Read more
Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,
Một sư hỏi Bàn Khuê, "Các thầy giáo tổ
tiên từ thời cổ đại đã được chứng ngộ lớn qua những thực hành khó khăn và đau đớn.
Tôi đã nghe nói rằng thầy nữa, đã hoàn thành giáo huấn vĩ đại lớn qua các thực
hành khó khăn đa dạng. Nhưng với những người như tôi, người không chuyên tâm thực
hành, và không được chứng ngộ, chỉ nhận ra rằng chính trạng thái của tôi là
không sinh, vô trí chứng ngộ không thực sự lắng đọng vào bất kì cái gì."
Bàn Khuê đáp:
"Điều đó giống như trường hợp của lữ
khách đi ngang qua các đỉnh núi cao nơi không có nước, và trở nên khát. Ai đó
tìm nước ở thung lũng xa xôi, tìm kiếm gẫy lưng đây đó. Chung cuộc, người đó
tìm thấy nước và đen nó trở lại để cho người khác uống.
"Cho dù họ đã không vật lộn như vậy,
những người uống nước được tươi tỉnh lên, cũng hệt như người đã trải qua khó
khăn đi lấy nước trước. Còn với những người hoài nghi và sẽ không uống, không
có cách nào để cơn khát của họ được dịu đi.
"Vì ta đã không gặp được ai đó với con
mắt chứng ngộ, ta làm mòn mỏi bản thân ta một cách sai lầm. Chung cuộc ta đã
khám phá ra phật trong vô trí riêng của ta, và ta đang nói cho mọi người về phật
của vô trí riêng của họ, mà họ không phải làm gì khó khăn - cũng giống như uống
nước và làm cho cơn khát của họ dịu đi.
"Việc dùng vô trí chứng ngộ cố hữu
trong mọi người, hệt như nó vậy, là đã tìm thấy an bình và phúc lạc, không có
khó khăn về lẫn lộn - đây chẳng phải là giáo huấn đúng thiêng liêng sao?"
Và lúc khác ai đó đó hỏi Bàn Khuê, "Việc
soi sáng đầy đủ của con mắt về thực tại là được hoàn thành theo thời gian và
mua vụ, hay nó được nhận ra ngay cả trong một ngày?"
Bàn Khuê đáp, "Điều đó không phải là vấn
đề về thời gian và mùa vụ; điều đó được hoàn thành chỉ khi con mắt về con đường
là rõ ràng, không kẽ hở nào. Điều đó được hoàn thành bởi việc thực hành cống hiến
thành tâm chuyên tâm cho việc nuôi dưỡng nó."
Maneesha, Bàn Khuê là một trong
những Thiền sư yêu thích nhất của tôi, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi đồng
ý với ông ấy về mọi điểm. Với những điều bản chất tôi đồng ý tuyệt đối, nhưng với
điều không bản chất tôi bất đồng. Và chính điều các bạn phải nhớ rằng yêu một
người không có nghĩa là đồng ý với người đó hay bất đồng với người đó. Đồng ý
và bất đồng ở thấp xa bên dưới thế giới của yêu. Tôi yêu Bàn Khuê chỉ vì mục
đích riêng của ông ấy. Ông ấy là người chứng ngộ duy nhất với cái nhìn vô cùng
về thực tại, nhưng về những điều không bản chất tôi không đồng ý với ông ấy.
Có lẽ thời gian đã thay đổi. Có
lẽ tôi là loại người khác, và có lẽ những người đang nghe tôi là một thế giới
khác toàn bộ. Tôi đáp ứng cho Bàn Khuê tương ứng theo bạn, tôi nhìn Bàn Khuê
trong hoàn cảnh của bạn; bằng không Bàn Khuê chẳng có nghĩa gì. Chúng ta thảo
luận về ông ấy với lí do đơn giản là ông ấy có thể rọi ánh sáng nào đó cho bạn
trên đường. Cho dù thoáng chút của điều tối thượng được đạt tới qua ông ấy, nó
là quá đủ.
Tôi sẽ nói cho bạn chỗ tôi đồng
ý và chỗ tôi không đồng ý, nhưng khi có liên quan tới tình yêu của tôi nó là điều
tuyệt đối. Tôi yêu người này và kính trọng ông ấy. Nhưng điều tự nhiên là khi
thời gian thay đổi, ngôn ngữ thay đổi. Biểu tượng thay đổi, biểu dụ thay đổi,
và mọi thứ đã được nói cả nghìn năm trước không thể được lặp lại đích xác, ngoại
trừ bởi vẹt.
Bàn Khuê có một trường phái lớn
của riêng ông ấy. Ông ấy vẫn được hàng nghìn người theo. Tôi đã gặp vài đệ tử của
Bàn Khuê, và khi tôi bảo họ rằng tôi đồng ý trên những điều nền tảng nhưng tôi
bất đồng trên những điều không bản chất, họ không thể tin được tôi. Họ nói,
"Nếu thầy yêu thầy của thầy, nếu thầy có tình cảm nào đó với thầy, thế thì
làm sao thầy có thể bất đồng được?"
Quan điểm của tôi là khác toàn
bộ. Nếu bạn yêu một người chỉ thế thì bạn mới có quyền bất đồng. Nếu bạn không
yêu một người, bạn có quyền gì để bất đồng? Chỉ yêu mới cho bạn tự do đồng ý
hay không đồng ý. Không có yêu không có tự do. Bạn bị buộc phải đồng ý như mọi
tôn giáo của thế giới đang làm - ép buộc mọi người theo cách tâm lí để tin vào
những điều nào đó và không tin vào những điều khác nào đó.
Cách thức ép buộc của họ là rất
tinh vi, họ đang dùng toàn thể tâm trí vô ý thức chưa chứng ngộ của bạn.
Tham của bạn được bành trướng tới
tận trời. Cõi trời và thiên đường là gì ngoài tham của bạn được nhân lên cả
nghìn lần? Và địa ngục là gì ngoài sợ của bạn? Và tất cả các tu sĩ của mọi tôn
giáo của thế giới đang làm gì? Họ đang làm cùng điều cho dù họ là người Mô ha
mét giáo hay người Hindu hay người Ki tô giáo hay người Do Thái. Họ đang cho bạn
an ủi về khổ của bạn, về đau khổ của bạn; họ an ủi bạn rằng nó sẽ không kéo dài
mãi mãi đâu - thế giới này là khổ nhưng bên ngoài thế giới này mở ra những cánh
cửa của thiên đường và vui thú vĩnh hằng, cho nên chỉ phải có chút ít kiên nhẫn.
Karl Marx không sai khi ông ấy nói rằng tôn giáo đã vận hành như thuốc phiện của
mọi người. Tôi không phải là người theo Marx nhưng phát biểu này tôi không thể
phủ nhận được, ông ấy là tuyệt đối đúng. Tôn giáo đã chứng tỏ là thuốc phiện.
Trong các làng Ấn Độ nơi đàn bà
đi làm trên cánh đồng, hay ở đâu đó nơi con đường đang được làm, hay cây cầu
đang được làm, và đàn bà làm việc có con nhỏ... Một hôm tôi mới đi tản bộ qua
bên sông, một chiếc cầu đang được xây dựng và có một đứa trẻ nhỏ dưới gốc cây,
hạnh phúc thế, vui vẻ thế, cực lạc thế. Tôi không thể tin được... cái gì có thể
là nguyên nhân cho điều đó? Thế là tôi đợi bên cạnh cây này. Mẹ nó đang làm việc
trên cầu, và cô ấy quay lại cho đứa trẻ bú sữa. Tôi nói với cô ấy, "Cô có
đứa con thực sự hay. Tôi chưa bao giờ bắt gặp một đứa trẻ phiêu diêu như thế
trong cả đời tôi."
Cô ấy nói, "Nó chả là gì cả.
Chúng tôi là người nghèo, chúng tôi có thể làm gì được? Chúng tôi không thể đảm
đương được việc có ai đó chăm sóc đứa con, cho nên chúng tôi cho con uống thuốc
phiện nào đó. Dù là nó đói hay khát, dù trời nóng hay lạnh, chả thành vấn đề.
Trong khi có thuốc phiện, nó tận hưởng thiên đường."
Mọi tôn giáo đều đã từng đem
thuốc phiện cho người đi theo của họ và đem địa ngục cho những người không theo
họ. Nhưng dùng tâm lí của mọi người - sợ của họ, tham của họ, tham vọng của họ
- không phải là con đường của tôn giáo đích thực. Nó không phải là con đường của
yêu. Nó rất tàn nhẫn vì nếu bạn dùng tham của mọi người bạn sẽ không biến đổi họ.
Và bạn sẽ sợ nếu ai đó khác cố biến đổi họ, vì bạn không thể làm cho họ phải bỏ
tham và sợ của họ.
Rất ít người trong toàn thể lịch
sử đã từng có khả năng bỏ được sợ của họ và nhìn thẳng vào thực tại. Không có địa
ngục và không có cõi trời, nhưng có sự tồn tại đẹp, đẹp tới mức giấc mơ của bạn
cũng không thể mơ được nó. Bạn phải hiện thực nó.
Thầy có kinh nghiệm đích thực sẽ
không đòi hỏi tin hay không tin của bạn, thầy sẽ chỉ hỏi về cuộc truy tìm của bạn.
Thầy sẽ bảo bạn rằng giếng không còn xa gì, cho nên đừng vẫn còn khát. Nếu bạn
níu bám lấy khổ của bạn, không ai ngoài bạn chịu trách nhiệm. Bạn có thể bỏ mọi
khổ của bạn, mọi khổ sở của bạn, nếu bạn bỏ tâm trí bạn. Nó toàn là hiện tượng
tâm trí.
Tôi yêu Bàn Khuê. Ông ấy được hỏi:
"Các thầy giáo tổ tiên từ
thời cổ đại đã được chứng ngộ lớn qua những thực hành khó khăn và đau đớn. Tôi
đã nghe nói rằng thầy nữa, đã hoàn thành giáo huấn vĩ đại lớn qua các thực hành
khó khăn đa dạng. Nhưng với những người như tôi, người không chuyên tâm thực
hành, và không được chứng ngộ, chỉ nhận ra rằng chính trạng thái của tôi là
không sinh, vô trí chứng ngộ không thực sự lắng đọng vào bất kì cái gì."
Trong nhiều thế kỉ đã từng có
những người tìm kiếm bị chia rẽ tại điểm này. Có những người tìm kiếm nói rằng
chứng ngộ tới một cách dần dần. Bạn phải làm việc vì nó, bạn phải làm nhiều loại
thực hành cho nó. Nó là ngôi sao xa xôi và cuộc hành trình là mệt mỏi, và bạn gần
như phải đi qua việc tự hành hạ bạn nhân danh tạo kỉ luật cho bản thân bạn. Trường
phái kia nói rằng chứng ngộ bao giờ cũng bất thần. Nó không phải là vấn đề du
hành tới bất kì chỗ nào hay đi bất kì chỗ nào, nó đơn giản là vấn đề thức tỉnh
cái ta riêng của bạn.
Có lẽ trong đêm, trong mơ bạn
có thể đã từng tới thăm một ngôi sao xa xôi. Nhưng khi bạn thức dậy, bạn biết bạn
đã không đi đâu cả, bạn bao giờ cũng ở đây. Tâm trí của bạn cảm thấy khổ sở,
đau khổ; nó cảm thấy mọi loại xúc động, gắn bó, ham muốn và thèm khát, nhưng đó
toàn là phóng chiếu của tâm trí. Đằng sau tâm trí là cái ta thực của bạn mà
chưa bao giờ đi bất kì đâu cả. Nó bao giờ cũng ở đây và ở đây.
Cho nên vấn đề về chứng ngộ, dù
nó là dần dần hay bất thần, là vấn đề rất phức tạp. Những người nói nó là dần dần,
họ đã làm ra các bước đi, thủ tục, kỉ luật để được tuân theo. Và theo cách này,
có lẽ, sau nhiều kiếp bạn có thể trở thành phật. Người tin vào chứng ngộ bất thần
không có kỉ luật, không qui tắc, ngoại trừ một điều đơn giản - thức dậy, không
còn là người mộng du. Không hành động từ giấc ngủ, hành động từ thức tỉnh!
Cho nên trên con đường của chứng
ngộ bất thần mọi thứ được cần là đi vào bên trong, nhìn vào bên trong và tìm ra
điểm mà có thể là nhận biết hai mươi bốn giờ. Và điểm đó có đó, bạn chỉ đang
quay lưng vào nó thôi. Bất kì chỗ nào bạn đi, nó bao giờ cũng cùng với bạn. Nó
là chính trung tâm của sự tồn tại của bạn; không có nó bạn không thể tồn tại được
lấy một khoảnh khắc.
Vấn đề không phải là đạt tới
hay thành đạt dần dần nào đó. Vấn đề là việc quay vào trong lớn lao. Mắt chúng
ta nhìn ra ngoài, ham muốn của chúng ta đạt tới các vì sao. Quay vào trong
nghĩa là vô ham muốn, không tham, không thiên đường, không Thượng đế - chỉ nhìn
vào trong không gian riêng của bạn, điều đang ẩn kín bên trong bạn. Cuộc sống
này từ đâu tới? Tâm thức này từ đâu tới?
Khi bạn đi sâu hơn vào bên
trong bản thân bạn, bạn sẽ thấy trung tâm, và không chỉ của bản thân bạn. Nó sẽ
là trung tâm của toàn thể sự tồn tại. Tại trung tâm chúng ta gặp gỡ, ở ngoại vi
chúng ta tách rời. Chúng ta tách rời chỉ trong thân thể, trong tâm trí, nhưng
bên ngoài thân thể và tâm trí chúng ta chỉ là một đại dương tâm thức. Không có
‘tôi đây’, đơn giản có nhận biết thuần khiết mà không phân biệt, không phân chia.
Trong khoảnh khắc của chứng ngộ
ngay cả cây và chim và núi - mọi thứ đều trở nên chứng ngộ. Có câu nói của Phật
Gautam, "Khoảnh khắc ta trở nên chứng ngộ, toàn thể vũ trụ trở nên chứng
ngộ." Điều đó có thể bị tranh cãi, vì chúng ta chỉ thấy rằng chúng ta
không chứng ngộ, nhưng nghĩa của ông ấy là khác toàn bộ. Ông ấy đang nói cho bản
thân ông ấy. Từ khoảnh khắc đó mọi thứ đều trở thành chứng ngộ vì ông ấy đã thấy
chính gốc rễ từ đó cuộc sống nảy sinh và liên tục nảy sinh vĩnh hằng, không bắt
đầu, không kết thúc.
Bàn Khuê được hỏi, "Trong
thời cổ đại các hiền nhân thường thực hành các kỉ luật khó khăn và gian nan và
thế rồi chung cuộc sau nhiều năm, sau nhiều kiếp, họ đã trở nên chứng ngộ.
Nhưng trong trường hợp của thầy điều đó dường như là khác. Thầy đã không thực
hành kỉ luật nào, thầy đã không tự hành hạ thầy bằng nhịn ăn. Thầy đã không vặn
xoắn thân thể thầy theo yoga. Làm sao thầy đã trở nên chứng ngộ?"
Bàn Khuê đáp:"Điều đó giống
như trường hợp của lữ khách đi ngang qua các đỉnh núi cao nơi không có nước, và
trở nên khát. Ai đó tìm nước ở thung lũng xa xôi, tìm kiếm gẫy lưng đây đó.
Chung cuộc, người đó tìm thấy nước và đen nó trở lại để cho người khác uống.
"Cho dù họ đã không vật lộn
như vậy, những người uống nước được tươi tỉnh lên, cũng hệt như người đã trải
qua khó khăn đi lấy nước trước.
Tôi không đồng ý ở điểm này. Mọi
người đều phải tìm ra chứng ngộ riêng của mình. Không ai có thể trao nó cho bạn
được.
Bàn Khuê đang nói rằng ai đó
khác có thể mang nước tới. Về nước thì điều đó là được, nó là cái gì đó đối thể
và bên ngoài. Nước có thể được mang tới, nhưng không ai có thể đem chứng ngộ tới
cho bạn được.
Điều phải được hiểu rất sâu là
chứng ngộ là cuộc cách mạng cá nhân. Ai đó có thể cho bạn thách thức, ai đó có
thể khiêu khích bạn đi tìm, sự hiện diện của ai đó có thể tiêm nhiễm bạn, nhưng
không ai có thể trao cho bạn chứng ngộ.
Nếu nó là cái gì đó mà có thể
được trao, chắc đã rất dễ dàng làm cho toàn thế giới thành chứng ngộ. Nó có thể
được cấp bằng phát minh, có thể được tiếp thị - thế thì bạn cứ đi tới đường
M.G.Road và uống chút chứng ngộ; thế thì người giầu sẽ thu được khối lượng chứng
ngộ lớn và người nghèo sẽ khổ.
Ít nhất khi có liên quan tới chứng
ngộ, đừng làm cho nó thành hiện tượng vật chất, định lượng. Nó là kinh nghiệm
chủ quan, định tính cũng giống như yêu. Bạn có thể trao yêu cho ai đó được
không? Không có cách nào. Bạn có thể yêu ai đó, nhưng bạn không thể trao yêu
cho ai đó.
Yêu là kinh nghiệm bên trong của
bạn, sâu tới mức bạn thậm chí không thể xác định được nó là gì. Mọi nhà thơ, mọi
triết gia đều đã từng cố định nghĩa yêu là gì. Và hàng nghìn năm tìm kiếm và
truy hỏi đã cho kết quả chỉ trong phát biểu đơn giản rằng yêu là không thể định
nghĩa được. Bạn có thể hát nó, bạn có thể nhảy múa nó, nhưng bạn không thể định
nghĩa nó. Đích xác cùng điều đó, trên mức độ cao hơn, là chứng ngộ.
Theo tôi yêu là bậc thang thấp
nhất của chiếc thang và chứng ngộ là bậc cao nhất. Chúng có tương đồng về nhiều
điểm. Cả hai đều xảy ra bất thần - bạn rơi vào yêu và nếu ai đó hỏi bạn tại
sao, bạn đơn giản nhún vai. Bạn không thể trả lời được tại sao. Yêu không phải
là cái gì đó để được hỏi. Bạn không biết bản thân bạn, nó chỉ xảy ra.
Chứng ngộ là cùng loại hiện tượng
này nhưng ở trên đỉnh cao hơn. Nó chỉ xảy ra. Nó xảy ra khi bạn im lặng, nhìn vào
trong. Hệt như tia chớp, bạn đột nhiên trở thành nhận biết, đầy ánh sáng, chói
sáng. Nó không là câu trả lời cho bất kì câu hỏi nào. Mọi câu hỏi và mọi câu trả
lời tan biến vào trong vẻ huy hoàng chói sáng của bản thể bên trong riêng của bạn.
Tôi khác với Bàn Khuê trong việc
nói rằng không ai khác có thể trao nó cho bạn được. Nếu ai đó đã tìm ra nó, có
lẽ người đó có thể gây hứng khởi cho bạn - không bởi lời của người đó, nhưng bởi
chính bản thể của người đó, bởi mọi cử chỉ của người đó, bởi mọi cái nhìn của
người đó. Bạn có thể thấy rằng một loại hiện diện khác bao quanh người đó, một
loại im lặng khác toả sáng ra từ người đó. Bạn có thể có hương vị từ ai đó
khác, nhưng không ai có thể trao nó cho bạn.
Chuyện thường xảy ra là những
người tìm kiếm đi tới Phật Gautam. Một triết gia lớn của thời đó,
Maulingaputta, tới với năm trăm đệ tử của ông ta. Bản thân ông ấy là một thầy
giáo nổi tiếng và ông ấy đã tới để thách thức Phật Gautam tranh cãi; đó là lí
do tại sao ông ấy đã đem mọi đệ tử của mình tới.
Ở Ấn Độ đó là hiện tượng thông
thường mà nay đã biến mất... nó hay thế - nhưng bây giờ việc thách thức ai đó
dường như là cách thức để tạo ra kẻ thù. Trong nhiều thế kỉ điều đó đã không được
xét tới ở Ấn Độ; việc thách thức đơn giản là vấn đề tới đối diện nhau, với những
câu hỏi truy vấn, xuyên thấu, và tìm ra ai đã đi sâu hơn. Người đi sâu hơn là
người chiến thắng. Đó là hiện tượng rất đáng yêu, rất thân thiện.
Maulingaputta nói với Phật
Gautam, "Tôi đã tới đây để bày tỏ sự kính trọng của tôi với ông và cũng để
thách thức ông."
Phật nói, "Ta thích thách
thức của ông. Nhưng ông sẽ phải hoàn thành một điều kiện mà ta đã từng giữ cả đời
ta. Ta không thể làm ra ngoại lệ được."
Và lúc đó đã có mười nghìn sư,
các đệ tử của Phật. Maulingaputta nói, "Điều kiện gì cũng được, và tôi sẵn
sàng chấp nhận nó."
Thế là Phật nói, "Điều kiện
là ở chỗ ông phải ngồi im lặng cạnh ta trong hai năm - không câu hỏi, không câu
trả lời. Sau hai năm ta sẽ bảo ông, bây giờ ông có thể hỏi."
Dòng truyền thừa Bàn Khuê tới từ
Mahakashyap. Mahakashyap là con người hiếm hoi, không ai đã bao giờ nghe ông ấy
nói. Ông ấy chưa bao giờ hỏi bất kì câu hỏi này, ông ấy chưa bao giờ trả lời bất
kì ai, ngay cả lời chào cũng là quá nhiều. Mọi người đơn giản đi qua bên cạnh
ông ấy dường như ông ấy không có. Ông ấy có một cái cây đặc biệt mà ông ấy thường
ngồi bất kì khi nào Phật nói. Khi Phật nói với Maulingaputta, "Ông phải ngồi
im lặng trong hai năm cạnh ta và thế rồi ông có thể có bất kì truy hỏi, bất kì
tranh cãi, bất kì thảo luận, bất kì câu hỏi nào," đột nhiên một tiếng cười
lớn buột ra - Mahakashyap phá lên cười.
Toàn thể hội chúng cảm thấy rất
kì lạ vì người này chưa bao giờ nói cho bất kì ai, và chẳng có lí do đặc biệt
gì để ông ấy đáng phải cười. Nhưng ông ấy chắc phải đã là một hoá thân của Sardar
Gurudayal Singh, hay ngược lại. Sardar là người duy nhất trên toàn thế giới có
thể cười trước khi chuyện cười được kể. Điều đó không thành vấn đề, vấn đề là
tiếng cười. Sao không tận hưởng nó, sao chờ đợi? Đó là tin cậy sâu sắc rằng cái
gì đó tốt lành sẽ tới.
Maulingaputta nói, "Sao
người này lại cười?"
Phật nói, "Ông có thể đích
thân hỏi ông ấy. Ông ấy là người hiếm hoi, ông ấy chẳng bao giờ nói. Trong hai
mươi năm ông ấy đã từng ở cùng ta và ông ấy chưa bao giờ hỏi bất kì câu hỏi
nào. Đây là lần đầu tiên mà đột nhiên ông ấy đã buột ra tiếng cười."
Thế là Maulingaputta hỏi
Mahakashyap, "Sao ông cười vậy?"
Mahakashyap nói, "Ta cười
vì anh chàng Phật Gautam này là tay đại thủ đoạn. Ông ta đã lừa ta bằng cùng thủ
đoạn này đấy; ông ta đã bảo ta ngồi trong hai năm và ta đã ngồi tới giờ là hai
mươi năm! Bây giờ ham muốn hỏi hay tranh cãi đã rơi xa đằng sau hàng dặm đường
rồi. Cho nên nếu ông muốn hỏi, hỏi bây giờ đi; bằng không ông sẽ ngồi như ta vậy
thôi. Và có nhiều sư khác sẽ là nhân chứng cho điều ta nói."
Phật đang cầm đoá hoa sen trong
tay. Vào lúc đó ông ấy gọi Mahakashyap tới và trao đoá sen cho ông này với lời
nói, "Điều ta có khả năng nói, ta đã nói cho mọi người. Còn điều ta không
có khả năng nói, ta truyền nó cho ông."
Điều này được gọi trong Thiền
là việc truyền ngọn đèn. Không cái gì được nói. Nhưng trong hai mươi năm im lặng
bản thân người ta trở nên chứng ngộ. Đó không phải là cái gì đó mà Phật đã
trao. Phật đơn giản tạo ra tình huống.
Maulingaputta vẫn còn im lặng
trong hai năm và ông ấy thậm chí đã quên mất thời gian, rằng hai năm đã trôi
qua. Chính Phật phải tới nhắc ông ấy, "Maulingaputta, bây giờ hai năm qua
rồi. Tới và đương đầu với ta."
Ông ấy tới và chạm chân Phật
Gautam và ông ấy nói, "Tôi xin lỗi, tôi đã kiêu ngạo. Tôi đã không hiểu chứng
ngộ là gì. Bây giờ đừng làm cho tôi xấu hổ thêm. Chỉ trong im lặng trong hai
năm mọi ý nghĩ đã biến mất. Im lặng sâu sắc ngự trị bên trong và tôi đã tìm ra
bản thân tôi và cái đẹp và chân lí và cái thiện - tất cả đều cùng có trong bản
thể riêng của tôi. Bây giờ không tìm, không kiếm gì cả. Mahakashyap là
đúng."
Sau khi chạm chân Phật Gautam,
ông ấy chạm chân Mahakashyap. Chính từ chuyện này mà Mahakashyap được coi là
Thiền sư thứ nhất. Ông ấy là đệ tử của Phật, nhưng ông ấy đã bắt đầu một tín
ngưỡng mới, của những người đơn giản ngồi im lặng trong nhiều năm.
Bạn nhớ Basho chứ - và hôm nay
có nhiều nhà thơ ở đây, họ sẽ hiểu Basho - có lẽ là một trong những nhà thơ vĩ
đại nhất mà thế giới đã tạo ra.
Ngồi im lặng
không làm gì
xuân tới
và cỏ tự nó mọc lên.
Toàn thể triết lí của Thiền được hàm chứa
trong phát biểu đơn giản này, bài cú nhỏ này.
Ngồi im lặng
không làm gì
xuân tới
và cỏ tự nó mọc lên.
Bạn không phải làm gì cả. Chứng
ngộ không phải là việc làm của bạn. Và nó không phải là món quà. Bạn đã chứng
ngộ rồi, bạn chỉ đã không nhìn theo đúng hướng thôi. Khác biệt giữa người chứng
ngộ và người không chứng ngộ là không nhiều; nó là bỏ qua được. Người này đã
nhìn vào trong bản thân mình, người kia còn chưa nhìn vào bản thân mình. Đây
không mấy là khác biệt. Vào bất kì lúc nào người ta cũng có thể nhìn vào bản
thân mình. Có lẽ khi mắt bạn mệt với việc nhìn ra ngoài, bạn nhắm mắt lại trong
chán chường và mệt mỏi hoàn toàn và nhìn vào bên trong.
Bạn đã tìm nhiều và chẳng tìm
thấy gì bên ngoài. Bạn nhìn vào trong và đột nhiên mọi thứ bạn đã từng tìm kiếm
đều đã có đó rồi. Bạn đã tới cùng nó trong thế giới này, nó là phẩm chất cố hữu
của bạn.
Bàn Khuê đang nói rằng ai đó
khác có thể đem nước tới, nhưng đó không phải là cách đúng để giải thích điều
đó.
Ông ấy nói:
Còn với những người hoài nghi
và sẽ không uống, không có cách nào để cơn khát của họ được dịu đi.
"Vì ta đã không gặp được
ai đó với con mắt chứng ngộ, ta làm mòn mỏi bản thân ta một cách sai lầm. Chung
cuộc ta đã khám phá ra phật trong vô trí riêng của ta, và ta đang nói cho mọi
người về phật của vô trí riêng của họ, mà họ không phải làm gì khó khăn - cũng
giống như uống nước và làm cho cơn khát của họ dịu đi.
Về điểm này tôi tuyệt đối đồng
ý. Bản thân Bàn Khuê đã đột nhiên trở nên chứng ngộ mặc dầu ông ấy đã từng cố gắng.
Tôi phải nhắc bạn về bản thân Phật Gautam. Trong sáu năm liên tục ông ấy đã cố
gắng đủ mọi phương pháp và mọi kỉ luật sẵn có vào thời đó, mà chẳng cái gì xảy
ra. Ông ấy đã trở nên mệt mỏi, hoàn toàn chán tới mức một đêm trăng tròn ngồi
dưới gốc cây, ông ấy thậm chí bỏ luôn ham muốn chứng ngộ. Ông ấy đã bỏ mọi ham
muốn khác. Ham muốn duy nhất mà ông ấy đã từng mang trong sáu năm - vào đêm
trăng tròn đó ông ấy bỏ nốt cả cái đó nữa. Hoàn toàn vô ham muốn ông ấy đã ngủ
một giấc ngủ cực kì sâu. Và khi ông ấy tỉnh dậy lúc sáng, ngôi sao cuối cùng đã
lặn, và khi ngôi sao cuối cùng biến mất, ông ấy đã trở nên chứng ngộ.
Không phải là sáu năm huấn luyện
đó làm cho ông ấy chứng ngộ đâu, chính là cái đêm thảnh thơi đó, việc buông bỏ
hoàn toàn đó. Không có ham muốn, không tham vọng, tâm trí không vận hành chút
nào. Khi bạn không có bất kì ham muốn nào, bất kì tham vọng nào, bất kì khao
khát nào, tâm trí biến mất, vì tâm trí không là gì ngoài tổ hợp của tất cả những
điều này. Nó không phải là thực thể trong bản thân nó, nó chỉ là sự tổ hợp,
cũng như nắm đấm tay tôi. Nắm đấm không phải là thực thể, nó chỉ là năm ngón
tay nắm lại. Bạn mở các ngón tay ra và nắm đấm biến mất.
Tâm trí không phải là thực tại.
Nó không phải là sự kiện, nó đơn giản là tổ hợp của mọi ham muốn. Ngay cả một
ham muốn cũng đủ giữ cho nó thở. Nhưng khi ham muốn cuối cùng rơi rụng đi, và
điều đó chỉ có thể là ham muốn về chứng ngộ... vào sáng đó ông ấy đã tỉnh dậy
mà không có tâm trí. Vào sáng đó ông ấy là một vô trí, im lặng thế, an bình thế.
Quan sát ngôi sao cuối cùng tan biến, ông ấy cũng quan sát bản thân mình tan biến.
Ông ấy còn lại chỉ là người quan sát.
Trạng thái quan sát này là tâm
thức thuần khiết của bạn. Và nó không phải là của bạn, nó là tâm thức vũ trụ. Bạn
có thể gọi nó là thức tỉnh, bạn có thể gọi nó là phật tính, bạn có thể gọi nó
là chứng ngộ, cái tên không thành vấn đề.
"Việc dùng vô trí chứng ngộ
cố hữu trong mọi người, hệt như nó vậy, là đã tìm thấy an bình và phúc lạc,
không có khó khăn về lẫn lộn - đây chẳng phải là giáo huấn đúng thiêng liêng
sao?"
Và lúc khác ai đó đó hỏi Bàn
Khuê, "Việc soi sáng đầy đủ của con mắt về thực tại là được hoàn thành
theo thời gian và mua vụ, hay nó được nhận ra ngay cả trong một ngày?"
Bàn Khuê đáp, "Điều đó
không phải là vấn đề về thời gian và mùa vụ; điều đó được hoàn thành chỉ khi
con mắt về con đường là rõ ràng, không kẽ hở nào. Điều đó được hoàn thành bởi
việc thực hành cống hiến thành tâm chuyên tâm cho việc nuôi dưỡng nó."
Ông ấy đang làm ra một phát biểu
vĩ đại. Ông ấy đang nói rằng vấn đề không phải là thời gian, nó không phải là vấn
đề mùa vụ.
Trong làng của tôi một tu sĩ
già rất được kính trọng như một người trí huệ. Tôi hay tới nhà ông ấy. Và với bất
kì câu hỏi nào tôi đã hỏi ông ấy, ông ấy đều nói, "Đợi đã. Vào đúng lúc,
vào đúng mùa vụ, cháu sẽ tìm ra câu trả lời."
Tôi trở về từ đại học và tôi đi
tới thăm ông già này; ông ấy sắp chết. Tôi nói với ông ấy, "Ông đã lừa
cháu. Cháu đã từng chờ đợi đúng khoảnh khắc và đúng mùa vụ. Nó đã không tới. Và
cháu muốn hỏi ông, ít nhất trong khi ông sắp chết, phải trung thực. Ông nói cho
cháu, thời gian đúng của ông có tới không?"
Mắt ông ấy đầy nước mắt. Ông ấy
nói, "Tha thứ cho ông, ông hay nói điều đó với mọi người, chỉ để tránh câu
hỏi của họ - vì ông không biết câu trả lời. Bản thân ông cũng dốt nát như bất
kì ai khác nhưng mọi người nghĩ ông là người trí huệ, và dần dần họ đã thuyết
phục ông rằng ông là người trí huệ. Ông cũng đã bắt đầu tin vào điều đó."
Tôi nói, "Ít nhất bây giờ
ông bỏ niềm tin đó đi. Chết như người dốt nát như ông vậy. Cả đời ông đã không
trung thực, nhưng ngay cả một khoảnh khắc trước cái chết, nếu ông trung thực,
có lẽ thời gian đúng và mùa vụ đúng có thể tới một cách bất thần." Và thực
tại điều đó đã xảy ra. Ông ấy nhắm mắt lại, và tôi ngồi bên cạnh ông ấy và tôi
thấy thay đổi xảy ra quanh năng lượng của ông ấy; có sự tươi mát, hương thơm
khác. Khuôn mặt già nua của ông ấy trở nên đẹp thế - bị nhăn nheo bởi tuổi già,
nhưng bây giờ biểu lộ sự chín chắn.
Ông ấy mở mắt ra và ông ấy cầm
tay tôi trong tay ông ấy và ông ấy nói, "Ông không thể biết ơn bất kì ai
trong đời ông hơn là cháu, mặc dầu cháu đã không làm gì cả. Nhưng nhìn ra sự kiện
là cái chết đang tới, ông nhắm mắt lại và lần đầu tiên ông nhìn vào bên trong.
Nó có đó, nó bao giờ cũng có đó." Ông ấy chết là người chứng ngộ. Ông ấy
đã sống không chứng ngộ, trong khổ, trong khổ sở, nhưng ông ấy đã chết mà chứng
ngộ, trong niềm vui vô cùng.
Ông ấy bảo tôi, "Mọi người
không nên khóc than; mọi người không nên buồn hay nghiêm nghị vì cái chết của
tôi là việc chói sáng. Điều mà sống đã không có khả năng cho tôi, cái chết của
tôi đã trao cho tôi. Mở hội đi! Nói với mọi người rằng cái chết của tôi phải được
mở hội."
Và khi tôi kể cho mọi người, họ
không tin tôi. Tôi nói, "Dù các bác có tin tôi hay không, ước nguyện cuối
cùng của ông già này nên được hoàn thành. Nếu các bác không thể mở hội được,
tôi sẽ phải đem bạn tôi tới, và chúng tôi sẽ mở hội."
Tôi phải tụ tập mọi người, và họ
đều ngần ngại vì cái chết không được mở hội, chết là thảm hoạ. Nhưng cái chết của
người chứng ngộ, và đặc biệt cái chết làm cho một người thành chứng ngộ, phải
là lễ hội chứ. Nó có giá trị hơn nhiều so với sinh. Sinh đem cuộc sống tới cho
bạn. Cái chết được chứng ngộ đem bạn tới cuộc sống vĩnh hằng, cực lạc vô thời
gian, phúc lạc không bao giờ chấm dứt.
Daio đã viết:
Bầu trời giao cảm hoàn hảo
Trong trẻo ở mọi nơi.
Nước sống động,
mắt liễu xanh.
Sao mọi người ngày nay
vội vàng thế?
Trong từng mảnh đất,
bầu trời giao cảm hoàn hảo.
Những người đi đúng
thật hiếm.
Daio đang nói: mọi thứ đẹp thế,
sao và cây và chim, tại sao bạn không thể đơn giản hát và múa và tham gia vào
trong vũ trụ này? Bạn đang vội vàng đi đâu? Bất kì chỗ nào bạn đi bạn đều sẽ thất
vọng, vì cái bạn đang cố tìm được ẩn kín bên trong bạn.
Chính khoảnh khắc này có thể trở
thành sự chói sáng của bạn. Không một bước nào phải được lấy.
Trong từng mảnh đất,
bầu trời giao cảm hoàn hảo.
Những người đi đúng
thật hiếm hoi.
Chỉ đi đúng, là người hiếm hoi!
Đừng tìm nó bên ngoài. Đây là toàn thể giáo huấn của mọi chư phật.
Câu hỏi 1
Maneesha đã hỏi một câu hỏi:
Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,
Tôi đã gặp ai đó với đôi mắt chứng ngộ, người
không chỉ mang cho chúng tôi nước, mà còn làm mưa rào nó lên chúng tôi. Và vậy
mà, và vậy mà...
Chúng tôi có bồn chồn, phức tạp, đi xa khỏi
hồn nhiên tới mức chúng tôi chỉ có thể nhận được cái mà chúng tôi phải khổ về
nó?
Đó là toàn thể việc huấn luyện
sai của các tôn giáo, của các xã hội, của các nền văn hoá, điều nói rằng chừng
nào bạn chưa xứng đáng với một thứ, chừng nào bạn chưa xứng với nó, bạn không
thể có được nó. Đó là lí do, Maneesha, rằng nếu tôi bảo bạn rằng bạn chứng ngộ
rồi, bạn nhìn đây đó ngay. Bạn không thể tin được - "Trời, mình chứng ngộ!
Mà mình có làm cái gì đâu. Mình đã không tự hành hạ mình, mình đã không cầu nguyện.
Mình đã không nhịn ăn, mình đã không biết tới kinh sách."
Nhưng tôi nói với bạn rằng với
mọi thứ trừ chứng ngộ bạn sẽ phải làm việc. Nếu bạn muốn có tiền, bạn không thể
ngồi với mắt nhắm được. Nếu bạn ngồi với mắt nhắm, bạn thậm chí có thể mất tiền
- ai đó có thể cắt túi bạn. Với tiền bạn phải làm việc vất vả. Nếu bạn muốn quyền
lực chính trị, bạn phải làm việc vất vả. Bạn phải tinh ranh, bạn phải không
trung thực, bạn phải là kẻ đạo đức giả. Bạn phải dùng mọi loại phương tiện đúng
hay sai để đạt tới mục đích. Duy nhất chứng ngộ, trong toàn thể hiện tượng của
sự tồn tại, là không có bất kì nhu cầu nào để xứng với nó.
Nó đã ở đó rồi. Bạn có thể phủ
nhận nó lâu chừng nào tuỳ bạn, bạn có thể tìm ra các cớ lâu chừng nào tuỳ bạn,
nhưng chung cuộc bạn sẽ mệt mỏi với những cái cớ và bạn sẽ phải chấp nhận nó -
"Vâng, mình chứng ngộ rồi."
Nó chỉ là một hiện tượng khác
toàn bộ. Nó không là tiền bạc, không quyền lực, không danh vọng, không danh tiếng.
Bạn không phải học nó, bạn không phải kiếm nó. Nó ở trong chính trái tim bạn,
nó là nhịp đập con tim bạn. Bạn chỉ phải nhìn vào trong bản thể riêng của bạn.
Bây giờ cái gì đó thực sự
nghiêm chỉnh. Bạn thấy đấy, Sardar Gurudayal Singh đã cười rồi. Và đó là một
người khó khăn, Sardar!
Trước khi tôi kể chuyện cười, tôi
phải nói với bạn rằng nếu bạn kể chuyện cười cho người Anh, người đó cười hai lần.
Một lần, để không có vẻ ngu xuẩn; và lần nữa vào giữa đêm khi người đó hiểu nó.
Nếu bạn kể cùng chuyện cười đó cho người Đức, người đó đơn giản tự hỏi tại sao
mọi người cười. Sannyasin lâu nhất của tôi, Haridas, đang ở đây. Anh ấy tới từ
Đức. Anh ấy đã ở cùng tôi gần mười lăm năm, nhưng ngay cả hôm nay anh ấy vẫn hỏi
mọi người, "Tại sao các bạn cười?" Tâm trí người Đức có một đặc thù,
nó là tâm trí rất nghiêm chỉnh. Việc cười là chuyện không nghiêm chỉnh.
Nếu bạn kể cùng chuyện cười đó
cho người Do Thái, người đó sẽ ngắt bạn nửa chừng. Người đó sẽ nói, "Im
đi. Đây là chuyện cười cũ và hơn nữa anh đang kể nó sai toét." Rất khó làm
cho người Do Thái cười với chuyện cười vì gần như mọi chuyện cười đều có tính
Do Thái. Đó là độc quyền của họ. Và lí do là ở chỗ họ đã chịu khổ nhất trên thế
giới. Chỉ để sống tiếp, họ đã phải tìm ra cái gì đó để cười; bằng không cuộc sống
chẳng là gì ngoài khổ.
Từ khi Moses rời khỏi Ai Cập với
những người đi theo của ông ấy để đi tìm miền đất thánh ở Israel, trong bốn
nghìn năm người Do Thái liên tục trong khổ sở. Điều đó đã không dừng lại lấy một
khoảnh khắc. Một mình Adolf Hitler đã giết sáu triệu người Do Thái. Nhưng vì khổ
liên tục của họ mà họ phải phát minh ra cái gì đó để cười, cái gì đó để tận hưởng.
Chẳng có gì trong cuộc sống của họ để cười.
Tôi bao giờ cũng tự hỏi rằng
không có lấy một chuyện cười của người Ấn Độ. Tôi đã từng đi tìm trong thời
gian dài cho dù một chuyện cười Ấn Độ, nhưng chính bởi vì Ấn Độ chưa bao giờ khổ
cả. Ngay cả trong cái nghèo của nó, ngay cả trong cảnh nô lệ của nó, tôn giáo của
nó cũng nhiều tới mức nó giữ cho Ấn Độ kiên nhẫn, như thuốc phiện. Việc hợp lí
hoá là ở chỗ bạn khổ vì hành động ác trong các kiếp sống quá khứ của bạn. Giải
thích là ở chỗ nếu bạn chịu đựng một cách an bình, cái thu được của bạn ở thế
giới bên kia sẽ là lớn.
Đó chắc chắn là hiện tượng rất
nghèo nàn. Ấn Độ đã từng là mảnh đất nghiêm chỉnh của những người thấy, của các
thánh nhân. Bạn không mong đợi thánh nhân kể chuyện cười. Bạn có thể hình dung
được Mahavira cười không? Điều đó sẽ kì lạ như việc gặp con trâu cười. Bạn có
thể tin vào trâu, nhưng bạn không thể tin được rằng Mahavira sẽ cười.
Mabel đang dựng ngược tóc xoăn
của mình lên trước gương trong phòng ngủ ở khách sạn Bóng Tối.
"Anh có nhận ra, George
này," cô ấy nói, "rằng căn phòng này được coi là bị ám bởi một con ma
khát máu cứ trở lại hàng năm vào ngày này lúc nửa đêm để tìm một người đàn ông
hiến tế không?
"George...anh đâu? George...
anh đâu?"
Bạn có thấy rằng Sardar
Gurudayal đã không cười không? Vào nửa đêm anh ấy sẽ nhận ra ý tưởng này.
Wu, một người Trung Quốc, bao
giờ cũng ăn ở nhà hàng Hi Lạp của Plato Salado, vì Plato làm món cơm rang ngon
thế.
Mọi đêm, Wu tới, ngồi xuống và
gọi "Mơm dang." Và mọi đêm, Plato cười lăn lộn khi ông ta nghe Wu gọi
món. Thỉnh thoảng, Plato thậm chí còn bảo tất cả các khách hàng yên tĩnh và lắng
nghe Wu gọi món "mơn dang."
Cuối cùng, Wu phát bực mình và
quyết định thực hành nói “cơm rang” cho đúng.
Lần sau Wu đi tới nhà hàng của
Plato, anh ta đĩnh đạc công bố, "Xin cho tôi cơm rang."
Plato choáng nhìn lên.
"Ông nói gì?" người
Hi Lạp hỏi.
"Ông nghe điều tôi nói
đó," Wu quát lại, "ông là đồ bòi Hi nạp déo mẹ!"
Rainbow Banana-Kiss, một người hippy
có tuổi, đang rít điên cuồng điếu thuốc trong đau khổ tột cùng về cuộc hôn nhân
thất bại. Tuyệt vọng, ông ta với lấy điện thoại, lôi ra một số điện thoại mà
ông ta đã để trong túi, và quay số đó.
"Xin chào," một giọng
nói ghi âm ở đầu dây kia nói, "đây là Julie Frostbelly thuộc công ti Li dị
bạn tâm giao.
"Chúng tôi biết điều lo âu
của bạn," giọng nói này tiếp tục. "Câu chuyện của bạn có lẽ diễn ra
cái gì đó như thế này... Vài năm trước, bạn đã gặp ai đó đặc biệt. Điều đó thật
tuyệt vời. Tuần trăng mật là cực lạc. Các bạn lập tức nhớ tới các kiếp sống quá
khứ cùng nhau. Dục của bạn là yêu mật tông thực. Các kênh và linh hồn xác nhận
điều các bạn đã biết một cách trực giác, rằng các bạn tìm tìm thấy bạn tâm giao
của các bạn.
"Bây giờ, nhiều năm sau,"
giọng nói ghi âm tiếp tục. "Nhiệt tình mất đi rồi. Dục là bình thường, và
bạn tâm giao của bạn là cái của nợ. Bạn tình của bạn ăn miếng bánh to nhất, muốn
nhiều tiền hơn, và đi yêu bất kì đồ ngốc nào đi qua và nháy mắt ra hiệu. Đối diện
với nó đi - mối quan hệ chết rồi.
"Li dị bạn tâm giao có đây
để giúp bạn. Luật sư của chúng tôi, Boris Babblebrain và Henry Hypojerk, sẽ
giúp bạn có việc li dị hợp pháp đầy đủ mà vẫn giữ phong cách sống vũ trụ của bạn.
"Qua trị liệu sáng tạo, bạn
có thể làm quyết định mấu chốt như ai bắt đầu giữ đệm nước, con bài Tarot, và
trẻ con.
"Tới và gặp chúng tôi, và
với sự thoải mái của bạn, nhân viên tinh thần của chúng tôi sẽ giúp giải phóng
bạn khỏi mọi căng thẳng nghiệp. Từng người trong các bạn sẽ được cho một câu mật
chú li dị riêng của bạn.
"Sau rốt, các bạn có lẽ sẽ
tăng cường cùng nhau lần nữa trong kiếp tới!"
Percy và Peggy Sue lấy nhau và
tiếp tục tuần trăng mật tại Bahamas. Trong khi họ ở đó, Percy mua một con vẹt đẹp
trong lồng và đem nó trở về phòng khách sạn.
Nhưng mọi lúc Percy và Peggy
Sue bắt đầu làm tình, con vẹt lại bắt đầu bình luận về các cử động của họ.
Con vẹt hỗn xược nói những thứ
như, "Cô gái kia, Peggy Sue!" và "Tiếp đi Percy, anh có thể làm
tốt hơn điều đó!" và "Ồ! Ồ! Làm chậm lại đi! Làm nhanh lên, quay
trái...!"
Cuối cùng, các mô tả của con vẹt
nói trắng ra tới mức Percy nhảy ra khỏi giường và quăng tấm ga giường lên che
cái lồng. "Nếu mày không câm đi," anh ta quát lên, "tao sẽ cho
mày vào sở thú!"
Tối hôm đó những người đi tuần
trăng mật đóng gói va li để rời khỏi khách sạn. Nhưng Peggy Sue gặp rắc rối khi
đóng va li của mình; cô ấy không thể thắt khoá lại được.
"Cưng ơi," Percy nói,
"sao em không nằm lên nắp, và anh sẽ thử." Nhưng va li không đóng được.
"Này, anh yêu," Peggy
Sue nói, "anh nằm lên nắp và em sẽ thử." Nhưng điều đó cũng không được.
"Nghe đây," Percy gợi
ý, "sao chúng mình không cùng nằm lên nắp, và chúng mình cả hai cùng thử."
Vào lúc này, con vẹt kéo được
ga trải giường ra và hét lên, "Sở thú hay không sở thú, điều này tôi đã thấy!"
Nivedano...
(Tiếng trống)
(Nói lắp bắp)
Nivedano...
(Tiếng trống)
Im lặng.
Bạn đã ném đi tâm trí của bạn.
Nhắm mắt lại,
cảm thấy thân thể hoàn toàn bị
đông cứng.
Nhìn vào trong. Bạn càng có thể
đi sâu hơn,
bạn sẽ càng ở gần với bản tính
phật của bạn hơn.
Điều đó là rất đơn giản vì nó
là không gian riêng của bạn, bạn không xâm lấn vào không gian của bất kì ai
khác. Bạn đang đi vào trong bản thể riêng của bạn.
Ngày càng sâu hơn. Bạn sẽ bắt đầu
cảm thấy im lặng sâu, an bình từ bên trong, và một sinh lực tươi mới, một phúc
lạc mà bạn chưa bao giờ mơ tới.
Đây là vĩnh hằng của bạn, đây
là phật bên trong của bạn. Những người đi tìm đâu đó khác đều bị lạc.
Những người đi vào trong bị ngạc
nhiên khi thấy rằng toàn thể sự huy hoàng và kho báu của sự tồn tại đều sẵn có
cho họ.
Ở trung tâm của cội nguồn sống
của bạn, bạn cũng được kết nối với vũ trụ. Nhịp tim đập của bạn dần dần bắt đầu
trở nên hài hoà hơn với nhịp đập của vũ trụ.
Khi bạn trở thành một bạn đã về
tới nhà.
Để làm cho nó rõ ràng hơn,
Nivedano...
(Tiếng trống)
Thảnh thơi... buông bỏ... chỉ
quan sát.
Thân thể có đó, tâm trí có đó,
nhưng bạn không có.
Bạn là người quan sát.
Việc quan sát chứng kiến cái ta
này là phật.
Hân hoan trong việc tìm thấy nó
đi.
Để nó chìm vào trong mọi thớ thịt
của bản thể bạn.
Để cho khi bạn bước ra bạn
không là cùng người
như bạn đã đi vào, bạn mang cái
gì đó của phật đi cùng bạn.
Mọi ngày nó liên tục tăng lên.
Một khoảnh khắc tới mà vị phật có đó, dù bạn ở trong hay ngoài. Đó là sự hoàn
thành tối thượng.
Quá trình này rất đơn giản. Bất
kì cái gì bạn đang trải nghiệm bây giờ, liên tục trải nghiệm nó trong các hoạt
động hai mươi bốn giờ của bạn. Cũng hệt như dòng chảy ngầm, cũng hệt như hơi thở,
cũng hệt như nhịp tim đập.
Bạn không phải nhớ nó, nó có
đó.
Bạn biết nó có đó, và việc biết
này sẽ biến đổi toàn thể bản thể bạn, mọi hoạt động của bạn, toàn thể nhân cách
của bạn.
Nó sẽ cho bạn việc sinh thành mới,
việc phục sinh.
Nivedano...
(Tiếng trống)
Quay lại,
nhưng không quay lại như bạn đã
đi vào,
đem cái gì đó từ kho báu bên trong
đi cùng bạn.
Một cách an bình, im lặng,
duyên dáng
ngồi xuống như phật trong vài
giây,
Chỉ nhớ lại,
chỉ nhớ lại bản thân bạn
rằng đây là kinh nghiệm duy nhất
trên thế giới
mà với nó không cái gì đặc biệt
được cần tới,
không nỗ lực, không kỉ luật.
Nó đã là bản tính của bạn.
Bạn là nó.
Được chứ, Maneesha?
Dạ vâng, thưa Thầy kính yêu.
Chúng ta có thể mở hội việc phục
sinh của chư phật không?
Dạ vâng, thưa Thầy kính yêu.
..............................
0 Đánh giá