Read more
Câu hỏi 1
Osho ơi, ngỗng có thực ở ngoài không?
Anand Bhavo, con ngỗng chưa bao
giờ ở trong cả, ngỗng bao giờ cũng ở ngoài. Nó là công án Thiền. Đầu tiên bạn
phải hiểu nghĩa của Thiền và nghĩa của công án.
Thiền không phải là tôn giáo,
không phải là học thuyết, không phải là tín điều, Thiền thậm chí không phải là
truy tìm, việc truy hỏi; nó không có tính triết lí. Nền tảng của cách tiếp cận
Thiền là ở chỗ mọi thứ hiện hữu như nó đáng phải vậy, không cái gì thiếu. Chính
khoảnh khắc này mọi thứ là hoàn hảo. Mục đích không phải ở đâu đó khác, nó là ở
đây, nó là bây giờ. Ngày mai không tồn tại. Chính khoảnh khắc này là thực tại
duy nhất. Do đó trong Thiền không có phân biệt giữa phương pháp và mục đích,
phương tiện và mục đích.
Mọi triết lí của thế giới và mọi
tôn giáo của thế giới đều tạo ra nhị nguyên; dù họ có thể liên tục nói về bất
nhị thế nào, họ vẫn tạo ra nhân cách chia chẻ trong con người. Đó đã là thảm hoạ
lớn nhất đã từng rơi xuống nhân loại: mọi người làm điều thiện đã tạo ra con
người phân liệt. Khi bạn phân chia thực tại thành phương tiện và mục đích bạn
phân chia bản thân con người, vì với con người, con người là thực tại gần nhất
của con người. Tâm thức người đó trở nên bị chia chẻ. Người đó sống ở đây nhưng
không thực sự; người đó bao giờ cũng ở đó, đâu đó khác. Người đó bao giờ cũng
tìm, bao giờ cũng truy hỏi; chưa bao giờ sống, chưa bao giờ hiện hữu, bao giờ
cũng làm; được giầu hơn, được quyền lực, được tâm linh, được linh thiêng hơn,
có tính thánh nhân - bao giờ cũng ngày càng nhiều hơn. Và việc khao khát thường
xuyên này về nhiều hơn tạo ra căng thẳng của người đó, trạng thái khổ sở, và
trong khi đó người đó bỏ lỡ mọi thứ được sự tồn tại làm thành sẵn có. Người đó
quan tâm tới cái xa xôi và Thượng đế ở gần bên cạnh. Mắt người đó bị hội tụ vào
các ngôi sao và Thượng đế ở bên trong người đó. Do đó điều nền tảng nhất cần hiểu
về Thiền là: Ngỗng chưa bao giờ ở bên trong. Để tôi kể cho bạn một câu chuyện
cách công án này bắt đầu:
Một quan chức hay lí sự, Riko,
có lần đề nghị một Thiền sư kì lạ, Nam Tuyền, giải thích cho ông ấy một công án
cổ về con ngỗng ở trong chai.
"Nếu một người để con ngỗng
con vào trong một cái chai," Riko nói, "và nuôi nó cho tới khi nó trưởng
thành, làm sao người này lấy được con ngỗng ra mà không làm chết nó hay đập vỡ
cái chai?"
Nam Tuyền vỗ tay đốp một cái và
hét lên, "Riko!"
"Dạ, thưa thầy," quan
chức này giật nảy mình nói.
"Thấy chưa," Nam Tuyền
nói, "con ngỗng ở ngoài!"
Nó chỉ là vấn đề thấy ra, nó chỉ
là vấn đề trở nên tỉnh táo, thức tỉnh, nó chỉ là vấn đề thức dậy. Con ngỗng ở
trong chai nếu bạn đang trong mơ; con ngỗng chưa bao giờ ở trong chai nếu bạn
thức. Và trong mơ không có cách nào để lấy ngỗng ra khỏi chai. Hoặc con ngỗng sẽ
chết hoặc chai sẽ phải bị vỡ, và cả hai phương án đều không được phép: chai
không được vỡ mà ngỗng cũng không được chết. Bây giờ, con ngỗng trưởng thành
trong cái chai nhỏ... làm sao bạn có thể lấy được nó ra? Điều này được gọi là
công án.
Công án không phải là câu đố
thường; nó không phải là câu đó vì nó không thể nào được giải. Câu đố là ở chỗ
có khả năng để được giải; bạn chỉ phải tìm câu trả lời đúng. Bạn sẽ tìm thấy nó
- nó chỉ cần thông minh để tìm ra câu trả lời cho câu đó; nhưng câu đố không thực
sự là không thể giải được.
Công án là không thể giải được;
bạn không thể nào giải được nó, bạn chỉ có thể làm tan biến nó. Và cách thức
làm tan biến nó là thay đổi chính bình diện của bản thể bạn từ mơ sang thức.
Trong mơ ngỗng ở trong chai và không có cách nào để đem nó ra ngoài chai mà
không đập vỡ chai hay làm chết ngỗng - trong mơ. Do đó, khi có liên quan tới
mơ, câu đố là không thể được; không cái gì có thể được làm về nó.
Nhưng có lối ra - điều chẳng
liên quan gì tới câu đố, nhớ lấy. Bạn phải thức dậy. Điều đó chẳng liên quan gì
tới chai và chẳng liên quan gì tới ngỗng. Bạn phải thức dậy. Nó chẳng liên quan
gì tới bạn. Đó là lí do tại sao Nam Tuyền đã không trả lời câu hỏi này.
Riko hỏi, "Nếu một người để
con ngỗng non vào trong một cái chai và nuôi nó cho tới khi nó trưởng thành, làm
sao người này có thể lấy con ngỗng ra mà không làm chết nó hay làm vỡ
chai?"
Nam Tuyền đã không trả lời. Mặt
khác, ông ấy vỗ tay đốp một cái và hét lên, "Riko!"
Bây giờ, đây không phải là câu
trả lời cho câu hỏi - điều này chả liên quan gì tới câu hỏi chút nào - nó là
không liên quan, không nhất quán. Nhưng việc đó giải quyết nó; thực ra, việc đó
làm tan biến nó. Khoảnh khắc ông ấy hét lên, "Riko!" vị quan chức giật
mình nói, "Dạ, thưa thầy." Toàn thể bình diện bản thể của anh ta được
biến đổi bởi một phương cách đơn giản.
Thầy không phải là thầy giáo;
thầy không dạy bạn, thầy đơn giản phát minh ra các phương pháp để đánh thức bạn.
Cái vỗ tay đó là phương pháp, cái vỗ tay đó đơn giản mang Riko vào trong hiện tại.
Và nó là bất ngờ thế... Khi bạn đang hỏi một công án tâm linh thế bạn không
mong đợi thầy trả lời bạn bằng cái vỗ tay đốp một cái rồi hét lên,
"Riko!"
Đột nhiên anh ta được mang lại
từ quá khứ, từ tương lai. Đột nhiên trong một khoảnh khắc anh ta quên mất toàn
thể vấn đề. Cái chai ở đâu và ngỗng ở đâu? Chỉ có thầy, trong một tư thế kì lạ,
vỗ tay đốp một cái và hét lên với Riko. Đột nhiên toàn thể vấn đề bị vứt bỏ.
Anh ta đã trượt ra khỏi vấn đề mà thậm chí không biết rằng anh ta đã trượt ra
khỏi nó. Anh ta đã trượt ra khỏi vấn đề như con rắn tụt ra khỏi bộ da cũ của
nó. Trong một khoảnh khắc thời gian đã dừng lại. Trong một khoảnh khắc đồng hồ
đã dừng lại. Trong một khoảnh khắc tâm trí đã dừng lại. Trong một khoảnh khắc
không có cái gì. Thầy, tiếng vỗ tay, và đột nhiên việc thức tỉnh. Trong chính
khoảnh khắc đó thầy nói, "Thấy chưa! Thấy đấy, con ngỗng ở ngoài!" Nó
bị tan biến.
Công án chỉ có thể được làm tan
biến nhưng không bao giờ có thể được giải. Câu đố không bao giờ có thể bị làm
tan biến nhưng có thể được giải. Cho nên nhớ lấy, công án không phải là câu đố.
Nhưng khi những người quen liên
tục suy nghĩ, suy luận logic, bắt đầu học Thiền, họ lấy bước sai từ chính lúc bắt
đầu. Thiền không thể được nghiên cứu; nó phải được sống, nó phải được hấp thu -
được hấp thu từ một thầy sống. Nó là việc truyền trao bên ngoài lời, việc truyền
chiếc đèn. Chiếc đèn vô hình.
Bây giờ, bất kì người nào quan
sát toàn thể tình huống này - Riko hỏi câu hỏi, thầy vỗ tay và hét - chắc đã
không tìm được cái gì rất tâm linh trong nó, chắc đã không tìm ra bất kì triết
lí lớn nào, có thể đã quay lại rất thất vọng. Nhưng cái gì đó được diễn ra -
cái gì đó mà không thấy được và có thể chẳng bao giờ có thể thấy được.
Nó xảy ra chỉ khi im lặng của
thầy xuyên thấu vào im lặng của đệ tử, khi hai im lặng gặp gỡ và hội nhập; thế
rồi ngay lập từ có việc thấy. Thầy có mắt, đệ tử có mắt, nhưng mắt của đệ tử
còn nhắm. Một phương cách được cần tới, phương pháp nào đó, để cho đệ tử có thể
mở mắt mình ra mà không có nỗ lực nào riêng của anh ta. Nếu anh ta làm nỗ lực,
anh ta sẽ bỏ lỡ vấn đề, vì ai sẽ làm nỗ lực?
Christmas Humphreys, một trong
những người yêu Thiền lớn ở phương Tây, người sáng lập của Hội Phật giáo
England và người đã làm cho Thiền Phật giáo thành rất nổi tiếng ở thế giới
phương Tây, viết về công án này, và bạn sẽ thấy khác biệt. Ông ấy nói: "Có
phương pháp nhận ra vấn đề từ bên sườn, vì nó là vậy. Nó sẽ là vô nghĩa cho tâm
trí hợp lí, nhưng tâm trí như vậy sẽ không đọc thêm. Những người đọc tiếp sẽ
mong đợi điều vô nghĩa tăng lên, theo một nghĩa nào đó, những biệt thự ngoại ô
của các suy nghĩ hợp lí, sẽ sớm bị bỏ lại sau, và tâm trí sẽ tự do trên những
núi vô giới hạn của niềm vui cố hữu riêng của nó. Vậy thì đây là giải pháp thực
cho vấn đề của các cái đối lập.
"Tôi sẽ nói điều đó cho bạn?
Xét một con ngỗng sống trong cái chai. Làm sao lấy nó ra mà không làm đau con
ngỗng hay làm vỡ cái chai? Câu trả lời là đơn giản - 'Đấy, nó ở ngoài!"'
Bây giờ, toàn thể vấn đề bị mất:
nó trở thành triết lí. Đầu tiên, Christmas Humphreys nghĩ Thiền là một phần của
Phật giáo; đó là bắt đầu với một cánh cửa sai, với một bước sai. Thiền chả liên
quan gì tới Phật giáo. Nó chắc chắn có cái gì đó liên quan tới Phật, nhưng chẳng
có gì liên quan tới Phật giáo như vậy, cũng như Sufi giáo chẳng liên quan gì tới
Hồi giáo, Hassid giáo chẳng liên quan gì tới Do Thái giáo, Mật tông chẳng liên
quan gì tới Hindu giáo. Vâng, Mật tông chắc chắn có cái gì đó liên quan với
Shiva và Sufi giáo có cái gì đó liên quan với Mohammed và Hassid giáo có cái gì
đó liên quan với Moses, nhưng không với các tín ngưỡng, không liên quan với các
tục lệ, không liên quan với các thượng đế học.
Một Moses sống động, một
Mohammed sống động, có thể truyền cái gì đó mà không thể được nói, có thể chỉ
ra cái gì đó mà không thể được nói, có thể tạo ra rung động nào đó quanh ông ấy
mà có thể làm lẩy cò chứng ngộ trong nhiều người, nhưng không có giải thích
nào, không có chứng minh logic nào.
Chứng ngộ gần giống như chuyện
tình. Cũng như bạn rơi vào trong yêu - bạn không thể hợp lí hoá nó; nó ở dưới
lí trí - theo cùng cách bạn rơi vào trong chứng ngộ. Nó ở trên lí trí: bạn rơi
trên lời.
Có một câu chuyện hay về một thầy
đang ở tại nhà của đệ tử. Đệ tử này có chút ít lo nghĩ về thầy bởi vì cách thức
của thầy là kì lạ, bất ngờ. Thầy có thể làm bất kì cái gì! Thầy gần như bị coi
là điên. Cho nên để không tạo ra bất kì cái gì rắc rối cho hàng xóm - vì trong
đêm thầy có thể bắt đầu nhảy múa, hát, la hét, giảng đạo cho không ai cả và tạo
ra phiền phức cho hàng xóm - họ để thầy ở tầng hầm và khoá thầy trong tầng hầm,
để cho cho dù thầy đi và làm cái gì đó chẳng ai sẽ nghe thấy thầy. Họ đóng mọi
cửa sổ, mọi cửa ra vào, và khoá chúng lại.
Đến nửa đêm họ đột nhiên thức dậy.
Ai đó đang lăn trên mái với tiếng cười to tới mức một đám đông lớn đã tụ tập khắp
xung quanh và họ đang hỏi, "Chuyện gì thế nhỉ?"
Họ chạy xô lên, họ thấy thầy
đang lăn trên mái. Họ hỏi, "Có chuyện gì vậy? Làm sao thầy xoay xở được?
Chúng tôi đã khoá thầy trong tầng hầm chỉ để tránh cảnh tượng như thế!"
Thầy nói, "Đó là lí do tại
sao ta cười. Đột nhiên ta bắt đầu ngã lên. Bản thân ta không thể tin được điều
đó! Nó chưa bao giờ xảy ra trước đây, rơi lên!"
Đó là câu chuyện hay. Chứng ngộ
rơi lên cũng như yêu rơi xuống. Nhưng cái gì đó là tương tự trong cả hai; việc
rơi - vô lí, không giải thích được, không diễn đạt được. Chỉ những người mà điều
đó đã xảy ra thì mới biết, và ngay cả khi nó đã xảy ra bạn không thể nào giải
thích được nó cho bất kì ai mà nó chưa xảy ra họ.
Christmas Humphreys gọi Thiền
là "Thiền Phật giáo." Đó là bắt đầu theo hướng sai từ ngay lúc bắt đầu.
Thiền không phải là Phật giáo - là cốt lõi bản chất của trái tim của Phật, chắc
chắn, nhưng nó là cốt lõi bản chất của Moses nữa, cốt lõi bản chất của Zarathustra
nữa, Lão Tử nữa. Nó là cốt lõi bản chất của tất cả những người đã trở nên chứng
ngộ, của tất cả những người đã thức tỉnh từ giấc mơ của họ, của tất cả những
người đã thấy rằng con ngỗng ở ngoài, rằng ngỗng chưa bao giờ ở trong, rằng vấn
đề này không phải là vấn để chút nào ngay chỗ đầu tiên, do đó không giải pháp
nào được cần.
Christmas Humphreys nói:
"Có phương pháp nhận ra vấn đề từ bên sườn, vì nó là vậy. Nó sẽ là vô
nghĩa cho tâm trí hợp lí..."
Bản thân ông ấy có tâm trí hợp
lí; bằng không, nó không vô nghĩa. Vô nghĩa là cái gì đó bên dưới ý nghĩa. Thiền
là siêu nghĩa, không phải là vô nghĩa; nó là trên nghĩa. Nó là cái gì đó xa bên
ngoài tầm đạt tới của lí trí. Logic là trò chơi rất bình thường; bất kì ai có
chút ít thông minh cũng có thể chơi trò chơi này. Khoảnh khắc bạn đi ra ngoài
logic thế thì bạn đi vào trong thế giới của Thiền. Nó không phải là vô nghĩa,
nó là siêu nghĩa. Chính việc dùng từ "vô nghĩa" chỉ ra sự thiên lệch
sâu bên dưới hướng tới tính hợp lí.
Ông ấy nói: "...những tâm
trí như vậy sẽ không đọc thêm. Những người đọc tiếp sẽ mong đợi điều vô nghĩa
tăng lên, theo một nghĩa nào đó, những biệt thự ngoại ô của các suy nghĩ hợp
lí, sẽ sớm bị bỏ lại sau... "
Họ không bị bỏ lại sau, vì nếu
bạn bỏ cái gì đó lại sau, bạn ở trên cùng rãnh. Bạn đã bỏ lại cột mốc đằng sau,
nhưng con đường là một, con đường là không khác. Có thể bạn đã đi trước một dặm,
nhưng chiều hướng của bạn đã không đổi. Khác biệt chỉ là về số lượng, không về
chất lượng.
Lí trí không chỉ bị bỏ lại sau,
lí trí bị siêu vệt lên, bị vượt qua. Có khác biệt, khác biệt lớn, khác biệt tạo
ra khác biệt.
Tôi đã nghe một câu chuyện - nó
xảy ra trong Thế chiến thứ hai:
Trong một khu rừng rậm ở Miến
Điện, một chiếc máy bay nhỏ bị quân đội bỏ lại. Họ đang vội, họ đang đi trốn,
và bởi lí do kĩ thuật nào đó họ không thể nào xoay xở đem nó đi cùng được. Những
người nguyên thuỷ thấy chiếc máy bay; họ không thể nào hiểu nổi nó là cái gì. Họ
đã hình dung ra nó phải là một loại xe bò kéo nào đó - điều đó là điều có thể
duy nhất cho họ nghĩ; xe bò kéo là phương tiện tối thượng trong cách nhìn của họ.
Cho nên họ bắt đầu dùng máy bay như xe bò kéo, và họ thích thú nó. Nó là xe bò
kéo tốt nhất họ đã từng tìm ra!
Thế rồi ai đó đi qua - một người
đã sống xa hơn chút ít với bộ lạc nguyên thuỷ nhưng là một phần của bộ lạc này.
Anh ta biết, anh ta đã đi tới trải nghiệm xe hơi, xe tải, xe bus. Anh ta nói,
"Cái này không phải là xe bò kéo, cái này là xe hơi, và tôi biết cái gì đó
về xe hơi." Thế là anh ta sửa nó, và họ lập tức ngạc nhiên là không cần ngựa,
không cần trâu, cái máy vẫn làm việc. Nó là đồ chơi thế! Mọi sáng, mọi tối, họ
thích thú nhìn đi nhìn lại nó từ mọi phía, vào trong nó, ngồi trong nó; và bởi
vì không có nhiều đường, ngay cả đi vài mét cũng đã là kích động lắm rồi.
Thế rồi một hôm một phi công đi
qua khu rừng nguyên thuỷ đó và anh ta nói, "Các ông làm gì thế này? Đây là
máy bay, nó có thể bay được!"
Anh ta đưa hai người nguyên thuỷ
đi với mình, và khi họ rời khỏi mặt đất, họ không thể nào tin được điều đó. Điều
đó tuyệt đối bên ngoài tưởng tượng của họ, bên ngoài mọi giấc mơ của họ. Họ vẫn
tưởng rằng duy nhất Thượng đế có thể bay; họ đã nghe những câu chuyện về Thượng
đế bay trên trời. Vâng, họ đã thấy máy bay trên trời, nhưng họ bao giờ cũng tin
chúng thuộc về Thượng đế.
Bây giờ, cùng một cái máy có thể
được dùng như xe bò kéo, hay như xe hơi, nhưng giữa xe bò kéo và xe hơi sự khác
biệt chỉ là về lượng, không về chất. Khoảnh khắc máy bay cất cánh khỏi mặt đất
nó thay đổi bình diện của nó: nó vượt trên xe bò kéo, xe hơi. Nó chuyển động
trong chiều hướng mới toàn bộ.
Cho nên lí trí không bị bỏ lại
đằng sau, lí trí đơn giản bị siêu việt lên. Do đó, Christmas Humphreys gọi nó
là vô nghĩa, phi lí, hay nghĩ rằng lí trí đã bị bỏ lại đằng sau thì vẫn là nghĩ
dưới dạng tính hợp lí.
Ông ấy nói: "... và tâm
trí sẽ tự do..."
Bây giờ, điều đó là tuyệt đối
ngu xuẩn; tâm trí sẽ không tự do. Khi bạn đi vào trong thế giới của Thiền, có
vô trí. Thiền là tương đương với vô trí. Nó không phải là tự do với tâm trí, nó
là tự do khỏi tâm trí, và có nhiều khác biệt, khác biệt không bắc cầu qua được.
Tâm trí là không tự do, bạn là tự do với tâm trí. Tâm trí không còn đó, tự do
hay không tự do, tâm trí đã đơn giản dừng lại. Bạn đã đi qua một cửa mới mà bao
giờ cũng sẵn có cho bạn nhưng bạn chưa bao giờ gõ lên nó - cánh cửa của hiện hữu,
cánh cửa của vĩnh hằng.
Thiền, chính từ "Zen"
bắt nguồn từ từ tiếng Phạn dhyana. Dhyana nghĩa tiếng Anh là mediattion-suy tư,
nhưng từ "meditation" không mang ý nghĩa toàn bộ của nó.
"Meditation" lại cho bạn cảm giác rằng tâm trí đang làm cái gì đó:
tâm trí suy tư, tập trung, suy ngẫm, nhưng tâm trí có đó. Dhyana đơn giản nghĩa
là trạng thái của vô trí, không tập trung, không suy tư, thực ra - chỉ là im lặng,
im lặng sâu sắc, sâu lắng nơi mọi ý nghĩ đã biến mất; nơi không có một gợn sóng
trong cái hồ tâm thức; khi tâm thức vận hành giống như tấm gương phản ánh mọi
thứ có đó - sao, cây, chim, người, mọi thứ có đó - đơn giản phản xạ nó mà không
bóp méo gì, không diễn giải gì, không đem định kiến của bạn vào. Đó là điều tâm
trí bạn là gì: định kiến của bạn, ý thức hệ của bạn, giáo điều của bạn, thói
quen của bạn.
Christmas Humphreys nói:
"... và tâm trí sẽ tự do trên những núi vô giới hạn của niềm vui cố hữu
riêng của nó."
Điều này thực sự vô nghĩa! Thứ
nhất, "tâm trí sẽ tự do." Tâm trí không bao giờ có thể tự do được. Tự
do và tâm trí không bao giờ gặp gỡ. Tâm trí nghĩa là tù túng, tâm trí là nhà
tù. Trong tâm trí bạn sống cuộc sống bị bao bọc, bị bao quanh bởi đủ loại ý
nghĩ, lí thuyết, hệ thống, triết lí, bị bao quanh bởi toàn thể quá khứ của nhân
loại, mọi loại mê tín - Hindu giáo, Mô ha mét giáo, Ki tô giáo, Phật giáo,
Jaina giáo; chính trị, xã hội, kinh tế, tôn giáo. Hoặc tâm trí bạn được tạo nên
từ những viên gạch của Kinh Thánh, Koran, Gita, hoặc có thể là Das Kapital, hoặc
Cương lĩnh cộng sản. Bạn có thể đã làm ra nhà tù của bạn khác với người khác, bạn
có thể đã chọn kiến trúc khác, nhưng nhà tù thì như nhau. Kiến trúc sư có thể
là Sigmund Freud, Karl Marx, Albert Einstein - bạn có thể chọn, nhà tù tới theo
mọi hình dáng và kích cỡ - và thế rồi trang hoàng nội thất cũng tuỳ ở bạn. Bạn
có thể để tranh đẹp bên trong, bạn có thể treo thảm lên hết tường nọ tới tường
kia, bạn có thể sơn vẽ nó tương ứng theo cái thích và không thích của bạn, bạn
có thể làm vài thay đổi đây đó, cửa sổ bên trái hay bên phải, rèm chất liệu này
hay khác, nhưng nhà tù vẫn là nhà tù.
Tâm trí như vậy là nhà tù, và mọi
người đang sống trong nhà tù. Chừng nào bạn chưa thoát ra khỏi nhà tù bạn sẽ
không bao giờ biết tự do là gì. Nhà tù của bạn có thể rất ấm cúng, thoải mái,
thuận tiện, nó có thể được trang hoàng rất đẹp, bằng vàng, nạm kim cương... Sẽ
khó mà rời bỏ nó - bạn đã làm việc vất vả thế để tạo ra nó - điều đó sẽ không dễ
dàng. Nhưng nhà tù là nhà tù; làm bằng vàng hay làm bằng bùn, chả tạo ra khác biệt
gì. Bạn sẽ không bao giờ biết cái vô hạn của tự do, bạn sẽ không bao giờ biết
cái đẹp và sự huy hoàng của tự do; ý chí huy hoàng của bạn đang đấy. Bạn sẽ
không bao giờ biết rằng con ngỗng bao giờ cũng ở ngoài. Bạn sẽ sống trong mọi
loại giấc mơ. Dù chúng đẹp thế nào, mơ là mơ, và sớm hay muộn mọi giấc mơ đều
tan nát.
Nhưng tâm trí tự duy trì. Nếu
giấc mơ này tan tành ngay lập tức nó tạo ra giấc mơ khác - thực ra, nó bao giờ
cũng giữ cho người ta sẵn sàng. Trước khi mơ cũ bị tan tành nó cung cấp cho bạn
mơ mới - mơ hay hơn, tinh luyện hơn, phức tạp hơn, khoa học hơn, công nghệ hơn
- và lần nữa bạn bị mê đắm, lần nữa ham muốn nảy sinh: "Sao không thử nó?
Có thể mơ kia đã thất bại, nhưng điều đó không nhất thiết có nghĩa là mọi mơ sẽ
thất bại. Một cái có thể thành công chứ." Hi vọng đó liên tục nấn ná; hi vọng
đó giữ bạn đuổi theo các giấc mơ. Và khi chết tới, người ta thấy rằng cả đời
mình đã không là gì ngoài cùng chất liệu như mơ được tạo ra: "... Một chuyện
kể / Được kể bởi người ngu / Đầy âm thanh và bực bội,/ Chẳng có ý nghĩa
gì." Nhưng đây là cách hàng triệu người đang sống.
Christmas Humphreys nói:
"... và tâm trí sẽ tự do trên những núi vô giới hạn của niềm vui cố hữu
riêng của nó."
Điều này chỉ ra rằng ông ấy
chưa bao giờ hiểu ngay cả một giọt sương của triết lí Thiền ở phương Tây, nhưng
không biết mình đang làm gì, không trải nghiệm cái gì về điều ông ấy đang nói tới.
Tâm trí không thể đạt tới
"những núi vô giới hạn của niềm vui cố hữu riêng của nó"; tâm trí
không có năng lực cố hữu về vui vẻ. Tâm trí là nguyên nhân của mọi khổ; nó
không biết gì về vui. Nó chỉ nghĩ về vui, và việc nghĩ của nó về vui cũng không
là gì ngoài tưởng tượng chống lại khổ trong đó nó sống.
Nếu bạn đòi tâm trí định nghĩa
vui vẻ, định nghĩa của nó sẽ có tính phủ định; nó sẽ đơn giản nói, "Sẽ
không có khổ, sẽ không có đau, sẽ không có chết." Nhưng đây toàn là định
nghĩa phủ định; nó chẳng nói gì về phúc lạc, nó đơn giản nói về không đau.
Nhưng mục đích về không đau thì chẳng có giá trị gì. Cho dù bạn không đau bạn
có thấy nó đáng sống và trong bao lâu không? Cho dù bạn không bị ốm bệnh nào điều
đó không có nghĩa là bạn có mạnh khoẻ về sức khoẻ; đó là phẩm chất khác toàn bộ.
Một người có thể thích hợp về mặt thuốc men, có thể không có cái gì sai khi chẩn
đoán của bác sĩ diễn ra, nhưng nếu người đó không cảm thấy niềm vui tràn ngập
thì đó không phải là mạnh khoẻ - có lẽ là việc thiếu vắng bệnh, nhưng không phải
là hiện diện của mạnh khoẻ. Sự vắng mặt của bệnh tật không tương đương với sự
hiện diện của mạnh khoẻ; đó là hiện tượng khác toàn bộ.
Bạn có thể không khổ; điều đó
không có nghĩa là bạn phúc lạc. Bạn có thể đơn giản trong tình trạng lấp lửng,
không phúc lạc không khổ, điều còn tồi tệ hơn nhiều so với việc khổ, vì người
khổ ít nhất còn cố thoát ra khỏi nó. Người sống trong trạng thái lấp lửng, chỉ ở
trên đường biên, không khổ không phúc lạc, không thể thoát ra khỏi khổ được vì
người đó không trong khổ. Người đó không thể đi vào trong phúc lạc được vì
không có lực đẩy từ đằng sau; khổ không đánh đủ mạnh vào người đó để cho người
có có thể lấy cú nhảy. Người đó sẽ vẫn còn bị mắc kẹt, tù đọng.
Khổ là trạng thái tiêu cực,
phúc lạc là trạng thái tích cực, nhưng tâm trí chỉ biết khổ. Tâm trí không thể
biết "những núi vô giới hạn của niềm vui cố hữu của riêng nó" vì
không có gì trong nó cả. Tâm trí chỉ là bịa đặt của xã hội để giúp bạn thực hiện
các nghĩa vụ xã hội của bạn cho hiệu quả. Tâm trí là chiến lược của thể chế để
thao túng bạn, để làm bạn thành nô lệ, để giữ bạn không thông minh nhất có thể
được, vì người thông minh là nguy hiểm.
Trong toàn thể Kinh thánh không
có một phát biểu nào ca ngợi thông minh. Nó đầy mọi loại rác rưởi, nhưng không
có một phát biểu nào ca ngợi thông minh. Mê tín được ca ngợi, niềm tin được ca
ngợi, đủ mọi loại các thứ ngu xuẩn được ca ngợi.
Mọi tôn giáo, tôn giáo có tổ chức,
đã từng cố gắng làm con người thành robot, máy, và họ đã gần thành công. Đó là
lí do tại sao có ít chư Phật, ít Jesus thế. Lí do là đơn giản: xã hội, xưởng
máy, nhà nước, nhà thờ, quốc gia - họ đang trong một mưu đồ sâu xa để phá huỷ đứa
trẻ nhỏ, người rất mong manh, tinh tế và bất lực.
Bạn có thể phá huỷ nó. Và chiến
lược cơ bản để phá huỷ là tạo ra tâm trí, áp đặt tâm trí lên nó, để cho nó quên
mất phẩm chất bên trong nhất của nó về vui vẻ, nó quên sự hồn nhiên mà nó đã
mang từ cội nguồn của sự tồn tại, để cho nó quên đi mọi cái là đẹp và trở thành
chỉ là mấu răng trong bánh xe của xã hội. Nó phải là người phục vụ tốt, nó phải
là cái máy tốt, nó phải là trưởng ga tốt, giáo sư tốt, thế này thế nọ, nhưng nó
phải không là sinh linh thiêng liêng, nó phải không vận hành một cách phúc lạc.
Xã hội rất sợ người phúc lạc bởi
lí do đơn giản là phúc lạc là kinh nghiệm lớn tới mức người ta có thể hi sinh đời
mình vì nó nhưng người ta không thể hi sinh phúc lạc của mình vì bất kì cái gì
khác. Người ta sống vì phúc lạc, người ta chết vì phúc lạc, một khi người ta đã
biết phúc lạc là gì. Do đó người phúc lạc là tuyệt đối ở bên ngoài các lực cầm
tù của xã hội. Xã hội chỉ có thể cai trị được người khốn khổ, nhà thờ chỉ có thể
khai thác được người khốn khổ.
Và Christmas Humphreys nói:
"Vậy thì, đây là giải pháp thực cho vấn đề về các cái đối lập."
Không có "vấn đề về các
cái đối lập." Các cái đối lập là không đối lập, chúng là bù nhau, do đó
không có vấn đề như vậy. Bóng tối và ánh sáng là một hiện tượng, hai mặt của
cùng một đồng tiền. Sống và chết là không tách rời, bạn không thể tách chúng ra
được - làm sao bạn có thể làm cho chúng thành đối lập? Chúng là phần bù, chúng
giúp lẫn nhau. Do đó không có vấn đề và không cần bất kì giải pháp nào.
Và Thiền không phải là giải
pháp cho các cái đối lập, nó là siêu việt, nó là cái nhìn cao hơn - cái nhìn mắt
chim từ nơi đó mọi nhị nguyên có vẻ ngu xuẩn.
Điều quan trọng nhất xảy ra cho
người đầu tiên bước trên mặt trăng là ở chỗ người đó đột nhiên quên mất rằng
người đó là người Mĩ. Đột nhiên toàn thể trái đất là một, không có biên giới,
vì không có bản đồ trên đất. Lục địa Mĩ, lục địa châu Phi, lục địa châu Á, nước
này và nước nọ tất cả biến mất. Không phải là người đó đã làm nỗ lực gì để gắn
tất cả các phe đối lập lại với nhau; thậm chí không có nước Nga xô viết hay nước
Mĩ, toàn thể trái đất chỉ đơn giản là một.
Và những lời đầu tiên được thốt
ra bởi người Mĩ là "Trái đất thân yêu của tôi!" Đây là siêu việt.
Trong một khoảnh khắc người đó đã quên đi tất cả các ước định: "Trái đất
thân yêu của tôi!" Bây giờ toàn thể trái đất thuộc vào người đó.
Đây là điều thực tại xảy ra
trong trạng thái im lặng: toàn thể sự tồn tại là của bạn và mọi cái đối lập biến
mất vào trong nhau, hỗ trợ, nhảy múa cùng nhau. Nó trở thành một dàn nhạc.
Christmas Humphreys nói,
"Tôi sẽ nói nó cho bạn? Xét..."
Bây giờ, nhìn cách chỉ những
thay đổi nhỏ tạo ra khác biệt lớn: "Tôi sẽ nói nó cho bạn? Xét..."
Đây là cách triết lí gợi ý, không phải Thiền: "Xét..." Nó không phải
là vấn đề xem xét; hoặc bạn biết hoặc bạn không biết.
Thầy Nam Tuyền không nói,
"Xét bây giờ ta sẽ vỗ tay to. Xét bây giờ ta sẽ hét, 'Riko!' và ông phải
nói, 'Dạ, thưa thầy!' Thế thì ta sẽ nói, 'Thấy chưa, con ngỗng ở ngoài!"'
Thế thì toàn thể vấn đề chắc đã bị mất.
Mới vài ngày trước trong cuộc gặp
gỡ darshan vào buổi tối tôi đã gọi Nirupa. Cô ấy bị gẫy một tay. Cô ấy là một
trong những người trung gian của tôi, nhưng bây giờ cô ấy không thể tham gia được
vào trong nhảy múa. Cô ấy chỉ ngồi ngay hàng đầu và tôi gọi cô ấy. Trong một
khoảnh khắc cô ấy ngần ngại và mọi người cười, vì cô ấy sẽ làm gì với một tay?
Nhưng Thiền được làm với một bàn tay - tiếng vỗ tay của một bàn tay! - và cô ấy
đã làm tốt. Tất nhiên, chỉ tôi mới có thể nghe thấy âm thanh này, nhưng tiếng vỗ
tay của một bàn tay...Ngay cả khi bạn làm ra âm thanh bằng việc vỗ hai bàn tay,
năng lượng là một. Tay trái và tay phải của bạn không phải là hai, chúng được nối
trong bạn. Chúng không đối lập, chúng là phần bù, chúng thuộc vào một hiện hữu.
Mọi đối lập đều thuộc vào một
hiện hữu, và vấn đề không phải là xem xét. Nếu bạn xem xét, bạn lấy mọi thú vị
ra khỏi công án hay.
"Xét,' ông ấy nói,
"con ngỗng sống trong cái chai. Làm sao lấy nó ra mà không làm đau ngỗng
hay làm vỡ chai?"
Ông ấy thậm chí không thể nói
"không làm chết ngỗng." Một người Anh chính cống! "Không làm đau
ngỗng hay làm vỡ chai." Thực ra, ngay cả nói "làm vỡ chai" trái
tim ông ấy phải vỡ! "Câu trả lời là đơn giản..."
Nó không đơn giản. Ngay chỗ đầu
tiên nó không phải là câu trả lời. "Đó, nó ở ngoài!" Ông ấy đã phá huỷ
toàn thể cái hay của công án này. Nhưng thói quen rất khó chết. Đó chỉ là cách
suy nghĩ, cách thức của tâm trí.
Giáo hoàng được tặng một đôi quần
xi líp lụa đỏ với các chữ đầu T.I.F được đề tặng lên chúng. Khi Đức giáo hoàng
hỏi các chữ này viết tắt cho cái gì, ông ấy được bảo, "Toes In First -
Ngón chân vào trước'
Anand Bhavo, bạn hỏi tôi:
Osho ơi, con ngỗng có thực sự ở ngoài
không?
Nó bao giờ cũng ở ngoài rồi, nó
chưa bao giờ ở trong cả. Đó chỉ là vấn đề về mơ.
Thức dậy đi!
Câu hỏi thứ hai
Osho ơi, ở phương Tây tôi là
sinh viên triết học. Có yêu hay trí huệ nào trong triết học không? Tôi còn chưa
tìm thấy chúng.
Anand Wolfgang, điều tốt là bạn
vẫn chưa tìm thấy nó. Tôi hi vọng là bạn sẽ không bao giờ tìm thấy nó, không
bao giờ vì người Đức có xu hướng tìm thấy nó!
Người ta nói triết học giống
như người mù đi tìm trong phòng tối con mèo đen mà không có đó. Nhưng người Đức
tìm ra nó! Họ đã cho thế giới các triết gia vĩ đại nhất: Immanuel Kant và Hegel
và Fichte và Marx và Feuerbach và vân vân và vân vân.
Điều tốt, Wolfgang, là bạn nói:
Ở phương Tây tôi là sinh viên
triết học. Có yêu hay trí huệ nào trong triết học không? Tôi còn chưa tìm thấy
chúng.
Yêu là không thể được chút nào,
vì triết lí nghĩa là logic và logic không thể yêu được. Logic là nền tảng của khoa
học nhưng không là nền tảng của cuộc sống. Logic là áp dụng được cho những thứ
chết, cho các đối thể, vì phương pháp cơ bản của logic là mổ xe. Khoảnh khắc bạn
mổ xẻ cái gì đó bạn giết chết nó, cho nên nếu bạn muốn tìm cuộc sống qua logic
bạn sẽ không bao giờ tìm thấy nó; chính phương pháp ngăn cấm nó.
Bạn có thể cắt hoa hồng, bạn có
thể mổ xẻ nó, bạn có thể để tất cả các chất liệu một cách riêng biệt vào trong
các lọ khác nhau được dán nhãn một cách có phương pháp, nhưng một điều sẽ bị
thiếu: sẽ không có cái đẹp nào được tìm ra và không cuộc sống nào được tìm ra,
không niềm vui nào được tìm ra, không điệu vũ nào của hoa hồng trong gió, trong
mưa, trong nắng; chúng tất cả sẽ bị mất đi. Sẽ có vài chất hoá học, nhưng những
chất hoá học đó không phải là hoa hồng, những chất hoá học đó đơn giản là tình
huống trong đó hoa hồng đã xuất hiện. Chúng không tạo nên hoa hồng, chúng chỉ tạo
nên tình huống cho việc xuất hiện của hoa hồng. Nếu bạn lấy chúng đi, hoa hồng
biến mất vào trong thế giới vô hình.
Nó cũng giống việc mổ xẻ một vũ
công - bạn có nghĩ bạn sẽ tìm ra cái gì đó như điệu vũ bên trong không? Bạn sẽ
thấy xương, bạn sẽ thấy đủ mọi thứ kinh tởm, nhưng bạn sẽ không tìm ra điệu vũ.
Bạn có thể cắt họng một ca sĩ, nhưng bạn sẽ không tìm thấy bài ca - và bạn bao
giờ cũng tin rằng bài ca tới từ cổ họng. Họng chỉ là phương tiện; bài ca tới từ
cõi bên kia. Họng có thể là phương tiện tốt hay phương tiện xấu, đó là chuyện
khác, nhưng nó chỉ là phương tiện. Bằng việc mổ xẻ phương tiện bạn không thể
tìm được cái đã giáng xuống nó từ thế giới của cõi bên kia.
Yêu và logic không bao giờ gặp
gỡ, không thể gặp gỡ được. Logic nghĩa là cuộc hành trình ra ngoài, yêu nghĩa
là cuộc hành trình vào trong. Logic nghĩa là mổ xẻ, yêu nghĩa là tìm sự thống
nhất hữu cơ. Logic nghĩ dưới dạng nhiều, đa.
Thực ra, các nhà khoa học nên dừng
gọi vũ trụ là "vũ trụ," họ nên gọi nó là "đa vũ trụ."
"Vũ trụ" là cái tên thơ ca được những người yêu đặt ra; universe-vũ
trụ nghĩa là một, "uni." Theo khoa học nó không phải là một vũ trụ,
nó là nhiều, nó là đa vũ trụ. Chỉ những người yêu mới biết tới tính một, các
nhà tư tưởng không thể biết tính một.
Và trong tính một của cái toàn
thể người ta tìm thấy yêu và người ta tìm thấy trí huệ. Trí huệ là cái bóng của
yêu; bất kì chỗ nào có yêu đều có trí huệ. Khi yêu sống động có điệu vũ, có bài
ca, có cái đẹp; đó tất cả đều là những phẩm chất của trí huệ. Nếu bạn nghĩ
logic có thể cho trí huệ thế thì bạn sẽ phải quyết định một điều rất rõ ràng,
và đó là tri thức đó phải được lấy ra như trí huệ. Thế thì logic có thể cho bạn
trí huệ, nhưng thế thì tri thức trở thành tương đương với, đồng nghĩa với trí
huệ - và tri thức không đồng nghĩa với trí huệ. Tri thức toàn là vay mượn, rác
rưởi; bạn đã thu thập nó từ những người khác.
Trí huệ là việc bùng nổ của tâm
thức riêng của bạn. Trí huệ là điều bản chất bên trong; nó không tới từ bên
ngoài, nó bùng nổ bên trong bạn và lan toả hướng ra thế giới bên ngoài. Nó giống
như ánh sáng tỏa ra: bạn chia sẻ nó, bạn không tích luỹ nó. Tri thức phải được
cầu xin, trí huệ phải được chia sẻ. Chúng là các chiều khác nhau toàn bộ.
Triết học, Wolfgang này, không
thể cho bạn yêu và trí huệ đâu, nhưng nó có thể liên tục cho bạn hi vọng. Và nếu
triết học là câu trả lời, nó phải đã là câu hỏi đần độn.
Nhớ điều đó, nếu bạn có thể tìm
ra bất kì câu trả lời nào qua triết học, điều đó đơn giản chứng tỏ một điều: rằng
câu hỏi của bạn là đần độn. Nếu câu hỏi thực sự có ý nghĩa, triết học không có
câu trả lời. Bạn sẽ phải nhìn theo hướng khác. Hướng đó tôi gọi là Thiền, hướng
đó tôi gọi là thức tỉnh - không lí thuyết hoá, triết lí hoá, mà trở nên im lặng;
không trở nên thông thái hơn mà vứt bỏ mọi tri thức, bỏ nó đi, để cho bạn có thể
là trống rỗng, hoàn toàn trống rỗng. Trong trống rỗng có sáng tỏ, có rõ ràng,
có thuần khiết, có hồn nhiên, ngạc nhiên và kính nể của đứa trẻ. Và đó là những
khoảnh khắc của yêu và trí huệ lớn lên trong bạn; chúng lớn lên cùng nhau. Tri
thức và logic lớn lên cùng nhau. Trí huệ và yêu lớn lên cùng nhau.
Một nhà động vật học nổi tiếng
tại Sorbonne có thói quen cho sinh viên bài thi miệng vào cuối môn học của ông
ta, và ông ta bao giờ cũng hỏi cùng một câu hỏi: "Nói cho thầy mọi điều em
biết về sâu bọ."
Tất nhiên sinh viên của ông ấy
sẽ đi chơi khắp học kì và thế rồi ngay trước khi thi mới học siêng năng mọi thứ
về sâu bọ. Và tất cả họ đều được điểm rất cao.
Chung cuộc ông giáo sư trở nên
quan tâm rằng mọi sinh viên của mình đều học tốt thế. Thời gian tới để cho bài
thi và trong khi đó mọi sinh viên đều học toàn về sâu bọ. Khi sinh viên đầu
tiên tới làm bài thi, ông giáo sư hỏi, "Nói cho thầy mọi điều em biết về
voi!'
Sinh viên này bối rối sâu sắc một
lúc, rồi anh trả lời, "Voi có đuôi như sâu. Sâu được phân loại... "
Và thế rồi anh ta bắt đầu.
Tri thức bao giờ cũng không
thông minh. Nếu một câu hỏi được hỏi mà bạn có câu trả lời làm sẵn cho nó thì tốt,
nếu một câu hỏi được hỏi mà bạn không có câu trả lời làm sẵn cho nó thì bạn gặp
rắc rối. Bạn chỉ cư xử một cách máy móc. Tri thức có tính máy móc, và làm sao
cái gì máy móc có thể giúp được bạn thành khôn ngoan? Tri thức không là gì
ngoài việc phân loại.
Ngày xưa có một con sư tử trẻ đẹp.
Nó bị bắt trong rừng rậm châu Phi và được mang sang Mĩ, nơi nó được đưa ra
trưng bày trong vườn bách thú. Điều này làm cho con sư tử rất bất hạnh vì nó ưa
thích tự do của mảnh đất quê nhà hoang dã của nó và việc đồng hành của các con
thú rừng rậm khác. Nhưng sau một thời gian nó trở nên cam chịu với số mệnh của
mình và quyết định rằng nếu nó phải sống đằng sau chấn song nó sẽ là con sư tử
vườn thú tốt nhất.
Trong cái chuồng kế bên có một
con sư tử khác, con vừa già vừa lười với trách nhiệm tiêu cực và không có dấu
hiệu tham vọng hay năng lực thuộc bất kì loại nào. Nó nằm cả ngày dưới nắng,
không khuấy động mối quan tâm nào từ các khách thăm. Tương phản hẳn lại, con sư
tử trẻ đi tới đi lui hàng giờ trong chuồng của mình. Nó hành động như Vua thực
của loài vật, lắc lư cái đầu bờm, gầm gừ, và nhe răng. Đám đông thích nó; họ chẳng
chú ý gì tới con sư tử già lười biếng ngủ ở chuồng bên cạnh.
Con sư tử trẻ đánh giá cao sự
chú ý mà nó có được, nhưng nó bực mình bởi nó không được thưởng xứng đáng. Mỗi
trưa người coi vườn bách thú tới đi qua các chuồng để cho con vật ăn. Con sư tử
già lười nhác vốn chẳng làm nỗ lực nào để hài lòng khán giả lại được cho một
bát lớn đầy thịt ngựa. Con sư tử trẻ, bây giờ là ngôi sao hấp dẫn, được cho một
bát cam, chuối và hạt băm nhỏ. Điều này làm cho nó rất phiền lòng.
"Có lẽ," nó đăm
chiêu, "mình còn chưa cố gắng đủ chăm chỉ. Mình sẽ cải tiến diễn xuất."
Thế là nó đi khệnh khạng lâu hơn và hấp dẫn hơn. Bên cạnh gầm gừ và nghiến răng
nó thêm vào tiếng gầm thường xuyên làm rung chuyển các chấn song của chuồng.
Đám đông trở nên lớn hơn. Hàng nghìn công dân tới xem biểu diễn của nó, và nó
được chụp ảnh lên trang nhất trong báo địa phương.
Nhưng khẩu phần không thay đổi.
Con sư tử lười biếng vẫn nhận được thịt đỏ và con sư tử trẻ vẫn còn với đồ ăn
chay. Cuối cùng nó không thể chịu được điều này lâu hơn nữa. Nó dừng người coi
vườn thú lại với việc phản đối chính thức. "Tôi đang bị ốm và mệt mỏi vì
điều này," nó phàn nàn. "Mỗi ngày ông cho cái đồ lười biếng vô giá trị
bên cạnh một bát đầy thịt đỏ và ông nuôi tôi bằng cam, chuối và hạt. Đó là bất
công vô cùng. Tại sao ông nghĩ tất cả những người này tới thăm vườn thú? Họ tới
xem tôi đấy! Tôi là ngôi sao hấp dẫn, con sư tử đang làm mọi công việc và là
con đáng nhận được kết quả. Tại sao tôi không được quyền ăn thịt cho bữa tối?"
Người coi vườn thú đáp,
"Anh bạn trẻ ơi, anh không biết anh may mắn thế nào đâu. Bảng tổ chức
trong vườn thú này dành cho một sư tử thôi. Anh được mang tới như một con khỉ đấy!"
Triết gia giỏi trong phân loại
mọi thứ, nhà khoa học giỏi trong phân loại các thứ. Toàn thể nỗ lực của họ là
làm sao phân loại, làm sao để mọi thứ vào phân loại đặc thù - cái này là cái
này, cái kia là cái kia - và họ cứ tiếp diễn mãi. Họ không tìm sự thống nhất hữu
cơ của cuộc sống, họ không tìm nguyên lí tối thượng của cuộc sống cái vận hành
trong cây và núi và sao và con vật và chim chóc và đàn ông và đàn bà. Họ không
tìm yếu tố thống nhất đó. Yếu tố thống nhất đó là điều tôn giáo đã gọi là chân
lí, điều Phật đã gọi là niết bàn, điều Jesus đã gọi là vương quốc của Thượng đế.
Bạn sẽ không tìm thấy, Wolfgang,
bất kì trí huệ nào, bất kì yêu nào trong triết học. Vâng, bạn sẽ tìm thấy đủ mọi
loại câu trả lời hay, bạn sẽ tìm thấy đủ mọi loại thông tin như vẹt, các sự kiện,
bạn sẽ trở nên rất hiệu quả trong việc lặp lại chúng, trong trích dẫn chúng,
nhưng bạn sẽ chỉ trở thành cái máy tính. Điều đó có thể được làm bởi máy tính tốt
hơn bởi bạn.
Tìm ra cái gì đó bên trong bạn
mà máy tính không thể làm được và bạn sẽ tìm ra chiều hướng đúng cho bản thể
bên trong nhất của bạn, cho tự do của bạn. Đó là toàn thể nỗ lực của Thiền, đó
là điều chúng ta đang cố làm ở đây. Máy tính không thể yêu được; nó có thể nói
"Anh yêu em," nhưng bạn biết rằng nó là máy tính. Nó có thể làm mọi cử
chỉ yêu, nhưng nếu đột nhiên mất điện..."Grừ, grừ, grừ," hay nếu hết
pin, đầu tiên bạn phải thay pin, thế rồi nó sẽ nói "Anh yêu em."
Nhưng mọi người là ngu xuẩn và
mọi người đang cố đủ mọi thứ để làm cho con người giống robot nhiều hơn.
Mới hôm nọ tôi đã đọc mục này
trong báo: "Làm bạn trần tục," Toronto, 25/2.
Đàn ông và đàn bà trong tương
lai sẽ có bạn tình dục robot, và công nghệ tình dục sẽ cung cấp chúng cho ham
muốn trái tim của họ: máy kích thích, máy kích dục, và cực thích hoá học.
Các chuyên gia tình dục kết luận
trong một buổi xê mi na ở đây rằng đàn ông và đàn bà sẽ vẫn làm bạn, nhưng trong
những thời kì được xác định rõ. Một số người nói rằng đàn bà sẽ muốn "kinh
nghiệm sâu sắc và cơ bản" của việc mang thai mà không sinh con.
Một chuyên gia tình dục nói rằng
quan hệ dục với robot sẽ giúp "bổ sung hay làm giầu thêm cuộc sống hoang
tưởng và đóng góp cho việc thiết lập một chỗ mà thúc đẩy thay vì chặn lại tăng
trưởng và phát triển dục."
Điều đó sẽ xảy ra! Theo một
cách nào đó nó đã xảy ra rồi. Trong hàng nghìn năm con người đã từng làm tình một
cách máy móc, và cái gọi là các mahatma - Mahatma Gandhi và Giáo hoàng Polack
và Mẹ Teresa - tất cả họ đều nói rằng nếu bạn làm tình chỉ vì một lí do, đó là
sinh sản, thế thì nó không phải là tội lỗi. Nếu bạn làm tình chỉ vì niềm vui vô
cùng của nó, vì vui thú vô cùng của nó, đấy là tội lỗi.
Bây giờ, sinh sản là có tính
hoá chất, sinh học; vui thú có giá trị cao hơn. Không con vật nào biết gì về
vui thú. Bạn có nhìn các con vật làm tình không? Bạn có thấy vui thú nào không?
Chúng thậm chí không nói, "Chào!" với nhau, và khi chúng được kết
thúc chúng thậm chí không nói, "Cám ơn, mình gặp lại sớm nhé!" Chúng
thậm chí không nhìn nhau; chúng dường như hoàn toàn chán. Nhìn vào các con vật
đang làm tình mà xem - chúng dường như hoàn toàn chán, dường như lực sinh học
nào đó đang ép buộc chúng làm cái gì đó và chúng phải làm nó. Một khi chúng được
kết thúc chúng đi theo đường của chúng; chúng sẽ không bao giờ nhận nhau lần nữa,
chúng sẽ không viết thư tình.
Vui thú không có tính con vật,
vui thú có tính con người. Và tất cả những mahatma này liên tục kết án con người
về mọi thứ có tính con vật ngoại trừ việc sinh sản - và sinh sản là tuyệt đối
con vật! Mọi con vật đều sinh sản; chẳng có gì đặc biệt trong điều đó. Điều duy
nhất là - chúng không tận hưởng nó, chúng không có vui thú nào trong nó, chúng
không có quan hệ yêu nào phát triển ra từ nó, chúng không biến đổi năng lượng dục.
Nhưng sinh sản được coi là đức hạnh và vui thú bị coi là cái gì đó tuyệt đối kết
án được. Những người này bao giờ cũng đổi niềm vui con người thành hiện tượng
như robot.
Mọi người đã từng làm tình với
nhau trong bóng tối, dưới chăn che phủ. Nếu một người sao Hoả tới trái đất, đặc
biệt tới Ấn Độ, người đó sẽ không thấy dấu hiệu nào của bất kì ai làm tình. Người
đó sẽ rất phân vân làm sao những người này sinh sản. Việc truy hỏi cơ bản của
người đó sẽ là để tìm ra cách bạn sinh sản, vì người đó sẽ không thấy người nào
làm tình. Yêu là xa xôi, người đó sẽ không thấy người nào cầm tay nhau.
Tôi đã nghe:
Có lần một đôi lên sao Hoả, và
tất nhiên truy hỏi cơ bản của họ là... vì họ không thể nào tìm ra làm sao mọi
người đã làm tình ở đó. Họ cố gắng lắm, họ làm đủ mọi thứ mà họ đã làm trên
trái đất để biết về chuyện tình của những người khác - họ trở thành kẻ nhòm lỗ
khoá - nhưng họ không thể nào tìm ra được cái gì.
Chung cuộc họ hỏi một đôi sao
Hoả, một cách rất lịch sự, "Chúng tôi đã tới từ trái đất, chúng tôi đang
trong chuyến nghiên cứu. Chúng tôi muốn biết cách các ông bà làm tình."
Họ nói, "Điều đó rất đơn
giản!" Họ mở tủ lạnh ra, đem ra hai lọ, bắt đầu trộn lẫn các hoá chất được
chứa trong các lọ đó vào lọ nhỏ thứ ba, hoà lẫn chúng cho kĩ và để cái lọ trở lại
tủ lạnh.
Đôi đang hỏi về làm tình chả thấy
việc làm tình nào trong điều đó. Họ nói, "Các ông bà đang làm gì vậy? Các
ông bà đang chuẩn bị cà phê hay cái gì?" Họ nói, "Không, bởi vì trong
chín tháng cái lọ mới này sẽ có một đứa bé trong nó. Chúng tôi đã trộn mọi chất
liệu cần thiết. Đây là cách chúng tôi sinh sản."
Đôi từ trái đất bắt đầu cười. Họ
nói, "Thế thì nói cho chúng tôi một điều nữa - các ông bà chuẩn bị cà phê
thế nào?"
Thế là cả hai người tụt quần áo
ra và bắt đầu làm tình! Và đôi từ trái đất bật cười điên dại; họ không thể nào
tin được điều đang xảy ra. Họ đang làm cà phê đấy!
Người sao Hoả hỏi, "Các
ông bà cười gì vậy? Sao ông bà cười?"
Họ nói, "Vì đây là cách
chúng tôi sinh sản - và các ông bà làm cà phê! Vậy đây là cà phê mà ông bà sẽ
phục vụ cho chúng tôi sáng nay!"
Con người đã từng cố gắng tìm
ra cách thức khoa học nào đó để sinh sản để cho mọi thứ có thể được trở thành
máy móc. Thế thì ngay cả yêu cũng sẽ không còn là riêng tư. Trí huệ đã bị tiếp
quản bởi nhà thờ, đại học; yêu vẫn còn chút ít riêng tư. Tất nhiên, xã hội đã
chi phối gần chín mươi chín phần trăm nó qua hôn nhân, qua mọi loại luật pháp,
qua mọi loại giao kèo pháp lí, nhưng dầu vậy một phần trăm vẫn còn riêng tư. Điều
đó nữa xã hội cũng không hài lòng mấy đâu; điều đó cũng phải bị xâm phạm - yêu
của bạn cũng phải bị lấy đi khỏi bạn. Trí huệ bị lấy đi từ lâu trước đây rồi,
và bây giờ yêu phải bị lấy đi. Thế thì bạn được thu lại cái máy, máy nô lệ, kẻ
nô lệ; thế thì bạn sẽ chỉ lặp lại những lời sáo rỗng.
Một người bấm chuông tại cửa
nhà cha tuyên uý. Khi người quản gia ra mở cửa, người này nói, "Tôi đem đến
cho ông hai mươi tư nghìn lít dầu mà ông đã đặt hàng."
Người quản gia rất ngạc nhiên
và hỏi cha tuyên uý liệu ông ấy có đặt ngần ấy lít dầu không. Cha tuyên uý thậm
chí còn ngạc nhiên hơn, nhưng đột nhiên ông ta nhớ ra con vẹt của mình. Thế là
ông ta lao vào trong phòng và quát, "Mày đã đặt hai mươi tư nghìn lít dầu
phải không?"
"Không," con vẹt nói.
"Mày có chắc không? Hoàn
toàn chắc không?" cha tuyên uý hỏi.
"Có!" vẹt rít lên.
"Được, đợi đấy!" cha
tuyên uý đáp. "Nếu tao mà tìm ra rằng mày đã nói dối, tao sẽ đóng đinh hai
cánh mày lên tường!"
Để cho chắc, ông ta sớm khám
phá ra rằng chính con vẹt đã đặt đơn hàng này, thế là ông ta đóng đinh nó lên
tường.
Sau khi con vẹt bị treo ở đó một
lúc, nó buồn bã nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy mô hình cây thánh giá ngay trước
nhà thờ. Nó ngẩng đầu lên và nói, "Này, Jesus, ông có đặt hai mươi tư
nghìn lít dầu không đấy?"
Con người đã bị thu lại thành
con vẹt. Các sannyasin của tôi phải thoát ra khỏi mọi cái lồng này - những cái
lồng mà triết lí, thượng đế học, khoa học và đủ mọi thứ khác đã tạo ra quanh bạn.
Bạn phải đi ra khỏi tất cả nó, tất cả - không bộ phận, không dần dần, không chậm
chạp, không ngày mai mà bây giờ, tại chính khoảnh khắc này.
"Riko!"
"Dạ, thưa thầy," quan
chức giật mình nói.
"Thấy chưa," Nam Tuyền
nói, "con ngỗng ở ngoài!"
..............................
0 Đánh giá