Read more
Bước trong
Thiền, Ngồi trong Thiền - Osho
Chương
12. Trái tim luôn biết
Câu
hỏi thứ nhất
Osho
ơi, Phật đã nói, "Nếu ông muốn nhìn, nhìn ngay đi. Đừng để tâm trí đi vào
trong nó." Thầy có thể nói thêm cho chúng tôi về "nhìn" không?
Anand Deepesh,
Nhìn là trạng thái của vô trí, trạng thái của vô ý
nghĩ, trạng thái của nhận biết thuần khiết, khi bạn đơn giản phản xạ cái đang
hiện hữu mà không có bất kì suy diễn nào, bất kì phán xét nào, bất kì ý thích,
bất kì ý không thích nào; khi bạn không nói điều gì về nó, bạn chỉ vận hành như
chiếc gương.
Đó là lí do tại sao Phật nói, "Nếu ông muốn nhìn,
nhìn ngay đi," vì nếu bạn bắt đầu nghĩ bạn đã bỏ lỡ rồi. Nhìn ngay ngụ ý
không mang tâm trí vào. Tâm trí mang thời gian, tâm trí mang tương lai, tâm trí
mang quá khứ. Tâm trí bắt đầu so sánh liệu điều đó là đúng hay sai. Nó so sánh
với các định kiến cũ - với Gita, với Koran, với Kinh Thánh, với mọi ước định của
bạn - hay nó bắt đầu phóng chiếu bản thân nó vào trong tương lai, vào trong thế
giới của ham muốn: "Nếu mình tin vào điều này mình sẽ đạt tới cái gì?
Thành tựu sẽ là cái gì?" Khoảnh khắc tâm trí bước vào nó mang toàn thế giới
của quá khứ và tương lai. Đột nhiên bạn ở trong rối ren. Kí ức có đó, ham muốn
có đó, và cái đã được nói cho bạn bị mất đi trong rối ren này, trong tiếng ồn
này.
Phật nói: Nhìn nó ngay bây giờ! Thậm chí không suy
nghĩ một khoảnh khắc.
Suy nghĩ nghĩa là bỏ lỡ.
Do đó điều này đã từng là thực hành thường xuyên của
Phật: bất kì khi nào một người tìm kiếm mới tới ông ấy hỏi các câu hỏi, truy hỏi
về chân lí, Thượng đế, kiếp sau, ông ấy bao giờ cũng nói, "Đợi đã, đừng vội.
Cứ ngồi bên cạnh ta trong ít nhất hai năm không hỏi bất kì cái gì. Nếu ông thực
sự muốn được trả lời, thế thì quên mọi câu hỏi của ông trong hai năm đi. Nếu
ông không muốn được trả lời, thế thì ta sẵn sàng trả lời ngay bây giờ. Nhưng
ông không sẵn sàng lắng nghe. Chính câu hỏi của ông đang tới từ sự không lành mạnh
bên trong. Có cả nghìn lẻ một câu hỏi bên trong đòi hỏi sự chú ý. Trong khi ta
đang trả lời câu hỏi của ông, ông sẽ chuẩn bị câu hỏi mới để được hỏi; ông sẽ
không lắng nghe ta. Cho nên nếu ông thực sự muốn được trả lời, đợi trong hai
năm đi. Ngồi im lặng bên cạnh ta không hỏi, đơn giản quan sát điều đang xảy ra ở
đây.
"Nhiều thứ sẽ xảy ra trong hai năm này: ông sẽ thấy
nhiều người nở hoa. Ông sẽ thấy mọi loại người tới ta: người tò mò, người tới với
tay trống rỗng và đi với tay trống rỗng, người tìm kiếm thực, người tới với tay
trống rỗng nhưng không bao giờ đi mà tay trống rỗng - họ ở lại, họ vẫn còn lại
với ta cho tới lúc họ được hoàn thành. Ông sẽ thấy những người chậm, người mất
thời gian rất dài, quá trình dần dần, và ông sẽ thấy những người nhanh, người
thông minh, người hiểu ngay lập tức. Đơn giản quan sát đi. Bước cùng ta từ làng
này sang làng khác, ngồi cùng ta dưới cây này và cây khác, thấm đẫm linh hồn
ta, cảm thấy im lặng của ta, nhìn vào mắt ta, quan sát cách ta bước, quan sát
cách ta ngồi. Đơn giản quan sát trong hai năm và quên đi mọi câu hỏi của ông, đừng
hình thành bất kì câu hỏi nào, và sau hai năm, nếu ông có thể hoàn thành điều
kiện này, ông sẽ được phép hỏi và ta sẽ trả lời ông. Và ta hứa với ông rằng dù
câu hỏi là bất kì cái gì, nó sẽ được giải, dù cơn khát của ông là bất kì cái
gì, nó sẽ được làm dịu đi."
Một triết gia lớn, Maulingaputta, đã tới, và ông ấy hỏi
những câu hỏi triết lí lớn, tất nhiên. Phật lắng nghe - ông ấy rất nổi tiếng,
ông ấy đã nổi tiếng khắp nước. Ông ấy đã không tới một mình, ông ấy đã tới cùng
năm trăm đệ tử riêng của mình. Họ ngồi đằng sau ông ấy. Phật kiên nhẫn lắng
nghe. Trong một giờ ông ấy đã hỏi những câu hỏi này nọ - những câu hỏi rất rắc
rối, những câu hỏi phức tạp, những câu hỏi tinh vi. Thế rồi ông ấy nói,
"Tôi đã hỏi nhiều câu hỏi thế, nhưng ông đã không trả lời."
Phật nói, "Cách trả lời của ta là ở chỗ ông sẽ phải
đợi trong hai năm cùng ta. Đây là những câu hỏi ông đã hỏi nhiều người. Ông đã
hỏi chúng hay không hỏi chúng trước khi hỏi ta?"
Maulingaputta nói, "Điều đó đúng. Tôi đã hỏi
Mahavira và ông ấy lập tức trả lời. Tôi đã hỏi Sanjay Vilethiputta" - ông
này là một thầy giáo nổi tiếng khác của thời đó - "và ông ấy đã lập tức trả
lời. Tôi đã hỏi Ajit Keshkambli" - ông này là một triết gia rất hoài nghi
"và ông ấy đã quan tâm lắm tới câu hỏi của tôi. Và tôi đã hỏi nhiều người
khác thế. Chúng tôi đã từng du hành khắp nước."
Phật nói, "Ông đã hỏi nhiều người thế và tất cả họ
đều đã trả lời, nhưng ông có nhận được câu trả lời không? Nếu ông đã nhận được
câu trả lời, thế thì sao phí thời gian của ta?"
Maulingaputta nói, "Họ đã trả lời, nhưng tôi chưa
nhận được câu trả lời. Câu hỏi của tôi vẫn còn y nguyên không được động tới.
Câu trả lời của họ đã không thoả mãn cho tôi."
Thế rồi Phật nói, "Ta cũng có thể trả lời ngay
bây giờ như họ đã trả lời - nó cũng sẽ không thoả mãn cho ông đâu. Bây giờ ông
phải quyết định. Nếu ông thực sự quan tâm thế thì liều để ra thời gian hai năm
và ngồi im lặng bên cạnh ta."
Maulingaputta đợi trong hai năm, nhưng trước khi ông ấy
nói, "Vâng, tôi sẵn sàng đợi," một trong những đại đệ tử của Phật,
Manjushri, bắt đầu cười. Maulingaputta nói, "Sao người này cười như điên vậy?"
Phật nói, "Ông ấy không điên đâu - ông ấy là đệ tử
đầu tiên của ta đã trở nên chứng ngộ. Và ta biết tại sao ông ấy cười - ông có
thể hỏi đích thân ông ấy."
Maulingaputta hỏi Manjushri, "Tại sao ông cười?"
Ông này nói, "Tôi cười vì ông Phật Gautam này trí
xảo lắm! Ông ấy đã đánh lừa tôi theo cùng cách. Lắng nghe điều ông ấy nói với
ông, tôi nhớ tới cuộc hành trình riêng của tôi tới ông ấy. Hai mươi năm đã trôi
qua; đột nhiên tôi nhớ lại - tôi đã hoàn toàn quên mất - rằng đây cũng đã là những
câu hỏi của tôi nữa. Cứ dường như lịch sử đang lặp lại bản thân nó. Và điều kì
lạ là tôi đã tới cùng năm trăm đệ tử của riêng tôi hệt như ông đã tới, và tôi
đã hỏi Phật và cùng lời đáp đã được trao cho tôi: Đợi hai năm.' Tôi đã đợi hai
năm, và tôi đang cười đây! Tôi muốn nói điều này với ông như lời cảnh báo: nếu
ông muốn hỏi người này, hỏi ngay bây giờ đi, vì sau hai năm ông sẽ không hỏi và
ông ấy sẽ không trả lời."
Phật nói, "Ta sẽ sẵn sàng trả lời, nhưng nếu bản
thân ông từ chối hỏi, ta có thể làm gì được? Lời hứa của ta sẽ vẫn đứng đó - ta
là con người của lời nói."
Và câu chuyện này đã xảy ra theo cùng cách mà
Manjushri đã dự báo. Hai năm trôi qua - Maulingaputta đã hoàn toàn quên mất, vì
ai nhớ tới thời gian khi người ta hiện hữu cùng một người như Phật?
Bạn nhớ thời gian chỉ khi bạn khổ; khi bạn phúc lạc,
thời gian bị quên đi. Thời gian tuỳ thuộc... Nếu bạn rất khổ thế thì một giờ dường
như nhiều ngày đã trôi qua. Nếu bạn phúc lạc, thế thì nhiều ngày dường như chỉ
vài khoảnh khắc đã trôi qua. Và nếu bạn phúc lạc toàn bộ thế thì thời gian dừng
lại, thế thì thời gian biến mất, bay hơi; thế thì không còn thời gian thêm nữa.
Thế thì bạn đơn giản sống bên ngoài thời gian.
Hai năm trôi qua. Maulingaputta đã quên, nhưng Phật nhắc
ông ấy. Đột nhiên một hôm Phật nói, "Maulingaputta, hai năm trôi qua rồi.
Giờ là lúc ông nên hỏi câu hỏi của ông. Và ta sẵn sàng trả lời."
Và Maulingaputta cười. Phật nói, "Ông cười như
điên! Chuyện gì đã xảy ra? Ông có nhớ tiếng cười của Manjushri hôm đó
không?"
Maulingaputta nói, "Câu hỏi của tôi đã rơi rụng mất
rồi. Tôi chẳng có gì để hỏi. Tôi đã trở nên hoàn toàn im lặng. Thầy đã không trả
lời và vậy mà thầy đã trả lời."
Đây là câu trả lời thực. Thầy thực giết chết các câu hỏi
của bạn theo cách tinh tế tới mức bạn không bao giờ trở nên nhận biết về điều
đó; không có bất kì đổ máu nào dù ông ấy liên tục phá huỷ các câu hỏi của bạn.
Dần dần, từ từ, bạn trở nên nhận biết về cái ngớ ngẩn của mọi câu hỏi của bạn.
Dần dần, dần dần bạn trở nên nhận biết về điều huyền bí vô cùng của sự sống. Sự
sống không phải là câu hỏi và nó không thể bị thu lại thành câu hỏi và không có
câu trả lời cho nó. Nó là điều huyền bí, không thể trả lời được, không thể giải
được. Bạn phải sống nó, bạn phải nếm trải nó, bạn phải trải nghiệm nó. Và nó được
trải nghiệm trong im lặng.
Do đó thiền chứa mọi câu trả lời vì thiền là nghệ thuật
vượt ra ngoài tâm trí. Một khi tâm trí đã mất đi với mọi huyên thuyên của nó, bạn
có khả năng nhìn, việc nhìn xảy ra. Và việc nhìn là biến đổi. Khi bạn có thể
nhìn cái đang đó, toàn thể cuộc sống của bạn được biến đổi. Bây giờ bạn không
thể sống ngược lại sự tồn tại; điều đó là không thể được. Bạn bắt đầu sống
trong hài hoà với sự tồn tại.
Với việc biết, với việc nhìn, làm sao bạn có thể đi
ngược lại luật tối thượng của sự sống? Không ai ngu xuẩn thế. Bạn đi ngược lại
nó vì bạn không nhận biết về nó. Khi bạn nhận biết về nó bạn đơn giản trở thành
một phần hài hoà của nó; bạn rơi vào trong sự thống nhất hữu cơ của sự tồn tại,
bạn biến mất như một bản ngã - giọt sương biến mất trong đại dương và trở thành
đại dương. Và đó là hoàn thành, và đó là mãn nguyện, và đó là phúc lạc tối thượng,
niết bàn.
Câu
hỏi thứ hai
Osho
ơi, tôi có bốn điều đặc biệt: tôi ngủ rất say trong bài nói của thầy, tôi ăn
nhiều sô cô la và kem, tôi là cô gái Đức và tôi ngu dại với một swami Ấn Độ.
Tôi có thể được chứng ngộ không?
Prem Gayano,
Ngủ là rất có ích. Chứng ngộ là rất gần với ngủ.
Patanjali đã định nghĩa đích xác samadhi là ngủ chỉ với một khác biệt chút ít:
rằng nó là ngủ có ý thức. Thân thể ngủ, tâm trí ngủ, nhưng cái gì đó sâu hơn
nhiều trong bạn vẫn còn thức - tại chính trung tâm con người bạn, ngọn lửa của
nhận biết. Cho nên ngủ say không là gì để bị lo nghĩ tới. Điều đó là rất tốt.
Và những bài nói này được ngụ ý dành cho điều đó! Chỉ giữ chút nhận biết sâu
bên trong. Nếu bạn không nghe bài nói của tôi, điều đó không cần phải bị lo
nghĩ; chỉ vẫn còn tỉnh táo chút ít bên trong. Và nếu bài nói của tôi có thể
giúp bạn rơi vào trong giấc ngủ say, ít nhất cái gì đó đang xảy ra, bạn đang
trên đường đúng. Chỉ sâu hơn một chút...
Và nếu bạn ăn nhiều sô cô la và kem điều đó là hoàn
toàn tốt vì bạn có thể không tới lần nữa, cho nên được kết thúc với điều đó đi.
Ăn nhiều sô cô la và kem nhất khi bạn còn muốn ăn vì ở bờ bên kia không có kem,
không có sô cô la - và tôi đang nói cho bạn từ kinh nghiệm của tôi! Bạn có biết
tôi cảm thấy khổ thế nào không? Bây giờ tôi hối hận - tại sao tôi không ăn sô
cô la và kem và mọi thứ? Nhưng khi tôi còn ngủ như bạn vậy, Deeksha đã không có
xung quanh!
Và không có nhu cầu bị lo nghĩ rằng bạn là cô gái Đức.
Nếu bạn đã là một cô gái California, thế thì sẽ có rắc rối. Người Đức là người
suy nghĩ tập trung vào một điểm; họ đi như mũi tên, đi thẳng tới điểm đích, họ
không đi ngoằn nghoèo. Đó không phải là cách thức của họ. Một khi họ đã quyết định
cái gì đó thế thì họ sẽ đi theo nó tới tận cùng - dù bất kì cái gì xảy ra. Họ
không nhìn đây đó, họ không nhìn lại sau. Đó là lí do tại sao tôi có một chỗ dịu
dàng thế cho người Đức. Điều đó là hoàn toàn được. Chỉ người California là
trong khó khăn.
Dòng chữ in trên cái chắn va đập ô tô của California:
Cảnh báo: Tôi phanh vì ảo giác.
Khi có liên quan tới chứng ngộ người ta chỉ phải cẩn
thận với các ảo giác, vì người ta có thể ảo giác rằng người ta đã trở nên chứng
ngộ. Nhiều người California đang ảo giác. Bây giờ có nhiều người chứng ngộ ở
California như chưa bao giờ có ở bất kì chỗ nào trên thế giới. Trong toàn thể lịch
sử nhân loại đã không có nhiều người chứng ngộ thế như bạn sẽ thấy ở mọi nơi ở
California. Gần như trong mọi nhà bạn sẽ tìm thấy người chứng ngộ! Bất kì người
nào cũng có thể ảo giác. Cho nên tôi hoàn toàn hài lòng rằng bạn là cô gái Đức.
Vấn đề duy nhất là ở chỗ bạn ngu dại với một swami Ấn
Độ. Tôi phải hỏi bạn hai câu hỏi, Gayano. Có phải bởi tình cờ swami Ấn Độ này
có tên là Paramahansa Muktananda? Thế thì tránh anh chàng này ra! Và anh ta
đang cố che giấu tên anh ta, nhớ điều đó. Anh ta không nói cho mọi người tên
anh ta. Bây giờ mọi người đang truy hỏi về anh ta, "Paramahansa Muktananda
này là ai?" Ngu dại thì được, nhưng tránh anh chàng này ra vì với anh ta
không có khả năng chứng ngộ chút nào. Tôi đã biết những người đã trở nên chứng
ngộ và chỉ bằng việc ở cùng người này họ đã trở thành lại không chứng ngộ!
Làm sao bạn sẽ nhận ra được anh ta? Anh ta liên tục cười
như Jimmy Carter! Cho nên bạn phải quan sát điều đó. Và bây giờ vì tôi đang nói
điều đó, anh ta có thể cố che giấu ngay cả điều đó, cho nên bạn có thể quan sát
anh ta trong đêm khi anh ta ngủ vì thế thì anh ta hoàn toàn quên, một cách tự
nhiên. Anh ta có bộ mặt, cùng bộ mặt ngoại giao, cùng bộ mặt ngu xuẩn như Jimmy
Carter.
Bà Carter đi kiểm tra sức khoẻ ở nhà nha sĩ.
"Mồm thế nào?" nha sĩ hỏi.
"Á, ông ấy đi xa chơi golf cuối tuần này,"
bà ấy đáp.
Bằng không mọi thứ diễn ra tốt đẹp, Gayano. Nếu bạn có
thể nhận biết về Paramahansa Muktananda này, thế thì mọi sự là ổn với bạn. Tôi
có thể đảm bảo chứng ngộ của bạn.
Câu
hỏi thứ ba
Osho
ơi, tôi đã nhận tính chất sannyas từ những lí do sai, không từ tim. Tôi đã
nghĩ, "Vì đằng nào mình cũng làm sai, mình cũng có thể thử tính chất
sannyas." Nhưng chính ngày sau buổi darshan mọi thứ đã thay đổi. Bây giờ
tôi cảm thấy thầy trong tim tôi ngày càng mạnh hơn. Đeo vòng hạt không còn là sự
hi sinh mà là ân huệ và vui thú. Ngay cả một số vấn đề cũ đã biến mất. Làm sao
khoảnh khắc sai có thể chứng tỏ là khoảnh khắc đúng?
Uli,
Bạn không nhận biết về trái tim riêng của bạn, có vậy
thôi. Bạn đã tưởng rằng nó đã không bắt nguồn từ tim bạn - nó phải đã bắt nguồn
từ tim bạn chứ, bằng không điều đã xảy ra chắc đã là không thể được. Nhiều người
không nhận biết về tim của họ bởi lẽ đơn giản rằng toàn thể xã hội, văn hoá,
giáo dục của chúng ta ước định chúng ta bỏ qua tim; họ muốn chúng ta đạt tới đầu
nhanh nhất có thể được. Họ cố tìm ra lối tắt, và tim bị gạt sang bên. Sinh lực
của bạn trở nên hoàn toàn quên lãng sự kiện rằng có tim đang đập bên trong bạn.
Và các nhà sinh lí liên tục nói với bạn rằng tim bạn không là gì ngoài một phần
của sinh lí của bạn. Vâng, họ là đúng. Tim có hai mặt: mặt bên ngoài của nó là
một phần của sinh lí, mặt bên trong của nó là một phần của tâm linh. Các nhà
sinh lí học chỉ quan tâm tới mặt bên ngoài, nhưng mặt bên trong liên tục làm việc.
Cho dù bạn không nhận biết về nó, nó vẫn liên tục làm việc trong bạn; nó liên tục
ảnh hưởng tới cuộc sống của bạn theo nhiều cách.
Đó là lí do tại sao nhiều lần bạn cảm thấy cái gì đó
đã xảy ra mà bạn không bao giờ muốn xảy ra. Bạn rơi vào yêu với người đàn bà;
tâm trí bạn nói, "Nó đơn giản là điên. Mình đang làm gì vậy?" Điều đó
dường như là bất hợp lí - nó không hấp dẫn tâm trí bạn và lí trí bạn. Dầu vậy,
cái gì đó sâu hơn tâm trí đang kéo bạn; bạn không thể cưỡng lại nó được. Bạn
rơi vào yêu mặc cho mọi sự hợp lí của bạn, tâm trí của bạn, huấn luyện khoa học
của bạn, tư duy của bạn. Và tâm trí liên tục nói, "Mình đang làm điều ngu
xuẩn làm sao! Điều này là không đúng! Mình đáng phải không làm nó." Nó có
thể tìm ra cả nghìn lẻ một cớ để không làm điều đó. Nhưng cái gì đó mạnh hơn
nhiều, bản chất hơn nhiều, sâu hơn đang làm việc, và tâm trí cảm thấy gần như bất
lực. Thế rồi tâm trí rất láu lỉnh - nó không bao giờ chấp nhận thất bại của nó
- nó nói, "Được, ta thử vậy."
Đó là điều đã xảy ra với bạn. Tâm trí bạn nói với bạn,
"Vì đằng nào mình cũng làm sai mình cũng có thể thử tính chất
sannyas." Cái gì đó sâu sắc đã bị khuấy động, nhưng tâm trí sẽ không chấp
nhận điều đó vì nó không muốn chấp nhận rằng có bất kì cái gì sâu hơn nó. Nó sẽ
không chấp nhận thất bại của nó.
Tôi đã nghe nói về Mulla Nasruddin. Anh ta đang đi rất
nhanh trên con lừa; con lừa gần như chạy. Và mọi người hỏi, "Nasruddin,
anh đi đâu đấy?" Anh ta đang đi qua bãi chợ.
Anh ta nói, "Đừng hỏi tôi, hỏi con lừa ấy!"
Họ nói, "Điều này thực lạ!"
Nasruddin nói, "Chẳng có gì lạ cả. Con lừa này bướng
tới mức bất kì khi nào tôi cố điều khiển nó, nó đấu lại tôi thế - nó sẽ không
đi theo cách đó. Cho nên khi tôi một mình trên đường tôi đánh nó và tôi đem nó
tới chỗ tôi muốn đi, nhưng ở bãi chợ mọi người tụ tập và đám đông bắt đầu cười
tôi: 'Lừa riêng của anh và anh không là người chủ của nó!' Và nó càng thấy đám
đông nó càng trở nên ương bướng hơn. Cho nên tôi đã học được một bài học: rằng
khi đi qua bãi chợ tôi đơn giản đi tới bất kì chỗ nào nó đi. Bên ngoài thị trấn
tôi sẽ xử trí kẻ ngu này, nhưng trong bãi chợ tôi cho phép nó dẫn tôi đi. Điều
đó ít nhất gây cho toàn thị trấn ấn tượng giả rằng tôi là người chủ!"
Đó là cách thức của tâm trí.
Mulla Nasruddin nói với con trai mình, "Ngồi im đừng
làm ồn ào!"
Nhưng đứa con trai không nghe. Anh ta càng bảo nó ngồi
im, không làm ồn ào và vâng lời, đứa trẻ càng nổi loạn hơn.
Chung cuộc Nasruddin nói, "Được, bây giờ không
vâng lời bố và để bố xem con có thể không vâng theo mệnh lệnh này không! Không
vâng lời bố đi - đây là mệnh lệnh của bố! Và bây giờ chúng ta hãy xem làm sao
con có thể không vâng lời bố."
Đây là chiến lược của tâm trí; tâm trí biết. Đầu tiên
nó thử áp đảo tim; nếu nó không thể làm được, thế thì nó tự nhủ bản thân nó,
"Ta thử vậy - cái gì sai với điều đó? Chúng ta đã thử nhiều thứ thế."
Nhưng, Uli, cái gì đó sâu bên dưới mà bạn không nhận
biết rõ ràng đã kéo bạn vào tính chất sannyas. Nó là từ lực. Chắc chắn bạn ở
trong nó mặc tâm trí bạn, nhưng không mặc tim bạn, bằng không điều đã xảy ra chắc
đã không xảy ra chút nào.
Bạn nói: Nhưng chính ngày sau buổi darshan mọi thứ đã
thay đổi.
Điều đó chứng tỏ rằng tim đã bừng nở, nở hoa. Lần đầu
tiên cái gì đó của tim đã được nghe thấy. Lần đầu tiên bạn đã cho nó một cơ hội.
Lần đầu tiên bạn đã nghe theo yêu thay vì theo logic. Lần đầu tiên bạn đã có
chút ít tính thơ ca hơn chỉ là nhà tư tưởng. Lần đầu tiên bạn đã gạt sang bên mọi
số học và bạn đã lấy cú nhảy vào cái gì đó huyền bí, không tính toán được. Lần
đầu tiên bạn đã không có tính tính toán.
Bạn nói: Bây giờ tôi cảm thấy thầy trong tim tôi ngày
càng mạnh hơn.
Hạt mầm này phải đã có đó rồi, nhưng bạn không thể thấy
được hạt mầm này. Khi nó bắt đầu đâm chồi, thế thì bạn có thể thấy nó. Khi lá bắt
đầu nhú ra khỏi đất, thế thì nó trở thành thấy được. Nhưng không có hạt mầm lá
không thể tới được. Bây giờ bạn đang thấy lá; nhìn lại sau chúng là đủ bằng chứng
rằng phải đã có hạt mầm. Bạn đã vô nhận biết về nó; bây giờ những lá này đang
làm cho bạn nhận biết về nó.
Phần câu hỏi thứ tư
Đeo vòng hạt không còn là sự hi sinh mà là ân huệ và
vui thú.
Không chỉ lá mà nụ và hoa nhỏ đang trên đường tới.
Phần câu hỏi thứ năm
Ngay cả một số vấn đề cũ đã biến mất.
Đó là phép màu của tim: tim đơn giản giúp gạt bỏ những
vấn đề đó mà tâm trí không thể giải quyết được. Tâm trí liên tục di chuyển
trong những vòng tròn. Tim đơn giản lấy cú nhảy ra khỏi những vòng tròn đó và đột
nhiên đã siêu việt trên những vấn đề mà bao giờ cũng hành hạ bạn. Đột nhiên bạn
thấy rằng chúng không liên quan, rằng không có nhu cầu giải chúng, rằng thậm
chí không cần bận tâm về chúng, rằng chúng không phải là mối quan tâm của bạn,
chúng không thuộc vào bạn - dường như người ta đã ra khỏi giấc ngủ và vấn đề mà
người ta đã đối diện trong mơ giờ bay hơi đi, đột nhiên không còn liên quan. Đó
là điều đã xảy ra, Uli.
Bây giờ bạn nói: Ngay cả một số vấn đề cũ đã biến mất.
Làm sao khoảnh khắc sai có thể chứng tỏ là khoảnh khắc đúng?
Điều đó đơn giản chứng tỏ nó không phải là khoảnh khắc
sai; nó đã là khoảnh khắc đúng, nhưng bạn đã chỉ không nhận biết về nó. Bây giờ
bạn nhận biết về nó. Bây giờ đi sâu hơn một cách có ý thức vào trong nó đi. Nếu
vô ý thức nhiều thế đã xảy ra, nếu chỉ bằng việc dò dẫm trong bóng tối nhiều thứ
thế đã xảy ra, ở đó nếu bạn bắt đầu đi một cách có ý thức, khả năng trưởng
thành của bạn là mênh mông, hi vọng là lớn lao. Hoa lớn hơn đang chờ đợi. Mùa
xuân đã tới, bạn đã thấy việc nở hoa đầu tiên; bây giờ mọi cây sẽ sớm nở hoa. Toàn
thể con người của bạn sẽ trở thành hương thơm.
Nhưng bỏ ý tưởng rằng bạn đã đi ra từ quyết định sai
đi; nó đã không sai. Tâm trí bạn đã tưởng rằng nó là sai, nhưng tim bạn biết rõ
hơn nhiều. Tim bao giờ cũng biết rõ hơn trí.
Câu
hỏi thứ tư
Osho
ơi, thầy nói gì với một tâm trí liên tục suy nghĩ trong bốn thứ tiếng khác
nhau? (tiếng Persian, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức.)
Shraddes,
Dù bạn nói một thứ tiếng hay một tá thứ tiếng cũng
không tạo ra khác biệt gì - nó là cùng một tâm trí. Tất cả những ngôn ngữ đó sẽ
nói cho cùng một tâm trí. Nếu người điên nói tiếng Persian, bạn có cho rằng nó
sẽ khác hơn khi người đó nói tiếng Anh hay tiếng Pháp hay tiếng Đức? Người điên
là người điên; trong bất kì ngôn ngữ nào người đó đều sẽ điên.
Người chứng ngộ là người chứng ngộ; trong bất kì ngôn
ngữ nào người đó sẽ vẫn là chứng ngộ. Dù người đó nói hay không, người đó vẫn
còn là cùng người. Tất nhiên, bốn thứ tiếng sẽ làm cho sự việc rắc rối hơn một
chút, nhưng vấn đề cơ bản vẫn là cùng vấn đề. Tâm trí bạn là một, bệnh của tâm
trí bạn là một. Bạn có thể diễn đạt bệnh đó trong bốn thứ tiếng, có vậy thôi;
nhưng duy nhất việc diễn đạt sẽ khác, rễ không thể khác.
Một hôm khi Johnny Fuckerfaster đi học, cô giáo quyết
định cho ôn tập bảng chữ cái. Cô bảo các học trò, "Cô sẽ đặt tên các chữ của
bảng chữ cái và các con nói cho cô một từ bắt đầu bằng chữ cái đó. Chúng ta sẽ
bắt đầu với chữ A."
Johnny Fuckerfaster giơ tay kêu lên, "Con biết,
con biết!"
Cô giáo biết Johnny có tâm trí tục tĩu và tự nhủ,
"Nó sẽ nói 'asshole-lỗ đít' và làm cho cả lớp ngượng." Thế là cô gọi
một trò khác, cậu này trả lời, "Apple-táo." Cô giáo đọc chữ
"B" và Johnny lại giơ tay một cách bực tức và la lên, "Thưa cô,
cô gọi con, con biết!" Cô giáo hình dung nó sẽ nói "bastard-con
hoang," thế là cô yêu cầu một trẻ khác trả lời. Nó đáp, "Boy-con
trai." Cô giáo tiếp tục qua bảng chữ cái cho tới khi cô gặp chữ
"R." Đến lúc này Johnny nhảy tưng tưng tại chỗ của nó và làm rung
chuyển tới mức cô giáo không thể né tránh nó. "Nó có thể làm ra từ tục tĩu
nào với chữ 'R'?" cô nghĩ. Không từ nào tới trong đầu cho nên cô gọi
Johnny.
"Rat - chuột..." nó nói. Cô giáo thở dài nhẹ
người, thế rồi mỉm cười và nói, "Rất tốt, Johnny! "
Thế rồi Johnny nói thêm, "... và nó có cái đuôi
dài vô cùng và ỉa ra sàn!"
Bạn không thể né tránh được tâm trí bạn; nó sẽ tìm ra
cách thức của nó. Bất kì tiếng nào cũng được - bốn thứ tiếng hay bốn mươi thứ
tiếng. Vâng, nó có rắc rối hơn chút ít, Shraddes, nhưng tâm trí có năng lực, có
năng lực tới mức người ta phân vân nghĩ về tiềm năng của nó.
Những người hiểu, người đã làm việc về cơ chế bên
trong của tâm trí, nói rằng chỉ tâm trí một người có thể chứa mọi thư viện của
thế giới; năng lực của nó gần như là vô hạn. Nhưng nếu bạn ngu, cho dù bạn biết
mọi điều đã được viết ra, cho dù bạn trở thành cuốn Bách khoa toàn thư
Britannica biết đi, điều đó chắc cũng không tạo ra mấy khác biệt; bạn sẽ vẫn
còn là kẻ ngu. Tất nhiên, cái ngu của bạn bây giờ sẽ là cái ngu được trang điểm
thêm chút ít. Đó là điều học giả là gì: kẻ ngu được trang điểm bằng bằng cấp
hơn, chứng chỉ, văn bằng. Họ có thể giả vờ rằng họ biết - và họ có thể giả vờ một
cách logic hơn bất kì người nào khác vì họ có thông tin - nhưng sâu bên dưới chỉ
có cùng bóng tối, cùng sự vô ý thức.
Bạn nói: thầy nói gì với một tâm trí liên tục suy nghĩ
trong bốn thứ tiếng khác nhau?
Nó là cùng một thứ thôi - suy nghĩ là cùng một, bệnh
là cùng một. Và phương thuốc là không khác: thiền có thể giúp bạn gạt bỏ một thứ
tiếng, nó có thể giúp bạn gạt bỏ bốn thứ tiếng hay bốn trăm thứ tiếng. Thiền
đưa bạn vào trong không gian nơi tâm trí bị bỏ lại đằng sau với mọi tri thức của
nó. Đột nhiên bạn bắt đầu vận hành từ trạng thái không biết, từ hồn nhiên. Và hồn
nhiên đó là đẹp và hồn nhiên đó là ngát hương. Hồn nhiên đó là tôn giáo bản chất.
Câu
hỏi thứ năm
Osho
ơi, tại sao tôi sợ chết nhiều thế?
Chinmayo,
Người ta sợ chết vì người ta vô nhận biết về sống là
gì. Nếu bạn biết sống là gì, sợ chết biến mất theo cách riêng của nó. Vấn đề
không phải là về chết chút nào, vấn đề là về sống. Vì chúng ta không biết sống
là gì, do đó chúng ta sợ rằng nó sẽ chấm dứt một ngày nào đó. Chúng ta thậm chí
đã không sống. Làm sao bạn có thể sống mà không biết nó là gì? Bạn đã không sống
không yêu; bạn đã đơn giản kéo lê, sống thực vật. Và bạn biết rằng một điều là
chắc chắn: chết đang tới gần hơn mọi ngày, mọi khoảnh khắc, do đó có sợ. Sợ là
tự nhiên vì chết sẽ đóng cửa lại mãi mãi. Và không biết sống là gì bạn sẽ vẫn bị
đem đi. Bạn đã được trao cho một cơ hội, cơ hội lớn, và bạn đã bỏ lỡ nó.
Bạn liên tục trì hoãn sang ngày mai. Bạn nói,
"Ngày mai tôi sẽ sống." Nhưng đồng thời, bên cạnh, có sợ: bạn biết,
"Ngày mai, ai biết? Ngày mai có thể chết sẽ tới, thế thì sao?" Và bạn
đã trì hoãn sống đến ngày mai và không còn ngày mai nữa - thế thì sao? Thế thì
sợ nảy sinh. Và bạn không biết cách sống ngay bây giờ. Không người nào bảo bạn
cách sống ngay bây giờ.
Người thuyết giảng, các chính khách, bố mẹ, tất cả họ
đều nói cho bạn về ngày mai. Khi bạn là đứa trẻ nhỏ họ bảo bạn, "Khi con
là thanh niên con sẽ biết cuộc sống là gì." Khi bạn là thanh niên họ nói,
"Con là bọn trẻ ngu - thanh niên là ngu. Khi con già, thế thì con sẽ hiểu."
Và khi bạn già họ nói, "Cụ được kết thúc. Bây giờ chẳng cái gì còn lại. Cụ
giống như chanh đã vắt hết." Đây là một thế giới kì lạ!
Trong thời thơ ấu của tôi, như nó xảy ra trong cuộc sống
của mọi đứa trẻ, tôi thường hỏi mọi người già hàng nghìn câu hỏi. Điều đó gần
như là việc hành hạ họ vì câu hỏi của tôi làm cho họ bối rối. Cho nên cách dễ
nhất là: "Con còn quá trẻ. Đợi đã."
Một trong những người bạn của bố tôi đã nổi tiếng
trong cả thị trấn là một hiền nhân. Tôi thường đi cùng bố tôi tới ông ấy và tôi
thường hành hạ ông ấy nhiều nhất. Và ông ấy bao giờ cũng nói, "Đợi đã.
Cháu còn quá trẻ và câu hỏi của cháu là quá rắc rối. Khi cháu lớn lên thêm một
chút, thế thì cháu sẽ có khả năng hiểu."
Tôi hỏi ông ấy, "Xin bác viết ra cho cháu năm nào
cháu sẽ lớn. Thế thì cháu sẽ hỏi bác những câu hỏi này. Vì đây là thủ đoạn: bất
kì khi nào cháu hỏi - cháu đã từng hỏi trong ít nhất năm năm - bác bao giờ cũng
nói cùng một điều: Khi cháu lớn lên...' Bác có thể liên tục nói điều này cho
cháu lặp đi lặp lại! Bác cứ viết nó ra trên giấy và kí vào nó."
Tôi thấy tay ông ấy run run. Tôi nói, "Sao tay
bác run? Sao bác sợ? Nếu bác biết vào tuổi nào người ta trở nên có khả năng hiểu,
viết nó ra đi. Và nếu bác nói vào tuổi hai mươi cháu sẽ hỏi vào tuổi hai mươi mốt
- cháu sẽ cho bác một năm nữa!"
Thế là ông ấy viết, "Hai mươi mốt tuổi."
Thế là tôi nói, "Được, cháu sẽ tới chỉ sau khi
cháu hai mươi hai."
Ông ấy phải đã nghĩ, "Ít nhất vấn đề này được giải
quyết cho thời gian hiện tại. Ai biết? Sau khi nó hai mươi hai tuổi...?"
Vào lúc đó tôi phải đã quãng mười bốn tuổi.
Khi tôi trở thành đích xác hai mươi hai tuổi tôi tới,
và tôi tới với một đám đông - tôi đã tụ tập nhiều người. Tôi nói, "Bạn đi
cùng tôi đi." Và tôi đã có bức thư có chữ kí của ông ấy. Tôi nói,
"Đây là bức thư của bác. Bây giờ bác trả lời đi."
Ông ấy nói, "Cháu là kẻ gây phiền phức thế! Tại
sao cháu đã tụ tập tất cả những người này?"
Tôi nói, "Chỉ để chứng kiến rằng bác đã lừa cháu.
Và không chỉ bác đã lừa cháu, điều này đã diễn ra trên khắp thế giới. Mọi người
già đều đang lừa người trẻ, nói với họ 'Ngày mai' - và ngày mai không bao giờ tới.
Bây giờ cháu hai mươi hai tuổi rồi và bác đã viết hai mươi mốt. Cháu đã cho bác
thêm một năm chỉ trong trường hợp cháu không đủ thông minh và cháu để thời gian
dài hơn chút ít để lớn lên. Nhưng bây giờ cháu sẽ không ra về, cháu sẽ ở đây.
Cháu muốn mọi câu hỏi của cháu được trả lời."
Ông ấy nói, "Nói thực với cháu, bác chẳng biết gì.
Và xin đừng hỏi bác lần nữa. Tha thứ cho bác. Cháu đúng - bác đã nói dối
cháu."
"Tại sao bác đã nói dối một đứa trẻ?" tôi hỏi
ông ấy. "Làm sao bác có thể nói dối một đứa trẻ đang hỏi từ hồn nhiên thế,
người đã tin cậy vào bác? - và bác đã lừa nó! Bác không biết liệu Thượng đế có
tồn tại hay không và bác đã bảo cháu rằng Thượng đế tồn tại và rằng cháu sẽ có
khả năng hiểu về sau. Và cháu biết chính khoảnh khắc đó ngay cả bác đã không hiểu.
Bác không biết bất kì cái gì về Thượng đế, bác chỉ lặp lại như con vẹt."
Nhưng đây là tình huống: thầy cô giáo không biết, các
giáo sư không biết, các tu sĩ không biết. Không việc biết, họ vẫn liên tục giả
vờ rằng họ biết. Và toàn thể chiến lược này bao gồm duy nhất một thủ đoạn: liên
tục trì hoãn. "Bạn cũng sẽ biết khi thời gian chín muồi." Tất nhiên
nó không bao giờ chín muồi - bạn không bao giờ lớn lên. Và đến lúc bạn đủ già bạn
phải cứu thể diện riêng của bạn, cho nên bạn bắt đầu nói cùng điều cho con bạn.
Nếu bạn yêu con bạn, nếu bạn yêu em bạn, đừng bao giờ
nói dối họ. Và toàn thể tôn giáo của bạn bao gồm những dối trá! Là chân thực
đi, bảo họ, "Tôi không biết và tôi đang tìm kiếm." Đừng trì hoãn điều
đó tới ngày mai.
Toàn thể cuộc sống của chúng ta là việc trì hoãn, do
đó mới có sợ chết: "Tôi còn chưa biết và chết đang tới."
Không phải một mình bạn sợ chết đâu, Chinmayo.
Bạn hỏi: Tại sao tôi sợ chết nhiều thế?
Mọi người đều sợ chết bởi lẽ đơn giản rằng chúng ta
chưa nếm trải sống. Người biết sống là gì không bao giờ sợ chết; người đó đón
chào chết. Bất kì khi nào chết tới người đó ôm ấp chết, người đó ôm choàng chết,
người đó đón chào chết, người đó đón nhận chết như vị khách. Với người đã không
biết sống là gì, chết là kẻ thù; và với người biết sống là gì, chết là cao trào
tối thượng của sống.
Nhưng mọi người đều sợ chết; điều đó nữa có tính lây
nhiễm. Bố mẹ bạn sợ chết, hàng xóm của bạn sợ chết. Trẻ nhỏ bắt đầu bị lây nhiễm
bởi nỗi sợ thường xuyên này có khắp xung quanh. Mọi người đều sợ chết. Mọi người
thậm chí không muốn nói về chết.
Đã từng chỉ có hai từ kiêng kị trên thế giới: dục và
chết. Điều rất kì lạ tại sao dục và chết đã từng là hai từ kiêng kị không được
nói tới, phải được né tránh. Chúng được kết nối sâu sắc. Dục đại diện cho sống
vì mọi sự sống nảy sinh từ dục, và chết đại diện cho kết thúc. Và cả hai đã là
điều kiêng kị - không nói về dục và không nói về chết.
Và đã từng chỉ có hai kiểu văn hoá trên thế giới. Một
loại bao gồm các nền văn hoá dành cho những người mà dục là điều kiêng kị. Họ
có thể nói về chết, thực ra họ nói quá nhiều về chết. Chẳng hạn, ở Ấn Độ, nghe
các mahatmas, nghe các thánh nhân, và bạn sẽ thấy điều đó. Không ai nói về dục,
mọi người nói về chết - để làm bạn kinh hoàng, để tạo ra sợ trong bạn, vì từ sợ
bạn có thể bị làm nô lệ, từ sợ bạn có thể bị áp đặt có tính tôn giáo, từ sợ bạn
có thể bị ép buộc cúi mình trước ý tưởng ngu xuẩn nào đó về Thượng đế, về thần
tượng ngu xuẩn nào đó của Thượng đế. Mọi người đang tôn thờ bất kì cái gì!
Chỉ để một tảng đá ra trước nhà bạn, tô đỏ cho nó, và
cứ đợi ở bên cạnh và nhìn. Trong vòng một giờ ai đó sẽ đi qua và sẽ cúi lạy nó,
tưởng nó là Hanumanji. Ai đó khác sẽ tới và sẽ đặt hai bông hoa ở đó và ai đó
khác sẽ làm theo với trái dừa. Và đây là bắt đầu của ngôi đền! Bạn sẽ sớm thấy
rằng ngôi đền đã nảy sinh ở đó.
Mọi người sợ thế, họ sẵn sàng cúi mình trước bất kì
cái vô nghĩa nào, trước bất kì cái ngu xuẩn nào.
Chúng ta gọi người tôn giáo là người "sợ Thượng đế."
Thực ra, người tôn giáo không bao giờ sợ Thượng đế; chắc chắn người đó là người
yêu Thượng đế, nhưng không bao giờ sợ Thượng đế. Sợ không có chỗ trong cuộc sống
của người tôn giáo - chỉ có yêu và duy nhất yêu. Và nơi yêu tồn tại, sợ biến mất;
và nơi sợ tồn tại, yêu không có khả năng nào lớn lên.
Trong một xã hội như Ấn Độ, chết không phải là kiêng kị.
Kinh sách Ấn Độ đầy những mô tả rất chi tiết về chết. Họ mô tả với sự thích thú
chết xấu thế nào. Họ mô tả thân thể bạn theo cách xấu xí, kinh tởm tới mức bạn
sẽ ngạc nhiên với những người này - tại sao họ quan tâm thế, bị ám ảnh thế với
mọi thứ ghê tởm và buồn nôn? - bởi lẽ đơn giản rằng họ muốn bạn trở nên sợ sống
thế, đối kháng thế với sống, phủ định thế với sống... Họ phá huỷ tình yêu của bạn
vì sự sống, khẳng định của bạn về sự sống bằng việc nói về chết, bằng việc làm
cho chết thành lớn nhất có thể và tối nhất có thể bằng cách mô tả chết trong mầu
sắc xấu xa nhất.
Và thế rồi có những xã hội... Chẳng hạn, Ki tô giáo
trong nhiều thế kỉ đã là một xã hội, một văn hoá chống lại dục; dục là điều
kiêng kị. "Không nói về dục." Do đó có ý tưởng này - ý tưởng cực kì
vô nghĩa - rằng Jesus được sinh ra từ người mẹ đồng trinh. Họ phải tạo ra hư cấu
này vì làm sao Jesus, một người thuần khiết thế, có thể bắt nguồn từ tính dục?
Sự thuần khiết thế bắt nguồn từ sự không thuần khiết thế sao? Không thể được,
phi logic! Hoa sen bắt nguồn từ bùn sao? Không thể được! Nhưng, thực ra, mọi
hoa sen đều bắt nguồn từ bùn.
Jesus được sinh ra tự nhiên như bạn được sinh ra - ông
ấy không phải là dị nhân! Ông ấy không bất thường. Và toàn thể điều vô nghĩa
này về Thánh thần linh thiêng, rằng Thánh thần linh thiêng làm cho Mary mang
thai... Bây giờ thánh thần đang làm tình!
Hamid canh gác gần phòng tôi. Ngay bên ngoài bức màn
anh ấy đứng đó với chiếc gậy lớn. Một hôm tôi hỏi, "Hamid, bạn có thấy
Thánh thần linh thiêng hay không?"
Anh ấy nói, "Thánh thần linh thiêng sao?"
"Đúng," tôi nói, "ngày nào đó ông ấy sẽ
tới, cho nên tỉnh táo vào - vì nếu Thánh thần linh thiêng không tới thăm tôi,
thế thì ông ấy sẽ đi đâu?"
Và một hôm Rajen đang đứng đó và tôi bảo anh ta,
"Giữ gậy của bạn trong tay đi, bằng không Thánh thần linh thiêng có thể
dùng gậy này đánh bạn đấy! Thay vì gậy này là cái bảo vệ, ông ấy sẽ đánh đầu bạn
bằng gậy riêng của bạn!"
Kể từ đó anh ấy đã bỏ gậy của mình ở đâu đó; tôi chẳng
thấy gậy của anh ta nữa. Có thể là do sợ... Đôi khi bạn không chăm chú thế, và
giữ gậy trong tay bạn mọi lúc... đôi khi người ta phải nghỉ ngơi nữa. Ngay cả
người gác cũng phải đi ngủ! Và Thánh thần linh thiêng tới và tìm thấy chiếc gậy
và đánh vào đầu anh ta! Và nếu Thánh thần linh thiêng có thể làm cho đàn bà
mang thai, ông ấy không thể làm được cái gì? Ông ấy có thể làm được bất kì cái
gì - ông ấy thậm chí có thể làm đàn ông mang thai! Bất kì cái gì đều là có thể;
với Thánh thần linh thiêng không cái gì là không thể được.
Dục là kiêng kị cho Ki tô giáo: "Không nói về dục!"
Bây giờ, sau Sigmund Freud, điều kiêng kị thứ nhất bị
phá vỡ; dục không còn là điều kiêng kị. Chúng ta đã dịch chuyển sang điều kiêng
kị kia; giờ chết đã trở thành điều kiêng kị. Bây giờ không nói về chết. Dường
như con người cần điều kiêng kị này khác. Xã hội thời nữ hoàng Victorian đã là
xã hội được bắt rễ trong kiêng kị dục. Bây giờ xã hội hiện đại, xã hội phương
Tây, được bắt rễ trong điều kiêng kị về chết. Không nói về chết chút nào, quên
mọi điều về chết dường như nó không xảy ra - ít nhất nó không xảy ra cho bạn,
ít nhất nó đã không xảy ra cho bạn mãi tới giờ, cho nên sao bận tâm về điều đó?
Quên mọi điều về nó đi.
Khi một người chết ở phương Tây bây giờ, có các chuyên
gia trang điểm cho người này. Người này có thể không bao giờ trông đẹp thế như
người này có vẻ vậy sau cái chết được tô vẽ và má người này đỏ thế dường như
người này chỉ vừa mới tới từ kì nghỉ ba tháng ở Florida! Và mạnh khoẻ thế, dường
như người này mới tập thể dục và giờ đang làm shravasan - tư thế chết - không
thực sự chết. Việc giả vờ phải được tạo ra rằng người này không chết. Và ngay cả
trên bia mộ cũng được viết: "Ông ấy không chết, ông ấy chỉ ngủ."
Và trong mọi ngôn ngữ chúng ta nói... bất kì khi nào
ai đó chết không ai nói rằng người đó đơn giản chết. Chúng ta nói "Người
đó đã đi tới Thượng đế. Người đó đã trở thành người yêu của Thượng đế. Thượng đế
đã chọn người đó và gọi người đó. Người đó đã đi sang thế giới bên kia. Người
đó đã trở thành người trời."
Một người đang nói với người kia, bạn anh ta, "Vợ
tôi thiêng lắm."
Và người kia nói, "Nhưng vợ tôi vẫn còn sống!"
Bạn nói về tính thiêng liêng của mọi người, vân vân,
khi họ chết.
Có xung đột lớn giữa Voltaire và Rousseau; cả đời họ
đã từng cãi nhau. Voltaire chết; ai đó báo tin cho Rousseau rằng Voltaire đã chết.
Ông ấy nói, "Thực à? Ông ta là người vĩ đại - với điều kiện ông ta thực sự
chết!" Nếu ông ta không chết thế thì ông này sẽ rút lại lời của mình. Còn
sống, họ là kẻ thù; chết, "Ông ta là người vĩ đại." Cho nên ông ấy
làm ra điều kiện rằng ông ta thực sự chết, ông ta là người vĩ đại.
Có lần một người chết, không ai nói chống lại người
đó, không ai nói bất kì cái gì chống lại người đó. Người đó đột nhiên trở thành
thánh nhân, đột nhiên thành vĩ đại. Chỗ của người đó sẽ không bao giờ được lấp
lại, chỗ của người đó bao giờ cũng vẫn còn trống. Thế giới bao giờ cũng thiếu
người đó; người đó là bản chất thế. Và không người nào đã để ý gì khi người đó
còn sống. Đây là các thủ đoạn - thủ đoạn để giữ chết xa xôi, để đóng cửa lại, để
quên tất cả về chết.
Nhân loại thực sẽ không có bất kì điều kiêng kị nào:
không kiêng kị về dục, không kiêng kị về chết. Sống phải được sống trong tính
toàn bộ của nó, và chết là một phần của sống. Người ta phải sống một cách toàn
bộ và người ta phải chết một cách toàn bộ.
Và đó là thông điệp của tôi cho các sannyasin của tôi,
Chinmayo.
Bạn hỏi: Tại sao tôi sợ chết nhiều thế?
Vì bạn còn chưa sống một cách toàn bộ. Sống một cách
toàn bộ và sợ chết sẽ biến mất. Và bạn không một mình; mọi người đều trong cùng
thuyền.
Đó là một câu lạc bộ đàn ông người Anh điển hình: khói
tẩu thuốc vương vấn trong không trung, những chiếc ghế da dầy, các tấm ván gỗ sồi
chạm khắc.
Vị đại tá về hưu già đang thuật lại chi tiết những kì
công bạo dạn của mình ở châu Phi. "Có lần suýt mất mạng với một con sư tử
bờm đen!"
"Ồ, thật thế à thưa ngài?" một sĩ quan trẻ
nói, giả bộ quan tâm. "Ngài kể về điều đó đi."
"Thế này, chàng trai, tôi đang sải bước qua phần
rừng rậm Công gô cùng với người mang súng trung thành của tôi, Umbogo, khi đi
ngang qua một chỗ trống nhỏ tôi thấy một con sư tử lớn nhất mà bạn đã từng thấy.
Bình thản như không cái gì xảy ra, tôi lấy khẩu súng trường tin cậy từ Umbogo,
nhắm bắn, và kéo cò. 'Tách' - cái thứ chết tiệt này là đồ vô dụng. Không rối
trí, tôi trao lại chiếc súng vô dụng và lấy khẩu súng thứ hai. 'Tách' - lại khẩu
vô dụng nữa. Đến lúc này Umbogo đã chạy mất và tôi nghĩ tốt hơn cả là tôi cũng
chạy. Tôi chạy nhanh hết mức có thể, nhưng con vật này bám sát đằng sau không rời.
Tôi có thể cảm thấy hơi thở của nó chạy xuống lưng cổ tôi và tôi biết nó sắp vồ;
nhưng ngay khi nó định vồ, nó trượt chân. Điều này cho tôi cơ hội và tôi chạy
nhanh hết mức có thể. Nhưng nó sớm lại đuổi theo - hơi thở lại chạy xuống sau cổ
tôi, định vồ, và lần nữa nó lại trượt chân. Việc này đã xảy ra ba lần, và tới lần
thứ ba tôi xoay xở chui vào chiếc xe Lan Rover hết sức cổ và thoát đi."
"Đáng khâm phục thưa ngài," viên sĩ quan trẻ
nói. "Tôi chắc rằng giá mà đó là tôi thì tôi đã vãi ra quần."
"Vãi ra quần sao?!" viên đại tá già gầm lên.
"Anh nghĩ gì con sư tử trượt chân nữa sao?"
Câu
hỏi thứ sáu
Osho
ơi,
Thầy
làm gì cho tập thể dục?
Anand Prachi,
Tôi chỉ kể vào chuyện cười thực sự cho bản thân tôi và
thế rồi cười to và lăn ra đất. Tôi không biết bài thể dục nào khác hay hơn. Bạn
có thể hỏi Vivek - thỉnh thoảng cô ấy tóm được tôi đang lăn lộn trên đất!
Mới hôm nọ tôi đã kể những chuyện cười này cho bản
thân tôi:
Richard Nixon hoài nghi về một số chính khách bao
quanh ông ấy, nghĩ chắc có phát triển mưu đồ chống lại ông ta.
Cho nên ông ta tập hợp những phụ tá thân cận nhất của
mình và họ đi tới một làng nhỏ đâu đó trong rặng Alps để điều tra vấn đề này.
Vào sáng thứ hai Nixon mở bức màn che cửa sổ phòng ngủ
của mình và trong tuyết có ai đó đã đái thành chữ: "Nixon là lỗ đít."
Bị rối bởi điều này, Nixon lập ra nhóm các nhà khoa học pháp lí để làm việc tìm
ra thủ phạm.
Sau bốn mươi tám giờ họ báo cáo lại cho ông ta. 'Chúng
tôi có tin xấu," họ nói. "Chúng tôi đã phân tích nước tiểu và thấy rằng
nó bắt nguồn từ Henry Kissinger."
"Ồ không!" Nixon nói.
"Nhưng còn có tin tức thậm chí còn tệ hơn gửi tới,
thưa tổng thống. Chúng tôi cũng đã khám phá ra đó là chữ viết tay của bà
Nixon!"
Richard Nixon, Henry Kissinger, một linh mục Thiên
chúa giáo và một người hippie đi trên một chiếc máy bay nhỏ trong khi bánh xe
tiếp đất rơi ra.
Viên phi công kinh hãi xô ra khỏi phòng lái. "Tôi
rất tiếc, thưa các vị, máy bay này sẽ không bay được. Chỉ có bốn dù và vì tôi
là cơ trưởng tôi lấy một chiếc."
Ông ta vớ lấy chiếc dù và nhảy ra.
Richard Nixon đứng dậy và nói, "Tôi là tổng thống,
quốc gia cần tôi - rất tiếc, thưa quí ngài..." Ông ta vớ lấy chiếc dù và
nhảy ra.
Henry Kissinger nhảy lên nói to, "Tôi là người
thông minh nhất thế giới! Thế giới không thể đảm đương được sự hi sinh như vậy!"
Ông ta vớ lấy dù và nhảy ra.
Linh mục nói với người bên cạnh: "Con ta, con vẫn
còn trẻ - con lấy chiếc dù cuối đi!"
"Đừng lo, cha," người hippie nói. "Có
dù cho từng người chúng ta - 'người thông minh nhất thế giới vừa vớ lấy ba lô của
con và nhảy cùng nó!"
Câu
hỏi cuối cùng
Osho
ơi, thực sự có bất kì sự trùng hợp ngẫu nhiên nào không?
Prem Doug,
Con người trong khi con người là vô ý thức chỉ sống
trong trùng hợp ngẫu nhiên; cuộc sống của con người chỉ gồm những sự ngẫu nhiên
và không gì khác. Cuộc sống vô ý thức là cuộc sống ngẫu nhiên.
Chỉ người có ý thức đi ra ngoài ngẫu nhiên và đi vào
trong điều bản chất. Người có ý thức siêu việt trên trùng hợp ngẫu nhiên. Không
có ý thức toàn bộ bạn là nạn nhân của mọi lực không biết bao quanh bạn. Bạn
không biết tại sao mọi sự đang xảy ra cho bạn, tại sao bạn đã làm cái này và tại
sao không làm cái kia, tại sao bạn đã chọn cái này và tại sao không chọn cái
kia.
Khi tôi trúng tuyển đại học và vào đại học tôi muốn điền
vào mẫu đơn, nhưng tôi không có bút máy đem theo người. Thế là tôi hỏi sinh
viên bên cạnh, người đang điền mẫu đơn của mình, "Bạn vui lòng cho tôi mượn
bút máy để tôi điền vào mẫu đơn của tôi được không?"
Anh ta rất hài lòng và sẵn lòng. Anh ta nói, "Trước
hết bạn điền vào mẫu đơn của bạn đi."
Tôi điền vào mẫu đơn của tôi. Tôi nói, "Sao bạn
muốn tôi điền vào mẫu đơn của tôi trước hết?"
Anh ta nói, "Vì tôi không thể quyết định được sẽ
học môn nào." Anh ta nhìn vào mẫu đơn của tôi và bất kì môn học nào tôi đã
chọn anh ta đều điền vào cùng môn.
Tôi nói, "Bạn có điên hay cái gì không?"
Anh ta nói, "Chẳng thành vấn đề. Tất cả là như
nhau với tôi. Dù tôi đọc triết học hay chính trị hay kinh tế nó toàn là như
nhau với tôi. Tôi phải sao chép mẫu đơn của ai đó; bạn là tốt như bất kì người
nào." Anh ta nói, "Thực ra, tôi đã đỗ mọi kì thi của tôi bằng việc
sao chép câu trả lời của người khác. Tôi không biết làm sao tôi đã đỗ kì thi
vào đại học. "
Bây giờ người này là giáo sư triết học. Bạn sẽ gọi điều
đó là gì? Chỉ sự trùng hợp, ngẫu nhiên. Tôi có thể đã tới chỉ chậm vài phút
ngày hôm đó và anh ta chắc đã không bao giờ là giáo sư triết học. Tôi có thể đã
có bút máy; anh ta sẽ không bao giờ là giáo sư triết học. Anh ta có thể đã sao
chép từ ai đó khác; thế thì anh ta chắc sẽ là giáo sư về chính trị hay kinh tế
hay chẳng ai biết điều gì.
Một tiểu thuyết gia Do Thái viết: "Bố tôi đi du
hành trong tầu hoả; tầu hoả bị muộn. Nó tới lúc nửa đêm đâu đó ở Nga." Ông
ấy đói và lạnh; đó là đêm nước Nga lạnh lẽo, tuyết rơi. Ông ấy chạy đi tìm xem
liệu ông ấy có thể kiếm được cà phê hay cái gì đó nóng để uống không.
Cô chủ một nhà hàng đang sắp đóng cửa. Ông ấy nài xin,
ông ấy nói, "Chỉ năm phút thôi. Cho tôi hai cốc cà phê - tôi mệt mỏi và
tôi đói. Và nếu cô có thể cho tôi cái gì đó để ăn tôi sẽ biết ơn lắm."
Cô ấy lại mở cửa ra - cô ấy vừa định khoá lại - rót cà
phê, cho ông ấy cái gì đó để ăn. Và tất nhiên họ bắt đầu nói chuyện, cô ấy hỏi
ông ấy từ đâu tới - cuộc hội thoại bình thường với người lạ - "Và anh định
nghỉ ở đâu?" Và cô ấy nói, "Điều tốt là anh đã tới đúng lúc vì bây giờ
taxi tất cả đã đi về rồi - tầu hoả tới trễ thế. Và chúng tôi đã không hi vọng -
từ chuyến tầu này chẳng ai tới nữa. Cho nên xin mời vào xe của tôi và tôi sẽ chở
anh tới bất kì chỗ nào anh muốn."
Người đàn ông nói, "Tôi không biết chỗ nào mà đi.
Cô nói cho tôi khách sạn tốt nào đó."
Người đàn bà nói, "Khách sạn thì có nhưng không
có khách sạn tốt. Và tất cả chúng sẽ đóng cửa. Tốt hơn cả là anh đi cùng tôi và
nghỉ tại chỗ của tôi. Đến sáng anh có thể đi tìm khách sạn."
Và người đàn ông, tất nhiên, đã đồng ý một cách rất biết
ơn. Và đây là cách câu chuyện bắt đầu. Họ rơi vào yêu nhau... và thế rồi đích
thân bạn có thể xây dựng ra toàn thể câu chuyện.
Bây giờ nhà tiểu thuyết Do Thái này nói: "Nếu tầu
hoả mà không bị trễ tôi chắc đã không được sinh ra chút nào. Nếu tầu hoả ít trễ
hơn tôi chắc đã lỡ lần nữa, tôi chắc đã không được sinh ra. Nếu cô gái này hơi
chút nhẫn tâm và đã từ chối mở cửa nhà hàng lần nữa, tôi chắc đã không được
sinh ra chút nào. Nếu cô ấy bỏ bố tôi ở khách sạn nào đó, câu chuyện này chắc
đã kết thúc ở đó và lúc đó rồi. Nhưng ông ấy đã ở lại với cô ấy; cô ấy này là một
quả phụ. Đến sáng cô ấy đã mời ông ấy ăn sáng, và việc này dẫn tới việc khác.
Đây là cách cuộc sống bình thường là vậy.
Prem Doug, người vô ý thức sống trong trùng hợp ngẫu
nhiên; người đó là ngẫu nhiên.
Vidhana đã viết cho tôi: "Osho ơi, tôi muốn thầy
biết rằng đôi khi thiền có thể rất nguy hiểm. Tôi đã làm một kĩ thuật quán tưởng:
tưởng tượng tôi là cây. Tôi đã tưởng tượng tôi có loại rễ gì, tôi có đường viền
và mầu sắc gì, tôi có loại lá nào, và ở đó tôi đã lay động trong gió thoảng...
thì đột nhiên một con chó lon ton chạy tới và đái lên chân tôi."
Bây giờ Vidhana nghĩ con chó biết rằng anh ấy đang
quán tưởng rằng anh ấy là cây. Con chó phải điên như bạn vậy, bằng không chó
không dễ bị lừa thế đâu - rất khó lừa chó!
Người ta kể sau ba tháng trên đại dương, Columbus thấy
lá, lá xanh nổi trong đại dương, ông ấy đã cực kì hạnh phúc. Nhưng người viết
tiểu sử của ông ấy nói điều đó không là gì cả, bạn phải đã thấy chó của ông ấy!
Ông ấy đã nhảy nhót! Trong ba tháng... Nghĩ về con chó, con chó đáng thương -
không cây cối. Đó là vô dục đấy! Nếu chó mà là người Ấn Độ ông ấy chắc đã là một
mahatma!
Một người da đen, một người A rập và một người Do Thái
đang bước đi cùng nhau trong sa mạc. Đột nhiên một mụ phù thuỷ khủng khiếp xuất
hiện trước họ, cưỡi trên một con rồng. Khi họ cầu xin tha mạng, phù thuỷ dịu
đi.
"Thôi được," mụ nói, "nếu chiều dài
chim của các ngươi, cộng vào nhau, đo được đích xác một mét, ta sẽ tha mạng các
ngươi."
Người da đen lôi chim ra - bẩy mươi nhăm xăng ti mét.
Người A rập đo chim của mình - hai mươi tư phẩy năm xăng ti mét. Với đôi tay
run run, người Do Thái cởi quần ra và nhẹ nhõm làm sao - đích xác một nửa xăng
ti mét. Khi họ sung sướng đi khỏi mụ phù thuỷ, người da đen ba hoa, "A,
các ông may mắn là các ông có người da đen đi cùng các ông - bẩy mươi nhăm xăng
ti mét!"
"Vô nghĩa," người A rập nói. "Chính
chim tôi, món quà của Allah, đã cứu chúng ta!"
"Đó là điều các ông nghĩ!" người Do Thái nói. 'Điều gì sẽ xảy ra nếu mụ ấy đã không thù địch với tôi?"
Xem tiếp Chương 13 - Quay về Mục lục
..............................
0 Đánh giá