Read more
Bài nói về Thiền
Chương 4. Bây giờ đến lượt tôi
Thưa Thầy kính yêu,
Một lần, một sư hỏi thầy Nam Nhạc,
"Giáo huấn đặc biệt của thầy là gì?"
Nam Nhạc đáp, "Mùa thu chúng
ta thu hoạch; mùa đông chúng ta cất kho."
Sư khác hỏi Nam Nhạc, "Đạo
là gì?"
Nam Nhạc trả lời, "Diều bay
qua bầu trời lớn; không cái gì còn lại ở đó."
Một dịp khác, Nam Nhạc bước xuống
từ bục và nói, "Người ta đứng trên đám đông thịt đỏ ở chiều cao không thể
đo được."
Thế rồi một sư bước ra khỏi hội
chúng và nói, "Đạo của thầy chẳng phải là 'trên đám đông, vân vân' đó
sao?"
Nam Nhạc đáp, "Nó là vậy."
Hơn nữa, sư này lật ghế thiền của
thầy lên.
Nam Nhạc nói, "Trông ông là
anh chàng hoang dã, thô thiển làm sao!"
Sư này không biết nói hay làm gì
và Nam Nhạc đuổi ông ta ra khỏi chùa.
Các bạn,
Trong gần ba mươi năm tôi đã được gọi
là "cái gọi là Bhagwan," "Bhagwan tự phong." Điều này là để
kết án tôi. Tôi kiên nhẫn chờ đợi cho tới khoảnh khắc đúng. Khoảnh khắc đúng đã
tới. Bây giờ đến lượt tôi.
Tôi gọi mọi người sáng lập của mọi tôn
giáo là tự phong và cái gọi là. Những người đã từng gọi tôi là cái gọi là và tự
phong đã không nhận ra rằng họ đã khiêu khích tôi. Bây giờ tôi muốn biết những
điều kiện nào phải được hoàn thành. Jesus tự gọi bản thân ông ấy là đứa con duy
nhất của Thượng đế. Bạn nghĩ gì? - nó là tự phong đấy, cái gọi là đấy, hay đã
có uỷ ban nào đó đó xác định nó? Nó có là bầu cử không? Nó có là bằng cấp được
phong bởi bất kì đại học nào không?
Và nếu ông ấy là điều ông ấy đã giả vờ
là - không kinh sách Do Thái nào thậm chí nhắc tới tên ông ấy, và ông ấy đã được
sinh ra là người Do Thái, ông ấy đã sống là người Do Thái, và ông ấy đã chết là
người Do Thái. Và nếu ông ấy là đúng, như toàn thể Ki tô giáo coi ông ấy là
đúng, thế thì tại sao người Do Thái đóng đinh ông ấy?
Không một giáo sĩ, người có học nào về
tôn giáo cổ của người Do Thái có thể đứng dậy và nói rằng người này là người hồn
nhiên sao? Ông ấy có thể đã tưởng tượng, ảo giác, nhưng điều đó không phải là tội
ác; ông ấy có thể đã mơ rằng ông ấy là con trai của Thượng đế, nhưng điều đó
không phải là tội lỗi để bị trừng phạt bằng đóng đinh.
Điều tuyệt đối rõ ràng là người Do
Thái đã giận Jesus bởi lẽ đơn giản rằng ông ấy là đứa con "tự phong" của
Thượng đế. Thượng đế là hư cấu, được bịa ra bởi tâm trí bệnh hoạn của con người,
và các hư cấu không sinh ra con trai và con gái. Và cái gì đã xảy ra cho Thượng
đế sau Jesus? Ngài vẫn tiếp tục kiểm soát sinh đẻ sao? Tiêu chí là gì? Vì Jesus
đã uống rượu, ăn thịt và cá, tất nhiên không tôn giáo Ấn Độ nào sẽ chấp nhận
ông ấy là có tính tôn giáo.
Nhưng cùng điều đó cũng đúng về các
tôn giáo của Ấn Độ và những người sáng lập của chúng. Mahavira vĩ đại tới mức
nào mà ông ấy được coi là tirthankara thứ hai mươi tư và là cuối cùng của Jaina
giáo? Ông ấy đã là người đương đại với Phật Gautam, và đã có sáu người khác, tất
cả đều cạnh tranh mãnh liệt để là tirthankara thứ hai mươi bốn, vì đó là trạng
thái được kính trọng vô cùng, và hai mươi bốn là người cuối cùng cho kalpa - kỉ
này.
Một kalpa - một kỉ nghĩa là... hàng
triệu năm vẫn còn bị bỏ lại. Một kỉ nghĩa là khi một sự tồn tại - toàn thể vũ
trụ - đi qua lỗ đen và biến mất. Thế thì kỉ thứ hai bắt đầu, khi vũ trụ thứ hai
đi vào hiện hữu. Mọi kalpa đều kéo dài bốn triệu năm, và trong hàng triệu năm
chỉ hai mươi bốn tirthankaras là được phép có theo Jaina giáo. Hai mươi ba người
đã xảy ra trước thời của Phật Gautam, hiển nhiên.
Tám người đã là những người ganh đua -
và tôi coi việc ganh đua này là tuyệt đối phi tôn giáo. Chính ý tưởng về ganh
đua là bạo hành; chính ý tưởng về ganh đua là đầy tham lam, đầy bản ngã. Nó
không là gì ngoài chính trị được ẩn kín: bạn muốn danh tiếng nào đó, bạn khao
khát sự kính trọng. Tất cả tám triết gia và nhà tư tưởng đó đều đáng trách vì
có tính ganh đua - và tất cả họ đều dạy chống lại ganh đua. Do đó tôi gọi họ tất
cả đều là đạo đức giả.
Cạnh tranh để là tổng thống một nước
hay cạnh tranh để là thủ tướng một nước là không khác với ganh đua là
tirthankara cuối cùng. Cạnh tranh đơn giản là cạnh tranh: bạn muốn lật đổ ai đó
khác và chiếm lấy chỗ của người đó.
Cả bẩy người đã bị thất bại, không phải
bởi bất kì phẩm chất lớn lao nào trong Mahavira. Phẩm chất duy nhất của ông ấy
là ở chỗ ông ấy có tính tự bạo hơn bất kì bẩy người kia. Ông ấy đã tự hành hạ bản
thân mình... và điều kì lại là nhân loại bao giờ cũng kính trọng những người tự
hành hạ mình. Ông ấy vẫn còn trần truồng cả năm ròng; ông ấy không bao giờ tắm,
ông ấy không bao giờ súc miệng. Mọi năm ông ấy thường dứt tóc ra, vì ông ấy chống
lại công nghệ; lưỡi dao cạo là công nghệ lớn đối với ông ấy.
Nhưng bởi vì những phẩm chất lớn này -
khoả thân, nhịn ăn hàng tháng, tự hành hạ mình trong lạnh, trong nóng, không tắm,
dứt tóc - điều toàn là dấu hiệu về tính điên nào đó mà bạn sẽ thấy trong mọi
nhà thương điên... Rất kì lạ, trong nhà thương điên, những người vẫn còn khoả
thân dứt tóc họ; cả hai điều này xảy ra đồng thời trong cùng tính điên.
Và tại sao ông ấy đã tự hành hạ mình
nhiều thế? - chỉ để biện minh rằng ông ấy đã là người kế tục thực của hai mươi
ba tirthankaras đi trước ông ấy. Đây có là tự khẳng định hay cái gì khác? Và những
phẩm chất này tôi nghĩ chẳng liên quan gì tới tôn giáo. Không tắm trong một nước
nóng bức như Ấn Độ, trong bang nóng nhất Bihar, lang thang trần trụi... Không
có những con đường trải nhựa hay đường xi măng; bụi phải tụ lại suốt năm, và một
người trần truồng không tắm - điều đó đơn giản làm phát tởm.
Tôi đã trong tiếp xúc gần với các sư
Jaina. Tôi thường ngồi xa họ nhiều nhất có thể, vì tất cả họ đều bốc mùi hôi.
Tôi không coi việc bốc mùi hôi là có tính tôn giáo. Khi họ nói cái gì đó, chính
hơi thở của họ hôi thế...
Họ thường gọi tôi, "Lại gần đây.
Sao ông ngồi xa thế?"
Tôi nói, "Chính quan điểm của tôi
là không tới gần các thánh nhân. Tội nhân thì được; họ ít nhất cũng là người.
Các ông thực hành những thứ phi nhân văn. Tôi không coi đó việc ngồi cạnh các
ông là đặc quyền. Điều đủ là các ông gọi tôi và tôi đã tới; bằng không, tôi cảm
thấy ốm khi bị bao quanh bởi sư Jaina. Toàn thể bầu không khí bị bốc mùi hôi!"
Bây giờ, đặc biệt gì ở Mahavira? Và tại
sao ông ấy ganh đua? Ông ấy phê phán Phật Gautam, ông ấy phê phán Goshalak một
cách tàn nhẫn thế. Đã có những người ganh đua. Goshalak là người ganh đua nổi bật
nhất của Mahavira, và Mahavira đã dùng ngôn ngữ chửi rủa như bạn có thể quan niệm.
Bản thân Phật Gautam đã cố gắng để ganh đua - và tất cả họ đều chống lại việc
ganh đua! Phật Gautam đã muốn là tirthankara thứ hai mươi bốn - đó là là đặc
quyền lớn và sự kính trọng.
Người muốn được kính trọng là không có
tính tôn giáo. Bạn muốn được sự kính trong từ ai? Từ người mù sao? Từ những người
không chứng ngộ sao? Từ những người đang chìm trong bóng tối sao? Bạn đang khao
khát sự kính trọng của họ? Bạn thậm chí còn tồi hơn là những người có sự kính
trọng mà bạn muốn. Và kính trọng có gì khác hơn việc nuôi dưỡng cho bản ngã? Và
khi ông ấy không thể thành công được, Phật đã tự mình công bố - cái gọi là,
phong cách tự phong.
Tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện kì lạ.
Phật Gautam được sinh ra khi mẹ ông ấy
đang đứng dưới một cây trong vườn. Ông ấy được sinh ra từ người đàn bà đang đứng;
ông ấy tụt xuống đất đứng đấy, và ông ấy bước đi bẩy bước ngay lập tức, và
tuyên bố với bầu trời, "Ta là phật vĩ đại nhất đã từng được sinh ra!"
Bạn gọi kiểu tự phong này cho ai?
Về Mohammed thì sao?
Mọi xét nghiệm y tế các sự kiện về cuộc
sống của ông ấy đều chỉ ra rằng ông ấy là bị động kinh, người vô giáo dục - và
ông ấy đã trở thành sứ giả tự phong của Thượng đế. Và bạn không thể tìm được bất
kì cái gì xứng đáng...
Cùng điều đó là đúng về Krishna và
Rama.
Krishna được người Hindu coi là hoá
thân hoàn hảo của Thượng đế; mọi người khác đều là các hoá thân bộ phận, không
hoàn hảo của Thượng đế. Tôi không thể hiểu được làm sao bạn có thể chặt Thượng
đế ra thành các bộ phận - nhưng họ coi Krishna là hoá thân hoàn hảo. Ông ấy đã
đáp ứng cho những phẩm chất nào?
Ông ấy là người xấu nhất, tuyệt đối vô
đạo đức. Ông ấy đã tụ tập mười sáu nghìn đàn bà như bò cái, và ông ấy chỉ lấy một
người đàn bà. Mười sáu nghìn người này tất cả đều là vợ của người khác; họ đã bị
giằng khỏi gia đình họ. Nhưng vì ông ấy có quyền lực, ông ấy có quân đội, ông ấy
có nhiều người đi theo sau ông ấy, không ai đã phản đối, "Ông đang làm gì
vậy? Ông sẽ không bao giờ có khả năng ngay cả việc nhớ tên của mười sáu nghìn
đàn bà. Ông đang phá huỷ mười sáu nghìn gia đình. Trẻ nhỏ bị bỏ lại đằng sau mà
không có mẹ; các ông chồng của họ kêu khóc, nhưng họ nghèo và họ không thể làm
được gì chống lại ông. Bố mẹ họ già rồi, những người già đó tuỳ thuộc vào họ.
Ông đã làm cho mười sáu nghìn đàn bà bỏ gia đình họ."
Ở Ấn Độ gia đình không phải là hiện tượng
nhỏ như ở phương Tây. Ở phương Tây gia đình nhiều nhất bao gồm năm người: chồng,
vợ, và ba đứa con. Ở Ấn Độ đó là hệ thống gia đình ghép nối. Một gia đình bao gồm
có thể sáu mươi người, năm mươi người. Với Krishna, cứ thấy đàn bà đẹp là đủ để
lôi cô ấy vào trong cung điện của ông ta. Và ông ấy là người đã thuyết phục một
trong những chiến binh vĩ đại nhất thế giới, Arjuna, chiến đấu và tạo ra cuộc
chiến lớn nhất mà Ấn Độ đã từng thấy. Nó có tên là Đại Chiến, mahabharat.
Khá kì lạ, việc thuyết phục này với
Arjuna, người đã không muốn chiến đấu với anh họ riêng của mình... Ở cả hai
phía đều có họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp, thầy giáo; Arjuna không thể nào tin
được vào điều đó: giết tất cả những người này... Toàn thể Srimad Bhagavadgita,
kinh sách tôn giáo Hindu nổi tiếng nhất, đầy những thuyết phục về bạo hành.
Và điều đáng ngạc nhiên nhất là ở chỗ
Mahatma Gandhi vĩ đại, người thường nghĩ rằng ông ấy là bất bạo hành - có lẽ là
người bất bạo hành vĩ đại nhất trên thế giới - đã gọi Srimad Bhagavadgita là mẹ
của ông ấy. Không ai đã phản đối rằng Bhagavadgita là bạo hành hoàn toàn; nó
thuyết giảng bạo hành và chiến tranh. Adolf Hitler có thể gọi nó là mẹ của ông
ta, và điều đó chắc đã là nhất quán, nhưng không phải Mahatma Gandhi.
Nhưng chỉ sự mù quáng không cho phép bạn
nhìn vào trong truyền thống riêng của bạn... Mọi thứ cổ đều là vàng cho những
người này. Họ không bao giờ nghĩ rằng quá khứ đã không phải là quá khứ vĩ đại
như bạn nghĩ. Nếu như nó là vĩ đại, bạn đã tới từ đâu? Bạn là con cháu của quá
khứ vĩ đại đó. Thế giới chắc đã không trong đống lộn xộn thế.
Ở Trung Quốc, Khổng Tử, Lão Tử, Trang
Tử... không ai đã phản đối ý tưởng rằng đàn bà không có linh hồn. Trong hàng thế
kỉ ở Trung Quốc đàn bà đã không được coi là con người tâm linh - họ không có
linh hồn nào, do đó họ chỉ giống như đồ đạc. Nếu người chồng giết vợ mình, đó
không phải là tội ác. Và những người này - Khổng Tử, và Lão Tử, và Trang Tử - tất
cả đều dung thứ điều đó.
Việc dung thứ này là việc chấp nhận im
lặng. Họ có thể đã phản đối chứ, nhưng không ai muốn mạo hiểm danh tiếng của
mình. Không ai muốn bị kết án bởi đám đông mù quáng.
Tôi nói với bạn, mọi người sáng lập
tôn giáo này đều là cái gọi là, đều là tự phong. Tôi đã nói với bạn rằng bây giờ
đến lượt tôi, và tôi sẵn sàng gây sự!
Mọi ngày tôi sẽ lôi ra một vấn đề và cố
gắng giải thích cho bạn làm sao vấn đề này đã từng được hỗ trợ bởi mọi tôn
giáo, và nhân loại đã từng bị hại vô cùng, bị tổn thương vô cùng. Hôm nay tôi
đã chọn chủ đề, đàn bà, vì đàn bà là một nửa của nhân loại.
Trong ba ngôi Ki tô giáo không có chỗ
cho đàn bà. Cha, Con, Thánh thần linh thiêng - tuyệt đối là xã hội đồng tính
nam. Ngay cả Jesus, người thuyết giảng về yêu kẻ thù của bạn, đã bất kính với mẹ
ông ấy. Tôi nhớ tới một sự vụ...
Jesus đang thuyết giảng ở bãi chợ cho
một đám đông. Mẹ ông ấy đã không gặp ông ấy trong nhiều năm và bà ấy đang đứng
bên ngoài đám đông. Ai đó nói to lên với ông ấy, "Mẹ ông đang đợi bên
ngoài đấy! Bà ấy đã không gặp ông nhiều năm rồi."
Jesus nói, "Bảo người đàn bà
đó" - ông ấy thậm chí không dùng từ mẹ. "Bảo người đàn bà đó rằng
không ai là mẹ ta, không ai là cha ta! Cha ta sống ở trên trời."
Thái độ sỉ nhục, làm bẽ mặt thế từ một
người dạy yêu kẻ thù của bạn, và "Nếu ai đó tát ông, chìa má kia ra nữa."
Đây là đạo đức giả. Mặc dầu ông ấy giao thiệp với đàn bà, thậm chí với gái mãi
dâm, ông ấy đã không cho phép bất kì người đàn bà nào được là tông đồ của ông ấy.
Tất cả mười hai tông đồ đều là đàn ông. Nó là ý thức hệ hống hách nam tính.
Mới hôm nay tôi đã nhận được một báo
cáo về một người đàn bà Cơ đốc giáo, được giáo dục trong nhà tu kín Cơ đốc
giáo. Tên cô ấy là Michelle Roberts. Cô ấy trở nên rất phẫn nộ vì thái độ của
giám mục và thầy giáo của cô ấy. Ông giám mục bảo cô ấy rằng đàn là là cánh cửa
xuống địa ngục! Cô ấy trở nên phẫn nộ thế, cô ấy từ bỏ Cơ đốc giáo và được chuyển
đạo sang Phật giáo, và đi sang Thái Lan. Ở đó cô ấy thấy rằng ở Thái Lan, Phật
giáo tin đàn bà không có linh hồn. Hoàn toàn thất vọng, cô ấy bỏ chính ý tưởng
về tôn giáo.
Phật Gautam đã nhấn mạnh trong hai
mươi năm liên tục rằng không đàn bà nào có thể được khai tâm vào làm đệ tử của
ông ấy. Đàn bà trước hết phải được sinh ra là đàn ông, và chỉ thế thì cô ấy mới
có thể là đệ tử. Thế thì có khả năng, nếu cô ấy ở trong thân thể của đàn ông,
trở nên được chứng ngộ. Kì lạ... tất cả những người này đã từng thuyết giảng rằng
bạn không là thân thể, và khi tới chủ đề về đàn bà, đột nhiên đàn bà trở thành
thân thể! Trước hết cô ấy phải đổi thân thể thành thân thể đàn ông.
Không may là vào thời đó đã không có
giải phẫu tạo hình sẵn có, bằng không mọi đàn bà muốn được khai tâm chắc đã phải
đợi tới việc sinh khác; cô ấy có thể có giải phẫu tạo hình và trở thành đàn ông
ngay bây giờ.
Sợ của Phật là gì? Sợ này chỉ ra rõ
ràng rằng ông ấy đã không tin cậy vào các đệ tử riêng của ông ấy, hàng trăm cái
gọi là đệ tử đã chứng ngộ - ông ấy đã không tin cậy họ. Và điều đó là tự nhiên
vì dù họ nói điều đó hay không, vô dục là phi tự nhiên, và mọi tôn giáo đã từng
thuyết giảng về vô dục đều sợ đàn bà.
Vấn đề không phải là đàn bà; vấn đề là
ở chỗ nếu đàn bà được khai tâm, thế thì cô ấy sẽ trộn lẫn với đàn ông, và cái
gì sẽ xảy ra cho vô dục? Nhưng không ai đã nhìn vào vấn đề này - mọi cái gọi là
những người lãnh đạo tôn giáo lớn này - rằng đàn bà không được cần để phá huỷ
vô dục của bạn. Đàn ông là đủ: đàn ông với đàn ông, đàn ông với con vật - đồng
dục, thú dục là cổ đại như kinh Cựu ước. Không ai đã là vô dục.
Vâng, Phật có thể đã là vô dục, bởi lẽ
đơn giản là trong hai mươi chín năm ông ấy đã trong nhóm những người đàn bà đẹp
nhất của vương quốc của ông ấy. Ông ấy đã được kết thúc. Thế là đủ rồi. Nhưng với
người nghèo, người đã không biết mối quan hệ yêu nào giờ được khai tâm vào vô dục:
đây là nỗi sợ của ông ấy. Cùng nỗi sợ này chi phối trong Jaina giáo. Mahavira
đã tuyên bố cùng điều: rằng không đàn bà nào có khả năng đi vào trong trạng
thái tối thượng của chứng ngộ chừng nào cô ấy còn chưa có thân thể đàn ông.
Lần nữa tôi phải nhắc bạn: những người
này dường như là tuyệt đối mâu thuẫn, liên tục dạy rằng bạn không là thân thể,
bạn không là tâm trí - và khi vấn đề về đàn bà nảy sinh, đột nhiên họ quên mất
toàn thể triết lí của họ. Đàn bà đầu tiên phải đi vào trong thân thể đàn ông.
Cái gì là vĩ đại thế về thân thể đàn ông? Nhưng sự hống hách nam tính... mọi
người sáng lập các tôn giáo đều là những kẻ hống hách nam tính.
Trong Jaina giáo một sự vụ hay đã xảy
ra. Một người đàn bà có tên là Mallibhai đã hỏi một tirthankara đương đại, một
thầy Jaina đương đại, "Tại sao đàn bà bị ngăn cản?"
Ông ấy nói, "Bởi lẽ đơn giản là
chừng nào bà chưa khoả thân và sống như chúng ta sống, bà không thể trở nên chứng
ngộ được." Và người đàn bà đó chắc chắn cảm thấy xấu hổ khi sống trần truồng,
đặc biệt trong những cái gọi là người vô dục.
Nhưng Mallibhai là sư tử cái! Bà ấy lập
tức bỏ ngay quần áo, và bà ấy nói, "Nếu trần truồng là vấn đề duy nhất,
tôi trần truồng đây."
Và bà ấy vươn lên thiền sâu, tới chiều
cao mà Jaina giáo phải chấp nhận bà ấy như một trong các tirthankaras. Nhưng
tinh ranh thế, nhẫn tâm thế... họ đã đổi tên bà ấy để cho hậu thế sẽ không bao
giờ biết rằng một người đàn bà đã trở thành tương đương với Mahavira! Họ đã đổi
tên bà ấy từ Mallibhai - bhai nghĩa là đàn bà - thành Mallinath - nath nghĩa là
đàn ông.
Tôi thường quấy rầy bố tôi, rằng
"Con muốn thấy bức tượng nào trong hai mươi bốn bức tượng trong đền là
Mallibhai."
Ông ấy nói, "Bố không biết. Đừng
quấy rầy bố. Họ tất cả đều là đàn ông!"
Ngay cả bức tượng đã được làm cho bà ấy
cũng là tượng đàn ông! Cái tên đã bị thay đổi, bức tượng được làm về đàn ông,
chỉ để cho sự kiện là người đàn bà đã trở thành chứng ngộ bị xoá đi khỏi kí ức
của con người.
Mô ha mét giáo đã không cho phép đàn
bà có bất kì tự do xã hội nào - thậm chí không cho trưng ra mặt của họ. Mặt của
đàn bà Mô ha mét giáo trở thành xanh xao vì chúng thậm chí không thể có ánh mặt
trời, không khí thuần khiết, bầu trời mở. Họ phải giữ ẩn kín đằng sau mạng che;
bạn chỉ có thể thấy đôi mắt của họ. Bạn không thể nhận ra ngay cả vợ bạn.
Và về đàn ông Mô ha mét giáo thì sao?
Họ được phép có bốn người đàn là vợ họ. Bản thân Mohammed có chín vợ. Bây giờ
điều này là tuyệt đối phi tự nhiên. Sự tồn tại giữ cân bằng nào đó, số lượng
đàn ông và đàn bà bằng nhau, cho nên nếu bạn lấy chín đàn bà, tám đàn ông bị lấy
đi đàn bà. Tám đàn ông này nhất định tạo ra mãi dâm, đồng dục, thú dâm, và mọi
loại đồi bại. Một khi Mohammed đã xoay xở có chín vợ, cánh cửa đã mở ra.
Mới bốn mươi năm trước, khi Ấn Độ trở
nên độc lập, đã có một bang Mô ha mét giáo, Hyderabad, và vua của bang
Hyderabad là Nizam. Ông ấy có năm trăm vợ - ngay trong thế kỉ này - vì Mohammed
đã không nói, "Không được đi ra ngoài bốn; bốn là bình thường. Nhưng nếu
ông có thể đảm đương được nhiều hơn, Thượng đế biết ơn ông." Năm trăm đàn
bà sao...?
Tôi đã ở Hyderabad nhiều lần. Tôi dò hỏi,
và tôi hoàn toàn phân vân. Năm trăm người đàn bà này không chỉ là vợ riêng của
Nizam; trong năm trăm người đàn bà này cũng có bao gồm cả vợ của bố ông ấy -
ngoại trừ mẹ riêng của ông ấy. Vợ của ông của ông ấy mà còn sống cũng được bao
gồm trong đó. Họ tới như đồ kế thừa. Đàn bà đã bị thu lại thành hàng hoá. Cũng
như tiền và cung điện và đồ đạc và kim cương, cô ấy cũng tới như đồ thừa kế.
Cho nên Nizam thậm chí có bà của ông ấy,
bà của bà ông ấy, như vợ ông ấy - và không ai phản đối, không người Mô ha mét
giáo nào đã phản đối. Đàn bà đã là người bị áp bức nhất, và lí do là những cái
gọi là người tôn giáo này, những người sáng lập tôn giáo tự phong này.
Thực ra, tôn giáo chưa được sinh ra. Toàn
thể nỗ lực của tôi với bạn là mang lại tính tôn giáo đích thực vào trong thế giới
này. Toàn thể quá khứ bao gồm những thứ xấu xa và khiêu dâm. Bạn sẽ ngạc nhiên
mà biết rằng cái gọi là văn học khiêu dâm không là gì khi được so sánh với kinh
sách tôn giáo - và không chỉ kinh sách, mà trong cả điêu khắc. Bạn cứ tới
Khajuraho mà xem.
Ở Khajuraho đã có một trăm ngôi đền.
Nó là thành phố chỉ gồm các đền, và mọi đền đều có hàng nghìn tượng đàn bà trần
truồng trong đủ mọi tư thế dục - và những tư thế ngớ ngẩn tới mức nếu bạn thử bạn
không thể xoay xở làm được chúng.
Tôi tới Khajuraho thường lắm, vì nó ở
trên đường tới Chhatarpur, một bang nhỏ nơi tôi có nhiều bạn bè.
Người Mô ha mét giáo đã phá huỷ bẩy
mươi ngôi đền, và ba mươi ngôi đền bị phủ trong bùn để bảo vệ chúng khỏi bị người
Mô ha mét giáo phá, trong rừng rậm sâu thẳm. Cho nên ba mươi ngôi đền này vẫn
còn đó. Khi lần đầu tiên tôi tới xem, chỉ trên đường, tôi không thể tin được
vào mắt mình. Đàn ông và đàn bà đang làm tình đứng trên đầu họ! Chỉ đứng trên đầu
bạn là đủ rắc rối rồi; làm tình... và cả hai đang đứng trên đầu họ - chắc đã là
một thực hành lớn, một kỉ luật, kỉ luật suốt đời.
Bạn sẽ ngạc nhiên... các tạp chí
playboys và playgirls không là gì khi so sánh với Khajuraho. Hai người đàn ông
đang làm tình với một người đàn bà từ cả hai phía. Ba người đàn ông đang làm
tình với một người đàn bà: hai người từ cả hai phía và một người từ mồm! Và đây
là những ngôi đền tôn giáo!
Tôi sẽ phơi bày mọi tôn giáo này dần dần
ra. Bây giờ tôi phải xem tình cảm tôn giáo của bao nhiêu người bị tổn thương. Những
ngôi đền này ở Khajuraho không phải là ngoại lệ. Cùng những ngôi đền này tồn tại
ở Jagganath Puri, nơi mà Shankaracharya Puri, quỉ sa tăng của tôi, chỉ huy những
người đàn bà trần truồng kia! Cùng loại điêu khắc này tồn tại ở Konarak. Chúng
có khắp nơi ở Ấn Độ.
Phần lớn trong chúng đã bị người Mô ha
mét giáo phá huỷ, vì họ chống lại tượng. Thượng đế phải không có bất kì tượng
nào; ngài không thể bị giam trong tảng đá. Họ đã phá huỷ hàng triệu tượng khắp Ấn
Độ, nhưng dầu vậy vài cái vẫn còn trong rừng sâu, hay có thể ở ngoài tầm với của
họ. Chúng chỉ ra thực tại của cái gọi là đất nước tôn giáo này.
Và nếu bạn cảm thấy bị tổn thương thế,
cứ đi tới Khajuraho, đi tới Konarak, đi tới Puri, và để cho tình cảm tôn giáo của
bạn bị tổn thường thật nhiều như bạn muốn. Tôi đơn giản phát biểu sự kiện thôi.
Tôi đã không đánh mạnh thế, bởi lẽ đơn giản là tôi muốn những kẻ ngốc, những
người đã gọi tôi là "thượng đế tự phong, cái gọi là thượng đế" hỏi
tôi - nhưng không ai đã bao giờ hỏi. Họ đơn giản viết - mọi người - trong các tạp
chí, báo chí, sách của họ, rằng tôi là "thượng đế tự phong."
Nhưng họ đã không nhận biết rằng một
khi tôi bỏ từ bhagwan, tôi sẽ phơi bày mọi cái Bhagwans của họ ra; không có
cách khác. Và tôi đang phơi bày họ ra trên từng điểm: nghèo nàn, sinh thái, vô
dục, bạo hành. Mọi tôn giáo này đều có tính phá huỷ, gây hại, tai hoạ cho nhân
loại. Họ cần bị phá huỷ hoàn toàn. Chỉ ở cái chết mới có khả năng nảy sinh tính
tôn giáo, con người mới với cách nhìn mới trong đó sẽ không có khác biệt giữa
đàn ông và đàn bà.
Giờ đến lời kinh:
Thưa Thầy kính yêu,
Một lần, một sư hỏi thầy Nam Nhạc,
"Giáo huấn đặc biệt của thầy là gì?"
Nam Nhạc đáp, "Mùa thu
chúng ta thu hoạch; mùa đông chúng ta cất kho."
Câu trả lời có vẻ kì lạ, nhưng ngụ ý của
nó là rõ ràng. Ông ấy đang nói, chúng ta sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc một
cách tự phát, đáp ứng với thực tại. Chúng ta không có học thuyết nào trong tâm
trí, tương ứng với điều chúng ta sống. Chúng ta sống không có ý nghĩ, bên ngoài
tâm trí, cho phép tâm thức chúng ta đáp ứng với thực tại.
"Mùa thu chúng ta thu hoạch; mùa
đông chúng ta cất kho."
Thực ra, ông ấy đã nói điều bản chất
nhất cho tính tôn giáo. Nam Nhạc là một trong những thầy lớn tôi bao giờ cũng
yêu mến.
Sư khác hỏi Nam Nhạc, "Đạo là
gì?"
Nam Nhạc trả lời, "Diều bay qua bầu
trời lớn; không cái gì còn lại ở đó."
Biến mất trong bầu trời tối thượng bên
ngoài đường chân trời là "Đạo."
Con người có phẩm chất của Nam Nhạc
tôi có thể gọi là có tính tôn giáo: đích thực thế, chân thành thế, xác đáng thế
- không nhiều lời hơn, không ít lời hơn. Bạn không thể sửa đổi được phát biểu của
ông ấy, chúng đầy đủ thế, hoàn hảo thế.
Nam Nhạc trả lời, "Diều bay qua bầu
trời lớn; không cái gì còn lại ở đó." Mọi thứ tan biến.
"Đây là Đạo. Niết bàn là Đạo."
Đi sâu hơn vào trong bầu trời bên
trong của bạn và biến mất và bạn sẽ là một với vũ trụ. Không có cách thứ bên
ngoài, không có khổ hạnh bên ngoài, không có kỉ luật bên ngoài: một tính thiền
đơn giản... Thảnh thơi trong bản thân bạn, bạn sẽ thấy bầu trời bên trong của bạn.
Cho phép mọi thứ biến mất đi; thậm chí không một dấu vết còn bỏ lại sau. Bạn đã
về tới nhà. Đây là Đạo.
Một dịp khác, Nam Nhạc bước xuống từ bục
và nói, "Người ta đứng trên đám đông thịt đỏ ở chiều cao không thể đo được."
Ông ấy đang nói rằng thân thể chỉ là
thịt đỏ. Tâm thức của bạn đứng trên thân thể, như đỉnh Himalaya vĩ đại.
"Người ta đứng trên đám đông thịt
đỏ ở chiều cao không thể đo được." Chiều cao này lớn thế, nó là không thể
đo được. Thân thể bạn có thể nhỏ, nhưng bạn không phải là thân
thể.
Không thành vấn đề liệu thân thể là của
đàn ông hay đàn bà; cả hai chỉ là đống thịt đỏ. Và tâm thức không bị ô uế bởi
thân thể, nó cũng không bị ô uế bởi ý nghĩ của bạn. Sự thuần khiết của nó là
tuyệt đối tới mức một khi bạn đã tìm ra nó, bạn sẽ đứng trên thân thể và tâm
trí riêng của bạn như đỉnh tâm thức lớn, không thể đo được, điều vươn tới khả
năng cao nhất của cuộc sống con người và tiềm năng của nó.
Bây giờ đây là những người tôn giáo thực,
người không nói những điều không cần thiết. Họ đơn giản phát biểu sự kiện đơn
giản. Ông ấy đã không làm ra bất kì cái gì khác biệt giữa đàn ông và đàn bà.
Ông ấy là vĩ đại hơn nhiều một Phật, vĩ đại hơn nhiều một Mahavira - nhưng ông ấy
đã không sáng lập ra bất kì tôn giáo nào.
Ông ấy sống với người yêu, ông ấy chia
sẻ sáng suốt của ông ấy với những người yêu, người bạn của ông ấy. Và khi được
hỏi, "Tại sao thầy không sáng lập ra tôn giáo?", ông ấy đơn giản cười.
Ông ấy nói, "Ông không thấy các tôn giáo có tổ chức khác sao? Họ tất cả đều
đã giết chết chân lí. Ta là người cuối cùng sáng lập ra tôn giáo. Khi ta biến mất,
ta không muốn để lại dấu chân của ta trên cát của thời gian.
"Và ông cũng phải nhớ," ông ấy
thường nói với các đệ tử của mình: "Đừng bao giờ cố theo ta để tổ chức ra tôn
giáo. Khoảnh khắc chân lí được tổ chức, nó bị chết. Không có cách nào để có
chân lí được tổ chức. Không có cách nào để có tình yêu được tổ chức. Đây là
chuyện riêng mỗi người."
Đây là sự vĩ đại của tính cá nhân.
Không tổ chức nào có thể chạm được nó, không xã hội nào có thể với tới nó. Thế
rồi một sư bước ra khỏi hội chúng và nói, "Đạo của thầy chẳng phải là
'trên đám đông, vân vân' đó sao?"
Thầy chẳng đang nói về đạo của thầy đó
sao? - bên ngoài đám đông, bên ngoài thân thể? Đây là điều ông ấy đã cố để cho
người của ông ấy không làm. Ngay lập tức, ngay trước ông ấy một sư đứng dậy bắt
đầu nói về "Đây là đạo."
Đây là cách kinh sách nảy sinh, đây là
cách tôn giáo nảy sinh - bởi những người trí thức nhưng không chứng ngộ, thức tỉnh,
chói sáng theo bất kì cách nào. Họ có thể hiểu mọi điều một cách trí tuệ, hiểu
sự phức tạp lớn lao, nhưng họ không thể hiểu được chân lí hiển nhiên của bản thể
bên trong của bạn.
Sư này nói, "Đạo của thầy chẳng
phải là 'trên đám đông, vân vân' đó sao?"
Nam Nhạc đáp, "Nó là vậy."
Hơn nữa, sư này lật ghế thiền.
Ghế Thiền bị lật lên chỉ khi ai đó
tuyên bố chứng ngộ của mình.
Nam Nhạc đã nói, "Nó là vậy,"
nhưng ông ấy đã không nói rằng sư này được chứng ngộ: "Ông đơn giản lặp lại
như vẹt điều ta đã nói."
Nhưng nghe thấy rằng điều này là vậy,
sư này phải đã nghĩ, "Mình đã nắm được vấn đề."
Hơn nữa, sư này lật ghế thiền của thầy
lên.
Nam Nhạc nói, "Trông ông là anh
chàng hoang dã, thô thiển làm sao!"
Sư này không biết nói hay làm gì và
Nam Nhạc đuổi ông ta ra khỏi chùa.
Mọi người nghĩ rằng từ bi phải không
làm điều như thế - đuổi ông ta ra khỏi chùa. Nhưng chính là từ từ bi mà ông ta
bị đuổi ra khỏi chùa, để chỉ cho ông ta rằng "Ông không chứng ngộ đâu. Trước
hết tìm ra kinh nghiệm riêng của ông đi, và thế rồi tới và ta sẽ đón chào ông,
và ông có thể lật ghế của ta, ông có thể ngồi lên chỗ của ta; ta sẽ bỏ trống chỗ
đó cho ông. Nhưng ngay bây giờ điều tuyệt đối cần thiết với ông là ông phải bị
tống ra khỏi chùa." Điều đó không phải là tàn nhẫn; nó là từ bi rất cao
siêu.
Shusai đã viết:
Như mây đáng yêu
Trong bức tranh đẹp,
Mặt trời mọc đầu tiên của năm mới!
Những người đẹp này! Dòng suối
nhỏ, rất nhỏ,
nhưng nó đã chứa cái quí giá nhất.
Khi Shusai nói,
"Như mây đáng yêu trong bức
tranh đẹp, mặt trời
mọc đầu tiên của năm mới!"
- ngạc nhiên làm sao mà
"Mình vẫn sống!" Ngạc
nhiên làm sao mà "Mình không
xứng đáng với mặt trời mọc đẹp
thế."
Và vậy mà sự tồn tại liên tục mưa rào
xuống từ mọi hướng, theo hàng nghìn cách. Nhưng bạn câm, bạn điếc, bạn mù. Bạn
không thấy mặt trời mọc, bạn không thấy mặt trời lặn.
Tôi đã thấy mọi người bước đi trên đường.
Mặt trời đang lặn - mầu sắc phiêu diêu thế khắp đường chân trời - và không ai
nhìn và nó. Ai đó đang nói cho bản thân mình, bạn có thể thấy môi anh ta mấp
máy; ai đó đang đếm cái gì đó, ai đó đang nhìn xuống đất. Họ hoàn toàn vô nhận
biết việc mặt trời lặn lớn lao kia, điều sẽ không bao giờ lặp lại lần nữa...
Nhưng một người của nhạy cảm thẩm mĩ,
của tâm thức tôn giáo, sẽ thu thập mọi cái đẹp này, sẽ trở thành một với mặt trời
lặn, sẽ trở thành một với các ngôi sao trong đêm, sẽ trở thành một với hoa hồng,
hay hoa sen. Người đó sẽ tận hưởng điều huyền bí vô cùng này đang trải ra mọi
khoảnh khắc quanh bạn. Mọi thứ đều là thơ ca, và mọi thứ đều là âm nhạc, và mọi
thứ đều là điệu vũ lớn lao.
Nhưng mọi tôn giáo, các tôn giáo có tổ
chức, đã phá huỷ sự nhạy cảm của bạn. Họ đã phá huỷ tính cảm nhận của bạn. Khi
tôi còn là thầy giáo trong đại học tôi có một khu vườn đẹp. Tôi bao giờ cũng có
vườn đẹp quanh tôi. Một sư Hindu, rất nổi tiếng trong những người Hindus, đã tới
gặp tôi. Tôi đưa ông ấy đi quanh vườn - vì vườn của tôi đoạt giải nhiều năm, mọi
năm, giải nhất. Chúng tôi thường đem những hoa thược dược lớn thế, hoa hồng lớn
thế - gần như không thể nào tin được. Và anh khờ già đó, sư Hindu đó, nói với
tôi, "Một người tâm linh như ông phải không mê đắm với bất kì giác quan
nào chứ."
Ngay cả nhìn vào hoa hồng cũng là mê đắm,
vì nếu bạn có thể ca ngợi cái đẹp của hoa hồng, cái gì ngăn cản bạn khỏi ca ngợi
cái đẹp của người đàn bà? Nó là cùng sự nhạy cảm. Phá huỷ nhạy cảm, làm cho da
bạn dầy nhất có thể được, làm cho sọ bạn đặc mít, trì trệ nhất có thể được để
cho bạn không ca ngợi bất kì cái gì... bạn không thể tận hưởng sự tồn tại đẹp
này.
Với hiểu biết của tôi, nếu bạn không
thể tận hưởng được cái ở bên ngoài, bạn không có khả năng tận hưởng cái ở bên
trong, vì bên trong là sâu sắc hơn nhiều. Bên ngoài lập tức có sẵn. Theo kinh
nghiệm của tôi, tận hưởng cái đẹp của hoa và sao và đột nhiên làm cho bạn nhận
biết nhìn vào bên trong bản thân bạn: cái đẹp của mình là gì? Ánh sáng của bản
thể mình là gì? Cái đẹp bên ngoài chỉ tới cái bên trong.
Tôi thiên về cân bằng sâu. Tận hưởng
cái đẹp bên ngoài đi, sự nhạy cảm bên ngoài; nó sẽ giúp cho bạn trong thiền của
bạn. Nó sẽ không làm sao lãng bạn. Nó làm sao lãng bạn vì bạn đã cấm đoán sự nhạy
cảm bên ngoài của bạn. Nếu bạn không thán phục cái đẹp của người đàn bà hay đàn
ông, thế thì khi bạn nhắm mắt lại bạn sẽ được bao quanh bởi đàn bà đẹp, bởi đàn
ông đẹp. Đây đã là cấm đoán của bạn, đây là kìm nén của bạn, cái sẽ trồi lên bề
mặt khoảnh khắc bạn bắt đầu đi vào trong. Bạn đã không hoàn thành trách nhiệm của
bạn cho sự tồn tại bên ngoài.
Bạn không xứng đáng đi vào trong chính
điện bên trong. Tôi dạy bạn yêu thế giới này, không từ bỏ nó, vì đó là cách duy
nhất để tìm ra bản thân bạn. Bạn là một phần của sự tồn tại này, bạn không thể
thoát ra khỏi nó được. Mọi việc đào thoát đều là giả, và chỉ tạo ra gian trá.
Maneesha đã hỏi:
Thưa Thầy kính yêu,
Thầy có khuyên các đệ tử của thầy
- như Gurdjieff đã làm cho đệ tử của ông ấy - rằng chúng ta đồng nhất với cái
là "đặc điểm chính" của chúng ta không?
Maneesha, không, tuyệt đối không, vì hệ
thống của Gurdjieff là khác toàn bộ. Bạn không thể đặt bộ phận của chiếc xe này
vào trong chiếc xe khác do người khác làm ra. Cả hai chiếc xe đều vận hành....
tôi không chống lại hệ thống của Gurdjieff, nhưng tôi có hệ thống được điều chỉnh
tốt hơn nhiều. Gurdjieff là thô lỗ, khắc nghiệt và đi vào kỉ luật một cách
không cần thiết mà chẳng tạo ra vấn đề gì. Chúng có thể được bỏ đi. Chẳng hạn,
điều Maneesha đang hỏi, đó là chủ đề chính của ông ấy: bạn phải tìm ra đặc điểm
chính của bạn. Ai đó có tham là đặc điểm chính của mình, ai đó có ghen tuông,
ai đó có tự cao, ai đó có ghen ghét, vân vân và vân vân.
Tôi không muốn xử trí với các bộ phận
của bản thể bạn một cách tách biệt; nó sẽ là quá trình lâu dài. Đó là lí do tại
sao không một người nào trong số các đệ tử của Gurdjieff đã trở nên chứng ngộ -
ngay cả P. D. Ouspensky cũng không chứng ngộ, người đã là người phát ngôn của ông
ấy. Không ai biết bất kì cái gì về George Gurdjieff mãi cho tới khi P. D.
Ouspensky bắt đầu viết về ông ấy.
P. D. Ouspensky đã là nhà toán học nổi
tiếng thế giới. Thực ra, nếu bạn muốn hiểu George Gurdjieff, đừng đọc sách của
ông ấy, bạn sẽ không hiểu điều ông ấy viết đâu. Ông ấy không được giáo dục tốt
trong bất kì ngôn ngữ nào. Ông ấy đã trở nên mồ côi khi ông ấy mới chín tuổi,
và thế rồi ông ấy chuyển tới sống ở phần nguyên thuỷ nhất của thế giới, vùng
Caucasus. Trên núi, giữa các bộ lạc nguyên thuỷ, ông ấy đã chuyển từ bộ lạc này
sang bộ lạc khác - họ toàn là dân Di gan, liên tục di chuyển - cho nên ông ấy
đã học mọi thứ giữa những người Di gan đó.
Khi ông ấy bắt đầu viết, ông ấy phải
phát minh ra lời riêng của ông ấy, vì ông ấy không biết ngôn ngữ nào một cách
hoàn hảo, đặc biệt không biết bất kì ngôn ngữ đương đại nào. Cho nên bạn sẽ ngạc
nhiên mà thấy rằng một câu kéo dài cả trang, một lời kéo dài cả dòng. Bạn không
thể nào hiểu nổi ông ấy đang nói về cái gì. Đến lúc bạn đọc tới cuối đoạn, bạn
đã quên mất chỗ bắt đầu, và bạn có thể đọc cả trăm trang mà bạn không thể tìm
ra được mười dòng mà có thể hiểu được.
Chính P. D. Ouspensky... Nếu bạn muốn
hiểu Gurdjieff, đọc P. D. Ouspensky đi. Ông ấy là thiên tài đương đại, và ông ấy
đã dần dần tìm ra qua Gurdjieff, bằng việc sống cùng ông này gần ba mươi nhăm
năm, cốt lõi bản chất của giáo huấn của ông này. Đây là một trong những điều
quan trọng nhất, nhưng nó thô sơ.
Theo tôi, không cần tìm ra cái nào là
đặc điểm chính của bạn. Chúng ta phải đi ra ngoài nó. Phỏng có ích gì mà đi tìm
ra nó? Bạn phải là nhân chứng cho mọi thứ: giận, tham, ghen tị, ghen tuông, bạo
hành - dù nó là bất kì cái gì, bạn phải chỉ là nhân chứng cho nó tất cả mà
không bị đồng nhất với bất kì cái gì. Đó là cải tiến của tôi với Gurdjieff.
Gurdjieff giải quyết việc bán lẻ: trước
hết tìm ra đặc điểm chính là cái nào, thế rồi tìm ra cái thứ hai, rồi tìm ra cái
thứ ba... Và toàn thể tâm trí bạn đầy nhiều thứ tới mức nếu bạn định giải quyết
một cách từng phần theo kiểu bán lẻ, kiếp sống này là không đủ. Bạn sẽ cần nhiều
kiếp, và cho dù thế vẫn không có đảm bảo rằng bạn sẽ nhớ bạn đã thu được cái gì
trong kiếp quá khứ.
Bạn có nhớ bất kì cái gì mà bạn đã thu
được trong kiếp quá khứ của bạn không? Và bạn đã sống trong nhiều kiếp, và có lẽ
bạn đã thiền, có lẽ bạn đã là người khổ hạnh, có lẽ bạn đã đi theo con đường
nào đó, nhưng bạn không nhớ bất kì cái gì. Tôi muốn kết thúc mọi thứ theo kiểu
bán buôn!
Không cần tìm ra đặc điểm chính của bạn,
nó sẽ là một phần của tâm trí bạn. Tôi muốn bạn là nhân chứng cho mọi đặc điểm
của bạn. Trong một cú đánh làm kết thúc toàn thể trò chơi!
Maneesha, không có chỗ trong viễn kiến
của tôi dành cho ý thức hệ của Gurdjieff.
Nhưng tôi yêu người này. Ông ấy là người
thô sơ, nhưng ông ấy đúng. Nhưng ông ấy đúng cho người nguyên thuỷ; ông ấy
không đúng cho thông minh đương đại. Đó là lí do tại sao ông ấy không thể tìm
ra nhiều người theo ông ấy.
Ông ấy đã sống trong tâm xã của ông ấy
gần Paris, và không nhiều hơn hai mươi người đã từng ở đó. Họ cũng dần dần biến
mất, vì đó là quá trình dài, dài tới mức họ sớm nhận ra rằng kiếp sống này là
không đủ để kết thúc tiến trình này. Bản thân Gurdjieff đã chết đi được chứng
ngộ, nhưng thậm chí ngay cả P. D. Ouspensky cũng không chứng ngộ.
Chung cuộc, bản thân ông ấy - P. D.
Ouspensky, người đã làm cho Gurdjieff nổi tiếng khắp thế giới - đã bỏ tính đệ tử
của mình, vì điều đó là sự hành hạ thế mà chẳng lí do chút nào. Gurdjieff đã ở
Tiflis, ở Liên Xô, còn P. D. Ouspensky đang thuyết giảng giáo lí của mình ở
London.
Gurdjieff đã gọi điện cho ông này từ
Tiflis, nói "Tới ngay đi! Bỏ mọi thứ." Khi thầy cho lời gọi thế...
Ouspensky đã bỏ mọi thứ - ông ấy đã tạo ra một trường học lớn - và chạy xô tới
Tiflis xa hàng nghìn dặm đường. Và khi ông ấy tới nhà của Gurdjieff, hoàn toàn
mệt mỏi, kiệt sức, Gurdjieff nói, "Ngay bây giờ, quay về và bắt đầu công việc
của ông ở London."
Ouspensky không thể nào tin được rằng
ông này lại làm điều như thế với mình. Ông ấy đã bỏ mọi thứ, trường học đã bị
phá bỏ; ông này đã ra lệnh cho ông ấy tới: "Bỏ mọi thứ!" - và bây giờ
ông này chẳng nói lấy một lời. Ông này thậm chí còn không cho phép ông ấy vào
nhà, ông ấy mới chỉ trên bậc cửa, và Gurdjieff nói, "Được rồi, ông đã tới;
giờ quay về đi. Bắt đầu công việc của ông ở London."
Điều đó có ý nghĩa nào đó, nhưng rất
thô sơ. Điều đó đơn giản ngụ ý phép thử cho tin cậy của bạn. Nhưng ngay cả
Ouspensky cũng không thể dung thứ được việc làm bẽ mặt này. Ông ấy đã phá bỏ
toàn thể trường của mình, ông ấy đã kết thúc với mọi thứ, và bây giờ lại bắt đầu
từ ABC...
Ông ấy đã bắt đầu lại trường học,
nhưng nó không còn liên quan tới Gurdjieff sống nữa. Nó chỉ liên quan tới Gurdjieff
mà Ouspensky đã viết về. Cho nên ông ấy không bao giờ nhắc tới tên đầy đủ của
Gurdjieff trong ấn bản mới của cuốn sách của ông ấy, ông ấy chỉ nói về
"G".
Ông ấy phải thoát khỏi ông này. Và điều
này xảy ra cho hầu hết mọi đệ tử. Điều hoàn toàn tốt là đọc Ouspensky, nhưng đừng
lao vào sách của Gurdjieff. Bạn sẽ đi ra mà mất trí.
Giờ là lúc dành cho Sardar Gurudayal
Singh. "Mẹ ơi! Mẹ ơi!" Bé Albert kêu lên. "Con có thể đi vào biển
được không?"
"Không, hôm nay thì không đâu,
Albert," mẹ nó đáp - "có thể ngày mai. Biển động dữ dội quá và nổi
sóng bây giờ - nó quá nguy hiểm."
"Nhưng mẹ ơi," Bé Albert
kêu, "bố đang bơi trong biển đấy."
"Mẹ biết, con yêu," mẹ nó
nói, "nhưng bố đã có nhiều tiền bảo hiểm nhân mạng rồi!"
Một hôm trong phòng xử án của quan toà
Grump, Leroy Đen Lớn đang bị xử vì tấn công và hành hung. Boris Babblebrain, luật
sư, đang thẩm vấn chéo khắt khe với Leroy, cố chứng minh anh chàng da đen này ở
bên ngoài mọi hoài nghi.
Leroy chỉ yên tĩnh nhìn Boris, và xác
nhận rằng anh ta đơn thuần đã đẩy nguyên đơn “chút xíu."
"Được," Babblebrain ngắt lời,
"chỉ cần biết mạnh thế nào?"
"À," Leroy đáp, một cách điềm
tĩnh, "như tôi đã nói, chỉ chút ít thôi."
"Bây giờ," Babblebrain quấy
rầy, "vì lợi ích của quan toà và hội thẩm đoàn, xin anh bước xuống đây,
dùng tôi làm chủ thể, và minh hoạ một chút xíu đó mạnh thế nào."
"Chắc chắn," Leroy nói, vừa
mỉm cười khi anh ta bước xuống khỏi bục làm chứng. Boris hào hứng, hi vọng rằng
Leroy sẽ cảm thấy bị hăm doạ và cường điệu việc biểu diễn của mình, do đó chứng
minh bản thân anh ta là vô tội.
Khi Leroy tới chỗ Boris, anh ta đột
nhiên đá vào cẳng chân ông luật sư mạnh hết sức, thế rồi tóm toàn thân ông này,
với toàn lực, nâng bổng Boris trên đầu mình và xoay tròn ông này trong phòng. Quay
vòng lại từ cả đống lộn xộn trên sàn, Leroy mỉm cười với quan toà Grump và giải
thích, "Thưa quí toà, chỉ mới mạnh có một phần mười thôi!"
Sardar Gurudayal Singh chạy xe kêu rầm
rầm trên Đường M.G. trong chiếc xe Ambassador cổ của anh ấy thì anh ấy bị kéo lại
phía sĩ quan Ghansu thuộc cảnh sát giao thông Poona. Sĩ quan Ghansu nhìn vào
bên trong xe và thấy một lỗ hổng đen lớn trên bảng điều khiển.
"Cái gì đã xảy ra cho đồng hồ đo
tốc độ của anh?" sĩ quan Ghansu hỏi.
"Tôi đã bán nó rồi," Sardar
Gurudayal Singh đáp.
"Tôi không cần nó chút nào nữa."
"Anh ngụ ý gì, anh không cần nó
thêm nữa sao?"
viên cảnh sát quát lên. "Làm sao
anh có thể biết anh đang đi nhanh thế nào?"
"Điều đó dễ mà," Sardar
Gurudayal Singh cười.
"Với tốc độ hai mươi dặm một giờ,
lá chắn rung lách cách. Với ba mươi dặm, cánh cửa rung lách cách. Với bốn mươi
dặm, khăn xếp của tôi rung. Với năm mươi dặm, răng tôi rung lách cách. Và với
sáu mươi dặm, răng tôi rơi ra!"
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy Kính yêu.
0 Đánh giá