Read more
Dogo có một đệ tử tên là Soshin. Khi Soshin
được nhận vào như một người mới, điều có lẽ tự nhiên với anh ta là mong đợi có
những bài học về Thiền từ thầy giáo theo cách cậu học sinh trường làng được dạy
ở trường. Nhưng Dogo không cho anh ta bài học đặc biệt nào về chủ đề này, và điều
này làm cho Soshin hoang mang và thất vọng.
Một hôm anh ta nói với thầy, "Đã một
thời gian qua rồi từ khi tôi tới đây, nhưng thầy chả có lời nào nói cho tôi về
bản chất của việc dạy về Thiền."
Dogo đáp, "Từ khi ông tới, ta đã từng
cho ông nhiều bài học về vấn đề kỉ luật Thiền rồi."
"Nó có thể là loại bài học nào ạ?"
"Khi ông mang cho ta chén trà buổi
sáng, ta nhận nó; khi ông hầu hạ ta bữa ăn, ta chấp nhận nó; khi ông cúi lạy
ta, ta đáp lại bằng gật đầu.
Ông còn mong đợi cái gì khác được dạy trong
kỉ luật Thiền?"
Soshin cúi đầu một chốc, nghiền ngẫm những
lời thách đố của thầy.
Thầy nói, "Nếu ông muốn nhìn, nhìn
đúng ngay vào. Khi ông bắt đầu nghĩ, ông bỏ lỡ vấn đề."
Sujata đã viết cho tôi:
Thượng đế kì quặc làm sao mà chọn người Do
Thái!
Sujata,
Thượng đế cực kì có khả năng
khôi hài! Tôn giáo vẫn còn là cái gì đó chết nếu không có khả năng khôi hài như
nền tảng của nó. Thượng đế chắc đã không có khả năng tạo ra thế giới nếu ngài
không có khả năng khôi hài. Thượng đế không nghiêm chỉnh chút nào. Tính nghiêm
chỉnh là trạng thái bệnh tật; khôi hài là mạnh khoẻ. Yêu, tiếng cười, cuộc sống,
chúng là các mặt của cùng một năng lượng.
Nhưng trong nhiều thế kỉ mọi
người đã được bảo rằng Thượng đế rất nghiêm chỉnh. Những người này đều bệnh hoạn.
Họ tạo ra Thượng đế nghiêm chỉnh, họ phóng chiếu ra Thượng đế nghiêm chỉnh, từ
bệnh hoạn riêng của họ. Và chúng ta đã tôn thờ những người này như thánh nhân.
Họ không phải là thánh nhân. Họ cần việc thức tỉnh lớn; họ ngủ say trong tính
nghiêm chỉnh của họ. Họ cần tiếng cười - điều đó chắc đã giúp cho họ nhiều hơn
mọi lời cầu nguyện và nhịn ăn của họ; điều đó chắc đã lau sạch linh hồn họ theo
cách tốt hơn nhiều mọi thực hành khổ hạnh của họ. Họ không cần nhiều kinh sách,
nhiều thượng đế học; họ cần mỗi năng lực để cười vào cái ngớ ngẩn hay của cuộc
sống. Nó là ngớ ngẩn một cách cực lạc. Nó không phải là hiện tượng hợp lí; nó
là bất hợp lí hoàn toàn.
Moses đi lên núi. Sau một thời
gian lâu Thượng đế xuất hiện. "Chào Moses. Thật vui được gặp ông. Rất tiếc
là ông phải đợi, nhưng ta nghĩ ông sẽ cảm thấy điều đó là xứng đáng vì ta có
cái gì đó rất đặc biệt cho ông hôm nay."
Moses nghĩ một giây và rồi nói,
"Ồ, không, thưa Trời, thực sự đấy. Cám ơn ngài, nhưng tôi không cần cái gì
ngay bây giờ. Lúc khác được không."
"Moses, cái này cho không
mà," Trời nói.
"Thế thì," Moses nói,
"cho tôi mười cái!"
Đó là lí do làm sao người Do
Thái có được Mười lời răn.
Sujata, Thiền có cái gì đó có
tính Do Thái trong nó. Điều thực sự rất đáng phân vân tại sao Thiền đã không xuất
hiện trong thế giới Do Thái. Nhưng người Trung Quốc cũng có khả năng khôi hài lắm.
Thiền không có tính Ấn Độ, xin nhớ cho. Tất nhiên, cội nguồn là trong Phật
Gautam, nhưng nó đã đi qua biến đổi vô cùng khi đi qua tâm thức Trung Quốc.
Có vài người rất trí huệ nghĩ rằng
Thiền nhiều phần có tính nổi dậy chống lại cái nghiêm chỉnh Ấn Độ hơn là sự
liên tục của nó. Và họ có ý kiến ở đó; chân lí nào đó ở đó. Lão Tử nhiều tính
Do Thái hơn tính Hindu - ông ấy có thể cười. Trang Tử đã viết những câu chuyện
hay và ngớ ngẩn thế; không ai có thể quan niệm được về người chứng ngộ viết những
chuyện như thế, điều chỉ có thể được gọi, nhiều nhất, là giải trí. Nhưng giải
trí có thể trở thành cánh cửa tới chứng ngộ.
Thiền về nguồn gốc được nối với
Phật, nhưng mầu sắc và hương vị tới với nó lại thông qua Lão Tử, Trang Tử, Liệt
Tử và tâm thức Trung Quốc. Và thế rồi nó bừng nở ở Nhật Bản; nó đi tới đỉnh cao
tối thượng ở Nhật Bản. Nhật Bản cũng có phẩm chất lớn: nhận cuộc sống một cách
chơi đùa. Tâm thức của Nhật Bản rất có màu sắc.
Thiền cũng có thể đã xảy ra cho
thế giới Do Thái nữa. Cái gì đó như nó thực sự đã xảy ra - đó là Hassid giáo.
Câu chuyện này phải đã bắt nguồn từ các nguồn Do Thái, mặc dầu nó là về Jesus.
Nhưng người Ki tô giáo không có khả năng khôi hài. Và Jesus chưa bao giờ là người
Ki tô giáo, nhớ lấy. Ông ấy được sinh ra là người Do Thái, ông ấy sống như người
Do Thái, ông ấy chết như người Do Thái.
Jesus đang treo trên cây chữ thập
vẫn còn hát, "Da-di-li-da-dum-dein..."
Đột nhiên Peter rít lên từ bên
dưới, "Này, Jesus!"
Jesus vẫn tiếp tục,
"Da-di-dum-da-dum-da-dei..."
Peter, bây giờ khẩn thiết hơn,
"Này, Jesus, dừng việc đó lại!"
Jesus vẫn tiếp tục hài lòng với
"Di-duah-duah..."
Cuối cùng Peter la lên,
"Vì Trời, Jesus, cắt bỏ nó đi! Khách du lịch đang tới!"
Cố hiểu Thiền qua tiếng cười
đi, đừng qua lời cầu nguyện. Cố hiểu Thiền qua hoa, bướm, mặt trời, mặt trăng,
trẻ con, mọi người trong mọi cái ngớ ngẩn của họ. Quan sát toàn cảnh này của cuộc
sống, mọi màu sắc, toàn thể phổ.
Thiền không phải là học thuyết,
nó không là giáo điều. Nó là việc trưởng thành vào cái nhìn bên trong. Nó là
cách nhìn - rất vui vẻ vô tư, không nghiêm chỉnh chút nào.
Vui vẻ vô tư, nhanh chân đi.
Nhanh chân lên. Đừng mang tôn giáo như gánh nặng. Và đừng mong đợi tôn giáo là
việc dạy; nó không phải vậy. Nó chắc chắn là kỉ luật, nhưng không như việc dạy
chút nào. Việc dạy phải bị áp đặt lên bạn từ bên ngoài và việc dạy chỉ có thể đạt
tới tâm trí bạn, không bao giờ tới trái tim bạn, và không bao giờ, không bao giờ
tới chính trung tâm bản thể bạn. Việc dạy vẫn còn là trí tuệ. Nó là câu trả lời
cho tính tò mò con người, và tò mò không phải là tìm kiếm thực.
Học trò vẫn còn ở bên ngoài
ngôi đền của Thiền vì anh ta vẫn còn tò mò. Anh ta muốn biết câu trả lời và
không có câu trả lời. Anh ta có câu hỏi ngu xuẩn nào đó cần được trả lời:
"Ai đã làm ra thế giới? Tại sao ngài đã làm ra thế giới?" Vân vân và
vân vân. "Có bao nhiêu cõi trời và bao nhiêu địa ngục? Và bao nhiêu thiên
thần có thể nhảy múa trên đầu kim? Và thế giới là vô hạn hay hữu hạn? Có nhiều
kiếp sống hay chỉ một kiếp?" Đây toàn là tò mò - tốt cho học trò môn triết
lí nhưng không tốt cho đệ tử.
Đệ tử phải vứt bỏ tò mò. Tò mò
là cái gì đó rất bề ngoài. Cho dù những câu hỏi đó được trả lời, không cái gì sẽ
xảy ra cho bản thể bạn; bạn sẽ vẫn còn như cũ. Vâng, bạn sẽ có nhiều thông tin
hơn, và từ thông tin đó bạn sẽ tạo ra những câu hỏi mới. Từng câu hỏi được trả
lời mang tới thêm mười câu hỏi mới; câu trả lời tạo ra mười câu hỏi mới.
Nếu ai đó nói, "Thượng đế
tạo ra thế giới," thế thì câu hỏi là, "Tại sao ngài tạo ra thế giới?
Và tại sao thế giới giống thế này? - khổ thế. Nếu ngài là toàn quyền, toàn
năng, toàn diện, ngài không thể thấy được điều ngài đang làm sao? Tại sao ngài
đã tạo ra đau đớn, bệnh tật, chết chóc?" Bây giờ, bao nhiêu câu hỏi thế...
Triết lí là bài tập trong tính
vô tích sự.
Học trò tới do tò mò. Chừng nào
anh ta chưa trở thành đệ tử anh ta sẽ không trở nên nhận biết rằng tò mò đó là
vòng tròn luẩn quẩn. Bạn hỏi một câu hỏi, bạn được cho câu trả lời, câu trả lời
này đem tới mười câu hỏi mới nữa, vân vân và vân vân. Và cái cây này trở nên
ngày càng lớn hơn; tán lá ngày càng dầy hơn. Và chung cuộc triết gia chỉ có những
câu hỏi và không câu trả lời chút nào.
Bị bao quanh bởi mọi câu hỏi
ngu xuẩn đó... tôi gọi chúng là ngu xuẩn vì chúng không có câu trả lời; tôi gọi
chúng là ngu xuẩn vì chúng được sinh ra từ tò mò trẻ con. Khi người ta bị bao
quanh bởi mọi câu hỏi đó và không có câu trả lời, người ta mất sự sắc bén, người
ta mất sáng tỏ, người ta bị che mờ. Và người ta không còn thông minh nữa. Người
ta càng trở nên trí tuệ, người ta càng ít thông minh.
Vị giáo sư đã gửi bà vợ của
mình cho viện tâm thần nói chuyện với ông phụ trách nhân viên ở đó. "Làm
sao chúng tôi biết được khi nào vợ tôi khoẻ trở lại, thưa bác sĩ?"
"Chúng tôi có phép thử đơn
giản mà chúng tôi làm cho mọi bệnh nhân," ông ấy đáp. "Chúng tôi vặn
vòi nước vào trong máng, đưa cho bệnh nhân cái gầu, và bảo người đó múc hết nước
trong máng ra."
"Điều đó chứng tỏ cái
gì?" vị giáo sư hỏi.
"Sơ đẳng thôi, thưa
ngài," bác sĩ khẳng định với ông ấy. "Bất kì người lành mạnh nào sẽ tắt
vòi nước."
"Khoa học chẳng kì diệu thế
sao!" Ông ấy đáp. "Tôi chưa bao giờ nghĩ tới điều đó!"
Ông ấy phải là một giáo sư triết
học; ông ấy không thể kém hơn thế.
Ông giáo sư này chỉ biết các
câu hỏi. Ông ấy bị lạc trong rừng câu hỏi. Triết gia vẫn còn chưa trưởng thành.
Trưởng thành là về tâm thức, không về trí tuệ. Nó không phải là về tri thức, nó
là về hồn nhiên.
Vâng: Không việc biết là điều
thân thiết nhất. Và vận hành từ không việc biết đó là vận hành theo cách chứng
ngộ. Đáp ứng từ không việc biết là đáp ứng như vị Phật. Đó là đáp ứng đúng vì
nó không bị che mờ, không bị bóp méo, không bị làm vấy bẩn, không bị ô nhiễm và
đầu độc bởi tâm trí bạn và quá khứ của bạn. Nó là tươi mát, nó là trẻ trung, nó
là mới mẻ. No nảy sinh với thách thức của hiện tại. Nó bao giờ cũng trong đồng
bộ với cái mới, với hiện tại. Và hiện tại bao giờ cũng mới, nó bao giờ cũng
chuyển động - nó năng động. Mọi câu trả lời của bạn đều tĩnh tại, và cuộc sống
là năng động.
Do đó Thiền không quan tâm tới
các câu trả lời - hay các câu hỏi. Nó không quan tâm tới việc dạy chút nào. Nó
không phải là triết lí; nó là cách khác toàn bộ để nhìn vào mọi sự, vào cuộc sống,
vào sự tồn tại, vào bản thân người ta, vào người khác. Vâng, nó là kỉ luật.
Kỉ luật đơn giản có nghĩa là
phương pháp luận để trở nên được định tâm hơn, trở nên tỉnh táo hơn, trở nên nhận
biết hơn, đem nhiều tính thiền hơn tới bản thể của bạn; không vận hành qua cái
đầu, thậm chí không vận hành qua trái tim, mà vận hành từ chính cốt lõi của bản
thể bạn, từ chính cốt lõi bên trong nhất, từ trung tâm của bản thể bạn, từ tính
toàn bộ của bạn. Nó không phải là phản ứng - phản ứng tới từ quá khứ - nó là
đáp ứng. Đáp ứng bao giờ cũng trong hiện tại, với hiện tại.
Thiền cho bạn kỉ luật để trở
thành tấm gương để cho bạn có thể phản xạ cái đang đó. Mọi điều được cần là nhận
biết vô ý nghĩ.
Điều thứ nhất cần bị bỏ đi là
tính tò mò, vì tò mò sẽ giữ bạn bị trói buộc vào cái vô tích sự. Nó sẽ giữ bạn
là học trò; nó sẽ không bao giờ cho phép bạn trở thành đệ tử.
Boris, tới từ Nga, đã ở Mĩ được
vài tháng. Anh ta nói tiếng Anh không sõi lắm.
Một hôm anh ta được hỏi,
"Boris, cái gì là cái anh lo âu nhất khi thấy ở Mĩ?"
"Dạ," Boris đáp,
"tôi uốc ao nhất là gặp bà Beech nổi tiếng nhất, người có nhiều con trai
thế trong cuộc chiến trước."
Hiểu không? Anh ta phải đã nghe
mọi người Mĩ gọi nhau là "sonofabitch, sonofabitch..." cho nên anh ta
quan tâm rất nhiều, lo âu, tò mò để biết bà Beech, bà Beech nổi tiếng.
Tò mò bao giờ cũng giống điều
đó. Nó là ngu xuẩn, nhưng nó có thể giữ bạn bị trói buộc vào tâm trí. Và đừng nghĩ
rằng có tò mò nào đó có tính tâm linh, siêu hình. Không, chẳng có gì giống thế
tồn tại; mọi tò mò đều như nhau. Dù bạn hỏi về "bà Beech nổi tiếng"
hay bạn hỏi về Thượng đế nó tất cả là như nhau. Việc hỏi từ tâm trí sẽ có cùng
phẩm chất - của tính ấu trĩ.
Có loại hỏi khác toàn bộ nảy
sinh từ chỗ thầm kín sâu hơn của bản thể bạn.
Thiền quan tâm tới kỉ luật,
không tới việc dạy. Nó muốn bạn tỉnh táo hơn để cho bạn có thể thấy rõ ràng
hơn. Nó không cho bạn câu trả lời; nó cho bạn mắt để nhìn. Hữu dụng gì mà đi
nói cho người mù ánh sáng là gì và mọi lí thuyết về ánh sáng? Điều đó là vô dụng.
Bạn đơn giản là ngu xuẩn với việc trả lời cho sự tò mò của người mù. Điều được
cần cấp thiết là chữa trị đôi mắt của người đó. Người đó cần mổ, người đó cần mắt
mới, người đó cần thuốc. Đó là kỉ luật.
Phật đã nói: "Ta là người
chữa trị, không phải triết gia." Và Thiền tuyệt đối là việc điều trị. Nó
là điều trị lớn lao nhất đã tới với nhân loại, từ công việc của hàng nghìn người
chứng ngộ - rất tao nhã. Nó có thể giúp mở mắt bạn ra. Nó có thể giúp bạn lại cảm
nhận, lại nhạy cảm với thực tại. Nó có thể cho bạn mắt và tai. Nó có thể cho bạn
linh hồn. Nhưng nó không quan tâm tới câu trả lời.
Suy ngẫm về câu chuyện hay này:
Dogo có một đệ tử tên là
Soshin. Khi Soshin được nhận vào như một người mới, điều có lẽ tự nhiên với anh
ta là mong đợi có những bài học về Thiền từ thầy giáo theo cách cậu học sinh
trường làng được dạy ở trường.
Vâng, điều đó là tự nhiên theo
một cách nào đó, vì đó là cách chúng ta được ước định. Tri thức được trao cho
chúng ta dưới dạng những câu hỏi và trả lời. Từ trường tiểu học cho tới đại học
đó là cách chúng ta được dạy, được ước định, bị thôi miên. Và một cách tự
nhiên, sau khi một phần ba cuộc đời bạn bị phí hoài theo cách đó, bạn trở nên
quen với nó. Thế rồi bạn bắt đầu hỏi những câu hỏi sâu sắc theo cùng cách như
người ta hỏi, "Hai cộng với hai là mấy?" Bạn bắt đầu hỏi về yêu, cuộc
sống, Thượng đế, thiền - theo cùng cách!
Thực ra, ngay cả câu hỏi bình
thường đó cũng là không thể nào trả lời được. Nếu bạn hỏi nhà toán học thực,
ngay cả câu hỏi đơn giản này "Hai cộng với hai là mấy?" cũng là không
thể trả lời được, vì đôi khi nó là năm và đôi khi nó là ba. Nó rất hiếm khi mới
là bốn. Chính điều ngoại lệ là hai cộng với hai thành bốn, rất ngoại lệ, bởi một
lẽ đơn giản là hai thứ không bao giờ như nhau. Nó là việc trừu tượng hoá: bạn cộng
hai với hai và bạn nói bốn.
Hai người và hai người là bốn
người khác nhau, khác tới mức bạn không thể tạo ra được một trừu tượng từ họ.
Thậm chí hai lá và hai lá khác cũng là khác nhau tới mức bạn không thể đơn giản
gọi chúng là bốn lá; chúng không là như nhau. Trọng lượng là khác, mầu sắc của
chúng là khác, hình dáng của chúng là khác, vị của chúng là khác. Không có hai
thứ gì trên thế giới là như nhau. Cho nên làm sao hai cộng với hai là bốn được?
Nó chỉ là một trừu tượng hoá; nó là toán học thấp hơn. Toán học cao hơn biết rằng
đây chỉ là tiện dụng, nó không phải là chân lí. Toán học là bịa đặt của con người;
nó là trò dối trá có tác dụng.
Nói gì tới yêu, cái đi ra ngoài
mọi toán học và mọi logic? Trong yêu, một cộng với một trở thành một, không
hai. Trong yêu sâu sắc, tính hai biến mất. Toán học bị siêu việt lên; nó trở
thành không liên quan. Trong yêu sâu sắc, hai người không còn là hai người, họ
trở thành một. Họ bắt đầu cảm, vận hành, như một đơn vị, như một đơn vị hữu cơ,
như một niềm vui cực thích. Toán học sẽ không có tác dụng, logic sẽ không có
tác dụng, hoá học không có tác dụng, sinh học không có tác dụng, sinh lí không
có tác dụng. Yêu là cái gì đó phải được kinh nghiệm theo cách khác toàn bộ. Nó
không thể được dạy theo cách thông thường của việc dạy; nó không thể trở thành
một phần của sư phạm.
Nhưng đệ tử này, Soshin, là người
mới, người mới tới.
... điều có lẽ tự nhiên với anh
ta là mong đợi có những bài học về Thiền từ thầy giáo theo cách cậu học sinh
trường làng được dạy ở trường.
Điều đó là tự nhiên trong trạng
thái của vô ý thức.
Nhớ lấy, có hai tự nhiên. Một
là khi bạn ngủ; thế thì nhiều thứ là tự nhiên. Ai đó xúc phạm bạn, bạn trở nên
giận, và điều đó là tự nhiên - nhưng chỉ trong vô ý thức, trong ngủ. Bạn xúc phạm
Phật, ông ấy không trở nên giận - đó là tự nhiên cao hơn, một loại tự nhiên
khác toàn bộ. Ông ấy vận hành từ một trung tâm khác hoàn toàn. Ông ấy có thể cảm
thấy từ bi cho bạn, không giận. Ông ấy vận hành từ nhận biết, bạn vận hành qua
vô nhận biết.
Trong giấc ngủ bạn không thể
làm được cái gì có giá trị nào, bạn không thể làm được cái gì có giá trị. Bất
kì cái gì bạn làm đều toàn là mơ. Bạn tưởng tượng, bạn nghĩ bạn đang làm điều tốt.
Mới hôm nọ ai đó hỏi: "Tôi
muốn làm điều tốt, tôi muốn là người tốt. Osho ơi, giúp tôi với."
Tôi không thể giúp bạn một cách
trực tiếp để làm điều tốt hay để là người tốt; tôi có thể giúp bạn chỉ theo
cách gián tiếp. Tôi có thể giúp bạn chỉ để có nhiều tính thiền hơn. Và trên bề
mặt dường như là câu hỏi của bạn là về cái gì đó khác và câu trả lời của tôi là
khác toàn bộ: bạn muốn là tốt và tôi nói về thiền. Làm sao chúng có quan hệ được?
Nếu bạn ngủ bạn có thể nghĩ bạn đang làm điều tốt, bạn có thể làm điều hại. Bạn
có thể nghĩ bạn đang làm điều hại, bạn có thể làm điều tốt. Trong giấc ngủ của
bạn mọi thứ là có thể.
Bạn sẽ trở thành người làm điều
tốt - và người làm điều tốt là người gây hại nhất. Chúng ta đã khổ nhiều từ những
người làm điều tốt này. Họ không biết họ là ai, họ không biết trạng thái im lặng
nào của tâm thức, họ không nhận biết, nhưng họ liên tục làm điều tốt. Nói gì về
tốt đây? Người ngủ thậm chí không thể chắc chắc được về làm điều hại. Người đó
có thể nghĩ người đó đang làm điều hại và kết quả có thể khác toàn bộ.
Đó là cách châm cứu đã được
khám phá ra. Một người muốn giết ai đó; anh ta bắn người kia bằng mũi tên. Và
người kia, nạn nhân, đã bị đau đầu cả đời. Mũi tên đâm vào chân anh ta và đau đầu
biến mất, biến mất hoàn toàn. Anh ta phân vân.
Anh ta đi tới thầy thuốc nói,
"Ông đã không thể nào chữa được cho tôi và kẻ thù của tôi đã chữa cho tôi.
Anh ta muốn giết tôi, nhưng cái gì đó đi sai - chứng đau đầu của tôi đã biến mất.
Tôi biết ơn người đó."
Thế rồi thầy thuốc bắt đầu nghĩ
về điều đó, làm sao nó đã xảy ra. Đó là điều các nhà châm cứu vân đang làm bây
giờ.
Bạn có thể đi tới Abhiyana. Bạn
có thể có chứng đau đầu và anh ấy có thể bắt đầu đặt các kim châm trên khắp
thân thể bạn. Những điểm kim châm đó đã được khám phá ra bởi vì tai nạn này.
Năm nghìn năm đã trôi qua; trong năm nghìn năm này châm cứu đã phát triển vô
cùng. Bây giờ có nhiều hỗ trợ khoa học cho nó.
Ở nước Nga Xô viết họ đang làm
việc trên châm cứu rất nghiêm chỉnh vì nó có tiềm năng lớn: nó có thể chữa được
hầu hết các bệnh. Những chiếc kim đó có thể làm thay đổi dòng điện thân thể bạn.
Người kia phải đã khổ vì quá
nhiều điện trong đầu. Mũi tên trúng vào đường kinh nào đó, một dòng điện nào đó
ở chân anh ta, và điện đổi đường của nó; nó không còn đi lên đầu nữa. Do đó đau
đầu biến mất.
Bây giờ, người đã muốn làm điều
hại lại đã làm một hành động vĩ đại, phúc lành cho toàn thể nhân loại - không
chỉ cho người đó - vì trong năm nghìn năm này, hàng triệu người đã được giúp đỡ
bởi châm cứu. Toàn thể công trạng thuộc vào người vô danh kia, người đã muốn giết
người.
Trong vô thức khó mà quyết định
được kết quả sẽ là cái gì. Bạn đi trong đêm tối. Mọi thứ đều là ngẫu nhiên.
Sindenburg đã sống cuộc sống đức
hạnh; ông ấy thậm chí còn làm chủ tịch giáo đường. Nhưng khi ông ấy vào cõi trời
thiên thần đương nhiệm nói, "Ông không thể ở đây được."
"Tại sao?" Sindenburg
hỏi. "Tôi bao giờ cũng cố gắng là người tốt mà."
"Nó là điều đó đấy,"
thiên thần giải thích. "Mọi người ở đây đều là người tốt, nhưng tất cả họ
đều phạm ít nhất một tội. Vì ông không phạm tội nào cả, phần các linh hồn còn lại
sẽ không bằng lòng với ông."
"Nhưng," Sindenburg
phản đối, "chẳng lẽ không có cái gi đó tôi có thể làm được hay sao?"
"Được," thiên thần
cân nhắc, "ông có thể có sáu giờ nữa trên thế gian để phạm tội, nhưng ông
phải làm cho ai đó bị tổn thương thực."
Sindenburg trở lại thế gian và
đột nhiên ông ấy thấy một người đàn bà trung tuần đang nhìn ông ấy. Họ bắt đầu
nói chuyện; bà ấy mời ông ấy về nhà cùng bà ấy. Chẳng mấy chốc họ làm tình như
hai thanh niên.
Sáu giờ sau Sindenburg nói,
"Tôi lấy làm tiếc, nhưng tôi phải đi bây giờ."
"Này anh!" người đàn
bà khóc. "Em chưa bao giờ lấy chồng hay thậm chí có người đàn ông. Anh vừa
cho em thời gian đẹp nhất em có trong cả đời. Hôm nay anh đã làm một hành vi tốt
làm sao!"
Bây giờ ông ấy đã tới để làm tổn
thương thực nào đó và điều ông ấy đã làm thực sự là hành vi tốt. Người đàn bà hạnh
phúc vô cùng và biết ơn. Và sáu giờ đó đã trôi qua; bây giờ không còn thời gian
nữa. Lần nữa ông ấy lại bị rắc rối!
Trong giấc ngủ bạn không thể
làm được điều tốt - bạn thậm chí không thể làm được điều xấu! Mọi thứ đều là ngẫu
nhiên. Và khi một người tới thầy, người đó tới gần như đang ngủ say. Người đó tới
từ tò mò, một cách ngẫu nhiên. Người đó mong đợi nhiều, và mong đợi của người
đó là tự nhiên trong trạng thái của người đó.
Anh ta mong đợi những bài học
trong Thiền...
Bây giờ điều đó là tuyệt đối
ngu xuẩn: không có bài học nào trong Thiền. Thiền, ngay chỗ đầu tiên, không phải
là việc dạy mà là phương cách để đánh thức bạn. Nó không phải là thông tin, nó
không phải là tri thức. Nó là phương pháp để lay bạn dậy, để đánh thức bạn dậy.
Việc dạy nghĩa là bạn đang ngủ say và ai đó liên tục nói về thức tỉnh là gì -
và bạn tiếp tục ngáy và người đó tiếp tục nói. Bạn ngủ, người đó ngủ; bằng
không người đó sẽ không nói với bạn. Ít nhất khi người đó thấy rằng bạn ngáy
người đó sẽ không nói với bạn.
Khi tôi là sinh viên tại đại học
tôi có một thầy giáo lớn, một triết gia rất nổi tiếng. Trong ba năm không ai đã
tham dự lớp của ông ấy - ông ấy là trưởng khoa. Và mọi người sợ tham gia lớp của
ông ấy bởi vì ông ấy là người nói không dừng. Lúc thì hai tiếng, ba tiếng, bốn
tiếng... Và ông ấy có điều kiện này: ông ấy sẽ nói cho mọi sinh viên, "Nếu
em muốn tham gia vào lớp của tôi, nếu em muốn nhận môn học của tôi, thế thì điều
này phải được ghi nhớ: rằng tôi có thể bắt đầu bài giảng của tôi khi tiết học bắt
đầu, nhưng tôi không thể dừng được khi tiết hết. Chừng nào tôi còn chưa hoàn
toàn được thoả mãn với chủ đề... và làm sao điều đó có thể được quản lí trong bốn
mươi phút? Đôi khi điều đó mất tới hai tiếng, đôi khi nó chỉ mất nửa giờ. Cho
nên bất kì khi nào nó được kết thúc, đó là chỗ cuối."
Ông ấy cũng bảo tôi hệt như vậy.
Tôi muốn tham gia lớp của ông ấy - Tôi bị mê mải bởi ông già này. Ông ấy nói,
"Nghe đây! Đừng có trách tôi về sau đấy. Đôi khi tôi nói cả bốn tiếng; năm
tiếng tôi cũng đã nói rồi."
Tôi nói, "Thầy đừng lo về
điều đó. Em có thể nói dài hơn thầy." Và tôi bảo ông ấy, "Thầy nhớ
cho rằng khi em bắt đầu nói em quên luôn ai là thầy giáo và ai là sinh viên. Em
không quan tâm! Cho nên thầy cứ nhớ điều đó trong đầu rằng nếu em bắt đầu nói
thầy không thể dừng em lại được.
"Và thứ hai: thời gian tiết
học của thầy là tới mức thời gian tính bằng giờ khi em ngủ. Từ mười hai giờ tới
hai giờ em phải ngủ; điều đó em đã làm cả đời rồi. Em có thể ngủ lâu hơn - em
đã ngủ từ mười một giờ tới năm giờ, cả ngày - nhưng ngần này là tuyệt đối cần
thiết, điều đó em không thể bỏ được. Cho nên em sẽ ngủ - thầy có thể cứ nói tiếp."
Ông ấy nói, "Làm sao em ngủ
được khi tôi nói?"
Tôi nói, "Em dùng nút bịt
tai! Thầy cứ nói. Em không quan tâm tới việc nói của thầy chút nào, điều đó là
tuỳ thầy. Thầy tận hưởng nó tới sự mãn nguyện trong lòng thầy - em sẽ ngủ. Và
thầy không thể phản đối được điều đó."
Ông ấy đồng ý với điều kiện của
tôi, tôi đồng ý với điều kiện của ông ấy. Và đó là cách chúng tôi trở thành những
người bạn lớn: ông ấy sẽ nói và tôi sẽ ngủ.
Bây giờ bản thân người này phải
ngủ say, bằng không tại sao... vì tôi là sinh viên duy nhất trong lớp của ông ấy!
Ông ấy nói cho ai? Ông ấy tự làm nhẹ gánh bản thân mình. Và ông ấy rất hài lòng
tìm ra một sinh viên ít nhất vẫn còn lại trong lớp - mặc dầu ngủ, nhưng ít nhất
anh ta có đó.
Đây là điều vẫn diễn ra trên
toàn thế giới! Các tu sĩ đang nói trong giấc ngủ cho giáo đoàn của họ. Các giáo
sư đang nói trong giấc ngủ cho sinh viên của họ - giấc ngủ siêu hình; tôi không
nói về giấc ngủ thường. Mọi người đều ngáy một cách siêu hình.
Thiền không phải là việc dạy,
vì nó biết bạn đang ngủ. Điều chính yếu không là dạy cho bạn; điều chính yếu là
đánh thức bạn dậy. Thiền là việc báo động.
Nhưng Soshin tự nhiên mong đợi
bài học nào đó trong Thiền từ thầy giáo của anh ta cách cậu học sinh trường
làng được dạy ở trường.
Nhớ lấy, nếu Thiền không phải
là việc dạy thế thì bạn không thể gọi Thiền sư là thầy giáo được. Ông ấy không
phải là thầy giáo, ông ấy là thầy. Và có khác biệt lớn giữa thầy giáo và thầy.
Nhưng khi bạn lần đầu tiên tới trong tiếp xúc gần gũi với thầy, bạn nghĩ thầy
là thầy giáo - có thể là một thầy giáo lớn, nhưng dầu vậy bạn nghĩ dưới dạng bản
thể thầy là thầy giáo. Và lí do là trong mong đợi của bạn thầy dạy cái gì đó: rằng
thầy dạy triết lí lớn, rằng thầy đang dạy chân lí lớn.
Không, thầy thực không phải là
thầy giáo: thầy thực là người thức tỉnh. Chức năng của thầy là khác toàn bộ với
thầy giáo; chức năng của thầy là khó khăn hơn nhiều. Và chỉ rất ít người mới có
thể ở cùng thầy bởi vì thức dậy sau cả triệu kiếp không phải là kì công thường;
nó là phép màu. Và cho phép ai đó đánh thức bạn cần tin cậy lớn lao, buông xuôi
lớn lao.
Do vậy trong Thiền, đầu tiên, mọi
người được chấp nhận chỉ như người mới, người mới bắt đầu. Chỉ khi thầy thấy phẩm
chất nào đó trong họ mà có thể được đánh thức, khi thầy thấy cái gì đó rất tiềm
năng, thế thì họ được chấp nhận và được khai tâm vào trong những điều cao hơn.
Bằng không họ vẫn còn là người mới trong nhiều năm, làm những điều nhỏ bé: lau
sàn, nấu ăn, chẻ củi, mang nước từ giếng về. Và thầy liên tục quan sát và thầy
liên tục giúp họ trở nên tỉnh táo hơn chút ít trong khi họ chẻ củi, trong khi họ
mang nước từ giếng về, trong khi họ lau sàn.
Bạn sẽ thấy ở đây trong tâm xã
này ít nhất một nghìn sannyasin đang làm các loại việc khác nhau. Khi người Ấn
Độ tới đây lần đầu tiên họ bị phân vân, vì ý tưởng của họ về đạo tràng, về tâm
xã công giáo, là khác toàn bộ. Mọi người phải ngồi cầu nguyện, làm bhajan. Họ
không thể quan niệm được rằng mọi người phải làm việc, nấu ăn, dệt, làm đồ gốm,
vẽ, chụp ảnh, sáng tạo âm nhạc, thơ ca, nhảy múa. Họ không thể tin được vào mắt
họ khi họ thấy tâm xã lần đầu tiên. Họ tới với mong đợi nào đó. Và họ muốn bạn
trông nghiêm nghị, tôn giáo, thánh thiện. Và bạn có vẻ vui vẻ thế! Bạn có vẻ
đáng yêu thế, nồng nhiệt thế. Họ mong đợi bạn hoàn toàn lạnh nhạt - lạnh như
các cái xác. Và bạn nồng nhiệt và đáng yêu và sống động tới mức họ bị choáng lần
đầu tiên.
Thiền không tin rằng mọi người
phải chỉ sống cuộc sống thánh thiện, cuộc sống đức hạnh, không làm gì cả - chỉ
lần tràng hạt hay lẩm nhẩm mật chú nào đó. Thiền tin vào tính sáng tạo. Thiền
tin vào thế giới bình thường. Nó muốn biến đổi cái trần tục thành cái thiêng
liêng.
Cho nên thông điệp đầu tiên được
trao cho người mới bắt đầu là bắt đầu làm việc nhưng tỉnh táo. Và tỉnh táo
trong khi bạn làm việc là dễ dàng hơn khi bạn đơn giản tụng mật chú, vì khi bạn
tụng mật chú mọi khả năng là ở chỗ mật chú sẽ vận hành như thuốc ngủ. Khi bạn lặp
lại một lời đơn giản lặp đi lặp lại nó tạo ra giấc ngủ vì nó tạo ra chán. Khi bạn
lặp lại lời nào đó nó thay đổi hệ thống hoá chất bên trong của bạn. Đó là một
trong những cách thức cổ đại nhất của việc rơi vào giấc ngủ.
Nếu bạn không thể rơi vào được
giấc ngủ trong đêm, nếu bạn khổ bởi mất ngủ, thế thì phương pháp như Thiền Siêu
việt của Maharishi Mahesh Yogi là hoàn toàn tốt. Phương pháp đó chẳng liên quan
gì tới thiền; nó không là thiền không siêu việt gì cả. Nó đơn giản là thuốc ngủ
không có thuốc. Nó là tốt khi nó có thể mang tới giấc ngủ và không có thuốc nào
- tôi đánh giá cao nó - nhưng nó chẳng liên quan gì tới thiền.
Bạn có thể lẩm nhẩm tên riêng của
bạn lặp đi lặp lại và bạn không cần trả phí cho bất kì ai và bạn không cần bất
kì khai tâm nào. Cứ lặp lại tên riêng của bạn; lặp lại nó nhanh tới mức không
cái gì khác đi vào tâm trí bạn, chỉ mỗi tên của bạn vang vọng. Lặp lại to bên
trong để cho từ ngón chân tới đầu bạn nó vang vọng bên trong. Chẳng mấy chốc bạn
sẽ phát chán, phát ngán. Và đó là lúc bạn bắt đầu rơi vào giấc ngủ vì dường
nhưng không có lối thoát nào khác.
Mọi người mẹ đều biết điều đó.
Đó là một trong những phương pháp cổ đại nhất mà đàn bà đã từng dùng với con họ,
trên con họ. Họ không gọi nó là Thiền Siêu việt; họ thường gọi nó là
"ru." Đứa con xoay lật mình, nhưng người mẹ cứ lặp đi lặp lại cùng một
đường mãi. Và thấy không còn lối nào thoát ra ngoài, đứa trẻ thoát vào bên trong;
điều đó nghĩa là nó rơi vào giấc ngủ. Nó nói, "Mình chán tới mức nếu mình
không rơi vào giấc ngủ, người đàn bà này sẽ không dừng lại." Và chẳng mấy
chốc nó học được: khoảnh khắc nó rơi vào giấc ngủ người đàn bà dừng lại, cho
nên điều đó trở thành việc ước định; thế thì nó trở thành phản xạ có điều kiện.
Dần dần, dần dần người đàn bà chỉ lặp lại một hay hai dòng và đứa trẻ ngủ say.
Điều này bạn có thể làm được
cho bản thân bạn. Nó là quá trình giải thôi miên; tốt khi có liên quan tới giấc
ngủ nhưng chẳng có liên quan gì tới thiền. Thực ra, nó chính là cái đối lập của
thiền, vì thiền mang tới nhận biết và phương pháp này đem tới ngủ. Do đó tôi
đánh giá cao nó như kĩ thuật cho ngủ, nhưng tôi chống lại nó toàn bộ nếu nó được
dạy cho mọi người như phương pháp thiền.
Soshin đã mong đợi những bài học
về Thiền từ thầy giáo theo cách cậu học sinh trường làng được dạy ở trường.
Đây là câu chuyện của bạn. Đây
là câu chuyện của mọi người. Từng người tìm kiếm đều tới với mong đợi như vậy.
Thỉnh thoảng người ngu tới tôi
và họ hỏi: "Nói tóm lại thì việc dạy của thầy là gì? Sách nào của thầy chứa
việc dạy của thầy?"
Tôi chả có cách dạy nào cả! Đó
là lí do tại sao nhiều sách thế là có thể. Bằng không làm sao nhiều sách thế là
có thể được? Nếu bạn có việc dạy nào đó, thế thì một hay hai sách sẽ có tác dụng.
Đó là lí do tại sao tôi có thể liên tục nói mãi, vì tôi không có việc dạy nào.
Mọi việc dạy đều sớm hay muộn sẽ bị vét cạn; tôi không thể bị vét cạn. Không có
bắt đầu và không có kết thúc... chúng ta bao giờ cũng ở giữa. Tôi không là thầy
giáo.
Mọi người đều lớn lên về mặt vật
lí nhưng về mặt tâm lí vẫn còn là đứa trẻ. Tuổi tâm lí của bạn không bao giờ
quá mười ba, thậm chí còn ít hơn thế. Điều là cú sốc khi nó được khám phá ra lần
đầu tiên trong Thế chiến thứ nhất là tuổi tâm lí trung bình của con người chỉ
mười hai hay mười ba là nhiều nhất. Điều đó nghĩa là bạn có thể bẩy mươi nhưng
tâm trí bạn chỉ mười ba. Cho nên nếu ai đó nhìn vào thân thể bạn, bạn có vẻ già
thế, có kinh nghiệm thế, nhưng nếu ai đó nhìn vào tâm trí bạn, bạn vẫn đang
mang cùng tâm trí trẻ con đó.
Thượng đế của bạn không là gì
ngoài người bố được phóng chiếu; nó là việc ấn định về người bố. Bạn không thể
sống mà không có ý tưởng về người bố. Có thể bố thực của bạn chết rồi và bạn
không thể quan niệm được về bản thân bạn mà không có bố. Bạn cần người bố tưởng
tượng trên cõi trời, người chăm nom cho bạn, người chăm sóc bạn. Và, chắc chắn,
người bố thường nhất định chết ngày nay hay ngày khác cho nên bạn cần người bố
trên trời, người là vĩnh hằng, người sẽ không bao giờ chết, để cho ông ấy sẽ trở
thành nỗi an toàn và an ninh của bạn.
Có lần ai đó hỏi George
Gurdjieff, "Tại sao mọi tôn giáo đều dạy: Kính trọng bố mẹ ông?"
Gurdjieff nói, "Bởi một lẽ
đơn giản: nếu bạn kính trọng bố mẹ bạn, bạn sẽ kính trọng Thượng đế, vì Thượng
đế không là gì ngoài bố mẹ tối thượng. Nếu bạn không kính trọng bố mẹ bạn, bạn
cũng sẽ không bận tâm tới Thượng đế. "
Một sáng suốt lớn: Thượng đế là
người bố lớn; bạn chỉ là trẻ nhỏ tìm người bố đã mất, tìm thời thơ ấu đã mất, tìm
an ninh của thời thơ ấu. Cách hành xử của bạn là ấu trĩ.
Một người bố trẻ đi mua sắm ở một
cửa hàng cùng cô con gái thì cô bé đột nhiên nói, "Bố ơi, con muốn
đi."
"Không được ngay bây giờ
đâu," người bố đáp.
"Com muốn đi bây giờ!"
cô bé la lên.
Để tránh khủng hoảng, cô bán
hàng bước tới và nói, "Được rồi, thưa ông, tôi sẽ đưa cháu đi."
Cô bán hàng và cô bé vội vã đi,
nắm tay nhau. Lúc họ quay lại, Tony nhìn con gái và nói, "Con có cám ơn cô
vì cô tốt thế không?"
"Sao con phải cám ơn cô ấy?"
cô bé vặn lại. "Cô ấy phải đi chứ!"
Cứ quan sát phản ứng của bạn và
bạn sẽ ngạc nhiên: chúng là trẻ con. Thái độ của bạn, dù phức tạp thế nào từ
bên ngoài, sâu bên dưới vẫn cứ trẻ con. Lời cầu nguyện của bạn, việc đi nhà thờ
của bạn, toàn là thứ trẻ con.
Thiền không quan tâm tới trạng
thái tâm trí trẻ con của bạn. Nó không có ham muốn nuôi dưỡng tâm trí này thêm
nữa. Mối quan tâm của nó là sự trưởng thành; nó muốn bạn trở nên trưởng thành,
nó muốn bạn trở nên chín chắn. Do đó nó không có ý tưởng nào về Thượng đế - không
người bố nào trên trời. Nó để cho bạn một mình toàn bộ vì chỉ trong sự một mình
trưởng thành mới là có thể. Nó để cho bạn trong bất an ninh toàn bộ. Nó không
cho bạn an ninh, không đảm bảo gì. Nó cho bạn mọi loại bất an ninh để đi vào.
Và đó cũng là tính chất sannyas
là gì: bước nhảy lượng tử vào bất an ninh, bước nhảy lượng tử vào trong cái
không biết, vì chỉ với đương đầu đó bạn mới trở nên trưởng thành. Và trưởng
thành là tự do, trưởng thành là giải thoát.
Nhưng Dogo không cho anh ta bài
học đặc biệt nào về chủ đề này, và điều này làm cho Soshin hoang mang và thất vọng.
Không có bài nào đâu.
... và điều này làm cho Soshin
hoang mang và thất vọng.
Một cách tự nhiên thôi. Anh ta
đang mong đợi và mong đợi và chờ đợi, và chẳng bài học đặc biệt nào được trao
cho. Anh ta muốn có vài nguyên tắc đơn giản để anh ta có thể bám vào chúng, để
cho anh ta có thể ôm giữ chúng, để cho chúng trở thành kho báu của anh ta, tri
thức của anh ta. Và thầy lại chẳng cho bài học đặc biệt nào. Một cách tự nhiên
anh ta thất vọng. Nếu bạn đang mong đợi bất kì cái gì thì bạn nhất định bị thất
vọng. Mong đợi bao giờ cũng mang tới thất vọng, vỡ mộng.
Một hôm anh ta nói với thầy,
"Đã một thời gian qua rồi từ khi tôi tới đây, nhưng thầy chả có lời nào
nói cho tôi về bản chất của việc dạy về Thiền."
Mọi người đều vội vàng. Tôi đã
đi tới biết những người thiền ba ngày, và vào ngày thứ tư họ hỏi, "Ba ngày
chúng tôi đã thiền rồi, sao chẳng cái gì xảy ra?"
Dường như họ ép buộc sự tồn tại
bởi việc thiền lâu thế - ba ngày, một giờ mỗi ngày; điều đó nghĩa là ba giờ. Và
nếu bạn thực tế nhìn, trong thiền của họ, họ chỉ mơ ngày; với mắt nhắm họ mơ
ngày. Họ gọi điều đó là thiền! Và chỉ bởi vì ba ngày đó họ đã ngồi trong một giờ
- với khó khăn lớn, bằng cách nào đó xoay xở, tiếng ồn lớn bên trong, không im
lặng, không an bình, không ý thức, chỉ ham muốn, ý nghĩ, kí ức, tưởng tượng,
lưu thông thường xuyên, đám đông - thế rồi họ tới vào ngày thứ tư và nói,
"Osho ơi, cái gì đang xảy ra? Ba ngày đã qua và chẳng cái gì đã xảy
ra."
Thời gian không nên được tính tới
chút nào - ba năm, thậm chí ba kiếp cũng không tính. Bạn không nên ngĩ dưới dạng
thời gian, vì hiện tượng thiền là không có tính thời gian. Nó có thể xảy ra bất
kì lúc nào, nó có thể xảy ra ngay bây giờ; nó có thể mất vài năm, nó có thể mất
nhiều kiếp. Nó tất cả phụ thuộc vào sự mãnh liệt của bạn, sự chân thành của bạn,
và nó tất cả phụ thuộc vào tính toàn bộ của bạn.
Một thanh nữ xinh xắn bước lên
xe chở khách công cộng đông đúc, và thấy rằng mọi chỗ ngồi đều đã kín, cô ấy hỏi,
"Một trong các quí ông có nhường chỗ được cho phụ nữ có mang không?"
Một người đàn ông trung tuần
nhanh chóng đứng dậy và nhường chỗ cho cô ta. Sau khi cô ta ngồi vào chỗ rồi
anh ta hỏi cô ấy một cách rất quan tâm, "Cô đã mang thai được bao lâu rồi?"
"Quãng mười lăm phút, và lạy
trời, tôi mệt!"
Mang thai mới mười lăm phút!
Ngay cả điều đó cũng là được, nhưng ba ngày thiền thậm chí còn ngu hơn.
Một hôm anh ta nói với thầy...
Phải có giận dữ, thất vọng,
chán chường. Anh ta đã chọn người sai để ở cùng sao? Không việc dạy đặc biệt
nào đã được cho - và bản ngã bao giờ cũng muốn cái gì đó đặc biệt.
"Đã một thời gian qua rồi
từ khi tôi tới đây, nhưng thầy chả có lời nào nói cho tôi về bản chất của việc
dạy về Thiền."
Ngay chỗ đầu tiên, không có việc
dạy Thiền như vậy. Thiền là phương pháp thức tỉnh, không phải là thượng đế học.
Nó không nói về Thượng đế: nó buộc bạn vào trong Thượng đế. Nó đánh bạn theo
nhiều cách để cho bạn có thể thức tỉnh vào trong Thượng đế. Ngủ là ở trong thế
giới: thức là ở trong Thượng đế. Phương pháp có đó, phương cách có đó, nhưng
không có việc dạy nào cả.
Trong thành phố New Mexico nhỏ
bé, một khách du lịch trẻ xinh nghe lỏm Navajo cường tráng đang nói "Cơ
may!" cho mọi phụ nữ đi ngang qua.
Cuối cùng tò mò của cô ấy thắng
bản thân cô ấy và cô ấy bước tới anh ta và nói "Chào anh," anh ta trả
lời lại "Cơ may! "
"Tôi tưởng mọi người Ấn Độ
đều nói 'Làm sao!' "
"Tôi biết làm sao chứ - chỉ
muốn cơ may!" anh ta nói.
Mọi việc dạy đều liên quan tới
làm sao làm nó, tại sao làm nó, với mục đích gì, vì mục đích nào. Thiền đơn giản
cho bạn một cơ hội, một hoàn cảnh nào đó, một không gian trong đó bạn có thể trở
nên được thức tỉnh. Và đó đích xác là công việc của tôi ở đây: tạo ra cơ hội,
không gian, hoàn cảnh, nơi bạn nhất định được thức tỉnh, nơi bạn không thể tiếp
tục ngủ mãi được.
Dogo đáp, "Từ khi ông tới,
ta đã từng cho ông nhiều bài học về vấn đề kỉ luật Thiền rồi."
"Nó có thể là loại bài học
nào ạ?"
Bây giờ Soshin thậm chí còn
phân vân hơn và hoang mang vì thầy nói:
"Từ khi ông tới, ta đã từng
cho ông nhiều bài học về vấn đề kỉ luật Thiền rồi."
Kì lạ là cách thức của các thầy
thực. Cách thức của họ là gián tiếp, cách thức của họ là tinh tế. Nhớ lấy, thầy
không nói "về cách dạy Thiền"; thầy nói "về kỉ luật Thiền - về vấn
đề kỉ luật Thiền."
"Nó có thể là loại bài học
nào ạ?"
"Khi ông mang cho ta chén
trà buổi sáng, ta nhận nó; khi ông hầu hạ ta bữa ăn, ta chấp nhận nó; khi ông
cúi lạy ta, ta đáp lại bằng gật đầu.
Thầy đang nói, "Ông có
quan sát ta không?" Đó là cốt lõi bản chất của Thiền: theo dõi, quan sát,
nhận biết. Thầy nói, "Khi ông đem chén trà buổi sáng tới cho ta, ông có
quan sát ta không - ta uống nó thế nào, với lòng biết ơn nào? Ông có quan sát
ta không - cách ta chấp nhận nó với nhận biết lớn lao? Nó không chỉ là
trà!"
Không cái gì là bình thường
trong con mắt của Thiền; mọi thứ đều là phi thường vì mọi thứ là thiêng liêng.
Các Thiền sư đã biến đổi những điều bình thường như uống trà thành nghi lễ tôn
giáo.
Lễ trà là việc thiền lớn; nó
chiếm hàng giờ. Trong mọi Thiền viện đều có một chỗ tách rời dành cho lễ trà,
ngôi đền - ngôi đền cho trà! Và khi mọi người được Thầy mời, họ đi tới đền này
trong im lặng tuyệt đối. Đền được bao quanh bởi đá hay vườn đá.
Sanantano mới làm một vườn đá
nhỏ quanh phòng tôi, với một thác nước nhỏ. Anh ấy đã đặt đá theo cách đẹp thế
- anh ấy dường như có cái nhìn sâu bên trong, dường như có giao cảm với đá. Đá
đã tới sống động và chúng dường như không chỉ được đặt theo bất kì cách nào, một
cách ngẫu nhiên; chúng dường như ở trong hài hoà sâu.
Bây giờ, Sanantano định tạo ra
nhiều vườn đá trong tâm xã mới để cho bạn có thể ngồi cạnh những tảng đá đó...
và những lều tre nhỏ cho lễ trà.
Và khi một người tới - khi thầy
mời ai đó uống trà - người đó trai giới, người đó thiền, người đó làm cho bản
thân mình bình thản xuống. Người đó chuẩn bị bản thân mình vì nó không phải là
dịp bình thường: lời mời từ thầy. Thế rồi người đó bước đi trên con đường lát
đá với đầy nhận biết, chậm rãi. Người đó càng tới gần ngôi đền, người đó càng
trở nên tỉnh táo hơn. Người đó trở nên tỉnh táo với tiếng chim hót. Người đó trở
nên tỉnh táo với hoa, mầu sắc của chúng, hương thơm của chúng. Và khi người đó
tới gần với phòng trà hơn, người đó bắt đầu nghe tiếng nước sôi của ấm đun trà.
Người đó đi vào. Giầy phải để ở ngoài. Người đó đi vào rất im lặng, cúi chào thầy,
ngồi yên tĩnh trong góc lắng nghe ấm đun nước, tiếng reo của ấm... và hương
thơm tinh tế của trà quyện đầy phòng. Đó là khoảnh khắc cầu nguyện.
Thế rồi chén và đĩa được trao.
Đích thân thầy trao chén và đĩa... cách thầy trao. Thầy rót trà... cách thầy
rót. Thế rồi tất cả họ nhấm nháp trà một cách im lặng. Nó phải được nhấm nháp với
nhận biết vô cùng; thế thì nó trở thành thiền.
Và nếu việc uống trà có thể trở
thành thiền, thế thì bất kì cái gì cũng có thể trở thành thiền - nấu ăn hay giặt
quần áo, bất kì hoạt động nào cũng có thể được biến đổi thành thiền. Và
sannyasin thực, người tìm kiếm thực, sẽ biến đổi mọi hành động của mình thành
thiền. Chỉ thế thì, khi thiền lan toả khắp cuộc đời bạn, không chỉ khi bạn thức
ban ngày - dần dần, dần dần nó bắt đầu thấm vào và lan toả khắp bản thể bạn
trong cả giấc ngủ nữa - khi nó trở thành là một phần của bạn, như việc thở, như
nhịp tim của bạn, thế thì, chỉ thế, bạn đã đạt tới kỉ luật, tới kỉ luật bản chất
của Thiền.
Thầy nói:
"Khi ông mang cho ta chén
trà buổi sáng...
"Ông có quan sát hay
không? Ông ngủ hay thức? Ông không thể thấy được cách ta uống nó sao? Khi ông
phục vụ ta bữa ăn... ông không thể thấy được cách ta chấp nhận nó, với lòng biết
ơn lớn lao, dường như ông đã mang tới một kho báu đó sao?
"...khi ông cúi lạy ta, ta
đáp lại bằng gật đầu."
"Ta có bao giờ bỏ lỡ
không? Đã bao giờ ông để ý rằng ta đã không đáp ứng lại ngay tức khắc không? Nếu
ông đã từng quan sát, thế thì đây là vấn đề thực của kỉ luật Thiền. Làm cùng điều
đó đi, làm giống vậy đi!
"Ông còn mong đợi cái gì
khác được dạy trong kỉ luật Thiền?"
Nhưng bạn không quan sát, bạn
không nhìn. Bạn liên tục chạy xô đi, làm các thứ bằng cách nào đó, một cách máy
móc. Và bạn liên tục rơi vào cạm bẫy, cùng những cạm bẫy lặp đi lặp lại.
Một người da đen bước vào quán
rượu của người da trắng cùng ba người bạn, đi tới người đứng quầy và cá anh ta
$25 là mình có thể liếm mắt của mình.
Người đứng quầy nghĩ, "Đồ
da đen ngu xuẩn trời đánh, không ai có thể liếm được mắt mình," thế là anh
ta cá với người da đen $25. Người da đen tháo mắt giả của mình ra và liếm nó rồi
cá với người đứng quầy thêm $25 khác là anh ta có thể cắn mắt kia của mình.
Người đứng quầy nghĩ, "Ồ cậu
này, cậu da đen này ngu xuẩn thực! Không ai có thể tới đây với hai mắt,"
và nhận việc cá này. Người da đen lấy răng giả ra và cắn mắt kia và người đứng
quầy đỏ mặt tức giận: "Đồ da đen khôn lỏi!"
Thế rồi người da đen lại nói,
"Tôi sẽ cá với ông $25 khác..."
"Đợi một chút," người
đứng quầy nói. "Không đâu. Anh nghĩ tôi ngu sao?"
"Ồ, tiếp tục đi," người
da đen nói. Tôi cá với ông gấp đôi hay không cái gì, tôi có thể đái vào cái cốc
lốm đốm kia ở trên bàn từ phía bên kia của phòng."
Người đứng quầy dừng lại, ngẫm
nghĩ một lúc rồi nói, "Thôi được, ngay cả một người da đen trời đánh ngu
xuẩn cũng chẳng thể làm được điều đó! Anh làm đi. Tôi cá anh gấp đôi hay không
cái gì!"
Người da đen tiến hành đái qua
quầy, sàn, mọi nơi. Người đứng quầy bắt đầu cười đến chết, và chùi sạch nó,
nói, "Này cậu, cậu da đen, cậu thực sự ngu xuẩn mà nghĩ cậu có thể đái xa
thế!"
Và người da đen đáp lại,
"Tôi không ngu xuẩn thế đâu - thấy đống quần áo chỗ kia không? Tôi cá
chúng $300 tôi có thể đái qua quầy và ông sẽ lau mà cười!"
Con người liên tục làm cùng một
điều; có thể tình huống hơi khác, nhưng chẳng cái gì rất khác. Nếu bạn đang ngủ,
nếu bạn vô ý thức, bạn không thể quan sát được, bạn không thể quan sát được rằng
lại cạm bẫy khác... rằng bạn đang đi vào trong sai lầm khác, lỗi khác, rằng bạn
lại đang loạng choạng. Có thể nó hơi chút khác một tí, vì trong cuộc sống không
cái gì đã bao giờ là như nhau, nhưng cả nghìn lần bạn ngã và dầu vậy bạn vẫn
không học được một điều đáng học. Bạn học mọi loại các thứ trong cuộc sống ngoại
trừ một điều mà có thể biến đổi bạn, và đó là nghệ thuật nhận biết.
Soshin cúi đầu một chốc, nghiền
ngẫm những lời thách đố của thầy.
Thầy nói, "Nếu ông muốn
nhìn, nhìn đúng ngay vào. Khi ông bắt đầu nghĩ, ông bỏ lỡ vấn đề."
Đây là những lời cực kì có ý
nghĩa:
"Nếu ông muốn nhìn, nhìn
đúng ngay vào. Khi ông bắt đầu nghĩ, ông bỏ lỡ vấn đề."
Vì suy nghĩ là cách duy nhất để
bỏ lỡ vấn đề. Khi bạn nghe chân lí, thấy nó ngay lập tức đi. Đừng nói,
"Tôi sẽ nghĩ về nó." Đừng chú tâm bằng việc nói, "Về nhà tôi sẽ
ngẫm nghĩ về nó." Bạn đang bỏ lỡ toàn thể vấn đề! Chân lí có tính tức khắc,
và bạn đang trì hoãn nó bằng việc nghĩ. Và bạn có thể nghĩ gì về chân lí? Và bất
kì cái gì bạn nghĩ đều sẽ sai. Chân lí là chân lí, phi chân lí là phi chân lí.
Bạn không thể làm phi chân lí thành chân lí bằng việc nghĩ trong nhiều năm, và
bạn không thể làm chân lí thành phi chân lí bằng việc nghĩ trong nhiều năm.
Không cái gì có thể được làm về nó; việc nghĩ của bạn là tuyệt đối không liên
quan. Nhìn nó đi. Việc nhìn là liên quan; việc nghĩ là không liên quan.
Đó là lí do tại sao ở phương
Đông chúng ta không có từ nào để dịch từ tiếng Anh "philosophy-triết
lí." Chúng ta có từ, darshan, mà thường được dùng như việc dịch cho từ
philosophy-triết lí nhưng nó không đúng cho từ đó. Darshan nghĩa là thấy, và
triết lí nghĩa là nghĩ - và có khác biệt mênh mông thế, bao la thế, giữa hai từ
này. Khác biệt lớn hơn nào có thể có đó giữa hai từ này - việc thấy và việc
nghĩ?
Darshan đơn giản nghĩa là thấy.
Nó không phải là nghĩ, nó là nhận biết. Tỉnh táo một cách im lặng bạn ngồi bên
cạnh thầy. Thầy nói cái gì đó - hay đúng hơn, chỉ ra cái gì đó - và bạn thấy
nó! Nếu bạn im lặng và nhận biết bạn nhất định thấy nó, bạn không thể bỏ lỡ nó
được. Nếu bạn treo trong đầu bạn và bạn bắt đầu nghĩ, bạn đã quên mất về thầy;
bạn lạc trong lời riêng của bạn. Bạn đang dịch thầy thành lời riêng của bạn -
và bạn không thể dịch được những đỉnh cao đó, những chiều sâu đó. Và bất kì cái
gì bạn dịch sẽ là cái gì đó khác hoàn toàn với điều thầy đã nói.
Ba người Pháp, trong khi thực
hành tiếng Anh, lâm vào thảo luận về vợ của người bạn không có con.
"Cô ấy là không thể chịu
được," một người nó.
"Không, đó là từ sai. Cô ấy
là không thể hiểu được."
"Không, không, cả hai anh
đều sai," người thứ ba nói. "Điều các anh ngụ ý là cô ấy không thể thụ
tinh được."
Bây giờ, bạn có thể liên tục
nghĩ... Khi thầy nói, thầy nói từ những chiều cao của nhận biết - và bạn lắng
nghe trong bóng tối của thung lũng của bạn. Đừng dịch và đừng cố hình dung nó
ra, điều thầy nói. Chỉ lắng nghe.
Mới hôm nọ ai đó đã hỏi:
"Lắng nghe thầy mà không hỏi lại, chấp nhận nó, chẳng phải là cách bị ước
định bởi thầy đó sao?"
Lắng nghe một cách im lặng
không có nghĩa là bạn đồng ý với tôi. Vấn đề không phải là đồng ý hay không đồng
ý. Lắng nghe một cách im lặng không có nghĩa là bạn đang chấp nhận tôi hay bác
bỏ tôi. Nếu bạn chấp nhận bạn không im lặng; hoạt động có đó - hoạt động chấp
nhận. Nếu bạn đồng ý với tôi điều đó nghĩa là bạn đã phiên dịch tôi. Nếu bạn
bác bỏ tôi đó là hoạt động phủ định; nếu bạn chấp nhận tôi điều đó là hoạt động
khẳng định. Và im lặng đơn giản nghĩa là không hoạt động chút nào. Bạn đơn giản
ở đây... chỉ ở đây, chỉ sẵn có, không có vấn đề đồng ý hay không đồng ý.
Và cái đẹp của chân lí là ở chỗ
khoảnh khắc bạn nghe chân lí cái gì đó bên trong bạn đáp ứng, nói có. Nó không
phải là sự đồng ý của tâm trí, nhớ lấy; nó tới từ tính toàn bộ của bạn. Mọi thớ
thịt trong con người bạn, mọi tế bào thân thể bạn, đều gật đầu trong niềm vui
mênh mông, "Có!" Không phải là bạn nói có - điều đó không được nói,
nó không được thành lời chút nào. Nó là im lặng ở đó. Và khi bạn nghe điều phi
chân lí nào đó, theo cùng cách có cái không; toàn thể bản thể bạn nói
"Không." Điều đó không phải là tâm trí nữa.
Đây là cách tiếp cận khác toàn
bộ. Phương Tây chưa có khả năng tiến hóa tâm trí; phương Đông đã tiến hoá nó.
Trong nhiều thế kỉ chúng ta đã từng làm việc trên phương pháp tinh tế này, làm
tinh tế nó, trau chuốt nó. Nó đã trở thành tấm gương.
Phương Đông biết cách chỉ ngồi
trong im lặng, không đồng ý hay bất đồng, vì chúng ta đã khám phá ra một điều nền
tảng: rằng chân lí đã ở bên trong bạn. Nếu bạn nghe chân lí từ bên ngoài, chân
lí của bạn sẽ được đánh thức, nó sẽ được gợi dậy. Đột nhiên bạn sẽ nói
"Có!" - dường như bạn đã biết nó rồi. Đó là việc nhận ra, đó là việc
nhớ lại. Bạn đơn giản được thầy nhắc nhở về cái bạn đã quên mất. Vấn đề không
phải là đồng ý hay không đồng ý - không, không chút nào.
Tôi không quan tâm tới việc tạo
ra niềm tin trong bạn và tôi không quan tâm tới việc cho bạn bất kì ý thức hệ
nào. Toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là - như nó bao giờ cũng vậy với mọi chư Phật
từ lúc bắt đầu của thời gian - để gợi ra chân lí trong bạn. Tôi biết nó đã có
đó rồi; nó chỉ cần sự đồng bộ. Nó chỉ cần cái gì đó để lẩy cò quá trình nhận ra
trong bạn.
Thầy nói không để trao cho bạn
chân lí, mà để giúp bạn nhận ra chân lí đã có bên trong bạn. Thầy chỉ là tấm
gương. Bạn thấy mặt nguyên thuỷ của riêng bạn trong im lặng sâu sắc, khi ngồi cạnh
thầy.
Thầy nói, "Nếu ông muốn
nhìn, nhìn đúng ngay vào. Khi ông bắt đầu nghĩ, ông bỏ lỡ vấn đề."
..............................
0 Đánh giá