Read more
(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)
Sống Thiền – Osho
Bài Nói Về Thiền
Chương 15. Rồng Không Nằm Vũng Nước
Nghe hoặc Tải MP3 'Sống Thiền' ê
Osho kính yêu
Chokei một hôm nói, "Cho dù ông nói rằng a la hán vẫn có ba
chất độc, ông không nên nói rằng Như Lai có hai ngôn ngữ. Ta không nói rằng Như
Lai không có ngôn ngữ nhưng nói rằng ông ấy không có hai ngôn ngữ."
Hofuku nói, "Ngôn ngữ của Như Lai là gì?"
Chokei nói, "Làm sao người điếc có thể nghe được nó?"
Hofuku nói, "Ta biết ông đang nói từ nguyên tắc thứ
hai."
Chokei nói, "Ngôn ngữ của Như Lai là gì?"
Hofuku nói, "Uống chén trà đã."
Bình luận của Setcho là:
Ai nói từ nguyên lí thứ nhất, ai nói từ nguyên lí thứ hai?
Rồng không nằm chỗ vũng nước;
Nơi rồng ẩn, sóng dậy
Khi không gió nào thổi.
Ô! Ông, thiền sư Chokei
Ông đã làm thâm tím đầu ông trên cổng rồng.
Osho ơi,
Với cân rưỡi cá trống, nó mổ lên lá sen. Biết xoáy ốc khi nó
nghe một, đằng nào nó cũng sẽ bị đánh.
Osho ơi,
Tâm trí tôi đang đi tới sôi lên! Nó bị cưỡng bách để thử và giải
mã những chuyện này, cho dù điều đó cho cảm giác giống như đọc văn bia trên bia
mộ riêng của người ta.
Cho nên tôi làm cho
tâm trí tôi ra, dùng nó, từ bỏ, và đẩy nó đi.
Thế rồi tôi làm cho
nó ra lần nữa, từ bỏ và đẩy nó đi.
Thế rồi nó ra, dùng
tôi, từ bỏ và đẩy tôi đi.
Tôi phát điên hay đi
vào Thiền! Cứu tôi với!
Không, Đừng cứu - cứ
làm nó đi!
Hay không dừng lại
không làm điều bạn không làm!
Osho ơi, tôi đem đầu
đã chặt của tôi cho thầy.
Maneesha, trước khi
Nivedano đánh trống và Niskriya chặt đầu bạn, tôi phải giải thích đôi điều mà bạn
có thể không nhận biết.
Thứ nhất là từ a la
hán. Nó đơn giản nghĩa là người đã vượt qua kẻ thù. Trong một phiên bản tốt
hơn, từ chỗ nó được dẫn tới, nó được gọi là arihanta, điều làm cho nó rõ ràng
hơn rằng nó không chỉ vượt qua kẻ thù: ari nghĩa là kẻ thù và hanta nghĩa là
người đã sát hại.
Và kẻ thù thì sao? Có
ba kẻ thù: tham lam, sân hận và si mê.
Ở Ấn Độ, Hindu giáo
là sanatan, tôn giáo vĩnh hằng. Người ta không biết khi nào nó bắt đầu, ai bắt
đầu nó. Từ Hindu giáo, như việc nổi dậy, hai tôn giáo khác đã được sinh ra: cái
này là Jaina giáo, cái kia là Phật giáo. Người Jaina chỉ tin vào a la hán. Từ của
họ dành cho nó là arihanta; họ không biết gì về bồ tát. Thái độ của Jaina giáo
là, một khi một người đã giết mọi kẻ thù - tham lam, ghen tị, giận dữ, thèm
khát - thế thì không còn điểm nào cho người đó cho dù để nói ra một lời; người
đó không có gì để truyền đạt. Nếu bất kì cái gì được truyền đạt, nó được truyền
đạt bởi sự hiện diện của người đó. Người đó cũng giống như cái giếng. Nếu bạn
khát bạn đi ra giếng, giếng sẽ không chạy theo bạn.
Có lẽ đây là một
trong các lí do mà Jaina giáo vẫn còn là một tôn giáo rất nhỏ. Mặc dầu nó có hiểu
biết triết lí rất tinh tế, phức tạp, nó đã không có thầy; nó chỉ có a la hán. Họ
đã đạt tới và công việc của họ đã được thực hiện. So sánh không phải là điều bắt
buộc. Tại sao họ phải bận tâm tới khổ, đau khổ, bóng tối của bất kì ai? Mọi người
bằng bất kì cách nào đều phải tranh đấu với nó theo cách riêng của người đó; bạn
không thể ép buộc bất kì ai được chứng ngộ. Vấn đề là gì?
Jaina giáo đã tạo ra
nhiều a la hán, những đỉnh cao nhất của tâm thức, nhưng nó có cách tiếp cận rất
khô khan, cách tiếp cận rất vô nhân. Nó không nghĩ tới tất cả những người vẫn
đang vật lộn với bóng tối, mù loà, những người vẫn đang tìm con đường, những
người thậm chí có thể đi lạc lối. Khoảnh khắc một người trở thành a la hán, người
đó cắt bỏ mọi quan hệ của mình với nhân loại, ngay cả quan hệ có đệ tử.
Phật Gautam đã tạo ra
việc nổi dậy khác mà chung cuộc lên cao trào trong Thiền. Nó khác với Jaina
giáo chỉ ở điểm này: nó đem vào khái niệm mới, bồ tát. Bồ tát là người đã nhận
ra bản thể mình, người đã trở nên thức tỉnh, nhưng công việc của người đó đã
không chấm dứt; ngược lại, bây giờ công việc thực của người đó bắt đầu. Mãi cho
tới giờ người đó đã vật lộn vì bản thân mình, bây giờ người đó sẽ vật lộn vì
người khác.
Theo Phật Gautam - và
tôi đồng ý với ông ấy một cách toàn bộ - con người của chứng ngộ không thể cưỡng
lại được cám dỗ khuyến khích người khác đi tìm kiếm... nâng cao, hỗ trợ, làm giầu
và chia sẻ ánh sáng riêng của người đó với những người khác. Việc cưỡng lại đó
đơn giản là không thể được cho người đó... Thái độ của người Jaina dường như rất
lấy cái ta làm trung tâm: bạn đã về nhà, công việc của bạn được kết thúc.
Chuyện này sẽ giúp bạn
hiểu rõ hơn...
Phật Gautam chết và tại
cổng thiên đường có mở hội lớn, vì rất hiếm khi... trong hàng triệu năm, may ra
một người đi tới đỉnh tâm thức lớn tới mức cửa thiên đường mở ra cho người đó.
Điều đó là biểu tượng thôi. Và đã có hân hoan lớn để đón chào ông ấy, nhưng ông
ấy đã từ chối vào cổng.
Ông ấy nói, "Xin
đóng cổng lại. Tôi sẽ đứng bên ngoài. Chừng nào mọi người sống còn chưa đi qua
để vào bên trong, tôi không thể vào được. Tôi sẽ là người cuối cùng vào. Mặc dầu
đó là chờ đợi lâu, tôi sẽ đợi. Tình yêu của tôi nói tôi có thể đợi, từ bi của
tôi nói tôi nên chờ đợi. Sẽ là độc ác về phần tôi khi người khác đang cần được
đánh thức, lại không đánh thức họ mà đi vào trong chốn xa hoa của thiên đường.
Tôi sẽ tới, nhưng tôi sẽ là người cuối cùng. Xin các ông làm cho cửa đóng lại."
Và câu chuyện là, cánh cửa bị đóng; Phật đứng bên ngoài, chờ đợi cho mọi sinh
linh đi qua.
Đó là nghĩa của bồ
tát. Thành tựu của bạn là không đủ nếu bạn không thể chia sẻ được nó. Bạn càng
có thể chia sẻ nó, bạn càng có nó nhiều hơn; bạn càng làm lan rộng ngọn lửa nhiều
hơn, bạn càng có thể đưa trái tim mình lên lửa, chứng ngộ của bạn càng vĩ đại
hơn. A la hán được so sánh với con thuyền nhỏ trong đó chỉ mỗi mình ông ấy ngồi,
bồ tát được so sánh với con thuyền lớn trong đó hàng triệu người có thể được chở
sang bờ bên kia.
Có nhiều cái tên cho
bồ tát tương ứng với chiều hướng mà từ này được dùng. Một trong những cái tên
là Như Lai - tathagata. Tathagata bắt nguồn từ gốc tathata. Tathata nghĩa là
tính như vậy, tính đây này; mọi thứ là ở đây và mọi thứ là bây giờ. Không có
quá khứ và không có tương lai; và trong tính như vậy của bạn, trong bản tính của
bạn, bạn đã chứng ngộ. Tathagata nghĩa là người quan niệm mọi người đều là chứng
ngộ: vài người nhận biết về nó, vài người không, vài người muốn chơi trò chơi
cuộc sống thêm chút nữa. Vài người gắn bó với con gấu bông của họ, nhưng sớm
hay muộn người ta gạt bỏ con gấu bông đó. Cách tiếp cận của tathagata là làm
cho bạn nhận biết rằng điều bạn đang níu bám chỉ là chất liệu mơ. Nếu bạn muốn
níu bám bạn có thể níu bám, nhưng nhớ, không có gì để níu bám cả.
Tôi đã kể cho các bạn
câu ngạn ngữ của người Jaina rằng người khát sẽ tới giếng, nhưng giếng không được
giả định đuổi theo người khát. Phát biểu song song của Phật Gautam với điều đó
là, "Nếu núi không thể tới ta được, ta sẽ đi tới núi! Hiển nhiên là khó
cho núi tới ta, nhưng điều đó không có nghĩa là núi phải bỏ ta. Ta sẽ đi."
Giai thoại nhỏ này
liên quan tới lời của Phật, và trong nhiều thế kỉ - hai mươi nhăm thế kỉ - lời
của ông ấy đã được thảo luận bởi những thầy lớn. Cái đẹp thế đã nở hoa trong những
lời đó, những cầu vồng như vậy đã đi ra từ những lời đó. Phật Gautam theo nghĩa
này là rất hiếm hoi. Không người nào khác trong toàn thể lịch sử đã từng được
bình luận bởi nhiều người thế và đã được trút xuống với nhiều nghĩa mới thế.
Ông ấy chắc chắn một mình.
Chokei, một bồ tát
khác, một hôm nói, "Cho dù ông nói rằng a la hán vẫn có ba chất độc... Ông
ấy không nói họ có, ông ấy đang nói, "ông không nên nói rằng Như Lai có
hai ngôn ngữ. Ta không nói rằng Như Lai không có ngôn ngữ nhưng nói rằng ông ấy
không có hai ngôn ngữ."
Điều đó đã từng được
tranh cãi lặp đi lặp lại mãi giữa các thầy... Với thế giới đương đại những phát
biểu hay này, những bình luận, đã mất nghĩa của chúng. Nhưng chừng nào chúng
chưa được làm sống lại, cái gì đó trong bạn sẽ vẫn còn bị thiếu. Chúng là bản
chất thế cho tâm linh con người và sự trưởng thành của con người.
Ông ấy đang nói rằng
một như lai không thể được nói là có hai ngôn ngữ. Đã có những thầy đã nói rằng
như lai có hai ngôn ngữ. Cho nên đầu tiên bạn phải hiểu... bằng không, Chokei sẽ
không được hiểu.
Những người đã nói một
như lai có hai ngôn ngữ đều có nghĩa riêng của họ. Một như lai phải nói với những
người không biết và một như lai cũng phải nói với những người biết. Hiển nhiên
ông ấy cần hai ngôn ngữ. Khi bạn ở cùng người biết, bạn dùng ngôn ngữ này, và
khi bạn ở cùng ai đó không biết, bạn phải dùng ngôn ngữ khác.
Nhưng Chokei nói,
"Ông có thể nói nếu ông muốn, rằng a la hán vẫn có ba chất độc - điều là
không thể được, vì một a la hán trở thành a la hán bằng việc vượt qua ba chất độc
đó." Ông có thể nói điều đó - Chokei cho phép điều đó - nhưng ông không thể
nói về vị phật, về như lai, rằng ông ấy có hai ngôn ngữ: "Ta không nói rằng
Như Lai không có ngôn ngữ nhưng nói rằng ông ấy không có hai ngôn ngữ."
Chokei đang nói cái
gì đó có tầm quan trọng mênh mông. Một mặt ông ấy nói, "Ta không nói rằng
như lai không có ngôn ngữ, nhưng ta chắc chắn nói rằng ông ấy không có hai ngôn
ngữ."
Hokufu nói... Hofuku
là một Thiền sư khác - và đây là truyền thống trong Thiền rằng các thầy gặp gỡ và
nói và chơi với lời. Hofuku nói, "Ngôn ngữ của Như Lai là gì?" Nếu
ông nói ông ấy không có hai ngôn ngữ và ông không phủ nhận ông ấy không có ngôn
ngữ nào, thế thì ngôn ngữ của ông ấy là gì?
Chokei nói, "Làm
sao người điếc có thể nghe được nó?"
Đây là phát biểu hay
thế với nhiều ngụ ý thế. Tôi đang nói với bạn, nhưng bạn có nghĩ liệu tôi không
có tai tôi sẽ vẫn nói không? Việc nói của tôi cần bạn một cách tuyệt đối.
Đó là một trong những
khám phá khoa học mới nhất... các triết gia bao giờ cũng thảo luận về nó, nhưng
thảo luận của họ không có tính hợp thức khoa học. Nhưng khoa học bây giờ đã đi
tới thấy ra vấn đề, điều thách đố người thường. Chẳng hạn: tất cả các bạn đều
có mầu sắc quần áo khác nhau, nhưng đèn bị tắt, bạn có cho rằng mầu trắng vẫn
còn trắng và mầu lam sẽ vẫn còn lam, mầu đỏ sẽ vẫn còn đỏ và mầu lục sẽ vẫn còn
lục không? Một khi đèn bị tắt đi, mọi mầu sắc biến mất. Để mầu sắc có đó, ánh
sáng là được cần. Và mọi sự trở nên phức tạp: ánh sáng có thể có đó, mầu sắc có
thể có đó, nhưng nếu không có ai để nhìn, sẽ không có mầu sắc nào; mắt cũng được
cần. Đây là những cấu phần cơ bản.
Cho nên khi bạn rời
khỏi phòng của bạn và khoá nó lại, đừng ngạc nhiên là mọi thứ trong phòng bạn
đã đổi mầu của nó! Tất cả đều trở thành không mầu. Nhưng nếu bạn nhìn qua lỗ
khoá, mầu lại sẽ xuất hiện. Cho nên rất khó để tìm thấy phòng của bạn mà không
nhìn thấy nó! Một khi bạn thấy, mọi thứ có đó - và một khi bạn thôi nhìn thấy,
chúng biến mất. Mắt bạn là được cần.
Nhìn điều đó theo
cách này. Một người mù... Bạn nghĩ rằng với người đó có bất kì cái gì như mầu sắc
hay ánh sáng không? Cầu vồng có thể có đó, nhưng nó không có cho người mù. Sao
có thể có trên trời, nhưng chúng không có cho người mù. Âm nhạc lớn có thể có
đó, nhưng nếu bạn điếc nó không tồn tại cho bạn - và nếu mọi người khác cũng điếc
- thế thì âm thanh không tồn tại.
Bạn có thể hiểu được
điều đó; miền thấy của chúng ta là rất nhỏ, miền nghe cũng vậy. Ngay bây giờ bạn
không nghe thấy đài phát thanh nào. Trên khắp quả đất hàng nghìn đài phát thanh
đang phát, và những sóng đó đang đi qua bên cạnh bạn. Chúng là sẵn có cho tai bạn,
nhưng miền của tai bạn không sâu tới mức nó có thể bắt được chúng.
Chuyện xảy ra trong
thế chiến thứ hai. Một người bị trúng viên đạn vào đầu, viên đạn được lấy ra,
nhưng cái gì đó đã xảy ra bên trong hệ thống não của anh ta mà anh ta bắt đầu
nghe thấy đài phát thanh gần nhất mà không cần máy thu nào, hoàn toàn rõ và
đúng.
Đầu tiên anh ta phân
vân. Không có đài thu radio nào xung quanh và anh ta có thể nghe mọi phát biểu,
thời gian và bài hát và mọi thứ. Anh ta nói với các bác sĩ - anh ta vẫn còn
trong bệnh viện - rằng cái gì đó thật kì lạ. Không ai tin anh ta, vì điều đó
chưa bao giờ xảy ra.
Nhưng chung cuộc họ
phải thử - ít nhất thử về mặt giả thuyết. Trong phòng khác họ để một máy thu
radio, và một bác sĩ ở đó ghi chép. Bác sĩ khác ở cùng với bệnh nhân cũng ghi
chép về điều diễn ra trong chương trình phát radio. Họ ngạc nhiên. Anh ta tuyệt
đối chính xác.
Bạn có thể nghĩ rằng
điều đó là điều lớn lao; anh ta đáng phải thích thú! Không ai có thể tận hưởng
được điều đó trong hai mươi tư giờ, vì không có gì, không cách nào để tắt nó
đi. Anh ta không thể ngủ được, anh ta không thể nói được, vì việc phát sóng
radio liên tục diễn ra trong đầu anh ta. Anh ta không thể nghe được mọi người
đúng. Anh ta phát khùng. Tai anh ta phải được mổ.
Nhưng điều đó cho cái
nhìn sâu rằng mặc dầu mọi loại sóng đang đi qua - sóng radio, sóng truyền
hình... cái lưới của bạn là nhỏ và nó không bắt giữ được chúng. Hoặc chúng ở
trên nó hoặc chúng ở dưới nó. Điều chúng ta thấy chỉ là một miền nhỏ các thứ.
Người mù không thể thấy được ánh sáng, nhưng bạn có cho rằng người mù có thể thấy
bóng tối không? Bình thường điều được giả định là người mù phải sống trong bóng
tối; bạn sai. Người mù thậm chí không thể thấy được bóng tối, bởi vì người đó
không có mắt để thấy. Nếu bạn có thể thấy được bóng tối, không có vấn đề trong
việc thấy ánh sáng, bởi vì sáng và tối là một hiện tượng. Nhắm mắt lại và nó là
tối; mở mắt ra và nó là sáng. Đừng nghĩ rằng người mù là giống như bạn, vì bạn
nhắm mắt bạn và bạn thấy tối. Cùng điều đó không phải là tình huống cho người bị
mù bẩm sinh, vì người đó chẳng có gì để so sánh với nó - người đó chưa bao giờ
thấy ánh sáng. Làm sao người đó có thể nói, "Đây là bóng tối"?
Hofuku nói,
"Ngôn ngữ của Như Lai là gì?"
Chokei nói, "Làm
sao người điếc có thể nghe được nó?"
Ông ấy đang nói rằng
chỉ những người không điếc mới biết ngôn ngữ của Phật. Những người điếc có thể
có nghe thấy lời của ông ấy nhưng sẽ không hiểu ngôn ngữ của ông ấy, sẽ nghe lời
của ông ấy nhưng sẽ không hiểu nghĩa - điều có thể nhất sẽ là hiểu sai nghĩa của
ông ấy.
Hofuku nói, "Ta
biết ông đang nói từ nguyên tắc thứ hai."
Bạn phải thấy tại sao
Hofuku nói, "Ông đang nói từ nguyên tắc thứ hai." Nguyên tắc thứ nhất
là: Phật nói; nguyên tắc thứ hai là: ai đó khác nghe. Nếu bạn nói từ quan điểm
của người nghe, thế thì bạn đang nói từ nguyên tắc thứ hai. Điều đó không thể
được chấp nhận. "Nói từ nguyên tắc thứ nhất, từ cội nguồn nguyên thuỷ. Ta
không hỏi liệu mọi người có nghe Phật hay không, ta đang hỏi liệu Phật có nói
hay không."
Chokei nói,
"Ngôn ngữ của Như Lai là gì?"
Lần nữa lại cùng câu
hỏi. Chừng nào bạn chưa nói từ cội nguồn nguyên thuỷ, Chokei sẽ hỏi lặp đi lặp
lại, "Ngôn ngữ của Như Lai là gì?"
Hofuku nói, "Uống
chén trà đã."
Câu trả lời này -
"Uống chén trà đã," - nghĩa là lắng nghe vị phật hay trở thành vị phật.
Nó đơn giản ngụ ý có nếm trải về điều đó, không nói về điều đó. Nó không phải
là câu hỏi để được thảo luận, nó là cái gì đó để được kinh nghiệm như việc nếm...
Uống chén trà đã!
Phát biểu này,
"Uống chén trà đã," đi vào trong nhiều giai thoại Thiền từ các chiều
hướng khác nhau.
Một thầy đồ luận lí
đi tới gặp Nansen và ông ta hỏi về những điều lớn lao: Thượng đế và cõi trời và
địa ngục, và chân lí tối thượng, và thời gian và không gian; ông ấy đầy lời.
Nansen nghe và nói, "Đợi đã. Trước tiên uống chén trà đã."
Ông thầy đồ này cảm
thấy hơi bị xúc phạm. Ông ta đang hỏi những câu hỏi lớn lao thế và anh chàng
này đem tới chén trà! Một cách tự nhiên ông ta nói, "Đừng đổi chủ đề!"
Nansen nói, "Tôi
không đổi chủ đề đâu, tôi đem ông tới chủ đề." Ông ấy chuẩn bị trà, ông thầy
đồ nhấm nháp trà và Nansen hỏi, "Tôi có thể hỏi ông vị nó thế nào?"
Một cách tự nhiên ông
thầy đồ nói, "Ông có thể nếm cho bản thân ông ấy. Mùi vị không thể được thảo
luận."
Nansen nói, "Ông
là anh chàng hay. Ngày nào đó có lẽ ông sẽ hiểu. Ít nhất ông không là kẻ ngốc.
Những chân lí tối thượng này, nghĩa của niết bàn và nghĩa của chứng ngộ... ông
thậm chí không thể diễn đạt được vị của trà và ông nói về chứng ngộ sao?"
Tôn giáo ở phương Đông chưa bao giờ trở thành thượng đế học. Nó vẫn còn rất trần tục, rất gắn đất, rất thực chứng. Và đặc biệt Thiền chưa bao giờ vẩn vơ; nó đem bạn trở lại với kinh nghiệm. Không cái gì có thể được nói về kinh nghiệm này. Mọi điều được nói chỉ là cái lưới để kéo bạn vào kinh nghiệm. Điều được nói là không đúng, nó chỉ là con trỏ chỉ đường cho bạn tới chỗ bạn có thể tìm thấy chân lí.
Người ta nói về
Mahavira - cả ông ấy và Phật đều là người đương đại - rằng ông ấy chưa bao giờ
nói, nhưng có những kinh sách trong đó lời của Mahavira được thu thập. Dầu vậy,
người ta nói ông ấy chưa bao giờ nói. Điều đó có vẻ ngớ ngẩn nhưng bạn phải hiểu
tính phức tạp của sự việc này. Mahavira chắc chắn không bao giờ nói. Ông ấy
không có hội chúng lớn như Phật Gautam có. Ông ấy chỉ có một nhóm rất nhỏ những
người được chọn, người có thể hiểu được im lặng của ông ấy.
Ông ấy đã không viết
ra một lời. Mười một người đó mà ông ấy đã chọn lọc làm người nghe của mình,
không có việc nói của ông ấy, đã viết ra kinh sách. Chính phép màu là tất cả những
người đó đã viết cùng một điều. Chắc chắn họ hiểu im lặng.
Bản thân im lặng là
ngôn ngữ; nó chỉ cần trái tim rất im lặng, trái tim trống rỗng để hiểu nó.
Tâm trí không phải là
cơ chế đúng để hiểu những điều lớn lao. Nó hữu dụng cho điều trần tục, nhưng
cho điều linh thiêng, cho điều thiêng liêng, nó đơn giản là cản trở; do đó mới
có nhấn mạnh của phương Đông vào thiền. Thiền không là gì ngoài dần dần loại bỏ
tâm trí và đi tới điểm bạn không có tâm trí chút nào.
Trong không gian đó của
vô trí bạn có thể nghe thấy thầy - người có thể không nói chút nào, hay nếu thầy
nói, thế thì bạn sẽ có khả năng hiểu thầy. Bạn không thể hiểu lầm được thầy.
Bình luận của Setcho
là:
Ai nói từ nguyên lí
thứ nhất, ai nói từ nguyên lí thứ hai?
Rồng không nằm chỗ
vũng nước;
Nơi rồng ẩn, sóng dậy
Khi không gió nào thổi.
Ô! Ông, thiền sư
Chokei
Ông đã làm thâm tím đầu
ông trên cổng rồng.
Setcho đã không có khả
năng nói cái gì đặc biệt. Anh ta đơn giản nói rằng chỉ như rồng không nằm chỗ
vũng nước, chư phật vĩ đại không thể được tìm ra trong lời.
Khi không gió nào thổi,
không sóng nảy sinh, có hiểu biết. Thế thì bạn đã đi tới nguyên tắc thứ nhất, cội
nguồn. Đừng nói về nguyên tắc thứ hai, vì điều đó là không liên quan. Có nhiều
nguyên tắc thứ hai như có những người nghe, nhưng nguyên tắc thứ nhất là một.
Maneesha đã hỏi... Chọn
kinh này cho bài nói này, cô ấy có chút ít hương vị của Thiền.
"Với cân rưỡi cá
trống, nó mổ lên lá sen. Biết xoáy ốc khi nó nghe một, đằng nào nó cũng sẽ bị
đánh."
Cho nên bây giờ hai
điều phải được thực hiện: thứ nhất, Thầy Niskriya, cô ấy đã nói cái gì đó đúng
cho nên cho cô ấy một phần thưởng.
(Niskriya chạm đầu
Maneesha bằng cây thiền trượng và Maneesha cúi lạy Osho trong lòng biết ơn.)
Tốt. Và bây giờ
Nivedano...
(Tiếng trống)
Tuyên bố với thế giới
bằng tiếng trống của bạn, ba lần...
(Tiếng trống)
(Tiếng trống)
(Tiếng trống)
Tốt.
Cô ấy đang nói,
"Osho ơi, tâm
trí tôi đang đi tới sôi lên! Nó bị cưỡng bách để thử và giải mã những chuyện
này, cho dù điều đó cho cảm giác giống như đọc văn bia trên bia mộ riêng của
người ta."
Bạn đúng rồi,
Maneesha, tôi không có chén trà ở đây - nhưng dầu vậy bạn có thể uống chén trà.
Nó sẽ không phải là hữu hình... nhưng từ mắt tôi, từ cử chỉ của tôi, từ hiện diện
của tôi, có nếm trải đi. Không cần lo nghĩ về bia mộ của bạn.
Bước đi trên con đường
của Thiền là bước đi hướng tới cái chết lớn hơn, một cách có ý thức, tìm ra nấm
mồ riêng của người ta.
Mọi người đều chết,
nhưng cũng như mọi người sống một cách vô ý thức họ chết một cách vô ý thức. Sống
của họ không có nghĩa và ý nghĩa nào mà chết của họ cũng vậy. Một khi bạn bắt đầu
trở nên nhận biết chút ít... chỉ là một nhận biết nhỏ, một ngọn lửa nến nhỏ, và
bạn có thể thấy cái chết riêng của bạn mọi khoảnh khắc. Và bên ngoài cái chết của
bạn - là sống vĩnh hằng.
Chết là một hồi. Nó xảy
ra hàng triệu lần, nhưng nó không có khả năng phá huỷ năng lượng sống mà bạn
là.
Và tôi có thể hiểu được
khó khăn của bạn. Bạn nói:
"Cho nên tôi làm
cho tâm trí tôi ra, dùng nó, từ bỏ, và đẩy nó đi. Thế rồi tôi làm cho nó ra lần
nữa, từ bỏ và đẩy nó đi. Thế rồi nó ra, dùng tôi, từ bỏ và đẩy tôi đi.
Tôi phát điên hay đi
vào Thiền! Cứu tôi với! Không, Đừng cứu - cứ làm nó đi! Hay không dừng lại
không làm điều bạn không làm!
Osho ơi, tôi đem đầu
đã chặt của tôi cho thầy.
Thiền chắc chắn là
cách thức rất mất trí. Chừng nào bạn còn chưa mất trí chút ít, bạn sẽ không đi
tới Thiền. Điều đó là đúng, khi bạn đi tới Thiền, mất trí của bạn sẽ trải qua
thay đổi giả kim thuật. Không lành mạnh của bạn sẽ trở thành lành mạnh lớn hơn
của bạn, vô trí của bạn sẽ trở thành trí huệ vô cùng của bạn.
Nhưng từ bên ngoài nó
là mất trí. Từ bên trong nó là điều lành mạnh duy nhất đã xảy ra trên hành tinh
này.
Maneesha đã làm cho
các bạn quá im lặng. Tôi sẽ làm cho im lặng của bạn trở nên sâu sắc hơn và cách
duy nhất làm điều đó sâu sắc hơn là có tiếng cười thoải mái.
Bé Felix đang có bài
kiểm tra từ nhà tâm lí trẻ em.
"Bây giờ,
Felix," bác sĩ tâm thần nói, "cháu muốn là gì khi cháu lớn?"
"Cháu muốn là
bác sĩ, nghệ sĩ, hay người lau cửa sổ," Felix đáp.
"Bác hiểu,"
bác sĩ tâm thần phân vân, "cháu không rất rõ ràng về điều đó, phải
không?"
"Cái gì?"
Felix nói. "Cháu hoàn toàn rõ ràng. Cháu muốn nhìn đàn bà cởi truồng!"
Bà già Grumblebum mọi
ngày đều tới khám bác sĩ. Bác sĩ - một người rất kiên nhẫn - khôi hài với bà ấy,
lắng nghe im lặng và thỉnh thoảng cho bà ấy thuốc.
Một hôm bà Grumblebum
không tới. Hôm sau bác sĩ hỏi, "Hôm qua bà ở đâu vậy? Tôi nhớ bà."
"Tôi sẽ nói sự
thật cho ông," bà ấy đáp, "tôi bị ốm!"
Tại cuộc nói chuyện
thượng đỉnh mới nhất, Ronald Reagan và Mikhail Gorbachev liên tục tranh cãi về
nước nào là số một, Nga hay Mĩ.
Chung cuộc, để không
bắt đầu thế chiến thứ ba, họ quyết định giải quyết điều đó với nhau bằng cuộc
chạy đua ma ra tông.
Sáng hôm sau vào lúc
tám giờ, hai nhà lãnh đạo thế giới bắt đầu cuộc đua. Hai giờ rưỡi sau đó,
Gorbachev sung sướng chạy qua vạch kết thúc, nhưng phải sáu giờ nữa trước khi
Reagan làm điều đó. Ông ta hoàn toàn kiệt sức, nhưng vẫn chưa nản chí.
Sáng hôm sau tờ
Washington Post đưa câu chuyện: "Trong cuộc đua ma ra tông ngoạn mục tổng
thống vĩ đại của chúng ta đã về đích thứ hai tuyệt vời. Chúng tôi nghe nói rằng
Gorbachev cũng tham gia, nhưng ông ta về thứ hai so với người cuối cùng."
Một người đàn bà Anh
và cậu con trai trẻ của bà ấy đang đi trong taxi ở New York. Khi người lái xe
taxi xuống Phố 42, cậu con trai bị mê mải bởi các quí bà được trang điểm loè loẹt
đang đi dọc phố, mỗi chài người qua đường.
"Những cô kia
đang làm gì ạ?" cậu bé hỏi.
Mẹ nó ngượng ngùng và
nói, "Mẹ nghĩ rằng họ bị lạc và đang hỏi mọi người về hướng đi."
Người lái taxi nghe lỏm
được điều này và nói lớn, "Sao bà không bảo nó sự thật? Nói cách khác họ
là gái mãi dâm."
Người đàn bà Anh bực
bội và con trai bà ấy hỏi, "Gái mãi dâm là gì? Họ có giống đàn bà khác
không? Họ có con không?"
"Tất nhiên
có," mẹ nó đáp lại, "đó là nơi người lái taxi ra đời!"
Ba cô gái Cơ đốc giáo
muốn tham gia vào một nữ tu viện, nhưng đó là một phẩm chức rất nghiêm ngặt cho
nên các cô gái phải trải qua cuộc phỏng vấn trước khi họ được chấp nhận.
Mẹ Tối cao gọi cô gái
thứ nhất tới và hỏi cô ấy, "Con sẽ làm gì nếu con bị một người đàn ông dừng
lại trong đêm tối?"
"Con sẽ quì xuống
và cầu nguyện Jesus," cô gái đáp. "Tốt," xơ trưởng quay sang cô
gái thứ hai. "Còn con sẽ làm gì?"
"Con sẽ kêu lên
và la hét xin cứu giúp," cô gái đáp lại. "Tốt," Mẹ Linh thiêng
quay sang cô gái cuối trông rất trẻ trung và hồn nhiên. "Và con sẽ làm gì,
con yêu?"
"Con sẽ kéo quần
của người đó xuống," cô gái đáp lại. "A, con yêu!" Mẹ Tối cao
kêu lên gần như trong cơn ngất. "Và thế rồi con sẽ làm gì?"
"Con sẽ kéo váy
lên," cô bé đáp.
"Jesus Christ,
xin cứu chúng con!" xơ già càu nhàu. "Và thế rồi sao?"
"Thế rồi,"
cô gái nói, "Con sẽ chạy như ma đuổi!"
Bây giờ, nhắm mắt lại.
Trong hai phút chỉ
tuyệt đối tĩnh lặng, dường như đông cứng.
Thảnh thơi...
Được rồi, quay lại đi.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Osho.
Xem Tiếp Chương 16 - Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá