Chương 10. Chỉ người mới có khả năng chán

Chương 10. Chỉ người mới có khả năng chán

Price:

Read more

Coi nó là dễ (Tập 1) - Osho
Bài nói về Thiền
Chương 10. Chỉ người mới có khả năng chán


Câu hỏi thứ nhất
Đích xác chán là gì? Nếu tôi không làm cái gì đó, cho dù cái gì đó không được cần, nỗi kinh hoàng nảy sinh, nỗi sợ khổng lồ. Cái gì là cái gây ra sự điên cuồng của vận động này? Tại sao tôi không thoải mái thế với cảm giác này? Thất vọng của chán chường tăng lên khi tôi nghĩ rằng điều tôi sẽ làm là tương đương với sự điên cuồng vô nghĩa. Tôi cảm thấy bị bắt.
Abha, chán là một trong những điều quan trọng nhất trong cuộc sống con người. Chỉ con người mới có khả năng chán; không con vật nào khác có khả năng bị chán. Chán tồn tại chỉ khi tâm trí bắt đầu tới ngày càng gần với chứng ngộ. Chán chính là đối lập cực của chứng ngộ. Con vật không thể trở nên chứng ngộ được, do đó chúng cũng không thể bị chán.
Chán đơn giản chỉ ra rằng bạn đang trở nên nhận biết về cái vô tích sự của cuộc sống, bánh xe lặp lại thường xuyên của nó. Bạn đã làm tất cả những điều đó trước đây - không cái gì xảy ra. Bạn đã từng ở trong mọi trò đó trước đây - không cái gì đi ra từ nó. Chán là chỉ dẫn đầu tiên rằng hiểu biết lớn đang nảy sinh trong bạn về cái vô tích sự, cái vô nghĩa của cuộc sống và các cách thức của nó.
Bây giờ, bạn có thể đáp ứng với chán theo hai cách. Một cách là điều thông thường được làm: trốn chạy khỏi nó, né tránh nó, không nhìn thẳng mắt vào trong nó, không đương đầu với nó. Để nó ở sau lưng bạn; và chạy xa; chạy vào các thứ có thể làm cho bạn bận bịu, điều có thể trở thành sự ám ảnh; điều đem bạn đi xa khỏi thực tại của cuộc sống tới mức bạn không bao giờ thấy chán nảy sinh lần nữa.
Đó là lí do tại sao mọi người đã phát minh ra rượu cồn, ma tuý. Chúng là cách thoát khỏi chán. Nhưng bạn không thể thực sự thoát được; bạn chỉ có thể né tránh một chốc. Chán sẽ tới đi tới lại, và nó sẽ ngày càng to hơn. Bạn có thể trốn vào dục, vào ăn quá nhiều, vào âm nhạc - theo cả nghìn lẻ một thứ bạn có thể trốn vào. Nhưng chán sẽ nảy sinh lặp đi lặp lại mãi. Nó không phải là cái gì đó mà có thể được né tránh; nó là một phần của sự trưởng thành của con người. Nó phải được đối diện.
Đáp ứng khác là đối diện nó, suy ngẫm về nó, hiện hữu cùng nó, là nó. Đó là điều Phật đã làm dưới cây bồ đề - đó là điều mọi Thiền nhân đã từng làm suốt nhiều thời đại.
Thiền đích xác là gì? Đối diện với chán là thiền. Thiền nhân liên tục làm gì? Ngồi im lặng, nhìn vào rốn mình, hay quan sát hơi thở của mình, bạn có cho rằng người đó được giải trí bởi những thứ này không? Người đó hoàn toàn bị chán! Đó là lí do tại sao Thiền sư đi cùng với chiếc gậy trong tay - vì những người chán đó nhất định rơi vào giấc ngủ. Không có chỗ trốn khác, cho nên chỉ một chỗ trốn còn lại: ít nhất họ có thể rơi vào giấc ngủ. Họ không thể trốn được. Họ đã để bản thân họ, theo cách riêng của họ, trở thành một phần của đào tạo Thiền và kỉ luật này - họ không thể trốn được. Nhưng một lối thoát bao giờ cũng sẵn có: bạn có thể rơi vào giấc ngủ, thế thì bạn quên hết mọi thứ về nó. Đó là lí do tại sao trong thiền người ta cảm thấy buồn ngủ.
Toàn thể nỗ lực trong thiền là thế này: bị chán nhưng không trốn khỏi nó; và giữ tỉnh táo, vì nếu bạn rơi vào giấc ngủ bạn đã trốn rồi. Giữ tỉnh táo! Quan sát nó, chứng kiến nó. Nếu nó có đó, thế thì nó có đó. Nó phải được nhìn vào, vào chính cốt lõi của nó.
Nếu bạn liên tục nhìn vào trong chán mà không trốn ra thì bùng nổ tới. Một ngày nào đó, đột nhiên, nhìn sâu vào trong chán, bạn xuyên thấu vào tính không riêng của bạn. Chán chỉ là cái vỏ bọc, cái bình chứa mà trong đó có chứa tính không bên trong của bạn - shunyata. Nếu bạn trốn khỏi chán, bạn đang trốn khỏi tính không riêng của bạn. Nếu bạn không trốn khỏi chán, nếu bạn bắt đầu sống cùng nó, nếu bạn bắt đầu chấp nhận nó, đón chào nó... Đó là điều thiền tất cả là gì: đón chào chán, đi vào trong nó theo cách riêng của người ta; không chờ đợi nó tới mà tìm nó.
Ngồi hang giờ trong tư thế yoga, chỉ quan sát việc thở của bạn, người ta trở nên hoàn toàn chán. Và toàn thể huấn luyện về thiền là tới mức nó giúp cho chán. Trong Thiền viện bạn phải dậy sớm mọi ngày vào cùng một giờ buổi sáng - mọi ngày, hết năm nọ tới năm kia. Không thành vấn đề dù đó là mùa hè hay mùa đông. Bạn phải dậy sớm, ba giờ sáng, bạn phải tắm, bạn phải uống cùng loại trà, và bạn phải ngồi... Cùng tư thế lặp đi lặp lại. Và cả ngày cũng là một thường lệ rất rất cố định: bạn sẽ ăn bữa sáng vào lúc nào đó, thế rồi bạn sẽ thiền nữa, thế rồi bạn sẽ có thức ăn vào giờ nào đó - và cùng loại thức ăn! Mọi thứ đều giúp cho chán.
Và cùng quần áo, và cùng tu viện, và cùng thầy mọi ngày với chiếc gậy bước đi xung quanh. Và mọi ngày vào buổi tối bạn phải đi vào phiên thiền cùng thầy. Và những câu hỏi được cho là những câu hỏi chán thế để thiền: Tiếng vỗ tay của một bàn tay là gì? Chỉ nghĩ về nó - nó sẽ làm cho bạn phát điên! Tiếng vỗ tay của một bàn tay là gì? Không có câu trả lời cho nó, bạn biết điều đó; mọi người đều biết không có câu trả lời cho nó. Còn thầy thì cứ liên tục nhấn mạnh, "Tiếp tục lặp lại, tiếp tục thiền về nó đi."
Điều đó tất cả đều được quản lí chu đáo. Chán phải được tạo ra - ngay lập tức, mãnh liệt. Chán phải được phép toàn bộ nhất có thể được, phải được giúp đỡ, hỗ trợ từ mọi phía. Cùng buổi tối, cùng công việc, cùng tụng mật chú. Cùng thời gian bạn phải đi ngủ lần nữa... và điều này diễn ra mãi, bánh xe này. Trong vòng vài ngày bạn hoàn toàn bị chán và bạn không thể thoát được. Không có cách nào để thoát. Bạn không thể đi xem phim, bạn không thể xem ti vi; bạn không thể có cái gì mà có thể giúp bạn né tránh nó. Bạn bị ném vào trong nó lặp đi lặp lại.
Dũng cảm lớn là được cần tới để đối diện với nó. Nó gần giống như chết; thực ra, còn khó hơn chết nhiều, vì chết tới khi bạn trở nên vô ý thức. Và bạn đang khuấy động mọi loại chán. Cái gì xảy ra? Có bí mât của mọi cách thiền: nếu bạn liên tục quan sát, quan sát, quan sát, chán trở nên ngày càng lớn hơn, mãnh liệt hơn, và thế rồi đến đỉnh... không cái gì có thể tiếp diễn mãi được. Có một điểm từ đó bánh xe quay đi. Nếu bạn có thể đi tới chính cực đoan, tới chính đỉnh, thế thì thay đổi, biến đổi, chứng ngộ, tỏ ngộ, hay bất kì cái gì bạn muốn gọi nó, xảy ra. Thế thì một ngày nào đó, đột nhiên, chán trở thành quá nhiều. Bạn bị ngạt, bạn gần như bị nó giết chết. Bạn bị bao quanh bởi đại dương chán. Bạn bị ngập lụt bởi nó và dường như không có cách nào để thoát. Chính sự mãnh liệt và tính toàn bộ của nó, và bánh xe quay đi. Đột nhiên chán biến mất và có tỏ ngộ, samadhi. Bạn đã đi vào tính không của bạn.
Bây giờ sẽ không có chán nào nữa. Bạn đã thấy chính tính không của cuộc sống. Bạn đã biến mất - ai có thể bị chán được? với cái gì? Bạn không tồn tại nữa. Bạn bị triệt tiêu.
Bạn hỏi:
Đích xác chán là gì?
Một hiện tượng tâm linh lớn lao. Đó là lí do tại sao trâu không chán; chúng có vẻ hài lòng và tận hưởng hoàn hảo. Chỉ con người mới chán. Và trong con người nữa, chỉ những người rất tài năng, thông minh, họ mới chán. Người ngu không chán. Họ hài lòng hoàn hảo làm việc của họ, kiếm tiền, làm ra số dư ngân hàng lớn hơn, nuôi con cái, sinh sản, ăn uống, ngồi trong rạp chiếu bóng, đi tới khách sạn, tham gia vào cái này cái nọ. Họ đang tận hưởng! Họ không chán. Họ là kiểu thấp nhất; họ thực sự thuộc về thế giới của trâu. Họ chưa là người.
Một người trở thành con người khi người đó bắt đầu cảm thấy chán. Bạn có thể thấy điều đó: đứa trẻ thông minh nhất sẽ là đứa trẻ bị chán nhất - vì không cái gì có thể giữ mối quan tâm của nó lâu được. Sớm hay muộn nó loạng choạng vớ phải sự kiện này và hỏi, "Bây giờ thì cái gì đây? Cái gì tiếp? Điều này bị kết thúc rồi. Mình đã thấy trò chơi này, mình đã nhìn vào trong nó, mình đã mở nó ra, mình đã phân tích nó, bây giờ mình được kết thúc rồi - cái gì tiếp đây?" chẳng mấy chốc nó bắt đầu kết thúc mọi thứ. Đến lúc nó trở thành thanh niên, nó đã bị chán rồi.
Phật đã hoàn toàn bị chán. Ông ấy rời bỏ vương quốc khi ông ấy mới chỉ hai mươi chín tuổi, tại đỉnh của tuổi thanh xuân. Ông ấy đã hoàn toàn bị chán - với đàn bà, với rượu, với của cải, với vương quốc, với mọi thứ. Ông ấy đã thấy tất cả, ông ấy đã thấy thấu suốt. Ông ấy đã bị chán. Ông ấy từ bỏ thế giới không phải vì thế giới sai, nhớ lấy. Về truyền thống người ta nói là ông ấy đã từ bỏ thế giới vì thế giới là xấu - điều đó là tuyệt đối vô nghĩa. Ông ấy đã từ bỏ thế giới vì ông ấy đã trở nên chán với nó thế.
Nó không xấu, nó cũng không tốt. Nếu bạn thông minh, nó là chán. Nếu bạn ngu xuẩn, bạn có thể tiếp tục. Thế thì nó là vòng quay ngựa gỗ; thế thì bạn đi từ cảm giác này sang cảm giác khác. Bạn quan tâm tới điều tầm thường và bạn liên tục lặp lại và bạn không đủ ý thức để thấy ra việc lặp lại - rằng hôm qua bạn cũng đã từng làm điều này, và hôm nay bạn cũng đang làm, và lần nữa bạn đang tưởng tượng ngày mai làm cùng điều đó lần nữa. Bạn phải thực sự không thông minh. Làm sao thông minh có thể tránh được chán? Điều đó là không thể được. Thông minh có nghĩa là nhìn thấy mọi thứ như chúng vậy.
Phật rời bỏ thế giới từ việc chán; hoàn toàn bị chán, ông ấy chạy xa khỏi thế giới. Và vậy thì ông ấy đã làm gì trong sáu năm ngồi trong những rừng đó? Ông ấy đã ngày càng bị chán hơn. Bạn có thể làm được gì, khi ngồi trong rừng? - quan sát hơi thở của bạn, nhìn vào rốn bạn, hết ngày nọ tới ngày kia, năm nọ tới năm kia. Ông ấy đã tạo ra cái chán đó tới đỉnh tối thượng của nó, và một đêm nó biến mất. Nó biến mất theo cách riêng của nó.
Nếu bạn đạt tới đỉnh... lối rẽ tới. Nó tới! Và với lối rẽ đó của dòng chảy, ánh sáng đi vào trong bản thể bạn - bạn biến mất, chỉ ánh sáng còn lại. Và với ánh sáng, vui mừng tới. Bạn tràn đầy vui vẻ - bạn không hiện hữu, nhưng tràn đầy vui vẻ - không vì lí do gì hết cả. Vui vẻ đơn giản sôi lên trong bản thể bạn.
Người thường vui vì lí do nào đó - người đó đã rơi vào yêu với người đàn bà mới hay người đàn ông mới và người đó vui. Niềm vui của người đó là tạm thời. Ngày mai người đó sẽ bị chán ngán với người đàn bà này và người đó sẽ bắt đầu tìm người đàn bà khác. Người thường vui vì người đó mới có chiếc xe hơi mới; ngày mai người đó sẽ phải tìm xe khác. Điều đó liên tục diễn ra mãi... và người đó không bao giờ thấy ra vấn đề của nó, rằng bao giờ cũng vậy, chung cuộc, bạn bị chán. Làm bất kì cái gì - chung cuộc bạn đều bị chán. Mọi hành động đều đem tới chán.
Người thông minh thấy điều đó. Bạn càng thấy sớm, bạn càng chứng tỏ thông minh hơn. Thế thì cái gì còn lại? Thế thì chỉ chán còn lại, và người ta phải suy ngẫm về nó. Không có cách nào thoát khỏi nó. Thế thì đi vào trong nó đi. Xem nó dẫn tới đâu. Và nếu bạn có thể cứ đi vào trong nó, nó dẫn vào chứng ngộ.
Chỉ người, mới có khả năng chán, và chỉ người, mới có khả năng chứng ngộ.
Câu hỏi thứ hai
Dường như là mặc dầu xã hội hiện tại đang bác bỏ thầy, dần dần nó sẽ chấp nhận thầy.
Xin bạn bình luận đi, Siddhartha, tại sao bạn lo nghĩ về xã hội, việc nó bác bỏ tôi hay chấp nhận tôi? Quên xã hội đi! Nó bao giờ cũng chấp nhận những người như tôi chỉ khi họ đã mất rồi; nó bao giờ cũng chấp nhận chư phật khi họ chết. Nó chấp nhận chỉ khi chư phật không thể làm được bất kì cái gì; nó chấp nhận chỉ khi chư phật trở thành chỉ là lí thuyết. Ngọn lửa mất rồi; giờ nó chỉ là kí ức. Thế thì họ chấp nhận - không chỉ chấp nhận, họ tôn thờ. Đó là điều họ đã từng làm mọi thời đại và họ sẽ làm mọi thời đại trong tương lai nữa.
Không cái gì đã thay đổi về cơ bản. Người không chứng ngộ vẫn còn không chứng ngộ.
Tại sao họ bác bỏ? Họ bác bỏ từ sợ. Lắng nghe tôi đi: ngay bây giờ tôi đang nói cái gì đó về chán. Bây giờ người thường không thể chấp nhận được điều đó, rằng người ta phải đi vào trong chán. Người đó sẽ sợ. Người đó sẽ nói, "Người này đang nói về cái vô nghĩa gì vậy?" Người đó sẽ trở nên sợ ngay cả việc nghe điều đó, vì ai biết được? - ý tưởng này có thể đi vào trong tâm trí người đó rằng cuộc sống là chán. Thế thì mọi niềm vui của người đó... và người đó đang tiếp tục hạnh phúc thế và người đó vui sướng thế với những đồ chơi nho nhỏ. Tất cả những đồ chơi đó sẽ bị hỏng! Người đó không muốn làm điều đó; người đó quá bị ám ảnh với đồ chơi của mình. Người đó không muốn lắng nghe những điều như vậy. Khi tôi mất rồi, họ có thể tôn thờ tôi - vì tôi sẽ không quát người đó.
Tôn thờ là rẻ mạt. Hiện hữu cùng thầy sống là khó khăn, gian nan; điều đó cần can đảm. Tôn thờ là cử chỉ lễ phép. Việc tôn thờ nói, "Ông có thể đúng, nhưng chúng tôi không sẵn sàng cho điều đó. Ông phải là đúng; chúng tôi thậm chí không sẵn sàng để tranh cãi về nó, vì - ai biết? - nếu chúng tôi tranh cãi về nó, ông có thể chứng tỏ là đúng. Cho nên chúng tôi không tranh cãi; chúng tôi sẽ tôn thờ ông. Ông phải đúng! Làm sao ông có thể sai được? Nhưng chúng tôi chưa muốn theo ông. Chúng tôi sẽ làm hình ảnh đẹp của ông trong đền chùa. Chúng tôi sẽ mang hoa tới chân ông, chúng tôi sẽ lẩm nhẩm tên ông, và chúng tôi sẽ liên tục làm cùng những điều ngu xuẩn mà chúng tôi đã từng làm trước đây. Ông sẽ phải là vật trang trí, việc trang trí. Chúng tôi sẽ đặt bức tranh đẹp về ông trong nhà; làm cho phòng khách trông xinh thế. Nhưng có vậy thôi. Và thỉnh thoảng chúng tôi thậm chí sẽ đeo vòng hoa lên ảnh của ông, nhưng có vậy thôi."
Đây là cách né tránh lễ phép, cách thức rất lễ phép để nói, "Không, chúng tôi không thể đi cùng thầy được - ít nhất là chưa đi. Về điều tối thượng thầy có thể là đúng, nhưng chúng tôi không lo nghĩ về điều tối thượng. Với khoảnh khắc hiện tại, xin tha thứ cho chúng tôi, và để chúng tôi sống niềm vui của chúng tôi. Cuộc sống vui thích thế - ai chú ý tới chứng ngộ?"
Và bất kì người nào tới đây và ném đá vào nhà kính của bạn đều có vẻ như kẻ thù. Bất kì người nào tới và quấy rối giấc ngủ của bạn và phá huỷ giấc mơ của bạn đều có vẻ giống như kẻ thù. Cho nên khi vị phật còn sống ông ấy phải bị bác bỏ. Nếu ông ấy không bị bác bỏ, thế thì ông ấy không phải là vị phật. Khi ông ấy chết, ông ấy phải được tôn thờ. Nếu ông ấy không được tôn thờ khi ông ấy chết, thế thì ông ấy không phải là vị phật.
Đó là cách chúng ta bao giờ cũng cư xử với chư phật, với các krishna, các christ - điều đó đã từng là thủ tục thông thường của chúng ta. Chúng ta đã tìm ra cách thức rất rất tinh ranh, khéo léo. Chúng ta không muốn nói không, vì thế thì chúng ta phải đi vào biện luận với những người này - và những người này đều là người giỏi biện luận. Đối diện với họ là nguy hiểm vì họ có thể thuyết phục bạn, chính bản thể họ đang thuyết phục. Người ta không muốn tới gần họ. Khi họ chết, thế thì điều đó là hoàn toàn được. Khi Christ còn sống, đóng đinh ông ấy - và đây là cùng những người đã đóng đinh ông ấy, giờ họ đi tới nhà thờ. Cùng những người này! Nếu ông ấy tới lần nữa, cùng những người này sẽ đóng đinh ông ấy. Con người là con người; họ không phải là người Do Thái và không phải là người Ki tô giáo và không phải là người Hindus và không phải là người Mô ha mét giáo. Họ chính là cùng người.
Chỉ có hai phân loại có thể có: người chứng ngộ và người không chứng ngộ. Người không chứng ngộ tất cả là như nhau, và người chứng ngộ tất cả là như nhau. Hương vị của họ là không khác.
Không phải là người Do Thái đã đóng đinh Jesus - đó là tâm trí tầm thường, tâm trí sợ hãi, sợ đối diện với thực tại; tâm trí sợ đi vào trong cái chán hoàn toàn. Và chán hoàn toàn là lối chuyển: Nó dẫn tới ngôi đền của lễ hội.
Nhưng, Siddhartha, đừng lo nghĩ về mọi người. Tại sao bạn phải lo nghĩ? Có hoài nghi nào đó trong tâm trí bạn không? Bạn có đang tìm kiếm hỗ trợ từ mọi người không? Nó phải đang tạo ra bất ổn nào đó trong bạn: "Làm sao Osho có thể đúng được nếu nhiều người thế chống lại ông ấy?" Bạn cảm thấy hơi chút lay động, sợ sệt, hơi chút run run nảy sinh trong bạn. Khi bạn ở đây với người mầu cam của tôi, điều đó cho cảm giác thoải mái: "Osho phải đúng chứ - nhiều người mầu cam thế.”
Khi bạn đi tới Đường M. G., một cách tự nhiên bạn bắt đầu nghĩ. "Mình đang làm cái gì ở đây vậy? Mọi người không phải là người mầu cam. Và không chỉ có chuyện họ không mầu cam, họ chống lại quyết liệt."
Sợ nảy sinh trong bạn, hoài nghi nảy sinh trong bạn: "Có thể mình đã rơi vào trong bẫy của pháp sư? của nhà thôi miên? Người thông minh như mình, mình đang làm gì ở đây? Tại sao mình bị bắt vào trong những cách thiền này? Không ai khác đang thiền! Và mình tới từ chỗ xa xôi thế, và những người sống ở Pune chẳng quan tâm tẹo nào." Cái gì đó dường như là thay đổi; bạn trở nên run run, run rẩy. Bây giờ, sâu trong tâm trí bạn muốn ở cùng tôi, nhưng phải làm gì với đám đông này đang chống lại tôi? Bây giờ bạn đang tạo ra an ủi cho bản thân bạn. Bạn hỏi:
Dường như là mặc dầu xã hội hiện tại đang bác bỏ thầy, dần dần nó sẽ chấp nhận thầy.
Bạn không thực sự quan tâm tới xã hội đâu. Bạn muốn nghe từ tôi rằng "Đúng, Siddhartha, đừng lo nghĩ - những người này sẽ đi theo tôi," để cho bạn có thể cảm thấy thoải mái. "Những người này sẽ chấp nhận tôi, đợi đấy! Tất cả những người này sẽ trở thành mầu cam - chỉ đợi, chỉ thời gian là được cần." Bạn muốn có đảm bảo từ tôi để cho sự hiện diện của những người đó, người chống lại tôi, không quấy rối bạn.
Nhìn vào trong những điều này đi. Trở nên rất tỉnh táo về điều xảy ra trong tâm trí bạn khi bạn hỏi câu hỏi, tại sao bạn hỏi câu hỏi. Câu hỏi này có thể không chỉ ra cái gì đó của thực tại của bạn, nhưng bạn không thể che giấu được nó - không che giấu được với tôi. Và tôi không trả lời câu hỏi của bạn nhiều như tôi trả lời lí do tại sao câu hỏi đã nảy sinh trong bạn. Cho nên đôi khi có cảm giác là tôi không trả lời thẳng cho câu hỏi của bạn; đôi khi bạn thậm chí ngạc nhiên rằng tôi đang đi vòng vo, không đi thẳng. Đôi khi bạn thậm chí có thể nghĩ rằng tôi đang né tránh câu hỏi đã được hỏi - nó không phải vậy đâu. Toàn thể nỗ lực của tôi ở đây là không trả lời câu hỏi trên bề mặt, mà trong chiều sâu, từ đâu nó đã nảy sinh, tại sao nó đã nảy sinh.
Có những người hỏi câu hỏi, và thế rồi họ viết chú thích rằng "Đây không phải thực sự là câu hỏi của tôi mà tôi đang hỏi nó cho người khác." Nhưng tại sao người khác không thể hỏi nó? Tại sao bạn phải lo nghĩ về người khác? Bây giờ, người này muốn hỏi nhưng không muốn biểu lộ rằng câu hỏi này là của mình.
Một hôm một người tới tôi và anh ta nói, "Một trong những bạn tôi đã đột nhiên trở nên bất lực. Tôi đã tới vì anh ấy. Có sự giúp đỡ nào không?"
Tôi bảo người này, "Sao bạn không bảo bạn của bạn? - anh ta có thể tự mình tới và nói cho tôi rằng một trong các bạn của anh ta đã trở nên bất lực, vì tôi thấy hoàn toàn rõ rằng bạn là người bạn của bạn đấy."
Anh ta trở nên rất lo nghĩ. Anh ta bắt đầu vã mồ hôi. Tôi nói, "Đừng vã mồ hôi! Nhưng tại sao? Tại sao bạn không thể đối diện với một điều? Nếu bạn đã trở nên bất lực, đừng bất lực tới mức bạn thậm chí không thể hỏi được câu hỏi này. Ít nhất tiết kiệm năng lực ngần đó. Đối diện với vấn đề đi."
Có vài người liên tục nghĩ... Và điều đó không chỉ là điều họ đang lừa dối - họ thậm chí nghĩ rằng họ đang hỏi để giúp người khác. Yoga Chinmaya thường hỏi câu hỏi rằng "Điều này là để giúp người khác." Sâu bên dưới câu hỏi này là của anh ấy, nhưng anh ấy không thể chấp nhận được điều đó, rằng "Nó là câu hỏi của tôi." Điều đó gây tổn thương: "Mình đang hỏi câu hỏi thế sao? Mình đáng không nên hỏi câu hỏi như thế. Mình đã sống cùng Osho lâu thế - mình đáng không nên hỏi câu hỏi như thế." Nhưng câu hỏi này có đó và nó phải được hỏi, cho nên người ta tìm ra cách thức láu lỉnh để hỏi nó.
Bây giờ, Siddhartha lo nghĩ về xã hội, dường như trên bề mặt. Sâu bên dưới, anh ấy lo nghĩ về bản thân anh ấy. Anh ấy muốn có lời hứa tuyệt đối rằng "Siddhartha, bạn đang trên đường đúng - những người khác là sai. Cứ đợi đấy! Họ sẽ không chỉ tôn thờ tôi, họ đang tôn thờ cả bạn nữa đấy! Bạn sắp sửa là tông đồ của tôi; bạn là Luke của tôi và Thomas và Mark. Đợi đi, cứ đợi đấy! Bạn đã làm công việc lớn lao thế bằng việc trở thành đệ tử của một người điên. Cứ đợi - những kẻ ngu này sẽ không chỉ tôn thờ thầy bạn, họ sẽ tôn thờ bạn nữa. Thế thì họ sẽ nhận ra, thế thì họ sẽ thấy họ đã bỏ lỡ cơ hội lớn làm sao."
Cứ đi sâu vào trong sợ riêng của bạn và để sợ này được diễn đạt rõ ràng trong câu hỏi của bạn. Ít nhất tìm ra nguyên nhân của câu hỏi của bạn. Nếu bạn có thể tìm ra nguyên nhân câu hỏi của bạn, trong một trăm câu hỏi, chín mươi chín câu sẽ đơn giản biến mất - vì trong chính nguyên nhân bạn sẽ thấy câu trả lời. Đi sâu vào trong câu hỏi, tới chính rễ của nó, là tìm ra câu trả lời của nó. Và một câu hỏi sẽ không tìm ra câu trả lời từ bản thân bạn đâu... việc hỏi nó sẽ có tầm quan trọng lớn hơn - điều đó sẽ trở thành chiếc cầu giữa tôi và bạn.
Bao giờ cũng đi vào rễ vô thức của câu hỏi của bạn.
Có câu hỏi khác theo tuyến tương tự:
Câu hỏi 3
Trong bài nói cuối của thầy, thầy đã gọi Yudhishthira, Dharmaraj, là người phi tôn giáo đơn giản bởi vì ông ấy mất vợ trong đánh bạc. Nhưng sẽ thế nào với một trong những người đi theo thầy, người điên với rượu và đàn bà? Không chỉ điều này mà người đó còn hút charas và ganja một cách tự do. Theo nghĩa nào mà người đó đi theo một tôn giáo cao siêu hơn tôn giáo của Yudhishthira? Xin thầy giải thích.
Câu hỏi này là từ Sohan Bharti. Anh ấy là sannyasin mới; mới vài ngày trước anh ấy đã nhận tính chất sannyas. Anh ấy phải có tâm trí Ấn Độ rất rất mạnh, bị ước định sâu sắc.
Bây giờ, đặt cược người đàn bà trong đánh bạc - và anh ấy nói, "Đơn giản bởi vì ông ấy mất vợ trong đánh bạc!" Vợ ở Ấn Độ chỉ là đồ vật, đồ đạc, cho nên cái gì sai trong đó? Thực ra, Yudhishthira và các anh em ông ấy đã cư xử với vợ bằng thái độ là "cô ấy là tài sản." Đã có năm anh em và năm người cùng chung nhau người vợ; người vợ có năm chồng. Bạn không thể phân chia một người như tài sản được. Đây là điều khủng khiếp để nghĩ tới: người đàn bà đã được chia ra cho năm người đàn ông - dường như cô ấy là mảnh đất!
Và thế rồi, chung cuộc, ông ta đánh cược cô ấy như đánh cá trong đánh bạc và mất cô ấy. Bạn có thể nghĩ về người đàn bà nào đánh cược chồng mình trong đánh bạc không? Và chắc bạn sẽ nói, "Vậy thì sao nào! Chỉ là người chồng thôi - sao không cược?" Nhưng không có câu chuyện như vậy ở Ấn Độ. Bạn chắc sẽ không bao giờ tha thứ cho điều đó; bạn không thể quan niệm được.
Chồng ở Ấn Độ được gọi là swami - người chủ. Và vợ được gọi là dasi - người hầu, nô lệ. Điều này là xấu. Nhưng tâm trí Ấn Độ của Sohan Bharti phải đã bị tổn thương khi tôi nói điều đó, vì người này, Yudhishthira, được coi là người tôn giáo vĩ đại, một trong những người lãnh đạo tôn giáo vĩ đại của người Hindus. Với tôi ông ấy thậm chí không là con người! Nói gì tới tính tôn giáo của ông ấy? Ông ấy thậm chí không là con người - ông ấy không thuộc loại người. Và anh ấy hỏi:
Nhưng sẽ thế nào với một trong những người đi theo thầy, người điên với rượu và đàn bà?
Thế thì người đó là người hoàn hảo! Không cái gì là phi con người về điều đó! Cái gì sai trong việc điên mà theo đuổi đàn bà? Nó là tự nhiên. Vâng, người ta có thể đi ra ngoài nó, nhưng người ta đi ra ngoài chỉ khi người ta đã đi qua nó.
Và mọi người đều đang trong tìm một loại rượu nào đó, một loại ngất ngây nào đó, để nhận chìm khổ của người ta, lo âu của người ta.
Morarji Desai đang cố tạo ra cấm đoán ở Ấn Độ. Bây giờ, bản thân ông ấy đang say sưa với quyền lực. Đó là sự say sưa còn nguy hiểm hơn nhiều so với rượu thường - vì khi bạn uống rượu bạn chỉ gây hại cho bản thân bạn, không ai khác; nhưng khi bạn uống rượu quyền lực, bạn gây hại cho hàng triệu người.
Nếu một người hút charas và ganja một cách tự do, người đó đơn giản làm hại bản thân người đó. Vâng, người đó gây hại, nhưng người đó đơn giản gây hại cho bản thân người đó. Đó là quyền tập ấm của người đó, gây hại cho bản thân người đó. Người đó tự tử chậm, nhưng đó là quyền tập ấm của người đó. Người đó không gây hại cho bất kì ai. Người đó không cố áp đặt ganja của mình lên bạn hay charas của mình lên bạn.
Bây giờ, Morarji Desai đang cố áp đặt ý tưởng của ông ấy lên toàn thể đất nước này! Điều đó là hách dịch, điều đó là phi tôn giáo. Bạn là ai để chỉ đạo cuộc sống của mọi người khác? Không ai nên kiêu căng thế. Bạn có thể nói bạn cảm thấy gì, nhưng điều đó không nên bị áp đặt như một luật. Tôi cũng biết rằng rượu là không tốt, nhưng bạn nên đi và dạy cho mọi người, bảo mọi người rằng rượu là không tốt. Không ai nên cố áp đặt nó bằng bạo hành. Làm nó thành luật là bạo hành: điều đó có nghĩa là bây giờ cảnh sát sẽ ở sau nó, đạn sẽ ở sau nó.
Khi bạn làm ra luật điều đó có nghĩa gì? Nó có nghĩa bây giờ bạn không có khả năng chuyển đổi mọi người, thuyết phục mọi người; bây giờ bạn đang cố làm mọi thứ bằng sự bắt buộc, bằng quyền lực, bằng bạo hành. Đây là phi dân chủ, đây tuyệt đối là phi dân chủ.
Và không ai thấy trò quyền lực này - trạng thái say sưa, mang tính say cồn của quyền lực. Bất kì khi nào ai đó nắm quyền lực, người đó đều say!
Tôi không nói rằng mọi người phải uống rượu hay dùng charas và ganja, nhưng tôi nói rằng đó là quyền tập ấm của mọi người. Ít nhất người ta phải được phép một điều: gây hại cho bản thân mình - nếu người ta muốn, nếu người ta quyết định theo cách đó. Bạn làm cho điều đó thành rõ ràng rằng điều này là có hại, có vậy thôi. Không cái gì khác có thể được làm. Bạn không thể là nhân tố quyết định.
Cho nên, nếu bạn hỏi tôi, "Người đi theo thầy đang theo tôn giáo cao hơn nào?" Tôi sẽ vẫn nói rằng người đó là tốt hơn Yudhishthira - ít nhất người đó không đánh cược vợ người đó trong đánh bạc. Người đó có thể đánh cược bản thân người đó, người đó có thể ngu, nhưng tôi không thể nói rằng người đó đang làm hại bất kì ai khác. Yudhishthira không có kính trọng với đàn bà. Và nếu bạn không có kính trọng nào, làm sao bạn có thể có yêu nào được? Yêu và kính trọng đi đôi với nhau.
Đừng giả vờ rằng bạn yêu người đàn bà nếu bạn không kính trọng cô ấy. Nếu bạn kính trọng, chỉ thế thì bạn mới yêu. Nếu bạn không kính trọng, bạn chỉ khai thác cô ấy; mối quan hệ của bạn là quan hệ của thèm khát, không của yêu. Yudhishthira phải đang khai thác người đàn bà đáng thương này. Cứ nghĩ tới ý tưởng này mà xem, ý tưởng kinh tởm... như đồ vật. Cô ấy đang bị dùng như đồ vật, và bây giờ cô ấy đã bị đánh cược như đồ vật. Và nếu... và đó là điều đã xảy ra: Yudhishthira mất cô ấy. Những người khác, người đã thắng ngay lập tức cố cởi quần áo cô ấy lúc đó và ở đó. Và thế rồi Yudhishthira và tất cả bốn anh em đã ngồi im lặng ở đó, nhìn vào điều đó: "Bây giờ các anh không thể làm được cái gì nữa - bây giờ cô ấy là tài sản của ai đó khác. Bất kì cái gì họ muốn làm, họ có thể làm." Loại kính trọng gì đây? Loại yêu gì đây? Nó là xấu. Nó là phi tôn giáo. Nó là không tính người.
Và nhớ lấy, tôi không nói rằng người đi theo tôi... và tôi không biết người đi theo này là ai. Nó có thể chỉ là điều bịa đặt của trí tưởng tượng của bạn. Nếu người đó đang làm những điều này, người đó không làm rất tốt, nhưng dầu vậy nếu bạn so sánh người đó với Yudhishthira người đó còn tốt hơn nhiều - người đó chỉ gây hại cho bản thân người đó.
Người khác phải được kính trọng như mục đích, không bao giờ bị dùng như phương tiện. Đàn bà là tương đương với đàn ông. Nhưng với tâm trí Ấn Độ rất khó chấp nhận sự bình đẳng của đàn bà. Cho nên nhiều cái gọi là thánh nhân của Ấn Độ đã từng lên án đàn bà, suốt nhiều thời đại, bằng những lời dường như không thể nào tin được rằng những người này có mang ý nghĩa nào - về kính trọng, về yêu, về thông cảm, về từ bi.
Các thánh nhân Ấn Độ đã từng nói rằng đàn bà là cánh cửa tới địa ngục. Đàn bà không phải là cánh cửa tới địa ngục; điều đó là tuỳ ở bạn. Cô ấy có thể là cánh cửa tới địa ngục nếu bạn quyết định đi xuống địa ngục, và cô ấy có thể là cánh cửa tới cõi trời nếu bạn quyết định đi lên cõi trời.
Và đừng quên rằng cùng điều đó là đúng về bạn nữa. Không chỉ là đàn ông xuống địa ngục - thế thì đàn bà đi đâu? Và họ sẽ đi thế nào, vì họ sẽ không tìm thấy cửa nào cả? Đàn ông phải vận hành như cánh cửa cho họ nữa.
Không ai là cánh cửa tới cõi trời hay địa ngục. Bạn tạo ra cõi trời và địa ngục của bạn. Nhưng cái gọi là thánh nhân này sợ đàn bà nhiều thế - sợ của họ chỉ ra kết án của họ.
Tôi đã nghe một câu chuyện rằng một giáo sĩ thường đi quanh Sodom, thành phố bị kết án, Sodom, và ông ấy sẽ hét lên từ mọi ngõ ngách, trên mọi phố với mọi người, "Dừng tội lỗi lại đi! Không làm điều này! Không làm điều kia! Tránh dục, tránh cái này, tránh cái kia..." trong nhiều năm.
Một hôm, một trong các đệ tử của giáo sĩ này hỏi, "Thầy không bao giờ trở nên mệt sao? Không ai nghe thầy, không ai đã bao giờ nghe hay chú ý tới thầy, nhưng thầy liên tục hét lên khắp thị trấn. Mọi người phát mệt với thầy, nhưng thầy không mệt sao? Thầy lấy năng lượng này từ đâu vậy? Thầy vẫn nghĩ, thầy vẫn hi vọng rằng thầy sẽ có khả năng cải tâm cho những kẻ tội lỗi này sao?"
Ông ấy nói, "Các ông nói cái gì vậy? Ta không lo nghĩ về họ. Nếu ta liên tục hét lên chống lại họ, ít nhất ta có thể cứu được bản thân ta. Nếu ta không kêu to, có mọi khả năng họ sẽ cải tâm ta. Ta sẽ bắt đầu làm cùng điều mà họ đang làm - đó là nỗi sợ. Cho nên ta liên tục hét lên! Ta càng hét nhiều, ta càng trở nên được thuyết phục. Ta không lo nghĩ về liệu họ có được thuyết phục hay không. Ta càng hét nhiều, ta càng thuyết phục bản thân ta rằng ta đang trên đường đúng. Và ta có thể kìm nén dễ dàng - những ham muốn đó là ở trong ta nữa. Và nếu ta không nói gì chống lại chúng, có mọi khả năng ta có thể trở thành giống hệt những người này."
Cái gọi là thánh nhân của bạn, người đã từng nói chống lại đàn bà đều sợ. Họ biết nếu họ không nói, nếu họ không liên tục kết án, họ sẽ rơi vào trong một loại quan hệ với đàn bà. Họ sợ các ham muốn của họ, họ sợ dâm dục riêng của họ. Bằng việc kết án đàn bà họ đơn giản tạo ra bầu không khí quanh bản thân họ, họ đơn giản cố kìm nén dâm dục của họ và không gì khác. Nhưng tâm trí Ấn Độ đã trở thành quen thuộc nhiều thế với điều này - đó là lí do tại sao bạn có thể hỏi một điều như thế: Trong bài nói cuối của thầy, thầy đã gọi Yudhishthira, Dharmaraj, là người phi tôn giáo đơn giản bởi vì ông ấy mất vợ trong đánh bạc.
Bây giờ, Sohan Bharti phải cư xử một cách phi con người với vợ riêng của ông ấy. Làm sao ông ấy có thể cư xử một cách kính trọng với vợ riêng của ông ấy nếu ông ấy có ý tưởng này? Nhìn sâu vào trong câu hỏi của bạn đi. Nếu bạn không thể kính trọng đàn bà được, bạn không thể kính trọng được bất kì người nào khác - vì chính từ đàn bà mà bạn tới. Đàn bà cưu mang bạn trong chín tháng, thế rồi cô ấy làm mọi chăm nom, cô ấy yêu bạn trong nhiều năm. Và thế rồi lại nữa... bạn không thể sống được mà không có đàn bà. Cô ấy là niềm an ủi của bạn, hơi ấm của bạn. Cuộc sống rất lạnh lẽo; đàn bà trở thành hơi ấm của bạn. Cuộc sống rất không gây xúc động; đàn bà trở thành hứng khởi của bạn. Cuộc sống rất rất số học; đàn bà trở thành thơ ca của bạn. Cô ấy cho duyên dáng cho cuộc sống của bạn. Cô ấy chăm sóc bạn. Cô ấy yêu bạn, cô ấy liên tục yêu bạn, vô cùng, toàn bộ. Còn bạn nói:...
Đơn giản bởi vì ông ấy mất vợ khi đánh bạc?
Ông ấy phải là đàn ông không tim. Thay vì trái tim, phải đã là một tảng đá cứng.
Câu hỏi thứ ba
"Tôi là cuộc sống, tình yêu, niềm vui. Ở đây tôi cho bạn cuộc sống, tình yêu, niềm vui." Osho ơi, khi tôi nghe thầy nói điều này hai sáng hôm trước, thân thể tôi run rẩy với kính nể và cũng sợ gần chết về việc bị mất hút trong thầy hay bỏ lỡ hoàn toàn. Tại sao tôi thấy khó thế để nhận cuộc sống, tình yêu, vui vẻ này từ thầy?
Chintana, mọi người đều thấy khó, vì nhận niềm vui, nhận ánh sáng, tình yêu là đi ngược lại bản ngã của bạn. Bản ngã muốn là người cho, không là người nhận; bản ngã bao giờ cũng muốn cho, không nhận. Cho yêu là dễ hơn; rất khó nhận nó. Ở đầu nhận bản ngã cảm thấy tổn thương nhiều lắm.
Điều đó bao giờ cũng khó, và nó sẽ vẫn còn khó hơn nếu bạn ở cùng với một Phật hay một Christ hay một Krishna - vì bạn chẳng có gì để cho họ. Bạn có mọi thứ để lấy từ họ và chẳng có gì để cho họ trong đáp lại. Bản ngã của bạn cảm thấy bị triệt tiêu.
Nếu bạn có thể cho tôi cái gì đó đáp lại, điều đó sẽ không cho cảm giác tệ thế, nhưng bạn có thể cho cái gì? Và bất kì cái gì bạn có thể cho sẽ chỉ là hình thức chứ không gì khác, vì bất kì cái gì bạn có đều không là gì.
Mới đêm hôm nọ một sannyasin đã cho tôi chiếc vỏ sò. Tôi thích cử chỉ này. Chắc phải đã tìm được ở bãi biển nào đó. Nó không là gì, nhưng chứng tỏ tình yêu lớn với tôi. Không chỉ tình yêu - cái gì đó khác nữa. Bạn nhận được nhiều thế từ tôi, bạn muốn cho lại cái gì đó để đáp lại để cho nó vẫn còn được cân bằng. Và mọi điều bạn có thể cho, mọi thứ, tôi nói, không thể nhiều hơn vỏ sò.
Cho nên, Chintana, nỗi sợ đó nảy sinh trong mọi người. Bạn phải bỏ nỗi sợ đó, vì khi bạn đang nhận từ tôi, bạn không thực sự nhận cái gì từ tôi - vì tôi không có đó. Tôi chỉ là lối chuyển. Nếu bạn đang nhận bất kì cái gì qua tôi, bạn đang nhận từ Thượng đế, không phải từ tôi. Quên mọi điều về tôi đi! Bạn thậm chí không cần nói lời cám ơn.
Bất kì khi nào một sannyasin tới tôi và nói, "Cám ơn thầy, Osho, vì mọi điều thầy đã làm cho tôi," tôi cảm thấy hơi chút không thoải mái, vì người đó đang nói gì? Không có người nào để nhận việc cám ơn này.
Nhớ Jesus: ông ấy đi qua một đám đông. Một người đàn bà nghèo, người đàn bà ốm, chạy xô lại đằng sau ông ấy và chạm vào quần áo ông ấy. Và cô ấy được chữa lành - ngay lập tức, tức khắc, tin cậy của cô ấy sâu sắc thế. Cô ấy đã tới từ một nơi xa xôi; cô ấy đã trong phiền não lớn và đau đớn và khổ sở. Nhưng tin cậy của cô ấy là tới mức cô ấy tin rằng nếu cô ấy thậm chí có thể chạm vào quần áo của Jesus mọi thứ sẽ được chữa lành - và mọi thứ đã được chữa lành.
Jesus ngoái lại và người đàn bà này nói, "Tôi phải cám ơn ông thế nào đây, thưa Ngài? Ngài đã chữa lành cho tôi! Tôi đã tới bị ốm và bây giờ tôi mạnh khoẻ và toàn thể."
Và Jesus nói, "Đức tin của cô đã chữa lành cho cô. Và đừng cám ơn ta, cám ơn Thượng đế đi."
Đừng bao giờ lo nghĩ. Đừng cảm thấy rằng bạn đang trở nên biết ơn hướng về tôi. Tôi chỉ là phương tiện, lối chuyển, cửa sổ. Và nếu mặt trời đã xuyên qua cửa sổ tới bạn, cảm thấy cám ơn mặt trời đi - quên cái khung cửa sổ đi. Tôi chỉ là cái khung và không gì khác. Bạn có thể nhận từ tôi nhiều như bạn muốn, nhiều như bạn có thể dám, nhiều như bạn cần.
Bao giờ cũng nhớ, bạn đang nhận từ Thượng đế - vì từ bất kì chỗ nào chúng ta nhận, chúng ta bao giờ cũng nhận từ Thượng đế. Ngài là người cho duy nhất, không có người khác.
Bạn hỏi tôi:
"Tôi là cuộc sống, tình yêu, niềm vui. Ở đây tôi cho bạn cuộc sống, tình yêu, niềm vui." Osho ơi, khi tôi nghe thầy nói điều này hai sáng hôm trước, thân thể tôi run rẩy với kính nể và cũng sợ gần chết về việc bị mất hút trong thầy hay bỏ lỡ hoàn toàn. Tại sao tôi thấy khó thế để nhận cuộc sống, tình yêu, vui vẻ này từ thầy?
Cảm thấy may mắn rằng bạn đang đứng trên bờ đó, từ đó, nếu bạn nhận, bạn sẽ được biến đổi. Nếu bạn không nhận, bạn sẽ khổ mọi điều trong cuộc sống của bạn. Kí ức sẽ ám ảnh bạn.
Nếu bạn đã tới tôi, và nếu bạn không tan biến, kí ức sẽ ám ảnh bạn. Bạn sẽ không bao giờ thoải mái với cuộc sống lần nữa. Bạn đã nếm cái gì đó của cõi bên kia; bây giờ cuộc sống sẽ cảm thấy gần như là vô vị. Quay lại, ẩn kín, trở lại trong hang động cũ của tâm trí bạn, là nguy hiểm. Và tâm trí có xu hướng làm điều đó. Cảnh giác về nó.
Lấy cú nhảy đi! - khi tôi cho bạn lời gọi, nhảy đi.
Và bao giờ cũng nhớ rằng không phải là từ tôi như một người mà bạn lấy bất kì cái gì, vì người không còn tồn tại nữa. Nó chỉ là sự hiện diện. Điều đó có vẻ giống là người với bạn, vì bạn chưa thể thấy được sự hiện diện. Một khi bạn chấp nhận tình yêu này, niềm vui này, cuộc sống này, điều đang xảy ra ở đây, bạn sẽ quên về tôi như một người, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy tôi như sự hiện diện. Bạn sẽ quên các biên giới của tôi - chúng là tuỳ tiện - và bạn sẽ bắt đầu thấy cái vô tận, cái là thực, cái là chân lí.
Người chỉ là con sóng trong đại dương. Sự hiện diện là bản thân đại dương. Để tôi chỉ là cánh cửa, lối mở. Và điều đó đích xác là điều tôi đang vậy, và đó đích xác là điều thầy được giả định là vậy.
Gạt bản ngã của bạn sang bên đi, Chintana, và mở ra. Đón nhận nó! Đệ tử phải mang nữ tính để đón nhận Thượng đế; đệ tử phải chỉ là bụng mẹ, trở thành bụng mẹ. Đó là lí do tại sao điều bao giờ cũng xảy ra là đàn bà là đệ tử tốt nhất trên thế giới.
Phật có năm mươi nghìn đệ tử - bốn mươi nghìn người là đàn bà. Đó cũng là hoàn cảnh với Mahavira nữa. Tại sao? Tại sao đàn bà dễ dàng trở thành đệ tử, rất dễ dàng, tự nhiên. Cô ấy biết cách đón nhận.
Với đàn ông điều đó có chút khó khăn hơn. Với đàn ông cần thời gian lâu hơn chút ít - vì anh ấy không có bụng mẹ vật lí cho nên anh ấy không biết cách đón nhận. Anh ấy cũng có bụng mẹ tâm linh, nhưng đó là vô thức. Đàn bà có bụng mẹ tâm linh và bụng mẹ vật lí nữa, cho nên cô ấy có ý thức về bản thể cô ấy như bụng mẹ. Cô ấy đón nhận, và cho sinh ra đứa trẻ. Cô ấy biết rằng cô ấy có thể đón nhận với niềm vui lớn lao, trong hồ hởi, trong cực lạc. Nhưng đàn ông về nguồn gốc là người cho, về sinh học là người cho. Bản ngã của anh ta là cứng nhắc. Anh ta không bao giờ nghĩ dưới dạng đón nhận, dưới dạng buông xuôi và tin cậy.
Đó là lí do tại sao khó cho đàn ông buông xuôi. Điều đó mất thời gian lâu hơn chút ít.
Và bất kì khi nào một người buông xuôi theo thầy, thế nữa bạn sẽ thấy - trong đệ tử đàn ông, duyên dáng nữ tính nào đó cũng nảy sinh. Nhiều đàn bà đã báo cáo cho tôi lặp đi lặp lại, "Cái gì đang xảy ra cho đệ tử đàn ông của thầy? Họ đang trở thành nữ tính." Điều đó là đúng. Bất kì khi nào ai đó trở thành đệ tử, một cách tự nhiên duyên dáng nữ tính nảy sinh. Người đó trở nên ít hung hăng; hung hăng của người đó chậm dần lại. Bản ngã của người đó không còn nổi bật nữa. Và dần dần, về mặt tâm linh người đó đi tới nhận ra bụng mẹ của người đó.
Chỉ khi bạn đã nhận ra bụng mẹ của bạn, bạn mới có thể kết nối được với thầy - đó là điều tính chất sannyas tất cả là gì. Khi tôi nói với người mới nào đó, "Bạn đã sẵn sàng cho tính chất sannyas," và người đó ngần ngại, và người đó nói, "Nhưng tôi đã không nghĩ về điều đó..."
Mới đêm hôm trước điều đó đã xảy ra. Bạn phải còn nhớ Mark - tôi đã bảo anh ấy rằng tôi không bao giờ quên một Mark. Đêm hôm qua anh ấy tới gặp tôi, và anh ấy thử, nhưng tôi đã không quên anh ấy. Anh ấy giống như bụng mẹ hoàn hảo thế, nhưng anh ấy không nhận biết về bụng mẹ của riêng anh ấy. Nó ẩn sâu trong chỗ sâu kín của vô thức. Và khoảnh khắc anh ấy buông xuôi, duyên dáng lớn nảy sinh trong anh ấy. Mặt anh ấy thay đổi, trở nên chói sáng.
Chintana, vấn đề với bạn là: bạn là đàn bà nhưng bạn đã rơi vào toán sai. Cô ấy đã là một xơ Cơ đốc giáo - đó là khó khăn. Cô ấy đã quên mất về bụng mẹ sinh học của cô ấy nữa. Xơ thì phải quên; xơ phải quên tính cảm nhận sinh học của cô ấy. Xơ phải trở thành phi đàn bà.
Cho nên Chintana đã gần như biến thành đàn ông - mọi xơ đều biến thành đàn ông. Cô ấy đã sống trong toán sai. Những người đó đã áp đặt cấu trúc nào đó lên con người cô ấy. Cô ấy là người đàn bà hiền dịu sâu bên trong, nhưng ở phía bên ngoài là tính cách của một xơ, áo giáp của xơ, đã làm cho cô ấy thành cứng nhắc. Điều may mắn là cô ấy đã tới đây. Dần dần, dần dần tính cứng nhắc đó đang biến đi; người đàn bà của cô ấy đang nảy sinh, bụng mẹ của cô ấy đang nắm quyền sở hữu cô ấy lần nữa. Xơ đang đi xa. Nhưng khi bạn đã thực hành thứ nào đó trong nhiều năm, điều đó lấy thời gian, nó nấn ná.
Xơ Cơ đốc giáo đó, cái bóng của xơ Cơ đốc giáo đó, vẫn còn quẩn quanh Chintana. Đó là điều làm cho cô ấy ngần ngại thế về việc lấy cú nhảy tối thượng. Thực ra, cô ấy phải đã có ham muốn tôn giáo lớn, bằng không sao cô ấy phải trở thành xơ? Cô ấy phải đã là người tìm kiếm - trong nhiều kiếp - bằng không chẳng ai đi và trở thành sư hay ni. Nó là từ việc tìm kiếm của mọi người. Và việc tìm kiếm này là tới mức cô ấy đã không mãn nguyện ở đó; một cách tự nhiên, cô ấy đã đi sang cực đối lập.
Các sannyasin của tôi là cực đối lập toàn bộ với việc là xơ hay sư Cơ đốc giáo. Bây giờ, ở đây, cô ấy có thể thảnh thơi. Nhưng việc ước định vẫn có đó và nó sẽ đi, dần dần. Đừng hợp tác với ước định đó. Nó đang trên đường, nó đang chết. Để cho nó chết.
Và một khi xơ đã biến mất khỏi tâm thức của Chintana, cô ấy sẽ nở hoa trong đoá hoa đẹp. Và ngày đó không còn xa xăm...
Câu hỏi thứ tư
Hôm qua thầy đã nói sự khác biệt chính giữa Phật giáo và Ki tô giáo, Hindu giáo, v.v., là ở chỗ trong Phật giáo không có các khái niệm tiên thiên, và trong các tôn giáo kia có hình ảnh tiền định của Thượng đế đã ước định việc kinh nghiệm của người ta về Thượng đế đó điều đến lượt nó lại làm mạnh thêm cho hình ảnh khởi đầu: cái vòng luẩn quẩn. Tuy nhiên, trong con đường Phật giáo không giữ các hình ảnh tiên thiên - không nắm giữ hình ảnh nào - hiển nhiên vẫn còn ước định người ta trải nghiệm Thượng đế như cái không, trống rỗng, điều đến lượt nó lại làm mạnh cho phi hình ảnh khởi đầu - vẫn là cái vòng luẩn quẩn. Xin thầy bình luận.
Đừng chơi với lời. Nhìn vào sự kiện đơn giản nhất đi. Phật giáo không cho bạn hình ảnh về tính không - không thể có bất kì hình ảnh nào về tính không. Bạn có thể tưởng tượng ra tính không được không? Thử xem sao. Làm sao bạn sẽ tưởng tượng được tính không? Hình ảnh nào? Tính không đơn giản nghĩa là: không vật, không hình ảnh. Bạn không thể làm ra hình ảnh của không hình ảnh. Một điều.
Phật giáo không nói tạo ra hình ảnh của tính không. Ngay chỗ đầu tiên, nó không thể được tạo ra. Nếu bạn tạo ra hình ảnh của tính không, thế thì chắc chắn bạn lại bị ước định; thế thì Thượng đế sẽ có vẻ như tính không. Nhưng Phật giáo không nói tạo ra hình ảnh của tính không. Phật giáo đơn giản nói tránh mọi hình ảnh. Và nếu bạn có thể tạo ra hình ảnh của tính không, cái đó được bao hàm trong 'mọi hình ảnh'.
Tránh mọi hình ảnh. Chỉ giữ cho không gian bên trong của bạn sạch sẽ và mở, tựa gương... và thế rồi xem bất kì cái gì được thấy.
Đơn giản, Phật giáo nói: Không quyết định trước khi biết. Điều đó là nghĩa của việc không có hình ảnh tiên thiên - không quyết định trước khi biết. Để việc biết xảy ra, và để quyết định tới qua việc biết. Không tin trước, vì niềm tin của bạn sẽ làm ô uế việc biết của bạn - và thế thì bạn sẽ không bao giờ có khả năng biết liệu điều bạn đã biết có thực đó không, hay có đó vì niềm tin của bạn. Niềm tin của bạn có thể tạo ra nó.
Tâm trí con người có tiềm năng lớn để tạo ra tưởng tượng. Đó là lí do tại sao thôi miên có tác dụng. Bạn có quan sát người thôi miên làm việc không? Người đó có thể thôi miên một người, và người đó có thể chỉ đặt một hòn đá cuội nhỏ vào tay của người này và có thể nói, "Đây là cục than đang cháy, cục than cháy nóng đỏ." Và người đang trong thôi miên sâu tin điều đó, vì thôi miên sâu nghĩa là năng lực hoài nghi của bạn đã bị cho đi ngủ. Người đó tin, và niềm tin tạo ra thực tại. Tay người đó sẽ bị bỏng - từ hòn đá cuội lạnh! Người đó sẽ la lên, người đó sẽ hét lên trong đau đớn; người đó sẽ ném hòn đá cuội đi. Và không chỉ điều đó - vết bỏng sẽ tới trên bàn tay người đó.
Bây giờ cái gì đã xảy ra? Bây giờ, khi người này được giải thôi miên, vết bỏng sẽ có đó - đủ bằng chứng rằng cục than cháy đã được đặt lên tay người đó. Và bạn biết rằng đã không có cục than cháy, không có gì như điều đó: chỉ viên sỏi lạnh bình thường. Nhưng niềm tin đã tạo ra thực tại của nó.
Và điều ngược lại cũng xảy ra: bạn có thể để cục than cháy vào tay của người bị thôi miên sâu, trong mê sâu, và bạn có thể nói, "Đây là hòn sỏi lạnh," và sẽ không có vết bỏng và người này sẽ không kêu la và sẽ không có dấu hiệu nào còn lại. Đó là cách mọi người bước đi trên lửa.
Bây giờ, điều Phật giáo đang nói là: Niềm tin có thể tạo ra một loại thực tại nào đó - cái mà không có đó. Phật giáo không nói tin vào tính không, vì việc nói đó sẽ tạo ra thực tại, chắc chắn. Nhưng làm sao người ta có thể tin vào tính không được? Bạn không thể tạo ra hình ảnh của tính không.
Tính không đơn giản nghĩa là không hình ảnh! Cho nên xin đừng chơi chữ. Về mặt logic, nó có vẻ liên quan, câu hỏi của bạn có vẻ liên quan, rằng Phật giáo tạo ra niềm tin, hình ảnh về tính không, thế thì Thượng đế xuất hiện như tính không - cho nên nó là cùng cái vòng luẩn quẩn. Nó không phải vậy. Phật giáo đơn giản lấy đi mọi niềm tin. Nó không tạo ra bất kì niềm tin nào. Nó bỏ bạn lại trong trạng thái vô tin.
Nhớ lấy: nó không tạo ra cả cái không tin! Nó đơn giản bỏ bạn lại trong trạng thái vô tin. Vô tin không phải là không tin. Phật giáo không phải là vô thần; Phật giáo không phải là hữu thần. Phật giáo không nói gì về Thượng đế. Phật giáo nói: Im lặng đi, hoàn toàn im lặng, hoàn toàn vô hình ảnh, trống rỗng, mắt bạn sạch hoàn toàn khỏi mọi bụi.
Bây giờ bạn có thể nói, "Sự sạch sẽ này sẽ là bụi trong mắt" - thế thì bạn đang chơi chữ. Nếu tôi nói, "Cứ để cho mắt bạn sạch, thế thì bạn sẽ có khả năng nhìn tốt hơn," bạn có thể nói, "Nhưng sạch sẽ không có đó. Làm sao tôi có thể thấy được tốt hơn? Sạch sẽ là điều gây rối cũng như bất kì hạt bụi nào!"
Về mặt logic, về mặt ngôn ngữ, bạn đúng. Về mặt tồn tại bạn không đúng. Tính sạch sẽ không có nghĩa cái gì cả; tính sạch sẽ đơn giản nghĩa là không có bụi, tất cả đều sạch. Khi tôi nói, "Không cái gì được viết trên giấy này," bạn sẽ nói, "Thế thì cái không được viết lên giấy này, cho nên cái gì đó được viết ra. Thầy nói cái không được viết trên giấy này - 'cái không' ít nhất cũng được viết lên giấy này"chứ? Bây giờ bạn đang tạo ra phân vân không cần thiết cho bản thân bạn.
Khi tôi nói cái không được viết trên giấy này, tôi đơn giản nói cái không được viết trên giấy này - giấy là trống rỗng. Nhưng bạn có thể bắt đầu biện luận triết lí: "Ít nhất 'cái không' được viết trên giấy này, cho nên giấy là không trống rỗng vì cái không có đó." Cái không là cái không, thưa ngài. Có câu chuyện hay:
Alice đến gặp nhà vua. Khi cô ấy tới nhà vua, nhà vua hỏi, "Ta đang đợi sứ giả. Ngươi có gặp ai đó trên đường tới ta không?" Alice nói, "Không ai, tâu bệ hạ."
Nhà vua tưởng rằng cô ấy đã gặp ai đó được biết tới dưới cái tên là 'Không ai'. Alice đơn giản nói, "Không ai, tâu bệ hạ." Cô ấy đang nói, "Tôi đã không gặp bất kì ai," nhưng nhà vua phải là một nhà ngôn ngữ lớn, một triết gia. Ông ta nghĩ, "Vậy cô ta đã gặp Không ai trên đường."
Sau vài phút ông ta lại hỏi, "Nhưng dường như Không ai bước đi chậm hơn ngươi, bằng không ông ấy phải đã tới bây giờ."
Alice nghĩ, "Nhà vua đang nói, 'Không ai bước đi chậm hơn ngươi,'" là ông ấy kết tội cô ấy. Cho nên cô ấy nói, "Dạ không, thưa bệ hạ. Không ai bước nhanh hơn tôi!"
Và nhà vua nói, "Nhưng thế thì điều đó làm ta phân vân: nếu Không ai bước đi nhanh hơn người, thế thì sao ông ấy vẫn chưa tới?"
Từ thất vọng, Alice nói, "Tâu bệ hạ, không ai là không ai!"
Và nhà vua nói, "Tất nhiên rồi, Không ai phải là Không ai chứ - nhưng tại sao ông ấy vẫn chưa tới?"
Và chuyện cứ diễn ra mãi… tiếp diễn mãi.
Phật giáo không nói không ai có đó bên trong, không theo nghĩa nhà vua này hiểu nó. Phật giáo nói đơn giản không có ai, nó là trống rỗng.
Và các niềm tin tụ lại xung quanh. Và thế rồi bạn bắt đầu nhìn qua những niềm tin. Thế thì những niềm tin đó làm thay đổi mầu sắc của thực tại. Thế thì bạn bắt đầu thấy mọi thứ như chúng không vậy.
Bỏ mọi hệ thống niềm tin đi. Và nhớ: Phật giáo không phải là hệ thống niềm tin - bạn không thay thế nó. Không nói được việc bỏ Ki tô giáo và thay thế nó bằng Phật giáo - thế thì bạn đã không làm được bất kì cái gì. Thế thì bạn đã chọn bệnh này thế cho bệnh khác. Thế thì bạn đã đi từ nhà tù này vào nhà tù khác, từ tù túng này sang tù túng khác.
Đó là lí do tại sao Nhất Hưu nói Phật giáo không phải là ‘giáo'. Nó không phải là tôn giáo theo nghĩa thường của thuật ngữ này. Nó không phải là nhà thờ: nó là sáng suốt. Nó không phải là tổ chức: nó là hiểu biết. Nó không phải là triết lí: nó là nhận ra.
Một khi bạn hiểu ra điểm này, vấn đề này sẽ không nảy sinh. Nhưng nếu bạn có năng khiếu triết lí của tâm trí, bạn có thể liên tục tạo ra những câu hỏi không cần thiết và giải chúng, và bạn có thể lâm vào đống lộn xộn quá nhiều. Chuyện xảy ra:
Edward trẻ trung bảnh bao đang bước qua công viên vào một trưa thì anh ta nghe thấy tiếng phụ nữ kêu khóc, "Xuống đi, đồ súc vật! Nếu mày để những cái móng bẩn thỉu của mày lên người tao thêm một lần nữa tao sẽ không bao giờ tới bãi cỏ lần nữa đâu."
Anh ta chạy xô ra sau hàng rào nơi giọng nói này vang tới, hi vọng cứu một thiếu nữ khỏi sự khiếp đảm thô tục - nhưng thay vì thế lại khám phá ra một bà già nhỏ bé đang nói chuyện với con chó cưng của bà ấy.
Ý tưởng của bạn, diễn giải của bạn... Bỏ mọi ý tưởng đi, bỏ mọi diễn giải đi.
Nhất Hưu không nói thay vào đó chấp nhận diễn giải của Phật. Lắng nghe điều ông ấy nói: Thích ca mâu ni, anh chàng tinh quái này - ông ta đã làm cho bao nhiêu người lầm đường lạc lối! Không phải là Phật đã dẫn làm cho ai lầm đường lạc lối, nhưng mọi người đã bị dẫn đi lầm đường, điều đó là đúng - những người như bạn! Họ bắt đầu tạo ra hình ảnh của cái không, họ bắt đầu tin vào không ai cả, họ bắt đầu tin vào tính không, họ tạo ra niềm tin quanh tính không - thế thì tính không bị mất. Thế thì tính không của bạn không còn là trống rỗng nữa: nó đầy tính không. Thế thì bạn bỏ lỡ vấn đề.
Khi Mã Tổ đạt tới hư không, ông ấy đi tới thầy của mình, cúi lạy và nói, "Thưa thầy, bây giờ tôi đã đạt tới tính hư không." Ông ấy đã từng chờ đợi khoảnh khắc này trong nhiều năm rồi, để một ngày nào đó đi tới và nói với thầy. Bây giờ khoảnh khắc đó đã tới - ông ấy đã đạt tới. Và thầy tát ông ấy.
Thầy nói, "Ông đang nói cái vô nghĩa gì vậy? Cút ra và làm trống rỗng tâm trí ông về tính hư không này đi. Làm trống rỗng tâm trí ông về tính hư không đi! Cút đi! Làm sao ông có thể có tính hư không bên trong ông được? vì thế thì tính hư không trở thành cái gì đó rồi."
Và Mã Tổ đã hiểu, và chính khoảnh khắc đó sự sáng trí xảy ra. Ông ấy cúi lạy, và ông ấy nói, "Vâng, tôi đã bắt đầu níu bám lấy tính hư không. Tôi đã ấp ủ nó như cái gì đó lớn lao. Lần nữa bản ngã đã tới từ cửa sau. Bây giờ nó đang tuyên bố, 'Ta đã đạt tới tính hư không.'"
Người ta phải là trống rỗng cả tính trống rỗng nữa. Người ta phải đơn giản hiện hữu mà không có niềm tin nào - thế thì thực tại là như nó vậy, thế thì bạn biết tính như vậy của nó.
Câu hỏi cuối cùng
Tôi tin tưởng rất mạnh mẽ vào Thượng đế. Tại sao thầy kết án niềm tin?
Tôi không kết án niềm tin - tôi đơn giản giải thích nó cho bạn, rằng niềm tin là rào chắn với Thượng đế. Niềm tin không phải là chiếc cầu mà là rào chắn. Chính niềm tin của bạn đang cản trở bạn với Thượng đế. Nếu niềm tin bị loại bỏ, ngay lập tức bạn ở trong Thượng đế, bạn là Thượng đế.
Và tại sao có bất kì nhu cầu nào để tin? Bạn không tin vào mặt trời, hay bạn tin? Bạn không tin vào trái đất, hay bạn tin? Bạn biết trái đất tồn tại, cho nên phỏng có ích gì mà tin. Bạn chỉ tin vào những thứ bạn không biết. Niềm tin là từ dốt nát. Phật không tin vào Thượng đế vì ông ấy biết Thượng đế! Bạn không biết Thượng đế, đó là lí do tại sao bạn tin vào Thượng đế. Và nếu bạn liên tục tin, cẩn thận vào - bạn sẽ không bao giờ đi tới biết.
Niềm tin đơn giản nghĩa là bạn đang che giấu dốt nát của bạn. Thay vì phá huỷ nó, bạn che giấu nó, trang điểm cho nó, làm cho nó thành thoải mái, thuận tiện, chấp nhận được chút ít. Bạn lo nghĩ rằng bạn không biết Thượng đế, cho nên bạn níu bám lấy niềm tin, và bạn làm cho bản thân bạn cảm thấy rằng, có chứ, bạn biết. Thường xuyên lặp lại niềm tin của bạn, lặp đi lặp lại, bạn bắt đầu tạo ra một loại tự thôi miên rằng "Tôi biết, tôi tin!"
Cứ nhìn vào câu hỏi của bạn mà xem: Tôi tin tưởng rất mạnh mẽ vào Thượng đế.
Chỉ niềm tin không có tác dụng sao? Nó phải mạnh mẽ sao? và thế rồi còn rất mạnh mẽ sao? Điều đó chứng tỏ cái gì? Bạn không thể che giấu được. Chân lí biểu lộ bản thân nó: bạn rất sợ dốt nát của bạn. Sâu bên dưới bạn biết rằng "Mình không biết." Bạn phải đẩy cái dốt nát đó đi, bạn phải tranh đấu với nó - cho nên bạn phải tin tưởng mạnh mẽ.
Nghĩ mà xem: ai đó tới bạn và nói, "Anh yêu em rất mạnh mẽ!" Anh ta ngụ ý gì trong thế giới này? Yêu là không đủ sao? Nó phải là rất mạnh sao? Nếu yêu có đó, nó là đủ. Nếu yêu có đó, không có nhu cầu thậm chí để nói nó. Im lặng là cách diễn đạt của nó.
Nhưng khi ai đó nói, "Anh yêu em rất mạnh mẽ, rất rất mạnh mẽ," thế thì có một điều chắc chắn, rằng anh ta sợ rằng tình yêu của anh ta không có đó. Anh ta đang xoay xở nó bằng cách nào đó, tạo ra nó bằng cách nào đó. Và anh ta đang lấy nỗ lực lớn để tạo ra nó - đó là lí do tại sao anh ta gọi nó là mạnh, vì anh ta biết bản tính không yêu của mình khó kìm nén được. Anh ta phải tranh đấu với bản tính không yêu của mình.
Chính lời của bạn, " Tôi tin tưởng rất mạnh mẽ vào Thượng đế," chỉ ra rằng bạn không biết Thượng đế chút nào; bằng không, sẽ không có nhu cầu về mạnh mẽ. Sẽ không có nhu cầu về niềm tin! Thượng đế đơn giản hiện hữu. Làm sao bạn có thể tin tưởng hay không tin tưởng được? Nó được bỏ lại cho bạn. Nhưng chúng ta liên tục che giấu. Nghe câu chuyện này:
Anh nông dân Jim rất lo nghĩ về hiệu năng kém của con bò đực xuất sắc của mình mà vì nó anh ta đã trả một số tiền vô cùng lớn. Anh ta nói với mọi bạn bè mình mọi lúc anh ta đi ra chợ, và một hôm được biết từ ông anh họ rằng có một bác sĩ thú y kì lạ ở phía dưới Quận Tây.
Anh ta thất vọng về con bò đực tới mức anh ta quyết định phương cách cuối cùng này là câu trả lời, và anh đích thân khởi hành đi tới Cornwall để tìm bác sĩ thú y. Cuối cùng anh ta tìm thấy anh chàng này người thúc giục anh ta cho con bò đực của mình một viên thuốc thật lớn uống một lần một ngày.
Vài tháng sau anh ta gặp người anh họ, anh này hỏi anh ta đã có được tiến triển thế nào. "Ồ, thật là tuyệt vời," anh ta nói. "Ông ấy cho tôi những viên thuốc này cho con bò đực và tôi đã cho nó uống ngay thế là nó làm ra món hời lớn. Thực ra," anh ta nói, "Tôi làm ra số tiền lớn từ các nông dân địa phương - họ không thể đưa bò cái của họ quanh đây tới đủ nhanh!"
"Vậy thế những viên thuốc này là gì?" người anh họ hỏi. "Ồ!" anh nông dân Jim nói, "mầu xanh lục khổng lồ làm việc như bom - với vị bạc hà!"
Bạn có thấy ra vấn đề không? Bạn có hiểu nó không? Bạn không thể che giấu được nó - cái vị bạc hà đó sẽ nói mọi điều. Niềm tin tưởng rất mạnh sao? Đó là vị bạc hà đó.
Bạn không biết gì về Thượng đế. Đó là lí do tại sao bạn lo nghĩ về tại sao tôi kết án niềm tin. Niềm tin của bạn phải cảm thấy run rẩy. Và nếu niềm tin bị mất đi, bạn sẽ lại là kẻ dốt nát - đó là nỗi sợ. Nhưng đó là công việc của tôi ở đây. Tôi xin lỗi, nhưng đó là công việc của tôi ở đây - làm cho bạn tuyệt đối như bạn vậy. Nếu bạn dốt nát, bạn dốt nát. Tốt hơn cả thì cứ là cái mà bạn đang là vậy, vì chỉ từ thực tại đích thực đó mà bạn mới có thể được bắc cầu tới thực tại tối thượng. Với niềm tin giả của bạn... và mọi niềm tin đều là giả. Niềm tin như vậy là giả. Việc biết là thực: việc tin là giả.
Tôi ở đây để làm cho bạn lại là người dốt nát. Nếu bạn hợp tác với tôi điều này sẽ xảy ra: bạn sẽ trở thành dốt nát, hồn nhiên. Thông thái của bạn sẽ biến mất - và trong chính việc biến mất đó bạn sẽ lần đầu tiên tìm thấy điều huyền bí của cuộc sống đang nhảy múa quanh bạn, và phúc lành của điều huyền bí đó. Điều huyền bí đó là Thượng đế.
Thượng đế không bao giờ có thể là một khái niệm. Thượng đế không thể bị thu lại thành một ý tưởng. Thượng đế không thể bị thu lại thành niềm tin.
Trở thành người dốt nát đi. Tôi chưa bao giờ nghe nói về bác học và học giả đạt tới Thượng đế. Tội nhân đã được biết đạt tới, nhưng không phải học giả. Tội lỗi nguyên thuỷ là tội lỗi của tri thức.
Nhớ đi nhớ lại câu chuyện kinh thánh. Nó là một trong những chuyện ngụ ngôn quí giá nhất của lịch sử nhân loại. Adam đã bị đuổi ra khỏi vườn Eden vì anh ta đã ăn Cây Tri thức. Tội của anh ta là tri thức của anh ta!
Bạn sẽ phải nôn ra tri thức của bạn. Nôn ra quả táo đi! Trở thành hồn nhiên và dốt nát lần nữa! Và bạn sẽ đạt tới thời thơ ấu thứ hai - và người may mắn là những người có thể đạt tới thời thơ ấu lần thứ hai, vì qua nó, và chỉ qua nó, người ta mới được bắc cầu tới Thượng đế. Nhưng thế thì không có niềm tin. Người ta biết.

Và nhớ, việc biết và tri thức là khác nhau. Tri thức bao gồm niềm tin, việc biết bao gồm kinh nghiệm.

0 Đánh giá

Ads Belove Post