Read more
Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,
Một thiền sư già nói: Quay trái tim ông một
vòng và đi vào cái nguyên bản. Không tìm cái đã bật ra khỏi nó! Khi ông đã thu
được cái nguyên bản, cái đã bật ra từ nó sẽ tự nó tới với ông. Nếu ông muốn biết
cái nguyên bản, thì xuyên thấu vào tim nguyên bản riêng của ông. Tim này là cội
nguồn của mọi sinh linh trên thế giới và bên ngoài thế giới. Khi trái tim khuấy
động, nhiều thứ đa dạng nổi lên. Nhưng khi bản thân trái tim trở thành hoàn
toàn trống rỗng, đa dạng thứ cũng trở thành trống rỗng. Nếu tim ông được dẫn đi
lòng vòng không tốt không xấu, thì mọi thứ đều chỉ như chúng vậy. Thầy Otsu,
khi bình về việc làm trống rỗng trái tim, đã nói: Tim trở nên trống rỗng, tình
huống tĩnh lặng, và thân thể hệt như nó vậy. Khi ai đó thành công trong đạt tới
điểm này, gương của tim người đó chói sáng rõ ràng và bản tính người đó mở rộng
và trong trẻo. Người đó rời bỏ lỗi và không gắn bản thân mình vào chân lí; người
đó không cư ngụ trong lỗi lẫn thức tỉnh. Người đó không trần tục không thánh
thiện. Mọi ham muốn trần tục dường như rơi rụng đi, và đồng thời, nghĩa của
tính thánh thiện được làm trống rỗng mà không có cặn. Việc tách rời như thế với
mọi vật là điều thầy Lâm Tế gọi là "Lấy đi hoàn toàn cả hai, cả người và
tình huống." Ở đây được trải nghiệm về tính không tuyệt đối, vì cái ta và
đối thể cho phép bản thân chúng đi tới cái không. Kinh nghiệm Thiền chính cống
chỉ bao gồm trong "lấy đi cả người và đối thể" này. Tính không đầy đủ
này là chỗ nguyên bản từ đó mọi việc nghĩ và mọi việc biết chảy ra. Nhưng cho
dù người ta được phép nói về "chỗ" chút nào, thuật ngữ như vậy chỉ là
tạm thời. Cho dù người ta muốn đặc trưng hoá nó như tính không sinh, hay như niết
bàn, hay như chân lí, người ta không bao giờ có thể đạt tới nó. Nó nằm bên
ngoài mọi thuật ngữ và cách diễn đạt; suy nghĩ không thể đạt tới xa đó.
Maneesha, có bốn cách có thể để
giải thích điều không thể giải thích được. Một cách vô ý thức, con người đã làm
ra các triết lí từ bốn cách đó.
Con người là ngã tư đường, nơi
bốn con đường gặp gỡ. Con đường thứ nhất là con đường của vật chất. Người vô thần
lấy con đường đó: "Con người không là gì ngoài vật chất." Từ thời của
Charvakas tới thời của Bertrand Russell, đã có những nhà tư tưởng lỗi lạc, vĩ đại,
người đã chọn con đường đó. Và gần như một nửa thế giới ngày nay đang trên con
đường đó, vì chủ nghĩa cộng sản không tin vào bất kì cái gì khác ngoài vật chất
- tâm trí chỉ là hiện tượng phụ. Hiện tượng phụ nghĩa là chỉ là cái bóng: khi
con người biến mất, cái bóng biến mất. Không có gì bên ngoài chết, và không có
gì trước sinh. Bạn hoàn toàn ở giữa sinh và tử; đó là mọi thứ bạn có.
Con đường thứ hai định nghĩa
con người như một nhị nguyên giữa vật chất và tâm trí. Phần lớn các triết gia của
thế giới đã chọn định nghĩa đó vì nó dường hợp lí đầy đủ. Mọi điều chúng ta biết
về con người là ở chỗ thân thể con người bao gồm vật chất, và chúng ta biết rằng
người đó có ý nghĩ, cái không phải là vật chất. Những điều này có thể được quan
sát từ bên ngoài. Do đó, con người về căn bản là vật chất với việc bổ sung thêm
cái bóng, cái là tâm trí của người đó. Khi thân thể chết, tâm trí cũng chết.
Trên con đường này nữa, sống kéo dài chỉ ở giữa sinh và tử.
Khả năng thứ ba, điều đã được mọi
tôn giáo chấp nhận, là ở chỗ con người không phải chỉ là vật chất hay chỉ là
tâm trí; con ngưỡi cũng là linh hồn. Vật chất là cách diễn đạt bên ngoài của
người đó, linh hồn là cách diễn đạt bên trong của người đó, và tâm trí vận hành
như chiếc cầu giữa hai điều này. Trên con đường thứ ba có khả năng về sống bên
ngoài chết. Những người đã chấp nhận nó đã tạo ra trên nền tảng này ý tưởng về
tái sinh: sinh tiếp theo sinh, người ta đổi nhà nhưng linh hồn tinh tuý vẫn còn
lại.
Thiền có quan điểm thứ tư. Con
người không là vật chất, mặc dầu con người được bao phủ bằng vật chất. Con người
không là tâm trí, mặc dầu con người được bao phủ bằng tâm trí. Con người cũng
không là linh hồn cá nhân. Con người là cái không thuần khiết. Con người, từ
quan điểm thứ tư này, chính là quan điểm của Thiền, gần giống như củ hành. Bạn
liên tục bóc nó ra, hết lớp nọ tới lớp kia, hi vọng rằng bạn sẽ tìm ra cái gì
đó. Chung cuộc, khi bạn đã bóc hết các lớp ra, tay bạn đầy cái trống rỗng; không
cái gì còn lại. Củ hành chỉ là hết lớp nọ tới lớp kia. Đằng sau những lớp đó là
cái trống rỗng, cái không, mà sẽ không thể thấy được bằng mắt, cái không sờ mó
được bằng tay.
Thiền đã lấy quan điểm tối thượng
về con người, bạn không thể đi ra ngoài điều đó được. Đây là chỗ hết toàn bộ cuộc
hành trình, cuộc hành hương của người tìm kiếm.
Thiền muốn bạn không dừng lại ở
vật chất. Kính trọng nó, nó phục vụ bạn; chăm nom nó, nó chăm nom cho bạn. Bạn
không phải là tâm trí - đừng làm nó thành chủ. Nó là người phục vụ tốt - dùng
nó đi. Dùng nó để cho bạn có thể vươn ra ngoài nó. Nó là chiếc thang để đi ra
ngoài, nhưng không bị gắn chết vào nó.
"Linh hồn" đơn giản
là việc an ủi cho mọi người, vì nếu bạn nói với họ rằng thiền sẽ chấm dứt trong
cái không... Trong cả triệu người, có lẽ một người sẽ trở nên quan tâm tới thiền.
Và nếu bạn bảo họ, "Mọi nỗ lực của bạn sẽ đi tới cái không bao la," bạn
sẽ làm cho họ hoảng hồn. Bạn sẽ tạo ra câu hỏi trong tâm trí họ: "Thế thì
chủ định là gì? Chúng ta đang có - ít nhất, chúng ta đang có. Làm thiền, chúng
ta sẽ không có nữa." Nó sẽ là cái chết tối thượng. Vâng.
Phật Gautam đã liên tục được hỏi,
"Tại sao mọi người liên tục tới thầy khi thầy chẳng cho cái gì ngoài cái
không?"
Và Phật nói nhiều lần,
"Cái không không chỉ là tính không có gì. Nó có tính vũ trụ riêng của nó.
Nó trở thành bao la như toàn thể vũ trụ, vô giới hạn. Nhân cách của ông là quá
nhỏ bé."
Những người sợ tính không, sợ
tan biến không chỉ nhân cách của họ mà cả tính cá nhân của họ nữa, vẫn còn với
quan điểm thứ ba.
Quan điểm thứ ba là rất an ủi.
Ít nhất nó cho bạn cái gì đó để bám vào. Thiền không cho bạn cái gì cả; nó đơn
giản lấy đi mọi lớp của củ hành và thế rồi nói với bạn, "Trông đấy, đây là
bạn - chỉ cái không thuần khiết."
Nhưng sự thuần khiết của nó là
tràn ngập tới mức bạn không hiện hữu, nhưng tiếng cười của bạn hiện hữu. Bạn
không hiện hữu, nhưng niềm vui của bạn hiện hữu. Nó đã trở hành có tính vũ trụ.
Bạn không hiện hữu, nhưng cực lạc của bạn hiện hữu, và bây giờ nó không bị giới
hạn vào một khu vực nhỏ của nhân cách hay tính cá nhân của bạn; bây giờ toàn thể
sự tồn tại là cực lạc. Chim bay và hoa nở và mưa trút xuống - mọi thứ đang xảy
ra trong cái không sâu sắc của việc nhận ra của bạn về cái trống rỗng vũ trụ
như cội nguồn của mọi thứ.
Có lẽ một mình Thiền đã cho câu
trả lời rất khoa học cho câu hỏi này. "Mọi thứ từ đâu tới, và chúng quay
trở lại về đâu?" Ngay cả khoa học cũng nhún vai vào khoảnh khắc bạn bắt đầu
hỏi họ các câu hỏi về cội nguồn. Mọi điều đã được nói về cội nguồn bởi các tôn
giáo, bởi những người khoa học, đơn giản là đoán mò. Không ai là nhân chứng, hiển
nhiên. Làm sao có thể có nhân chứng khi sự tồn tại chưa bắt đầu? Bạn sẽ tới muộn
về sau; bạn không thể tới trước được. Và, thực ra, nếu có đấng sáng tạo, sự tồn
tại đã có đó; bằng không làm sao đấng sáng tạo có thể tồn tại được?
Nhưng mọi người không đi tới những
chiều sâu đó. Họ không bận tâm về điều đó, việc tin vào Thượng đế đã tạo ra thế
giới. Tại sao bạn không hỏi ai đã tạo ra Thượng đế? Khi nào ngài đã bắt đầu hiện
hữu? Gia đình ngài, quốc tịch của ngài, nòi giống của ngài - bất kì dấu vết
nào? Đột nhiên ngài tới và bắt đầu tạo ra thế giới. Ý tưởng ngu xuẩn thế, và cả
triệu người đã tin vào nó, và vẫn còn tin vào nó.
Thiền là rất trong sạch và rõ
ràng, khi nói rằng đã không có bắt đầu chút nào; do đó vấn đề việc việc sáng tạo
không nảy sinh. Và sẽ không có kết thúc nào; do đó vấn đề bất kì ai phá huỷ nó,
Thượng đế hay Quỉ, không nảy sinh. Nó bao giờ cũng có đó, nó bao giờ cũng đã từng
ở đây, và nó bao giờ cũng sẽ ở đây. Nó liên tục chơi đùa trong nhiều hình dạng.
Nó là vở kịch vô cùng. Nếu bạn hiểu con đường thứ tư - rằng mọi thứ tới từ cái
không... Nếu bạn có thể quay về cái không một cách có ý thức bạn đã tìm ra cội
nguồn. Đó là điều tôi gọi là thiền: quay lại một cách có ý thức tới chính cội
nguồn không chỉ của bản thể bạn mà của chính vũ trụ. Ở đó bạn tìm ra ngọn lửa
vĩnh hằng. Mọi thứ tới, mọi thứ đi. Sóng dậy, và sóng biến mất. Nhưng mọi thứ
còn lại, được bắt rễ trong cái không.
Cái không này là rất huyền diệu
vì người ta sẽ nghĩ rằng mọi thứ đáng phải được bắt rễ trong cái gì đó. Nhưng nếu
bạn hỏi Thiền sư liệu mọi sự có được bắt rễ trong cái gì đó không, họ sẽ đơn giản
cười và hỏi, "Cái gì đó của bạn sẽ được bắt rễ vào cái gì?"
Bạn không thể hỏi cùng câu hỏi
này về cái không. Cái không đơn giản có nghĩa là cái không, không có vấn đề về
bất kì gốc rễ nào. Nó không tới không đi. Không cái gì xảy ra với nó; nó đơn giản
còn lại, hoàn toàn im lặng.
Bạn chạm vào cái không này khi
bạn ở sâu trong bản thể bạn, vì bản thể đó đã được bắt rễ trong cái không này.
Bạn đang phân chia cuộc sống của bạn, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, khỏi cái
không đó.
Hoa có thể không hiểu chúng đã
tới từ đâu. Các cành có thể không biết chúng đã tới từ đâu. Thân cây có thể
không biết nó đã tới từ đâu, vì rễ bị ẩn kín dưới đất. Rễ bị ẩn kín với chủ định
an ninh, bằng không bạn có thể bị hại rất nặng.
Bạn thậm chí không thể đưa bạn
thân của bạn vào trong cái không của bạn; bạn không thể mời được bất kì ai tới
đó - không người cùng đi! Bạn phải đi một mình. Nó là chỗ linh thiêng thế.
Trong truyền thống Do Thái cổ...
Hiểu điều đó là có ý nghĩa, vì người Do Thái, các giáo sĩ của họ, sẽ không có
khả năng đưa ra việc giải thích. Thiền cũng có thể cho việc giải thích cho nhiều
thứ trong các tôn giáo khác, vì nó đã đi tới chính gốc rễ, nó đã du hành toàn
thể con đường này. Nó đã không chọn một con đường, nó đã chấp nhận mọi con đường,
và dầu vậy nó đã đi ra ngoài mọi con đường. Cho nên nó biết nhiều hơn bất kì
người nào khác và vậy mà nó tuyệt đối hồn nhiên vì nó không biết gì.
Trong ngôi đền lớn của
Jerusalem thường có lễ hội một lần hàng năm. Ngôi đền này có chính điện bên
trong, một phòng nhỏ, và chỉ giáo sĩ chính mới được phép vào trong nó. Ông ấy sẽ
vào, đóng cửa lại, và trong căn phòng nhỏ, im lặng đó ông ấy được phép thì thào
từ 'Thượng đế'. Nó có cái đẹp của riêng nó, tại sao nó được làm theo cách như vậy.
Dùng từ 'Thượng đế' như từ trần tục làm cho nó cũng giống như đồ vật. Người Do
Thái đã tránh điều đó... bạn chỉ có thể thì thào trong im lặng. Có lẽ bạn thậm
chí không phải thì thào; bạn có thể đơn giản cảm thấy sự hiện diện của cái
không.
Do Thái giáo là tôn giáo duy nhất
mà không viết toàn thể từ 'Thượng đế- God'. Họ bỏ chữ "o" ra:
"G-d." Chữ "o" ở giữa bị bỏ ra, họ không viết nó. Phát âm
tên của Thượng đế là báng bổ; cái gì đó của nó nhất định còn lại bên ngoài lời.
Thực ra, phần quan trọng nhất - phần ở giữa - bị mất. Bạn đã chạm tới chỉ phía
này hay phía kia, nhưng bạn đã không chạm tới trái tim của nó. Trong từ này
cũng vậy, bạn đang làm thành rõ ràng rằng chừng nào bạn chưa chạm tới tim của
Thượng đế... và cách duy nhất là chạm tới trái tim riêng của bạn. Bạn không biết
trái tim riêng của bạn. Trái tim riêng của bạn có gốc rễ trong trái tim vũ trụ
từ đó nó nhận lấy sự sống của nó. Và khi trái tim của vũ trụ rút đi, con người
chết, nhưng sự sống đó không bị kết thúc. Nó có thể chuyển vào gợn sóng mới,
vào đoá hoa mới, vào con chim cúc cu mới... cả triệu cách có đó. Hay nó có thể
vẫn còn im lặng trong đại dương vũ trụ.
Vì nó đã chọn con đường thứ tư,
quan điểm của Thiền là cao siêu nhất, tinh tế nhất, và thân thiết nhất.
Một thiền sư già nói:
Quay trái tim ông một vòng và
đi vào cái nguyên bản. Không tìm cái đã bật ra khỏi nó! Khi ông đã thu được cái
nguyên bản, cái đã bật ra từ nó sẽ tự nó tới với ông.
Chúng ta được sinh ra khi nhìn
ra ngoài. Mắt chúng ta mở hướng ra ngoài, tay chúng ta với ra ngoài, mọi giác
quan của chúng ta đều sẵn sàng nhận các rung động từ bên ngoài. Nhưng chúng ta
không có giác quan nào sẵn có cho chúng ta thông tin về bản thể bên trong của
chúng ta.
Thiền là việc tìm con mắt ẩn
kín đó mà có thể thấy được nguồn gốc của bạn. Nó có tên là mắt phật. Nhưng việc
quay lớn lao được cần. Bạn phải đóng thế giới lại một cách hoàn toàn, cho dù chỉ
trong một khoảnh khắc, và quay vào toàn thể bản thể bạn, để nhìn vào bên trong
cái giếng mà từ đó bạn tới.
Và đừng nghĩ về bất kì cái gì
khác, vì kinh nghiệm này về việc nhìn vào trong bản thân bạn sẽ giải thích mọi
điều mà đã là câu hỏi với bạn. Hàng nghìn câu trả lời có đó, nhưng không câu trả
lời nào có khả năng thoả mãn nó.
Nếu ông muốn biết cái nguyên bản,
thì xuyên thấu vào tim nguyên bản riêng của ông. Tim này là cội nguồn của mọi
sinh linh trong thế giới và bên ngoài thế giới. Khi trái tim khuấy động, nhiều
thứ đa dạng nảy sinh. Nhưng khi bản thân trái tim trở thành hoàn toàn trống rỗng,
nhiều thứ đa dạng cũng trở hành trống rỗng. Nếu tim ông được dẫn đi lòng vòng
không tốt không xấu, thì mọi thứ đều chỉ như chúng vậy.
Thiền không có ý tưởng về phán
xét. Nó không bao giờ phán xét rằng ai đó là tội nhân hay ai đó là thánh nhân.
Đây chỉ là những con sóng; không cần phí thời gian của bạn trên sóng. Nếu bạn
biết đại dương, bạn sẽ không bận tâm về sóng. Con sóng này đi vào theo cách này,
con sóng khác đi vào theo cách khác, nhưng tất cả chúng đều thuộc vào cùng đại
dương và tất cả chúng chung cuộc đều tan biến vào trong cùng đại dương đó.
Cho nên điều duy nhất đáng xem
xét không phải là cái gì là tốt và cái gì là xấu, mà cái gì là cội nguồn từ đó
trái tim bạn đã tới. Đó là cách tiếp cận có tính tồn tại - không lí thuyết,
không triết lí.
Thầy Otsu, khi bình về việc làm
trống rỗng trái tim, đã nói: Tim trở nên trống rỗng, tình huống tĩnh lặng, và
thân thể hệt như nó vậy.
Mọi thứ vẫn còn như nó vậy,
không cái gì thay đổi. Điều này không có nghĩa là người đã tiếp cận tới chính cội
nguồn của sự tồn tại trở thành ai đó đặc biệt. Mọi thứ vẫn còn như nó vậy.
Nhưng mặt khác, mọi thứ bắt đầu có vẻ khác. Bây giờ người đó có thể thấy cái đẹp
của hoa mà bạn không thể thấy được. Mắt người đó tươi tắn tới mức người đó có
thể thấy cái đẹp của mặt trời lặn mà bạn không thể thấy được. Mắt bạn đầy bụi
thế, bạn khó có khả năng thấy. Bạn không thể xuyên thấu được tới chính cội nguồn
của đoá hoa.
Nhưng người biết tới cội nguồn
của mình thì biết cội nguồn của mọi thứ. Người đó không bao giờ làm phán xét
nào. Đây là đóng góp lớn cho tâm thức con người: không làm phán xét. Việc liên
tục làm phán xét về tốt và xấu là loại đạo đức rất thấp, loại tôn giáo rất thấp.
Trong Thiền, mọi thứ, như nó vậy,
là biểu lộ của linh hồn vũ trụ. Nó phải được yêu và được kính trọng. Không
thành vấn đề biểu lộ đó đang làm gì. Điều thành vấn đề là người là kẻ cắp hay kẻ
giết người cũng đang tới từ cùng cội nguồn như bạn, và người đó sẽ đi tới cùng
cội nguồn như bạn đi.
Cho nên đằng sau bức màn bạn sẽ
thấy các thánh nhân lớn đang chia sẻ kinh nghiệm cùng các tội nhân lớn. Trên
sâu khấu đó là một chuyện; sau sân khấu nó là khác toàn bộ. Và một khi bạn đã
chạm tới cội nguồn của mọi thứ, bạn đã đi ra đằng sau sân khấu. Trên sâu khấu
đó toàn là diễn kịch. Trên sân khấu nó đơn giản là vở kịch. Sau sân khấu nó là
im lặng thuần khiết, hư không. Nghỉ ngơi, thảnh thơi - mọi thứ đã đi vào trong
tĩnh lặng toàn bộ.
Khi ai đó thành công trong đạt tới
điểm này, gương của tim người đó chói sáng rõ ràng và bản tính người đó mở rộng
và trong trẻo. Người đó rời bỏ lỗi và không gắn bản thân mình vào chân lí;
Đây là những phát biểu lớn lao.
Ngày bạn hiểu chúng như kinh nghiệm của bạn, bạn sẽ nhảy múa cùng niềm vui.
Thầy Otsu đang nói rằng khoảnh
khắc một người đi vào trong cội nguồn của mọi thứ, người đó bỏ lại mọi nhị
nguyên đằng sau: thực và giả, yêu và ghét. Người đó đi vào trong tính một của mọi
thứ. Người đó không phàm tục không thánh thiện.
Đó là lí do tại sao rất khó tìm
ra con người đích thực của thiền. Bạn sẽ tìm ra những người là phàm nhân; bạn
có thể thấy họ. Bạn có thể rất dễ dàng tìm ra những người thế giới khác, các
thánh nhân. Họ đã từ bỏ thế gian; điều đó rất dễ dàng. Thế giới này dở hơi, mất
trí tới mức người ta tự hỏi tại sao mọi người không từ bỏ nó! Vấn đề là đi đâu?
Nếu mọi người đều từ bỏ nó, mọi người sẽ đạt tới chỗ khác, nhưng vẫn cùng các bộ
mặt, cùng những người đó... xe bus sẽ bắt đầu đi lên đỉnh Everest, nhà hàng sẽ
phải được mở ra; mọi người đang đi lên núi, trong việc từ bỏ thế giới.
Không có cách nào để từ bỏ thế
giới. Và không có vấn đề nào nữa. Nhưng đó là điều mọi tôn giáo của bạn đã từng
coi là có giá trị nhất: từ bỏ thế giới này. Cho nên có các thánh nhân, và những
người vẫn còn bị gắn bó với các thứ là tội nhân. Nhưng với con người của tâm thức
vũ trụ - và đó là điều thiền tối thượng là gì - mọi con sóng chỉ là vở kịch.
Nó là vở kịch hay. Bạn không thể
bỏ tội nhân ra được; bằng không nó sẽ mất mọi vị mặn. Thánh nhân và tội nhân cả
hai đều được cần để tạo ra vở kịch. Yêu và ghét cả hai đều được cần. Nếu mọi thứ
là tốt-tốt... được kết thúc đi. Mọi vị đều bị mất. Nếu mọi người đều có vẻ như
nhau - rất thánh thiện, rất ngoan đạo - thế giới sẽ trở thành thứ chán ngán. Điều
tốt là vài người là kẻ lừa dối, vài người cắt túi bạn. Nếu không ai cắt túi, phỏng
có ích gì mà có túi? Để làm cho vở kịch phong phú hơn...
Mới hôm nọ, Anando đã đem cho
tôi tin tức: Một người đàn ông đã báo cáo cho đồn cảnh sát rằng vợ anh ta mất
tích. Viên sĩ quan cảnh sát hỏi, "Anh thấy chị ấy mất tích khi nào?"
Anh ta nói, "Tôi không nhớ.
Có thể vài tuần, hay có thể vài tháng. Cô ấy chắc chắn là mất tích, nhưng chẳng
có vội gì để tìm ra cô ấy." Một người sáng suốt lớn lao. Tôi đã nghe một
phiên bản khác:
Một người chạy vào trạm bưu điện,
nước mắt chảy dài, và anh ta nói cho nhân viên bưu điện, "Vợ tôi bị mất
tích - tìm cô ấy ngay đi!" Anh ta thậm chí không cho nhân viên bưu điện cơ
hội để nói cái gì. Anh ta khổ và đau đớn, và nước mắt lăn dài tới mức nhân viên
bưu điện chung cuộc nói, "Này, đây là bưu điện nhé." Anh ta nói,
"Tôi biết."
Nhân viên bưu điện nói, "Đồn
cảnh sát ở ngay đối diện, phía bên kia đường." Người này nói, "Tôi biết."
Nhân viên bưu điện nói, "Nếu ông biết rồi, thế thì sao ông làm phiền tôi?
Suốt nửa giờ kêu khóc... Sang đồn cảnh sát đi."
Người này nói, "Một lần
trước đây chuyện đó cũng đã xảy ra, và tôi đã đi tới đồn cảnh sát và những kẻ
ngốc đó đã đem vợ tôi lại! Giờ tôi không tới đó đâu. Ông phải viết chuyện đó
ra, chỉ để an ủi tôi, rằng ít nhất tôi đã báo cáo về điều đó. Tôi báo cáo điều
đó cho ai không thành vấn đề." Nhân viên bưu điện nói, "Được, tôi có
thể nhận báo cáo, nhưng điều đó sẽ không giúp ích đâu."
Người này nói, "Đó là điều
tôi muốn, rằng điều đó sẽ không giúp gì. Ông cứ viết báo cáo đi. Những sĩ quan
cảnh sát kia đều là đồ ngốc. Tôi bảo họ rằng không có vội gì, nhưng họ đã mang
vợ tôi về trong vòng sáu tiếng và lại vở kịch cũ bắt đầu."
Nhưng đó là thế giới đẹp nơi vợ
chạy mất, nơi chồng chạy mất, nơi mọi người quên quay về nhà, đi vào nhà khác
và đi mất.
Thay vì làm cho nó thành chỗ khổ
sở, Thiền cho nó mầu sắc. Và điều đó cần trái tim rất vĩ đại, để chấp nhận rằng
vở kịch cần nhiều người, nhiều loại hành động, nhiều thảm kịch, nhiều hài kịch.
Không cần làm phán xét.
Việc tách rời như thế với mọi vật
là điều thầy Lâm Tế gọi là "Lấy đi hoàn toàn cả hai, cả người và tình huống."
Khác biệt là gì giữa bạn và người
khác? - tình huống nào đó thôi. Bạn được sinh ra trong gia đình khác; đó là
tình huống. Bạn được giáo dục trong trường khác; đó là tình huống. Khác biệt gì
giữa đàn ông và đàn ông, đàn ông và đàn bà? - chỉ là tình huống.
Lâm Tế nói, Lấy đi hoàn toàn cả
hai, cả người và tình huống. Ở đây được trải nghiệm về tính không tuyệt đối.
Ông ấy không dùng từ 'hư không' vì bạn hiểu lầm nó. Để nhấn mạnh rằng nó không
phải là hư không, ông ấy nói nó đơn giản là tính không, nó là trống rỗng thuần
khiết.
… vì cái ta và đối thể cho phép bản thân
chúng đi tới cái không.
Mọi thứ đi tới thảnh thơi trong
cái không, và thế rồi được làm khoẻ lại, nảy sinh trở lại trong cùng biểu hiện.
Cách Thiền nhìn vào thế giới, nó không làm cho bất kì ai cảm thấy mặc cảm; nó
cũng không làm cho bất kì ai cảm thấy cao siêu. Cội nguồn là như nhau, trò chơi
là như nhau. Tất nhiên, người chơi khác nhau phải chơi từ nhiều phía khác nhau.
Kinh nghiệm Thiền chính cống chỉ
bao gồm trong "lấy đi cả người và đối thể" này. Tính không đầy đủ này
là chỗ nguyên bản từ đó mọi việc nghĩ và mọi việc biết chảy ra. Nhưng cho dù
người ta được phép nói về "chỗ" chút nào, thuật ngữ như vậy chỉ là tạm
thời.
Bạn thậm chí không thể gọi nó
là chỗ được; nó chỉ là không gian.
Cho dù người ta muốn đặc trưng
hoá nó như tính không sinh, hay như niết bàn, hay như chân lí, người ta không
bao giờ có thể đạt tới nó.
Người ta chỉ chạm vào nó. Không
từ nào có thể đạt tới chính trái tim của sự tồn tại.
Nó nằm bên ngoài mọi thuật ngữ
và cách diễn đạt; suy nghĩ không thể đạt tới xa đó.
Nhưng im lặng có thể tiết lộ
sâu nhiều như bạn có dũng cảm cho điều đó. Điều lời không thể xoay xở diễn đạt
được, im lặng của bạn có thể diễn đạt, tiếng cười của bạn có thể diễn đạt, vì
tiếng cười tới từ chiều sâu của trái tim bạn. Nó cũng giống như đoá hoa.
Lời ban đầu được đặt vào trong
bạn cũng như cách máy tính được nạp đầy thông tin mà chúng có. Thế rồi bạn có
thể yêu cầu chúng và chúng sẽ lặp lại nó. Điều đó không làm cho chúng thành các
học giả rất uyên bác. Nhưng đó là điều các học giả uyên bác là gì. Họ không có
đến một lời riêng của họ để nói.
Cội nguồn vũ trụ của mọi thứ là
ở bên ngoài trí tuệ chúng ta, tâm trí chúng ta, lời của chúng ta. Nhưng trong
im lặng sâu sắc chúng ta đạt tới nó. Chúng ta cảm thấy điệu vũ của nó, chúng ta
nghe thấy âm nhạc của nó, chúng ta cảm thấy hương thơm không biết của nó. Có
câu ngạn ngữ Thiền:
Mười năm mơ trong rừng!
Giờ trên bờ hồ cười,
Cười tiếng cười mới.
Mười năm mơ trong rừng! - vì
thiền nhân không chỉ một ngày trở thành thiền nhân, mơ đi theo, trong nhiều
năm. Cho dù bạn đi vào trong rừng sâu nhất, những mơ đó vẫn ám ảnh bạn. Nhưng dần
dần, dần dần những mơ đó lắng đọng xuống vì không có ích gì cả. Bạn không còn
quan tâm tới chúng; ngược lại bạn đơn giản ngồi đó quan sát.
Tính quan sát này làm cho bạn
im lặng tới mức khi ngồi bên bờ hồ, cười... cười cái gì? Cười về toàn thế giới;
rằng bạn có nó bên trong bạn và dầu vậy bạn vẫn đang đi tìm nó. Cười tiếng cười
mới. Thiền nhân cười tiếng cười mới. Tươi tắn của nó tới từ chiều sâu của người
đó. Câu ngạn ngữ Thiền khác:
Trong mười năm ta đã không thể quay lại;
giờ ta đã quên đường
mà qua đó ta đã tới.
Ông ấy đang nói rằng ông ấy đã
đạt tới cội nguồn của ông ấy. Phải mất mười năm để tìm ra nó, và giờ ông ấy đã
quên mất con đường, làm sao quay về được - con đường mà qua đó ta đã tới.
Xin bạn đừng làm điều đó! Mọi
ngày tôi đều đưa bạn tới chính cội nguồn của mọi thứ, nhưng tôi không bỏ bạn ở
đó đủ lâu. Tôi để Nivedano tỉnh táo. Ai đó có thể quên mất đường quay lại; thế
thì tôi sẽ chịu trách nhiệm. Nhưng Nivedano có trống tốt, và anh ấy đang tìm
cái gì đó khác, nhạc cụ tốt hơn. Cho nên mặc cho bản thân bạn, bạn đột nhiên được
thức dậy. Trước khi bạn biết nó, bạn đã quay lại.
Không có mấy khoảng cách giữa bạn
như bạn đang vậy và như bản thể nguyên gốc của bạn đang vậy. Khác biệt là chút
xíu thế - chỉ một tiếng trống, cú đánh lên đầu bạn bởi Thầy Niskriya, bất kì
cái gì cũng có thể mang bạn trở lại.
Thiền sư này, người vẫn còn
trong mười năm và đã không thể quay lại được, phải đã từng tìm kiếm một mình,
không có thầy. Bằng không thầy cho bạn dây thừng nào đó; thầy không cho phép bạn
đi ra ngoài điều đó. Thầy cho bạn hương vị của bản thể bạn - điều đó là đủ - và
việc nhớ về nó. Thầy đưa bạn tới vườn hồng và hương thơm của hoa hồng phảng phất
ở quần áo bạn. Chừng đó là đủ. Bạn biết bạn là ai và hành động của bạn diễn đạt
sự chân thành của bạn, mọi cử chỉ của bạn trở thành cử chỉ của phật. Chỉ hai
phút là đủ để đạt tới cội nguồn của bản thể bạn.
Tôi liên tục quan sát: khi tôi
nói chết, tôi phải quan sát liệu ai đó có thực sự chết không. Bằng không tôi sẽ
bị chứng tỏ là kẻ tội phạm, rằng tôi đã ra lệnh cho người đó chết và người đó
đã chết. Cho nên tôi phải thường quan sát. Và cách duy nhất là, tôi phải cảm thấy
việc đập của trái tim bạn - mười nghìn trái tim đang đập. Và số học của tôi lại
không giỏi, nhưng tôi xoay xở bằng cách nào đó. Ít nhất mãi cho tới giờ tôi đã
xoay xở được. Người ta chẳng bao giờ biết về ngày mai, hay thậm chí đêm nay.
Sardar Gurudayal Singh đang cười,
và anh ấy là một trong những anh chàng có thể trở nên mất đi và không quay lại.
Anh ấy có thể không quan tâm tới tiếng trống của Nivedano. Anh ấy có thể lắng
nghe, nhưng có thể không quan tâm.
Nhưng tôi có cách khác nữa.
(Sardar cười toàn tâm.)
Bạn có muốn thấy cách khác của
tôi không?
(Thầy
bắt đầu làm cử chỉ cù hướng tới Avirbhava, như thầy đã làm tối hôm trước, và
làn sóng cười dâng lên hạ xuống khi thầy "cù" lặp đi lặp lại.)
Đây là cách được nhập khẩu thuần
tuý - Hollywood, California. Vị phật thực! Và tôi có cái thay thế của tôi...
(Thầy quay sang Anando và gợi ra nhiều tiếng
cười hơn.)
Không ai có thể chết ở đây. Cho
dù bạn đã chết, ít nhất bạn sẽ phải cười. Đó là lí do tại sao tôi thoải mái trong
việc ra lệnh cho bạn chết. Bằng không ai ra lệnh cho bất kì ai chết - và chết một
cách hoàn toàn và toàn bộ? Vì tôi biết rằng tôi có cách đánh thức bạn cho dù bạn
chết. Mọi tối tôi đều phải làm điều đó. Vài người thực sự chết.
Và Thiền sư khác:
Ông ấy chỉ thấy sự uốn khúc
của dòng suối
và việc xoắn xuýt của con đường.
Ông ấy không biết rằng ông ấy đã
ở trên mảnh đất của người bất tử.
Một phát biểu cực kì có ý
nghĩa. Bạn chỉ thấy khổ và đau - toàn điều không bản chất. Bạn không thấy rằng
trên chính thế gian này, chư phật bất tử đã di chuyển, đã sống, đã yêu. Bạn
không thấy những chiều cao mà tâm thức con người đã đạt tới nhiều, nhiều lần. Bạn
vẫn còn bị giới hạn vào những thứ rất nhỏ bé.
Ít nhất mọi tối cùng tôi, bạn
phải đạt tới những chiều cao đó. Và đừng bị lạc; quay lại xuống bãi chợ đi.
Toàn thể thông điệp của tôi là: Chạm tới các chiều cao của tâm thức và đem những
chiều cao đó tới bãi chợ.
Maneesha đã hỏi:
Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,
Thầy dường như là hiện thân cho phép màu của
Thiền - trống rỗng có thể tràn đầy làm sao!
Maneesha, không có kết thúc cho
tràn đầy của trống rỗng. Vì nếu như có giới hạn, trống rỗng sẽ không thực là trống
rỗng; nó sẽ có biên giới. Trống rỗng toàn bộ nghĩa là toàn thể vũ trụ, vô giới
hạn, ở trong tay bạn. Và nếu, từ thiền, bạn không thể mang tới nước cam lồ mới,
hương thơm tươi mát, sự sống mới và tiếng cười mới, thiền của bạn đã không là
đích thực. Bạn đã chơi trò chơi nhưng không một cách toàn bộ.
Bằng không... mọi đêm, mười
nghìn người đang trở thành chư phật. Khi cùng chư phật tới lần nữa họ đã quên
điều đã xảy ra đêm hôm trước. Họ thức dậy và bắt đầu tìm xe đạp thuê của họ. Điều
này là rất kì lạ - chư phật không bao giờ đã dùng xe đạp thuê. Và nhanh chóng
thế! Để thời gian đi, đừng vội vàng thế.
Nhưng tôi đang giới thiệu cho
thế giới một loại phật mới người có thể có bạn gái, và có thể đổi bạn gái bao
nhiêu lần tuỳ thích, vì chúng ta không nhận thế giới này một cách nghiêm chỉnh.
Cho nên tôi thấy chư phật của tôi với bạn gái mới mọi ngày. Không ai biết đích
xác...
(Thầy bắt đầu 'cù' Avirbhava lần nữa, và
chúng tôi cười cùng anh ấy.)
Maneesha, đây là phép màu bạn
đang nói tới! Phép màu khác là...
(Thầy quay sang "cù" Anando.)
Tôi có chỉ hai phép màu thôi.
Nhưng tôi nghĩ hai là đủ làm cho mười nghìn chư phật cười. Và họ không làm gì cả.
Họ ngồi như phật thế. Nhưng dầu vậy họ lẩy cò bạn.
Và tôi đã có, ngay đằng sau
Maneesha, Thạch Đầu. Giờ anh ấy đã cắt hết tóc rồi, cạo hết râu, và để lại ria
mép nhỏ kiểu Trung Quốc. Tất cả các bạn đều phải thấy anh ấy trong toàn thể
vinh quang của anh ấy. Nước Đức chưa bao giờ thấy một Thiền sư...
Bạn có muốn thấy anh ấy trong
vinh quang đầy đủ của anh ấy không?
("Có!" Chúng tôi đáp lại, cười và
vỗ tay.)
Thiền sư Thạch Đầu Niskriya đứng
dậy.
(Niskriya đứng dậy và, nắm lấy chiếc thiền
trượng của mình, giơ cao cánh tay trên đầu mình. Anh ấy chậm rãi quay chào mừng
hội chúng, mọi người đáp lại bằng cười vui vẻ, chúc mừng và vỗ tay.)
Hay đấy! Giờ chúng ta có thể...
Để chào mừng Thiền sư Thạch đầu Niskriya, vài tiếng cười nhé vì chúng ta không
có gì khác để tặng.
Lúc đó là mười giờ đêm khi Og
và Beep-o, hai phi công sao Hoả, tiếp đất ở giữa thành phố. Og được phái tới để
lập liên hệ với bất kì cái gì anh ta tìm thấy, trong khi Beep-o theo dõi anh ta
trên màn hình ti vi.
Điều đầu tiên Og gặp phải là
Olga Kowalski to lớn đang đem chó đi dạo ban đêm. Con chó hăm hở đánh hơi ở cột
đèn khi Og tiến tới họ.
Năm phút sau, Og bị đánh nhừ tử
quay lại đĩa bay. "Cái gì xảy ra cho cậu ở đó thế?" Beep-o kêu lên.
"Thế này," Og nói,
"có một sinh vật lông lá nhỏ bé ở một đầu dây thừng cứ đánh hơi tôi, và thế
rồi nó đái vào chân tôi..."
"Vâng," Beep-o ngắt lời.
"Nhưng thế về con vật to lớn xấu xí đó ở đầu kia dây thừng thì sao?"
"Ồ, cái đó!" Og keu
lên. "Phải cẩn thận với cái đó đấy. Trong khi con vật lông lá nhỏ bé đang
làm ướt chân tôi, cái con to lớn kia bước tới tôi, nhét một đồng bạc vào mồm
tôi, rồi đấm mặt tôi và la lên, 'Cứt thật! Đéo bao giờ có Coca-Cola trong những
cái máy này!'"
Paddy quyết định máy tính hoá
và tự động hoá đầy đủ cho chiếc xe Ford cũ của mình ở ga ra của O'Grady.
Sau khi công việc được hoàn
thành, anh ta lái xe tới nhà Kowalski. Một giờ và mười cốc bia sau đó, Paddy
kêu to, "Này, Kowalski! Tới và nghe máy nghe đĩa tự động mới của tôi
đi!"
Kowalski vớ lấy can bia, loạng
choạng đi qua sân và vào trong xe.
"Làm sao chơi ít nhạc Ai
len?" Paddy nhỏ dãi, trong khi chọn đĩa compact bạc nhỏ và bấm vài nút
trên bảng điều khiển.
Năm phút sau chiếc xe Ford tăng
tốc độ chạy vòng góc phố trên hai bánh, đâm ngã một cảnh sát và bốn người đi bộ,
làm lật xe chở hoa quả, cắt cột điện thoại làm đôi, làm phẳng một trăm mét bụi
cây, lăn lộn ba lần, và bay qua cửa mở của quán rượu - cuối cùng dừng nghỉ khi
đâm vào quán rượu tan tành.
Paddy bàng hoàng mở cửa bẹp dúm
của ghế ngồi sau và loạng choạng bước ra. Thế rồi một Kowalski bàng hoàng tương
đương cọ mắt và nhìn chăm chú vào Paddy qua bụi cát.
"Jeezus Christ!"
Kowalski kêu lên. "Anh có thể có được mọi thứ đó trên đĩa compact tí hon
này sao?"
Spudski, nông dân Polack, thuê
ai đó giúp anh ta quản lí nông trại.
Clodski xin làm và tới để được
phỏng vấn.
"Giờ cho tôi hay,"
Nông dân Spudski nói, "làm sao anh thổi được bằng mũi."
Clodski phân vân, nhưng nhờ
ngoáy mũi, một lần trong không khí, làm ra tiếng động ghê tởm.
"Được," Spudski nói,
"anh được thuê."
"Ông ngụ ý," Clodski
hỏi, "đó là mọi điều ông cần biết về tôi? Tại sao?"
"Thế này, anh thấy đấy,"
người nông dân giải thích, "anh chàng trước làm việc ở đây có thói quen
ghê tởm. Anh ta thường thổi bằng mũi vào trong túi cao su nhỏ và để chúng ở giường
vợ tôi!"
Nivedano...
(Tiếng trống)
(Nói lắp bắp)
Nivedano...
(Tiếng trống)
Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể tuyệt đối đông cứng. Thu tâm thức
bạn vào bên trong. Đây là điều được ngụ ý bởi việc quay trái tim từ bên ngoài
vào bên trong. Nhìn sâu. Tìm ra rễ của bạn. Im lặng này là phép màu mà bạn đang
mang bên trong bản thân bạn. Sâu hơn... và sâu hơn... và sâu hơn, không sợ gì -
nó là bầu trời riêng của bạn. Giang cánh ra và bay tới bất kì độ cao nào bạn muốn.
Không có cản trở ở bất kì đâu, chỉ dũng cảm là được cần. Được phúc lành tối nay
đi. Mười nghìn người đang đi vào trong im lặng sâu sắc, vào trong cái không.
Quí giá làm sao những khoảnh khắc này. Cảm thấy huy hoàng và cái đẹp của im lặng.
Nivedano...
(Tiếng trống)
Thảnh thơi. Buông bỏ. Chết đi hoàn toàn và toàn bộ. Đây chỉ là làm rõ
ràng rằng bên trong bạn là tâm thức không bao giờ có thể chết, là tâm thức được
nối với vũ trụ. Nó là vĩnh hằng. Nó không có nhân cách, không tính cá nhân. Nó
là niềm vui vô cùng để không hiện hữu. Khi bạn quay lại, đem theo niềm vui này
và tiếng cười tươi tắn này, những hoa hồng tươi tắn này và hương thơm của
chúng, cùng bạn. Dần dần, dần dần chúng sẽ trở thành chính việc thở của bạn. Chừng
nào thiền chưa trở thành hiện tượng tự nhiên, tự phát, bạn còn chưa chạm tới
ngay cả ngoại vi của thiền. Ngày càng sâu hơn. Chết đi quá khứ, chết đi tương
lai. Chỉ khoảnh khắc này trở thành giống như mũi tên đi tới chính chiều sâu.
Nivedano...
(Tiếng trống)
Quay lại... Ngồi xuống như chư phật. Trong im lặng sâu sắc, trong niềm
vui lớn.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy Kính yêu.
Chúng ta có thể mở hội việc tụ tập của mười
nghìn chư phật chứ?
Vâng, thưa Thầy Kính yêu.
..............................
0 Đánh giá