm trí bạn, không cái gì có thể đúng. Với tâm trí phủ định, mọi thứ là sai - không phải là nó sai; nó sai vì tâm trí phủ định chỉ có thể thấy điều sai.
"Bất kì khi nào sự thoả mãn được tìm thấy, trong bất kì hành động nào, thực tại hoá điều này." Đây là quá trình rất tinh tế, nhưng rất dễ chịu nữa, và bạn càng tiến và trong nó, nó càng trở nên dễ chịu hơn. Bạn sẽ được rót đầy với sự dễ chịu mới và hương thơm. Chỉ tìm cái đẹp; quên cái xấu. Thế rồi một khoảnh khắc tới khi cái xấu cũng trở thành cái đẹp. Cứ nhìn vào khoảnh khắc hạnh phúc, và một khoảnh khắc tới khi không có gì mà bạn có thể gọi là bất hạnh. Thế thì không có khoảnh khắc bất hạnh. Quan tâm tới phúc lạc đi, và sớm hay muộn sẽ không có khổ. Mọi thứ được làm đẹp lên bởi tâm trí khẳng định.
Kĩ thuật thứ ba:
“Tại điểm ngủ, khi giấc ngủ còn chưa tới và việc thức tỉnh bên ngoài tan biến, tại điểm này hiện hữu được khải lộ.”
Có điểm ngoặt nào đó trong ý thức của bạn. Tại những điểm ngoặt đó bạn ở gần với trung tâm của bạn hơn tại những lần khác. Bạn đổi số, và bất kì khi nào bạn đổi số bạn đều chuyển qua số không. Số không đó là gần hơn. Buổi sáng, khi giấc ngủ đi, tan biến, và bạn cảm thấy thức dậy nhưng còn chưa dậy hẳn, chỉ ở điểm giữa, bạn ở số không. Có một điểm mà bạn không ngủ không thức, chính ở giữa. Ở đó bạn ở số không. Từ ngủ sang thức, ý thức của bạn đổi toàn thể cơ chế. Nó nhảy từ cơ chế này sang cơ chế khác. Giữa hai cơ chế này, không có cơ chế nào; có kẽ hở. Qua kẽ hở đó bạn có thể có thoáng nhìn về hiện hữu của bạn. Cùng điều này xảy ra trong đêm khi bạn lại nhảy từ cơ chế thức sang cơ chế ngủ, từ ý thức sang vô thức. Trong một khoảnh khắc không có cơ chế nào, không có nắm giữ của cơ chế lên bạn, vì bạn phải lấy cú nhảy từ cái này sang cái nọ. Giữa hai điều này nếu bạn có thể thức tỉnh, giữa hai điều này nếu bạn có thể nhận biết, giữa hai điều này nếu bạn có thể nhớ tới bản thân bạn, bạn sẽ có thoáng nhìn về hiện hữu thật của bạn.
Làm sao làm điều đó? Trong khi đi ngủ, thảnh thơi đi. Nhắm mắt lại, làm cho phòng tối. Chỉ nhắm mắt và bắt đầu đợi. Giấc ngủ đang tới; cứ đợi, không làm gì cả, chỉ đợi! Thân thể bạn đang thảnh thơi, thân thể đang trở nên nặng: cảm nó đi. Có việc cảm nó. Giấc ngủ có cơ chế riêng của nó, nó bắt đầu làm việc. Ý thức thức của bạn đang tan biến. Nhớ, vì khoảnh khắc này sẽ rất tinh tế và khoảnh khắc này sẽ là nguyên tử. Nếu bạn bỏ lỡ, bạn bỏ lỡ. Nó không phải là thời kì rất dài - một khoảnh khắc thôi, một kẽ hở rất nhỏ, và bạn sẽ đổi từ thức sang ngủ. Chỉ đợi, đầy nhận biết. Liên tục đợi. Điều này sẽ mất thời gian. Phải mất ít nhất ba tháng. Chỉ thế thì một ngày nào đó bạn mới có thể có thoáng nhìn về khoảnh khắc mà ở ngay chính giữa. Cho nên đừng vội. Bạn không thể làm được nó ngay bây giờ; bạn không thể làm được nó đêm nay. Nhưng bạn phải bắt đầu và bạn có thể phải đợi nhiều tháng.
Bình thường, trong vòng ba tháng, một hôm điều đó xảy ra. Nó xảy ra mọi ngày đấy, nhưng nhận biết của bạn và việc gặp gỡ kẽ hở này không thể được lập kế hoạch. Nó là việc xảy ra. Bạn chỉ liên tục chờ đợi, và một ngày nào đó nó xảy ra. Ngày nào đó, đột nhiên bạn trở nên nhận biết rằng bạn không thức không ngủ - một hiện tượng rất kì lạ. Bạn thậm chí có thể trở nên sợ vì bạn đã chỉ biết hai trạng thái: bạn biết khi bạn ngủ, bạn biết khi bạn thức. Nhưng bạn không biết điểm thứ ba trong hiện hữu của bạn khi bạn không là cả hai. Với tác động đầu tiên của điều đó bạn có thể trở nên sợ sệt và hãi hùng. Đừng bị hãi và đừng bị sợ. Bất kì cái gì mà là mới thế, không được biết tới trước đây, nhất định gây ra nỗi sợ nào đó vì khoảnh khắc này, khi bạn sẽ trải nghiệm nó lặp đi lặp lại, sẽ cho bạn cả việc cảm khác nữa: rằng bạn không sống không chết, không cái này không cái nọ. Đây là vực thẳm.
Hai cơ chế này giống hai quả núi; bạn nhảy từ đỉnh này sang đỉnh kia. Nếu bạn vẫn còn ở giữa bạn ngã vào vực thẳm, và vực thẳm là không đáy: bạn liên tục rơi, bạn liên tục rơi. Người Sufis đã dùng kĩ thuật này, và trước khi cho trao kĩ thuật này cho người tìm kiếm, họ cũng trao thực hành khác để bảo vệ. Bất kì khi nào kĩ thuật này được cho trong hệ thống Sufi, trước nó một thực hành khác được trao, và điều đó là tưởng tượng bằng mắt nhắm rằng bạn đang rơi vào giếng sâu - tối, sâu và không đáy. Chỉ tưởng tượng rơi vào trong giếng sâu - rơi và rơi và rơi, rơi vĩnh hằng. Không có đáy, bạn không thể đạt tới đáy. Bây giờ việc rơi này không thể dừng lại ở bất kì chỗ nào. Bạn có thể dừng lại; bạn có thể mở mắt ra và nói thôi, nhưng bản thân việc rơi này không thể dừng lại. Nếu bạn tiếp tục, cái giếng là không đáy, và nó mỗi lúc một tối hơn.
Trong hệ thống Sufi, bài tập giếng này - bài tập giếng tối, không đáy này - là để được thực hành trước hết. Nó là tốt, giúp ích. Nếu bạn đã thực hành nó và bạn đã nhận ra cái đẹp của nó, cái im lặng, thế thì bạn càng đi sâu hơn trong giếng, bạn sẽ càng trở nên im lặng hơn. Thế giới bị bỏ lại xa xôi, và bạn cảm thấy rằng bạn đã đi xa xôi, xa xôi, xa xôi. Im lặng phát triển cùng bóng tối, và sâu bên dưới không có đáy. Sợ tới với tâm trí bạn, nhưng bạn biết rằng đây chỉ là tưởng tượng cho nên bạn có thể tiếp tục.
Qua kinh nghiệm này, bạn trở nên có năng lực của kĩ thuật này, và thế rồi, khi bạn rơi vào trong giếng giữa thức và ngủ, nó không là tưởng tượng; nó là sự kiện thực. Và nó là không đáy, vực thẳm không đáy. Đó là lí do tại sao Phật đã gọi điều này là trống rỗng hư không - shunya. Không có kết thúc cho nó. Một khi bạn biết nó, bạn cũng đã trở thành vô tận. Khó có thoáng nhìn này trong khi thức. Tất nhiên, thế thì nó là không thể được trong khi bạn đang ngủ vì thế thì cơ chế này đang vận hành, và khó tách bản thân bạn khỏi cơ chế này. Nhưng có một khoảnh khắc trong đêm và trong sáng một khoảnh khắc khác - trong hai mươi bốn giờ có hai khoảnh khắc này - khi nó rất dễ, nhưng người ta phải đợi.
"Tại điểm ngủ, khi giấc ngủ còn chưa tới và việc thức tỉnh bên ngoài tan biến, tại điểm này hiện hữu được khải lộ." Thế thì bạn biết bạn là ai, hiện hữu thực của bạn là gì, sự tồn tại đích thực của bạn là gì. Chúng ta là giả khi chúng ta thức, và bạn biết rõ điều đó. Bạn là giả khi bạn thức. Bạn mỉm cười khi nước mắt chắc đã là thực hơn. Nước mắt của bạn cũng không thể tin được. Chúng có thể chỉ là mẽ ngoài, nghi lễ, bổn phận. Nụ cười của bạn là giả, và những người nghiên cứu về mặt có thể nói rằng nụ cười của bạn chỉ là nụ cười tô vẽ. Không có gốc rễ bên trong; nụ cười chỉ trên mặt bạn, chỉ trên môi bạn. Nó không ở đâu khác trong con người bạn. Không có gốc rễ, không có chi nào. Nó bị áp đặt. Nụ cười không tới từ bên trong ra bên ngoài; nụ cười đã bị áp đặt từ bên ngoài.
Bất kì cái gì bạn nói và bất kì cái gì bạn hành động đều là giả, và không nhất thiết trường hợp bạn làm kinh doanh sống giả này là theo cách có ý thức - không nhất thiết! Bạn có thể vô nhận biết toàn bộ - và bạn là vậy! Bằng không sẽ rất khó để mang cái vô nghĩa giả như vậy một cách liên tục. Nó là tự động. Tính giả này liên tục kéo dài trong khi bạn thức, và nó liên tục ngay cả khi bạn ngủ - theo cách khác, tất nhiên. Mơ của bạn là biểu tượng, không là thật. Điều ngạc nhiên là ngay cả trong mơ, bạn là không thực, ngay cả trong mơ bạn sợ, và bạn tạo ra biểu tượng.
Bây giờ phân tâm học liên tục làm kinh doanh này về phân tích giấc mơ của bạn. Họ có kinh doanh lớn vì bạn không thể phân tích được giấc mơ riêng của bạn. Chúng là biểu tượng, chúng không là thực. Chúng nói cái gì đó chỉ theo biểu dụ. Nếu bạn muốn giết mẹ bạn và gạt bỏ bà ấy, bạn sẽ không giết bà ấy ngay cả trong mơ của bạn. Bạn sẽ giết ai đó khác người có vẻ giống mẹ bạn. Bạn sẽ giết cô của bạn hay người nào đó khác, nhưng không phải mẹ bạn. Ngay cả trong mơ bạn không thể là thực được. Thế rồi phân tâm được cần tới; nhà chuyên nghiệp được cần để diễn giải - nhưng bạn có thể mô tả toàn thể sự việc này theo cách mà ngay cả phân tâm học cũng bị lừa.
Mơ của bạn cũng là giả toàn bộ. Nếu bạn là thực khi bạn đang thức, mơ của bạn sẽ là thực. Chúng sẽ không có tính biểu tượng. Nếu bạn muốn giết mẹ bạn, bạn sẽ thấy giấc mơ trong đó bạn giết mẹ bạn, và không người diễn giải nào sẽ được cần để chỉ cho bạn giấc mơ của bạn ngụ ý gì. Nhưng chúng ta giả thế. Trong mơ bạn một mình, dầu vậy vẫn sợ thế giới và xã hội.
Giết mẹ là tội lớn nhất, và tôi tự hỏi liệu bạn đã bao giờ nghĩ về tại sao giết người mẹ là tội lớn nhất không. Nó là tội lớn nhất vì mọi người đều cảm thấy sự thù hận sâu hướng tới mẹ mình. Nó là tội lớn nhất, và nó được dạy, tâm trí bạn được ước định, rằng ngay cả nghĩ tới việc làm hại mẹ bạn là tội rồi. Bà ấy đã cho sinh ra bạn. Trên khắp thế giới, trong mọi xã hội, cùng điều đó được dạy. Không có xã hội nào trên trái đất sẽ không đồng ý với điều này, rằng giết mẹ là tội lớn nhất. Bà ấy đã cho bạn việc sinh thành và bạn giết bà ấy sao?
Nhưng tại sao có việc dạy này? Sâu bên dưới có khả năng rằng mọi người chống lại sự cần thiết về người mẹ của mình - vì người mẹ đã không chỉ cho sinh thành ra bạn, bà ấy đã là công cụ làm bạn thành giả; bà ấy đã là công cụ ép buộc bạn là không thực. Bà ấy đã làm bạn thành bất kì cái gì bạn đang là vậy. Nếu bạn là địa ngục, bà ấy có một phần trong đó, phần lớn nhất. Nếu bạn khổ, mẹ bạn có đó ở đâu đó, ẩn trong bạn vì người mẹ đã cho bạn việc sinh, bà ấy đã nuôi lớn bạn - hay, thực sự, bà ấy đang mang bạn “xuống” từ thực tại của bạn. Bà ấy đã làm bạn thành giả. Cái không thực đầu tiên đã xảy ra giữa bạn và mẹ bạn; dối trá đầu tiên đã xảy ra giữ bạn và mẹ bạn - dối trá đầu tiên!
Ngay cả khi không có ngôn ngữ và đứa trẻ không biết nói, nó có thể dối trá. Đứa trẻ sớm hay muộn trở nên nhận biết rằng nhiều tình cảm của nó không được mẹ nó chấp nhận. Mặt bà ấy, mắt bà ấy, hành vi của bà ấy, tâm trạng bà ấy, mọi thứ đều chỉ ra rằng cái gì đó trong nó là không được chấp nhận, không được ca ngợi. Thế rồi nó bắt đầu đè nén. Cái gì đó sai. Chưa có ngôn ngữ; tâm trí nó không vận hành. Nhưng toàn thể thân thể nó bắt đầu đè nén. Thế thì nó bắt đầu cảm thấy rằng đôi khi cái gì đó được người mẹ chấp nhận. Nó phụ thuộc vào người mẹ, cuộc sống của nó phụ thuộc vào người mẹ. Nếu người mẹ bỏ nó, nó sẽ không còn nữa. Toàn thể sự tồn tại của nó được định tâm vào người mẹ.
Mọi thứ người mẹ biểu lộ, làm, nói, cư xử, là có ý nghĩa. Nếu đứa trẻ mỉm cười, và người mẹ yêu nó và cho nó hơi ấm và sữa và ôm nó, nó đang học chính trị. Nó sẽ mỉm cười khi không có nụ cười trong nó vì bây giờ nó biết nó có thể thuyết phục được người mẹ. Nó sẽ mỉm cười nụ cười giả tạo. Thế thì kẻ dối trá được sinh ra; chính khách đã đi vào trong sự tồn tại. Bây giờ nó biết cách là giả, và điều này nó học trong mối quan hệ của nó với mẹ nó. Đây là mối quan hệ đầu tiên với thế giới. Khi nó sẽ trở nên nhận biết về khổ của nó, về địa ngục của nó, về lẫn lộn của nó, nó sẽ thấy rằng mẹ nó được ẩn kín ở đâu đó.
Có mọi khả năng rằng bạn có thể cảm thấy thù địch hướng tới mẹ bạn. Đó là lí do tại sao mọi nền văn hoá đều nhấn mạnh rằng giết mẹ bạn là tội lớn nhất. Ngay cả trong ý nghĩ, ngay cả trong mơ, bạn không thể giết mẹ bạn được. Tôi không nói rằng bạn phải giết bà ấy, tôi đơn giản nói rằng mơ của bạn cũng là giả - biểu tượng, không thực. Bạn là giả tới mức bạn thậm chí không thể mơ được giấc mơ thực.
Đây là hai bộ mặt giả: một bộ mặt có đó trong khi bạn thức, một bộ mặt có đó trong khi bạn ngủ. Giữa hai bộ mặt giả này có một cánh cửa rất nhỏ, một khoảnh hở. Trong khoảng hở đó bạn có thể có thoáng nhìn về mặt nguyên bản của bạn khi bạn đã không có quan hệ với mẹ bạn, và qua mẹ bạn với xã hội; khi bạn đã một mình với bản thân bạn; khi bạn đã hiện hữu - không cái này và cái nọ, không có phân chia. Chỉ cái thực đã hiện hữu; không có cái không thực. Bạn có thể có thoáng nhìn về bộ mặt đó, bộ mặt hồn nhiên đó giữa hai cơ chế này.
Bình thường chúng ta không quan tâm tới mơ, chúng ta quan tâm tới những giờ thức của chúng ta. Nhưng phân tâm quan tâm nhiều hơn tới mơ của bạn, không với những giờ thức của bạn, vì nó cảm thấy rằng trong những giờ thức bạn là kẻ dối trá lớn hơn. Trong mơ cái gì đó có thể bị bắt giữ. Bạn ít nhận biết khi bạn ngủ, và bạn không ép buộc mọi thứ, bạn không thao túng. Thế thì cái gì đó thực có thể được bắt giữ. Bạn có thể là người vô dục, là sư trong những giờ thức của bạn, nhưng bạn đã đè nén thôi thúc dục. Thế thì nó sẽ áp đặt bản thân nó trong mơ của bạn; mơ của bạn sẽ có dục. Rất khó tìm ra một sư không có giấc mơ dục - đúng hơn, là không thể được. Bạn có thể thấy kẻ tội phạm không có giấc mơ dục, nhưng bạn không thể tìm thấy người tôn giáo mà không có giấc mơ dục. Người truỵ lạc có thể không có giấc mơ dục, nhưng cái gọi là thánh nhân thì không vậy, vì bất kì cái gì bạn ấn xuống trong khi bạn thức sẽ trồi lên trong mơ của bạn và sẽ tô mầu mơ của bạn.
Các nhà phân tâm không quan tâm tới cuộc sống thức của bạn vì họ biết nó là giả toàn bộ. Nếu cái gì đó của cái thức có thể được thoáng nhìn qua, nó có thể được thoáng nhìn qua chỉ trong mơ của bạn. Nhưng Mật Tông nói rằng ngay cả mơ là không thực thế. Chúng là nhiều thực hơn - và điều này có vẻ ngược đời vì chúng ta nghĩ rằng mơ là không thực - chúng là thực hơn những giờ thức của bạn vì thế thì bạn ít cảnh giác hơn. Kẻ kiểm duyệt ngủ, và mọi thứ có thể tới, và những thứ bị đè nén có thể diễn đạt bản thân nó - tất nhiên một cách biểu tượng, nhưng biểu tượng có thể được phân tích.
Và trên khắp thế giới biểu tượng con người là như nhau. Bạn có thể nói tiếng khác trong khi thức, nhưng khi mơ bạn nói cùng ngôn ngữ. Trên khắp thế giới ngôn ngữ mơ là một. Nếu dục bị kìm nén, thế thì cùng biểu tượng sẽ tới. Nếu thôi thúc về thức ăn, thôi thúc ăn, đói, bị kìm nén, thế thì cùng biểu tượng sẽ tới - hay biểu tượng tương tự. Ngôn ngữ mơ là một, nhưng trong mơ vẫn có vấn đề vì chúng là biểu tượng. Và một Freud có thể diễn giải chúng theo cách khác, một Jung theo cách khác và một Adler lại theo cách khác. Và nếu bạn được phân tích bởi hàng trăm nhà phân tâm, sẽ có hàng trăm diễn giải. Bạn sẽ vẫn bị lẫn lộn hơn bạn đã vậy trước đây, lẫn lộn hơn với hàng trăm diễn giải về một điều.
Mật Tông nói bạn là thực không trong cả thức lẫn ngủ. Bạn là thực chỉ ở giữa. Cho nên đừng quan tâm tới thức, và đừng quan tâm tới mơ và ngủ. Quan tâm tới kẽ hở; nhận biết về kẽ hở này. Khi chuyển qua từ trạng thái này sang sang trạng thái khác, có thoáng nhìn đi. Và một khi bạn biết lúc kẽ hở tới, bạn trở thành người chủ của nó. Bạn có chìa khoá; bạn có thể mở kẽ hở đó bất kì lúc nào và đi vào trong nó. Một chiều hướng khác của hiện hữu, chiều hướng thực, mở ra.
Kĩ thuật thứ tư, và là kĩ thuật cuối cùng:
“Ảo vọng lừa dối, mầu sắc bao quanh, ngay cả cái phân chia được cũng là không phân chia được.”
Đây là kĩ thuật hiếm hoi, kĩ thuật không được dùng mấy, nhưng một trong những thầy giáo vĩ đại nhất ở Ấn Độ, Shankara, đã dùng nó, và Shankara đã đặt toàn thể triết lí của ông ấy trên kĩ thuật này. Bạn biết triết lí của ông ấy về maya - ảo vọng. Shankara nói mọi thứ đều là ảo vọng. Bất kì cái gì bạn đang thấy, nghe, cảm, tất cả là ảo vọng. Nó không phải là thực vì cái thực không thể được tiếp xúc bởi giác quan. Bạn đang nghe tôi và tôi đang thấy bạn nghe tôi: nó có thể chỉ là mơ, và không có cách nào phán xét liệu nó là mơ hay không. Tôi có thể chỉ là việc mơ mà bạn đang ở đây nghe tôi. Làm sao tôi biết rằng đây là thực và không là mơ? Không có cách nào.
Trang Tử tương truyền đã nói rằng một đêm ông ấy đã mơ rằng ông ấy đã trở thành bướm. Đến sáng ông ấy rất buồn - và ông ấy không phải là người có nỗi buồn, ông ấy không bao giờ được biết tới là buồn. Đệ tử của ông ấy tụ tập lại và nói, "Thưa thầy Trang Tử, sao thầy buồn thế?"
Trang Tử nói, "Vì mơ đấy."
Các đệ tử cười và nói, "Vì mơ mà thầy buồn - thầy bao giờ cũng dạy chúng tôi không buồn cho dù toàn thế giới gây cho thầy buồn đó sao? Và chỉ một giấc mơ đã gây cho thầy buồn vậy sao? Thầy đang nói về cái gì vậy?"
Trang Tử nói, "Nó là giấc mơ tới mức nó làm cho ta lẫn lộn rất, rất sâu sắc, buồn, khổ. Ta mơ trong giấc mơ rằng ta đã trở thành bướm."
Các đệ tử nói, "Cái gì gây phân vân thế trong nó?"
Trang Tử nói, "Bây giờ đây là phân vân: nếu Trang Tử có thể mơ rằng ông ấy có thể trở thành bướm, tại sao không có điều ngược lại? Bướm có thể mơ rằng nó đã trở thành Trang Tử. Cho nên bây giờ ta bị rối. Cái gì là đúng và cái gì là sai? Cái gì là thực và cái gì là không thực? Đấy là Trang Tử đã mơ trở thành bướm hay bướm giờ đã đi vào giấc ngủ và mơ rằng nó đã trở thành Trang Tử? Nếu điều này là có thể, thế thì điều kia cũng là có thể." Và tương truyền rằng Trang Tử không bao giờ có thể vượt qua được thách đố này. Điều này vẫn còn cho cả đời ông ấy.
Làm sao quyết định được rằng tôi không trong mơ đang nói với các bạn? Làm sao quyết định được rằng bạn không mơ việc tôi đang nói? Với các giác quan không quyết định nào là có thể, vì trong khi mơ, giấc mơ có vẻ thực - thực như bất kì cái gì. Khi bạn mơ, bạn bao giờ cũng cảm thấy nó là thực. Khi mơ có thể được cảm thấy như là thực, tại sao thực tại không được cảm thấy như là mơ?
Shankara nói với các giác quan không có khả năng biết liệu vật đang đương đầu với bạn là thực hay không thực. Và nếu không có khả năng nào để biết liệu nó là thực hay không thực, Shankara gọi nó là maya: nó là ảo vọng. Ảo vọng không ngụ ý không thực. Ảo vọng ngụ ý không có khả năng nào để quyết định liệu nó là thực hay không thực - nhớ điều này.
Trong các ngôn ngữ phương Tây, maya đã được dịch rất sai, và nó cho cảm giác theo thuật ngữ phương Tây rằng "ảo vọng" nghĩa là "không thực." Nó không phải vậy! "Ảo vọng" nghĩa là không có khả năng nào để quyết định liệu một vật là thực hay không thực. Sự lẫn lộn này là maya.
Toàn thế giới này là maya, sự lẫn lộn. Bạn không thể quyết định được; bạn không thể quyết định được về nó. Nó bao giờ cũng trốn khỏi bạn, bao giờ cũng thay đổi, biến thành cái gì đó khác. Nó là thứ tưởng tượng, tựa mơ. Kĩ thuật này liên quan với triết lí này. "Ảo vọng lừa dối:" hay, cái lừa dối là ảo vọng - "mầu sắc bao quanh, ngay cả cái phân chia được cũng là không phân chia được." Trong thế giới này của ảo vọng không cái gì là chắc chắn. Toàn thể thế giới này giống như cầu vồng. Chúng dường như có đó, nhưng chúng không có đó. Nếu bạn ở xa xôi chúng có đó, nhưng nếu bạn lại gần hơn chúng tan biến đi. Bạn tới càng gần, chúng càng không hiện hữu. Nếu bạn đạt tới điểm mà bạn nhìn thấy cầu vồng, nó không còn đó.
Toàn thế giới là giống như mầu sắc cầu vồng, và nó là vậy. Khi bạn ở xa xôi mọi thứ là hi vọng; khi bạn tới gần hơn hi vọng này biến mất. Và khi bạn đạt tới mục đích, chỉ tro có đó - chỉ cầu vồng chết. Mầu sắc đã biến mất, và mọi thứ như chúng đã xuất hiện lại không hiện hữu. Như bạn cảm thấy chúng đáng là vậy, chúng không là vậy.
"Ngay cả cái phân chia được cũng là không phân chia được." Toàn thể toán học của bạn, toàn thể hệ thống tính toán của bạn, mọi quan niệm của bạn, mọi triết lí của bạn, chỉ trở thành vô tích sự. Nếu bạn cố hiểu ảo tưởng này, chính nỗ lực của bạn làm bạn lẫn lộn hơn. Không cái gì chắc chắn ở đó; mọi thứ là bất định - một luồng, luồng thay đổi, không có khả năng nào cho bạn quyết định liệu cái này hay cái kia là thực hay giả. Cái gì sẽ xảy ra? Nếu bạn lấy thái độ này, thái độ rằng mọi thứ mà không thể được quyết định đều là ảo vọng, bạn sẽ tự động, tự phát quay về bản thân bạn. Thế thì điểm duy nhất nơi bạn có trung tâm là trong sự hiện hữu riêng của bạn. Cái đó là chắc chắn.
Cố hiểu điều này: tôi có thể mơ trong đêm rằng tôi đã trở thành bướm, và tôi không thể quyết định được trong mơ đó liệu đây là thực hay không thực. Đến sáng tôi có thể phân vân như Trang Tử liệu thay vì thế bướm có thể đã mơ thì sao. Đây là hai giấc mơ, và không có cách nào so sánh cái nào là thực và cái nào là không thực.
Nhưng Trang Tử bỏ lỡ một điều - người mơ. Ông ấy đang nghĩ chỉ về giấc mơ, so sánh các giấc mơ và bỏ lỡ người mơ - người mơ rằng Trang Tử đã trở thành bướm, người đang nghĩ rằng nó có thể là điều đảo lại: rằng bướm đang mơ rằng nó đã trở thành Trang Tử. Ai là người quan sát này? Ai đã ngủ và giờ thức? Bạn có thể không thực, bạn có thể là việc mơ về tôi, nhưng "tôi" không thể là mơ cho bản thân tôi, vì ngay cả để giấc mơ tồn tại người mơ thực được cần tới. Ngay cả với giấc mơ giả người mơ thực được cần tới. Ngay cả giấc mơ cũng không thể tồn tại mà không có người mơ thực. Cho nên quên mơ đi. Kĩ thuật này nói quên mơ đi. Toàn thế giới là ảo vọng, bạn không là ảo vọng. Cho nên đừng đi theo thế giới, không có khả năng nào để thu lấy chắc chắn ở đó. Và bây giờ điều này dường như được chứng minh bởi nghiên cứu khoa học.
Trong ba thế kỉ qua khoa học đã là chắc chắn, và Shankara có vẻ chỉ là một trí tuệ triết lí, thơ ca. Trong ba thế kỉ khoa học đã là chắc chắn, nhưng bây giờ, trong hai thập kỉ cuối này, khoa học đã trở thành không chắc chắn. Bây giờ các nhà khoa học lớn nhất chẳng nói gì về chắc chắn cả, và với vật chất chúng ta sẽ không bao giờ chắc chắn. Mọi thứ đã trở thành bất định. Mọi thứ có vẻ giống như luồng chảy, thay đổi. Chỉ dáng vẻ có vẻ chắc chắn. Bạn càng đi sâu, mọi thứ càng trở thành không chắc chắn, bất định. Shankara nói, và Mật Tông bao giờ cũng nói, rằng thế giới là ảo vọng. Ngay cả trước khi Shankara được sinh ra, Mật Tông đã thuyết giảng một kĩ thuật - rằng toàn thế giới là ảo vọng, cho nên nghĩ về nó như mơ đi. Nếu bạn có thể nghĩ về nó như mơ - và nếu bạn nghĩ ngay lập tức, bạn sẽ đi tới nhận ra nó như mơ - thế thì toàn thể hội tụ ý thức của bạn sẽ quay vào bên trong, vì có thôi thúc sâu để tìm ra chân lí, cái thực.
Nếu toàn thế giới là không thực, thế thì không có chỗ trú ngụ trong nó. Thế thì bạn đang di chuyển theo, đang đi theo cái bóng, và phí thời gian và cuộc sống và năng lượng. Thế thì chuyển vào trong đi. Một điều là chắc chắn: "Tôi hiện hữu." Cho dù toàn thế giới là ảo vọng, một điều là chắc chắn: có ai đó người biết điều này là ảo vọng. Tri thức có thể là ảo vọng, cái được biết có thể là ảo vọng, nhưng người biết không thể là ảo vọng. Đây là điều chắc chắn duy nhất, tảng đá duy nhất mà bạn có thể đứng trên nó.
Kĩ thuật này nói nhìn vào thế giới đi: nó là mơ, ảo vọng, và không cái gì dường như nó xuất hiện. Nó chỉ là cầu vồng. Đi sâu vào trong việc cảm này đi. Bạn sẽ bị ném về bản thân bạn. Với việc đi tới đó về cái ngã riêng của người ta, bạn đi tới chân lí chắc chắn, tới cái gì đó mà không thể hoài nghi được, cái là tuyệt đối.
Khoa học không bao giờ có thể là tuyệt đối. Nó sẽ là tương đối. Chỉ tôn giáo mới có thể là tuyệt đối vì nó tìm kiếm không phải là mơ, nó tìm kiếm người mơ; không phải tìm cái được quan sát, mà tìm người quan sát, người thấy, người là nhận biết.
0 Đánh giá