Read more
Hoa trôi trên sóng nước
Chương 6
Ở ngoại ô thành phố Sapporo có một thiền
viện thuộc dòng Tào Động (Soto) tên là Chuoji, thường mở những khóa tu thiền
vào lúc cuối tuần. Thất vọng với việc đi tìm đạo một cách viển vông của mình,
tôi quay trở về với Phật giáo như một ‘giải pháp cuối cùng’ và tự nhủ nếu không
tìm được con đường giải thoát, tôi sẽ không còn muốn sống nữa. Vào lúc đó cuộc
thế chiến thứ hai cũng vừa bắt đầu.
Khóa tu tại chùa Chuoji được vị sư trụ
trì hướng dẫn có khoảng ba mươi người tham dự. Khác với những vị thầy mà tôi đã
gặp, thường giảng giải về lý htuyết, vị trụ trì tại đây lại chú trọng đến sự thực
hành. Ông quan niệm việc tọa thiền (zazen) là chính, mọi thứ khác chỉ là phụ.
Ông nói:
- Tọa thiền là ngõ vào con đường giải
thoát, chỉ có công phu tọa thiền mới làm cho tâm sáng suốt để nhận thức được
chân tánh của nó. Ngày xưa đức Phật Thích Ca đạt đạo giải thoát cũng nhờ ngồi
thiền, trước khi hoằng pháp tổ Bồ Đề Đạt Ma cũng ngồi diện bích suốt chín năm,
hiển nhiên quí vị thấy tọa thiền quan trọng như thế nào. Do đó quí vị phải chăm
chỉ tọa thiền.
Tôi không lạ gì việc ngồi tĩnh tâm
theo phương pháp Kannagara-no-michi và phát âm bằng nội lực của mình, nhưng vị
trụ trì lại dạy chỉ ngồi trong yên lặng, theo dõi hơi thở và tuyệt đối không
làm gì khác. Tôi thắc mắc:
- Thưa thầy, ngồi yên lặng như thế thì
được ích lời gì. Ít ra phải có một cái gì khác nữa chứ?
- Lúc đầu người ta chỉ cần theo dõi
hơi thở để làm lắng dịu tư tưởng đã. Đừng tưởng ngồi yên lặng như thế là dễ
đâu, bà hãy tập ngồi làm sao cho thật trang nghiêm, ngồi vững vàng như trái
núi, ngồi làm sao để tâm và thân được nhất như thì mới thực sự gọi là tọa thiền.
Phương pháp ngồi thiền khởi đầu bằng
việc đếm số hơi thở (sổ tức) như sau: lúc đầu thiền sinh hít vào và đếm thầm ‘một’,
khi thở ra thì đếm ‘hai’, cứ thế cho đến số mười thì bắt đầu trở lại. Dĩ nhiên
trong lúc đó những ý niệm vẩn vơ có thể nẩy sinh làm sao lãng tâm trí nhưng điều
quan trọng là thiền sinh không được áp chế nó, chận đứng nó, theo đuổi nó hay
bám vào nó; mà cứ để cho nó tự động đến và đi một cách tự nhiên. Thiền sinh được
dạy rất kỹ rằng chỉ nên tập trung năng lực vào việc đếm hơi thở ra vào thong thả
mà thôi. Sau khi tọa thiền một thời gian thì các thiền sinh được nghỉ ngơi vài
phút để xoa bóp cho giãn gân cốt rồi đứng dậy đi thiền hành chung quanh thiền
đường.
Sau khi việc đếm hơi thở như trên đã
thuần thục thì thiền sinh đổi cách đếm, chỉ tập trung tư tưởng để đếm mỗi khi
thở ra mà thôi. Mỗi số đếm tương ứng với cả lúc hít vào và thở ra, cho đến số
mười thì bắt đầu trở lại từ số một. Sau khi đã thực tập thuần thục cách đếm này
thì họ lại đổi cách đếm, tập trung tư tưởng để đếm mỗi khi hít vào. Đây là giai
đoạn khó khăn hơn vì mọi hoạt động tinh thần lẫn thể xác thường được thực hiện
khi người ta thở ra nên hầu hết mọi người đều vấp váp trong lúc này. Mặc dù đã
từng tu tập phương pháp tĩnh tâm rất thuần thục nhưng cũng phải mất một thời
gian tôi mới có thể đếm hơi thở một cách thoải mái, tự nhiên theo phương pháp
này.
Ngoài việc tọa thiền, vị trụ trì còn
khuyên các thiền sinh nên tham cứu thêm hai cuốn sách thiền là Bích Nham Lục và
Vô Môn Quan. Bích Nham Lục là cuốn sách do thiền sư Tuyết Đậu soạn ra và sau được
thiền sư Viên Ngộ chú giải thêm. Cuốn sách gồm một trăm công án được sắp đặt
theo thứ tự nhất định: khởi đầu là lời dẫn (Thùy thị), kế đến là công án (Tắc)
với những lời bình chú (Cử), bình xướng (Kệ), và bình giải. Thiền sư Đạo Nguyên
(Dogen), người sáng lập dòng thiền Tào Động ở Nhật, đã mang cuốn sách này từ
Trung Hoa về để làm tài liệu giảng dạy cho học trò của ông. Vô Môn Quan là cuốn
sách do thiền sư Huệ Khai (1183 – 1260) soạn ra. Cuốn sách này sắp đặt giản dị
hơn Bích Nham Lục rất nhiều, gồm bốn mươi tám công án thiền (Tắc) và lời bình
giải.
Theo truyền thuyết, thiền sư Huệ Khai
nhờ công án ‘Vô’ của Triệu Châu mà chứng đắc, do đó ông đưa công án này lên
hàng đầu trong cuốn Vô Môn Quan. Ông viết trong phần mở đầu: ‘Tất cả những lời
dạy của Phật đều lấy Tâm làm tông, lấy không cửa (Vô môn) là lối vào đạo. Đã là
không cửa làm sao mà vào được? Há không nghe cổ nhân nói: ‘Nếu có cửa mà vào chẳng
phải là đồ quí, do duyên mà có rồi trước sau cũng thành hoạt’. Những kẻ nào tìm
lý trong lời, chẳng khác gì vác gậy khều trăng. Có gì liên quan đến sự thật
đâu? Khi làm Thủ Chứng ở Long Tường, nhân được chư tăng thỉnh giảng pháp, ta
bèn đem công án của cổ nhân làm viên gạch dộng cửa, tùy căn cơ mà dẫn dắt người
học. Ta sao lục những lời bình giải lại thành một tập sách đặt tên là Vô Môn
Quan.
Nếu là kẻ liều lĩnh, không kể mất còn,
một mình một kiếm bước thẳng vào chỗ thù địch, dù cho Bát Tí Na Tra cũng không
cản nổi. Ngay cả hai mươi tám vị tổ ở Tây Thiên, sáu vị ở Đông Độ, chỉ nghe
phong thanh cũng đủ cầu xin tha mạng. Nếu chần chờ, ngần ngại không dũng mãnh
thì chẳng khác nào đứng cạnh cửa sổ mà canh chừng kỵ sĩ, chỉ trong chớp mắt y
đã chạy mất rồi. Do đó có bài tụng rằng: ‘Đường lớn không cửa. Có nghìn lối
vào. Qua được cửa này. Càn khôn lẻ bước.” Theo vị trụ trì chùa Chuoji, hai cuốn
sách trên và cuốn Chứng đạo ca của thiền sư Huyền Giác là ba cuốn sách quan trọng,
không thể thiếu của bất cứ người tu thiền nào. Hôm nay khi đặt bút viết đến đây
tôi xin ghi lại một nhận xét riêng cho những người muốn bước vào cửa thiền.
Mặc dù tông chỉ của thiền là ‘Bất lập
văn tự’, nhưng một số người, thường thuộc hạng trí thức, lại thích bình luận về
thiền một cách sôi nổi. Họ thường dẫn cứ những giai thoại về thiền như tổ Đơn
Hà chẻ tượng Phật làm củi đốt, tổ Lâm Tế mạnh bạo nói ‘Phùng Phật, sát Phật’ rồi
từ đó họ suy luận rộng ra và diễn giải thiền tông theo ý riêng của họ. Đây là một
trở ngại rất lớn cho người mới bước chân vào cửa thiền, những người ham thích
những gì kỳ lạ, đầy kịch tính, hơn là tọa thiền. Họ đã vô tình biến pháp môn ‘Bất
lập văn tự’ thành một trò chơi chữ nghĩa với những câu nói ngông cuồng, bắt chước
chư tổ như ‘Ba lạng vải gai’, ‘Cây phướn trước sân’, hoặc ‘Nói được, ba chục gậy.
Không nói được, ba chục gậy’. Cùng một
câu nói đó nhưng một vị thiền sư đã giác ngộ, một vị tổ, có thể nói được; còn với
những kẻ chưa ngộ, chưa hề có kinh nghiệm tâm linh, thì đó chỉ là một sự nhắc
đi nhắc lại như con vẹt, một sự ngông cuồng, ngu xuẩn, không những gây trở ngại
cho mình mà còn làm hoang mang những người khác. Tôi xin ghi lại đây một sự kiện
xảy ra trong khóa tu thiền lúc đó. Trong các khóa tu thường có một số người
thích tham dự để bàn luận nhiều hơn là tu tập. Họ thường mang kiến thức ra khoe
khoang như một cơ hội để phô trương bản ngã. Khóa tu tại chùa Chuoji cũng có
vài người như vậy nên vị trụ trì thất vọng nói:
- Nếu quí vị chểnh mảng việc tọa thiền
thì làm sao có thể đi xa hơn trên đường giải thoát được?
Một học viên tên Yamato đã biện luận
việc chểnh mảng tọa thiền của mình bằng giai thọai về thiền như sau:
- Khi còn tu tại núi Hoành Nhạc, Mã Tổ
chăm chỉ tọa thiền ngày đêm không mỏi mệt. Một hôm thầy ông là hòa thượng Nam
Nhạc hỏi: ‘Con tọa thiền như thế để làm gì?’. Mã Tổ trả lời: ‘Con cố gắng ngồi
để được thành Phật’. Nam Nhạc không nói gì, chỉ lấy một miếng ngói rồi mài đi
mài lại trên hòn đá gần đó. Thấy lạ, Mã Tổ bèn hỏi: ‘Thầy mài ngói để làm gì vậy?’.
Nam Nhạc thản nhiên trả lời: ‘Để làm gương soi mặt’. Mã Tổ lắc đầu: ‘Làm sao
mài ngói mà có thể thành gương được!’ Nam Nhạc cũng nói ngay: ‘Làm sao ngồi mãi
mà có thể thành Phật được?’.
Nghe Yamato nói vậy, vị trụ trì đã trả
lời:
- Các ông chỉ ham thích những lý luận
suông mà không hiểu Nam Nhạc biết rõ căn cơ của Mã Tổ lúc đó đang bị mê hoặc,
cho rằng Phật tánh là một cái gì ở bên ngoài mà ông có thể tìm được qua việc tọa
thiền, nên mới dạy như vậy để ông này tỉnh ngộ. Thật ra Nam Nhạc đâu có nói việc
tọa thiền là vô ích như mài ngói không thể thành gương mà chỉ nhấn mạnh rằng
làm sao Mã Tổ có thể thành Phật qua việc ngồi, nếu ông không bắt đầu là một ông
Phật trước đã. Nói một cách khác, tọa thiền không mang đến cho ta Phật tánh, nó
chỉ giúp cho tâm ta tĩnh lặng để ý thức được rằng Phật tánh vốn hiện hữu trong
ta. Nếu tâm ta hoàn toàn an tĩnh thì một phút ngồi thiền chính là một phút làm
Phật, còn như ngồi mà tâm vọng động, mong cầu thì có ngồi bao lâu cũng chỉ là
vô ích thôi. Nếu lúc tọa thiền thì các ông ngủ gật nhưng sau buổi tọa thiền lại
hăng say lý luận giảng giải lung tung như thế này thì đừng nói tu một kiếp, nếu
có tu hành hàng trăm kiếp cho đến ngày đức Phật Di Lặc ra đời vẫn chẳng hiểu được
gì hết. Các ông phải cố gắng công phu, chớ sinh tâm nghi ngờ hay chấp vào những
giai thoại thiền mà các ông chưa hiểu rõ, để rơi vào ma đạo, trôi nổi trong
sinh tử luân hồi, không giải thoát được.
Nghe vị trụ trì nói vậy, tôi cảm thấy
yên tâm và cố gắng chăm chỉ tọa thiền theo phương pháp chỉ dẫn.
Trước khi đi xa hơn, tôi muốn nhắc qua
về lịch sử Thiền tông Nhật Bản. Thiền tông du nhập vào xứ tôi từ lâu, có lẽ từ
khi đạo Phật truyền vào đây. Lịch sử ghi nhận vào năm 552, quốc vương xứ Triều
Tiên đã cho người mang triều cống Nhật Bản một số kinh sách, tượng Phật và sau
đó Hoàng đế Nhật đã gửi người qua Triều Tiên, Trung Hoa để hỏi thêm về Phật
pháp. Vào năm 654, ngài Đạo Chiêu (Dosho), một đệ tử của ngài Huyền Trang bên
Trung Hoa, đã qua Nhật giảng dạy về thiền tại thành phố Nara. Sau đó các thiền
sư khác như Đạo Tuân (Dosen), Nghĩa Không (Giku), Đạo Long (Doryu), Tố Nguyên
(Sogen), Nhật Ninh (Ichinei) đều lần lượt được mời sang giảng dạy về thiền nhưng
lúc đó Thiền tông vẫn chưa phát triển được bao nhiêu.
Có người cho rằng các thiền sư trên chỉ
đến giảng dạy một thời gian rồi trở về nước chứ không có ý định xây dựng, phát
triển Thiền tông tại đây. Cũng có dư luận cho rằng phương pháp giảng dạy của
các thiền sư Trung Hoa lúc đó không phù hợp với phong hóa Nhật Bản nên không được
quần chúng đón nhận nhiệt thành. Phải chờ đến khi hai vị sáng tổ của Thiền tông
Nhật Bản là ngài Vinh Tây (Eisai) và Đạo Nguyên (Dogen) qua Trung Hoa tu học,
trở về hoằng pháp thì thiền tông mới phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng đến mọi sinh
hoạt của người dân xứ này.
Tổ Vinh Tây (Eisai Myoan 1147 – 1215)
là một vị cao tăng tu ở núi Hiei, một trung tâm Phật giáo nổi tiếng của Nhật Bản
lúc đó. Trước khi qua Trung Hoa ông đã là một luận sư rất giỏi. Ông nghiên cứu
nhiều kinh điển nhưng không thỏa mãn với lời giải thích của các danh sư đương
thời nên qua Trung Hoa tìm thầy học thêm. Ông du hành nhiều nơi, theo học với
các cao tăng của Thiên Thai Tông, Chân Ngôn Tông, Tịnh Độ Tông, nhưng vẫn không
thỏa mãn cho đến khi gặp các thiền sư thuộc dòng Lâm Tế tại núi Thiên Đồng thì
bao nghi ngờ đều được giải đáp cả. Ông sống tại đây nhiều năm để học hỏi thêm,
hàng ngày theo chư tăng làm các công việc thường nhật như chẻ củi, giã gạo,
canh tác theo đúng tinh thần thiền môn là ‘một ngày không làm là một ngày không
ăn’. Núi Thiên Đồng còn là nơi nổi tiếng sản xuất các loại trà (hai loại trà
Long Tỉnh và Thiết Quan Âm đều phát xuất từ đây) nên hiển nhiên ông đã học được
cách trồng trà. Khi trở về Nhật, ngoài việc giảng dạy thiền, Vinh Tây còn mang
hạt giống trà về trồng và khởi xướng nghệ thuật uống trà tại đây, do đó người
Nhật đã coi ông như tổ sư khai sáng dòng Lâm Tế Nhật Bản và cha đẻ ra nghệ thuật
trồng trà, uống trà.
Vinh Tây là người có công rất lớn
trong việc phát triển thiền học tại Nhật. Ông chủ trương thiền học chính là
phương pháp khai phóng sức mạnh của dân tộc. Ông soạn thảo bộ Hưng thiền hộ quốc
để làm tài liệu giảng cho học trò. Theo ông thì đạo Phật không giới hạn trong
phạm vi của các tu viện mà phải thể nhập vào đời sống của đại chúng. Một quốc
gia sở dĩ hưng thịnh được là nhờ những người trong đó biết tu tỉnh, biết sống
trong tỉnh thức, biết ý thức tinh thần trách nhiệm và đạo đức. Ông chủ trương từ
giai cấp lãnh đạo cho đến thứ dân đều phải thực tập thiền định, ngay các hiệp
sĩ (Samurai) cũng phải biết tự chủ qua phương pháp thiền tập.
Ông viết: ‘Nhờ làm chủ được mình mà mọi
ý nghĩ, hành động của họ đều phản ảnh phần nội tâm phong phú, nhân cách điềm đạm,
đo đó người hiệp sĩ có thể tìm thấy ‘hành trong vô hành, động trong bất động’,
ung dung tự tại trước ngoại vật, ngay cả cái chết cũng không thể làm họ nao
núng được.” Cuốn Hưng thiền hộ quốc trở nên cuốn sách gối đầu giường của giai cấp
hiệp sĩ lúc đó và mở đường cho phong trào võ sĩ đạo (Bushido) sau này. Ngoài ra
người ta còn thấy ảnh hưởng của Vinh Tây trong văn học, thi ca, kịch nghệ, hội
họa, nghệ thuật cắm hoa, uống trà nữa. Chính nhờ Vinh Tây mà Thiền tông đã gắn
liền với đời sống của người dân xứ này và chính nhờ biết thực tập thiền định mà
người dân xứ này đã hun đúc được một lý tưởng quốc gia dân tộc mạnh mẽ đến ngày
nay.
Tổ Đạo Nguyên (Dogen 1200 – 1253) xuất
thân trong một gia đình quí tộc. Khi nhỏ, ông đã tỏ ra là người thông minh dĩnh
ngộ. Lúc lên bốn tuổi đã đọc được thơ văn Trung Hoa và năm lên chín đã bắt đầu
soạn thảo tài liệu về Phật học bằng tiếng Trung Hoa. Vì cha mẹ mất sớm khi ông
còn nhỏ nên ông đã sớm suy gẫm về lý vô thường của cuộc đời. Các tác phẩm ông
viết năm lên mười tuổi đã phản ảnh rõ ràng tâm trạng này. Năm mười hai tuổi,
ông thọ giới xuất gia tại một ngôi chùa ở núi Hiei. Mặc dù còn nhỏ nhưng ông đã
có những nhận xét xác đáng. Khi thấy phần lớn các tăng sĩ chỉ chú trọng vào việc
cầu siêu, cầu an hoặc ủng hộ các gia đình thế gia vọng tộc chứ không chú tâm
vào việc tu hành để giải thoát, ông đã đặt những câu hỏi mà các tăng sĩ lớn tuổi
trong tu viện không thể trả lời. Năm mười lăm tuổi, ông thắc mắc: ‘Nếu như kinh
đã nói, nếu chúng sinh đều sẵn tánh Bồ Đề, thì tại sao chư Phật phải nỗ lực mới
đạt ngộ?’ Vì không một vị sư nào ở núi Hiei lúc đó có thể giải thích thỏa đáng
câu hỏi trên nên Đạo Nguyên lên đường đi khắp Nhật Bản tìm các danh sư khác để
tham vấn. Lúc đó Tổ Vinh Tây ở Trung Hoa trở về, đang truyền bá giáo lý Lâm Tế ở
chủa Kenninji nên ông tìm đến. Cuộc gặp gỡ giữa hai vị tổ Thiền tông của Nhật Bản
diễn ra như sau:
Đạo Nguyên bước vào xin gặp Vinh Tây
và đặt ngay câu hỏi. Vừa nghe xong, Vinh Tây ung dung trả lời: ‘Không Phật nào
biết, chỉ có hàng thô lậu biết mà thôi “, ngụ ý chư Phật không còn nghĩ đến có
hay không có bản tánh Bồ Đề, chỉ có hạng người mê hoặc mới nghĩ đến những điều
như thế. Vừa nghe xong, bao thắc mắc từ bấy lâu nay đều tiêu tan cả nên Đạo
Nguyên sụp xuống lạy và xin được ở lại chùa Kenninji tu học dưới sự hướng dẫn của
Vinh Tây. Cuối năm đó tổ Vinh Tây qua đời, Đạo Nguyên tiếp tục tu học dưới sự
hướng dẫn của các đệ tử lớn của Vinh Tây. Ông đã hoàn tất một số công án và được
thiền sư Myozen, vị kế nghiệp của Vinh Tây, ấn chứng cho. Mặc dù được thế, Đạo
Nguyên vẫn cảm thấy trong lòng có nỗi bất an nên ông tìm đường qua Trung Hoa học
hỏi thêm.
Ông đi khắp Trung Hoa, dừng chân ở các
thiền viện nổi tiếng, tu tập dưới sự dẫn dắt của rất nhiều vị thầy nhưng vẫn
chưa hoàn toàn thỏa mãn cho đến khi ông gặp Thiền sư Như Tịnh (Nyojo) thuộc dòng
Tào Động chỉ cho ông phương pháp Chỉ Quán Đả Tọa (Shikan – Taza), một hình thức
tọa thiền không tham công án cũng không theo dõi hơi thở. Ông chăm chỉ thực
hành phương pháp này ngày đêm không mệt mỏi. Một hôm trong buổi thiền tập, Như
Tịnh bắt gặp một vị tăng đang ngủ gật, ông bèn quở trách vị này không hết lòng
cố gắng rồi quay qua tăng chúng trong thiền đường, khuyên: ‘Các ông phải dùng tất
cả sức mạnh của mình, ngay cả hy sinh mạng sống nữa, muốn giác ngộ hoàn toàn,
các ông phải xả bỏ thân tâm’. Khi nghe đến cuối câu này, Đạo Nguyên bỗng liễu
ngộ. Ông cảm thấy trong lòng sảng khoái, hoan hỉ lạ thường; bao thắc mắc, các nỗi
bất an đều tiêu tan cả.
Hôm sau, ông bước đến phòng thầy đốt một
nén nhang và quì lạy. Như Tịnh vốn đã biết rõ căn cơ Đạo Nguyên, nay nhìn thấy
học trò mình đã đại ngộ qua cách đi đứng, quì lạy nên giả vờ hỏi: ‘Tại sao con
lại thắp nhang?’ Đạo Nguyên đáp:’Kính thưa thầy, con đã xả bỏ thân tâm’. Như Tịnh
bèn lập lại: ‘Con đã xả bỏ thân tâm. Thân tâm thực đã xả bỏ’. Đạo Nguyên bèn
trách: ‘Xin thầy đừng ấn chứng cho con một cách dễ dàng như vậy’. Như Tịnh thản
nhiên: ‘Ta có ấn chứng dễ dàng thế đâu’. Đạo Nguyên lắc đầu: ‘Xin thầy chỉ cho
con thầy không ấn chứng dễ dàng’. Như Tịnh đáp: ‘Đây là xả bỏ thân tâm’. Đạo
Nguyên cảm động quì sụp xuống lạy thầy một lần nữa. Như Tịnh hài lòng gật đầu
và nói: ‘Đó là xả bỏ cái xả bỏ’. Mặc dù đã được thầy ấn chứng nhưng Đạo Nguyên
vẫn tiếp tục tu học với Như Tịnh thêm hai năm nữa trước khi từ giã thầy lên đường
về nước.
Tuy được coi là người đã mang giáo lý
Tào Động từ Trung Hoa về truyền bá tại Nhật nhưng thật ra Đạo Nguyên không hề
có ý định thành lập môn phái. Nếu nghiên cứu kỹ các bài giảng của ông, người ta
thấy ông không hề bị ràng buộc vào giáo lý Tào Động. Ông đã sử dụng nhiều
phương pháp khác nhau, và nếu cần, sẵn sàng vay mượn phương pháp của các dòng
khác như Lâm Tế, Hoàng Bá, Ngưu Đầu. Ông chủ trương ‘tùy bệnh cho thuốc’, tùy
căn cơ học trò mà giảng dạy. Ông cho rằng người tu thiền có thể tạm chia ra làm
bốn loại. Loại thứ nhất là những người không có lòng tin tưởng sâu xa nhưng nhờ
duyên nghiệp mà đến với thiền. Loại thứ hai là những người chỉ mong nhờ tu thiền
mà cải thiện sức khỏe, cả thể xác lẫn tinh thần. Loại thứ ba là những người có
lòng tin, muốn đi theo con đường của đức Phật, và loại thứ tư là những người
không những đã có lòng tin mà còn có tinh thần dũng mãnh, quyết tâm thực hiện
chân ngã của mình, để đạt đến giác ngộ giải thoát. Tùy học trò thuộc loại nào
mà ông giảng dạy cho họ phương pháp tọa thiền nào thích hợp nhất cho từng người.
Đạo Nguyên là một trong những thiền sư
siêu việt nhất của Nhật Bản. Ông dạy đạo một cách mãnh liệt nhất bằng chính
thái độ sống của mình. Ông viết bộ Chánh pháp nhãn tạng (Shobogenzo) đề cập
quan niệm sống, từ những việc nhỏ nhặt, giản dị nhất như cách thực hiện phương
pháp vệ sinh trong tu viện đến những quan niệm lớn lao, trừu tượng hơn như sự
tương quan giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ. Khi được triều đình mời vào
giảng dạy, ông hăng say cổ súy việc tu tập thiền định tại đây. Khi thấy những
người cầm quyền chỉ coi thiền như một thứ giải trí, ông lập tức bỏ đi và than: ‘Phật
pháp là thực hành, không phải để nói suông’. Vào lúc đó, phần lớn các tăng sĩ đều
dựa vào thế lực của triều đình, việc được mời đến giảng dạy cho vua chúa là một
vinh dự rất lớn, có thể đưa đến việc triều đình cấp ruộng nương, đất đai để lập
tu viện.
Thái độ bất khuất, thẳng thắn của ông
đã khiến cho các tu viện lúc đó ngần ngại không dám chứa chấp ông. Một số tăng
sĩ còn lên tiếng chỉ trích ông nữa nhưng người ta càng chỉ trích ông bao nhiêu,
danh tiếng của ông lại càng nổi lên như cồn bấy nhiêu. Ông đến tỉnh Echizen,
đích thân quyên góp tiền bạc của dân chúng để dựng một cảnh chùa riêng, không cần
đến sự giúp đỡ của triều đình. Số người kéo đến xin tu học với ông rất đông. Ông
thường nói: ‘Đừng chờ lúc khát mới đào giếng, đừng chờ lúc già mới học đạo, mà
phải nỗ lực tinh tấn tu hành ngay trong lúc này. Nếu kiếp này không ngộ thì còn
chờ đến kiếp nào?’ Thấy uy tín của ông mỗi ngày một lớn, triều đình cho người cầm
chứng thư đến phủ dụ, trong thư hứa sẽ cấp rất nhiều đất đai, ruộng nương cho
ông nhưng ông từ chối.
Nhờ thế danh tiếng của ông lại càng nổi
hơn, số người kéo đến xin xuất gia với ông rất đông nhưng ông nói: ‘Không phải
vào chùa mới là tu mà phải biết tu trong mọi hoàn cảnh’. Cũng như Vinh Tây, Đạo
Nguyên chủ trương thiền phải được thể hiện ngay trong đời sống hàng ngày và
trong kinh nghiệm cá nhân. Khi sứ quân Tokiyori hỏi ông có cách nào giảng về
thiền một cách thật ngắn và thật dễ hiểu không, ông đã trả lời: ‘Đi, đứng, nằm,
ngồi đều là thiền cả’. Có thể nói nhờ Đạo Nguyên mà sự giản dị, thanh khiết và
thành thật đã ảnh hưởng rất nhiêu đến người dân xứ này.
Ngày nay một số người thường phân biệt
phương pháp giảng dạy giữa hai dòng Tào Động và Lâm Tế. Họ cho rằng Tào Động
chú trọng về tọa thiền trong khi Lâm Tế chủ trương tham công an. Thật ra cả hai
phái đều chú trọng đến sự tọa thiền cũng như tham công án. Tổ Đạo Nguyên trước
khi qua Trung Hoa đã từng tu học với Tổ Vinh Tây, đã từng tham công án trong
tám năm và được ấn chứng bởi các thiền sư Lâm Tế. Sau khi học được phương pháp
Chỉ Quán Đả Tọa của phái Tào Động tại Trung Hoa, ông đã trở về Nhật giảng dạy
cho các môn đệ của mình nhưng ông đã mang theo bộ Bích Nham Lục, gồm một trăm
công án làm tài liệu giảng dạy thêm. Ngoài ra ít lâu sau ông còn soạn thêm cuốn
Niêm bình tam bách tắc (Nempyo Sambyaku Soku) gồm ba trăm công án nữa để làm
sáng tỏ phương pháp giảng dạy của mình.
Ngay trong bộ sách Chánh pháp nhãn tạng
của ông cũng chứa đựng rất nhiều công án, do đó không thể nói phái Tào Động chỉ
chú trọng đến tọa thiền mà thôi. Có lẽ vì phương pháp Chỉ Quán Đả Tọa là một
phương pháp rất cao, thuộc Tối Thượng Thiền (Saijojo), những kẻ thiếu nhiệt tâm
khó lòng tu tập nên các thiền sư dòng Tào Động đã phương tiện dẫn dắt người mới
nhập môn tập đếm hơi thở (sổ tức) để cho tâm được hợp nhất, sau đó họ giảng dạy
cách tham công án để phá tung các vướng mắc của lý trí, tư tưởng, quan niệm,
thành kiến, và sau cùng mới dạy Chỉ Quán Đả Tọa để kiến tánh.
Chỉ Quán Đả Tọa (Shikan Taza) là một
phương pháp thực hành của phái Tào Động mà tổ Đạo Nguyên đã mang từ Trung Hoa về.
Đây là cách tọa thiền không đếm hơi thở cũng như không tham công án, mà chỉ tập
trung nỗ lực vào việc ngồi mà thôi (đả tọa). Dĩ nhiên điều này rất khó vì tâm dễ
bị xao lãng nếu không được tập trung vào sự đếm hơi thở hay vào công án. Đả tọa
là cách ngồi sao cho thật ung dung, không vội vã, ngồi thoải mái vững vàng như
núi và linh mẫn như nước. Nói một cách khác, đó là một tâm trạng tập trung cao
độ nhưng không quá căng thẳng và dĩ nhiên không giải đãi. Tổ Đạo Nguyên đã diễn
tả tâm trạng này như sau: ‘Đó là tâm trạng của một kiếm sĩ đang thủ thế trước một
địch thủ lợi hại, ông ta phải hết sức đề cao cảnh giác, không ngừng theo dõi từng
bước đi, từng cử động nhỏ của đối thủ. Mỗi người đều chuẩn bị xuất chiêu và sự
thiếu cảnh giác, dù chỉ trong giây phút thôi, cũng đem lại cái chết.
Trong lúc đó có một đám đông người tụ
tập theo dõi cuộc đấu kiếm. Dĩ nhiên vì mắt không mù nên kiếm sĩ nhìn thấy họ rất
rõ; vì tai không điếc nên kiếm sĩ nghe rõ những lời khen chê của họ, nhưng ông
ta phải biết làm chủ tâm mình, không để ngoại cảnh chi phối dù chỉ trong phút
chốc, vì sai một giây thôi cũng đủ mất mạng rồi. Do đó một kiếm sĩ phải biết sử
dụng kiếm một cách ung dung, không quá gắng sức, chỉ khi cần thiết mới nỗ lực
xuất chiêu thôi. Chỉ Quán Đả Tọa là thế đó. Lúc mới tập ai cũng gắng sức và
căng thẳng nhưng khi công phu đã chín muồi thì sự căng thẳng từ từ biến đi và
thay bằng sự ung dung thoải mái, dĩ nhiên vẫn có sự chú tâm đầy đủ.
Giống như bực kiếm sư sử dụng kiếm
không hề gắng sức, không hề suy tính chiêu thức vì kiếm và người đã là một,
thân và tâm đã nhất như thì Chỉ Quán Đả Tọa cũng như thế, không còn phương tiện,
không còn cứu cánh mà tất cả chỉ là một. Do đó chư Phật quá khứ cũng như vị lai
đều thực hành phương pháp này vì nó biểu lộ sự sống tuyệt đối, sự sống trong
các hình thức tinh khiết nhất. Nó không dính dáng gì đến việc phải nỗ lực, cố gắng
để đạt ngộ giải thoát hay bất cứ một đối tượng nào khác. Nó hoàn toàn vô cầu,
vô niệm. Thực hành thiền như thế chính là thể hiện Chân tánh không hề ô nhiễm của
mình và đó chính là Thiền Tối Thượng Thừa.”
Vì chùa Chuoji chỉ mở các khóa tu thiền
vào lúc cuối tuần nên một người bạn đã nói với tôi rằng người ta không thể tiến
bộ gì nhiều nếu chỉ tu một cách ‘tài tử’ vào lúc cuối tuần như vậy. Theo bà, muốn
tiến nhanh hơn, người ta cần phải tham dự những tuần lễ Nhiếp Tâm (Zazen
Sessin) vì trong tuần lễ này, thiền sinh phải nỗ lực công phu, ngày cũng như
đêm, vượt qua những trở ngại để chứng ngộ. Tôi được biết tại Maruyama có một
thiền viện thuộc dòng Lâm Tế, thường mở những tuần lễ nhiếp tâm mỗi năm hai lần.
Trong tuần lễ này, thiền sinh nỗ lực tham cứu công án và được Thiền sư Joten, một
trong những thiền sư nổi tiếng của phái Lâm Tế lúc đó, hướng dẫn.
Có ba cách tu tập: Thính tham (Sosan)
là những buổi giảng chung mà các thiền sinh phải tham dự để nghe các thiền sư dạy
về phương pháp tu tập. Độc tham (Dokusan) là sau khi nỗ lực tu tập, thiền sinh
được đưa đến gặp riêng các thiền sư vào những giờ phút qui định trước, để trình
bày kiến giải của mình cho thầy nghe. Đặc tham (Naisan) là bất cứ lúc nào học
trò cần trình bày kiến giải hay có những nghi tình, thắc mắc khẩn cấp cần phải
vào gặp riêng thầy vào những giờ phút không qui định trước. Mùa thu năm ấy, tôi
ghi tên tham dự tuần lễ nhiếp tâm tại chùa Zuryuji thuộc tình Maruyama.
Đó là một ngôi chùa cổ nằm ở ngoại ô
thành phố, mái phủ đầy rong rêu, trước cổng có treo một tấm bảng gỗ nét chữ đã
phai mờ, phải nhìn kỹ mới thấy được chữ “Zuryuji.” Thiền đường trần thiết giản
dị với một tượng Phật bằng gỗ, nét khắc đơn sơ một mạc, trên vách có một bức
tranh lớn vẽ tổ Bồ Đề Đạt Ma đang quảy chiếc dép đi về phương tây. Quanh vách
là những bục gỗ được đóng cao lên để thiền sinh tọa thiền. Chúng tôi được vị
tri khách tăng chỉ dẫn cẩn thận về cách thức đi đứng, sinh hoạt trong tuần lễ
nhiếp tâm:
- Quí vị nên biết, đây là một cơ hội
hiếm có mà trong đó quí vị sẽ cố gắng để đạt đến giác ngộ (Satori). Thời gian sắp
đến rất quan trọng và đòi hỏi nỗ lực phi thường, do đó tôi yêu cầu quí vị hãy
nghỉ ngơi sớm để sáng mai khi khóa nhiếp tâm bắt đầu, quí vị sẽ có đủ sức theo
đuổi. Nếu quí vị không cố gắng trong khóa tu này thì quí vị còn chờ đến bao giờ?
Trong tuần lễ này, tất cả mọi người phải tuyệt đối giữ im lặng, không được nói
chuyện hay gây tiếng động, làm phiền người khác. Thời khóa tu tập đã được ấn định,
giờ giấc ăn ngủ, nghỉ ngơi đều có ghi rõ trong lịch trình tu học và sẽ có
chuông báo, quí vị phải tuyệt đối tuân lệnh những vị tăng phụ trách...
Khóa Nhiếp Tâm (Zazen Sassin) bắt đầu
từ sáng sớm với nghi thức phổ thông trước khi chuyển qua phần thính tham
(Sosan). Thiền sư Joten, người hướng dẫn khóa tu, là một vị tăng có nét mặt oai
nghi và nghiêm khắc. Ông im lặng chờ mọi người an tọa rồi mới đưa mắt nhìn quanh
thiền đường như để nhận diện từng người một trước khi lên tiếng:
- Trong khóa tu này quí vị phải cố gắng
tìm hiểu về thiền. Có lẽ quí vị đã từng nghe, từng đọc, từng đàm luận về thiền
rồi nhưng cái thứ thiền trên sách vở, trên đầu môi chót lưỡi đó chẳng có ích lợi
gì cho quí vị cả. Càng nói nhiều về thiền, quí vị càng dễ đắm đuối. Càng nghe
nhiều về thiền, quí vị càng thêm nhức óc nếu quí vị không thực sự tự mình cố gắng
tìm hiểu xem thiền là gì. Người ta không thể hiểu Phật pháp qua kiến văn quảng
bác hay các lý luận cao siêu được. Nếu lý luận có thể giải thích được thì đó chỉ
là một mớ kiến thức chứ chắng phải Phật pháp. Nếu quí vị không nhất quyết một
lòng tu tập thì chẳng bao giờ quí vị có thể giải thoát được.
Ông im lặng một lúc như để lời nói ăn sâu
vào tâm thức mọi người rồi mới tiếp tục:
- Trong tuần lễ Nhiếp tâm này, chúng
ta sẽ bắt đầu bằng công án ‘Vô’ của Triệu Châu như sau: Một tăng sĩ đến gặp Triệu
Châu và hỏi: ‘Thưa thầy, con chó có Phật tánh không?’ Triệu Châu trả lời: ‘Vô’.
Bây giờ quí vị hãy chuyên tâm vào chữ ‘Vô’ này và tìm hiểu xem ý nghĩa của nó
như thế nào. Dĩ nhiên nghĩa đen của nó là ‘không’ nhưng thực ra lời giải đáp của
Triệu Châu không nằm ở chỗ đó. Quí vị phải cố gắng tham cứu công án để tìm ra
cái cốt tủy của chữ “Vô “ này. Quí vị sẽ thấy rằng mọi lý luận, phân tích bằng
lý trí đều vô hiệu vì ý nghĩa đích thực của nó không thể tìm kiếm được bằng lý
trí. Quí vị hãy xếp bằng, thở hít thật đều đặn và thầm đọc chữ ‘Vô’ ở trong
tâm. Hãy cố gắng tập trung mọi năng lực trong người vào chữ ‘Vô’ này, đừng nghĩ
đến ý nghĩa của nó, đừng tìm hiểu bằng lý luận, hãy tập trung nỗ lực để trở
thành một với nó đã.
Chỉ khi nào hòa nhập được với ‘Vô’ rồi
thì quí vị mới bắt đầu tự hỏi: ‘Vô là gì hay nó có thể là cái gì?’ và sau đó tập
trung mọi năng lực trong người vào câu hỏi đó cho đến khi nó bùng vỡ ra và từ
đó mọi sự sẽ tự nó giải quyết. Khi đó quí vị sẽ vào độc tham với tôi để chứng
minh một cách đích thực rằng quí vị đã hiểu ‘Vô’ là gì. Trong khi tu tập, điều
quan trọng nhất là quí vị phải giữ công án này trong tâm, ngày cũng như đêm,
sáng cũng như tối, đi, đứng, nằm, ngồi đều phải chú tâm nơi công án, không được
nghĩ bất cứ một điều gì khác. Phải sử dụng tất cả mọi năng lực trong người để
giữ nó trong tâm, tuyệt đối không được xao lãng vì một phút ngập ngừng là hỏng
hết công phu rồi. Chỉ một giây lơ đễnh quí vị có thể đi xa cả ngàn dậm, do đó
trong việc tham công án, quí vị phải hết sức đề cao cảnh giác. Phải biết gạt bỏ
mọi vọng niệm mà chỉ chuyên nhất vào chữ ‘Vô’ mà thôi.
Một tiếng chuông vang lên báo hiệu phần
thính tham đã chấm dứt. Các thí sinh xếp bằng quay mặt vào vách và bắt đầu việc
tham công án. Vì đã từng tọa thiền từ trước nên tôi cảm thấy thoải mái ngay với
cách ngồi này nhưng không phải ai cũng như vậy. Nhiều người không quen cứ phải
thay đổi cách ngồi, co chân duỗi tay, gây trở ngại không ít cho việc tập trung
của người khác. Sau khi hơi thỏ đã điều hòa, tôi bắt đầu tập trung tư tưởng vào
công án. Vì đây là lần đầu tham công án nên trí óc của tôi chưa thuần thục, nó
cứ xoay chuyển tìm đủ mọi cách để giải công án này qua sự suy luận quen thuộc của
nó nhưng vì đã được cảnh cáo trước nên tôi cố gắng loại bỏ những tư tưởng xáo
trộn này.
Thoạt nghe thì tưởng dễ nhưng thật ra
đâu là việc không dễ chút nào, tôi cứ phải phấn đấu để loại bỏ những lý luận
này mãi nên chỉ một lúc sau mồ hôi của tôi đã toát ra như tắm. Bình thường tôi
có thể ngồi thiền khá lâu, nhưng lần này chỉ khoảng tàn một nén nhang tôi đã cảm
thấy mệt mỏi vô cùng. Tôi cố gắng tập trung định lực vào chữ ‘Vô’ nhưng không
hiểu sao đầu óc của tôi cứ muốn nổ tung lên. Mọi ngày khả năng tập trung của
tôi rất mạnh, nhưng lần này nó không theo mệnh lệnh của tôi nữa. Hơi thở của
tôi tự nhiên tán loạn, đầu óc của tôi trở nên mơ hồ. Đúng vào lúc tôi cảm thấy
gần như không kiểm soát nổi thì có tiếng gió rít ngang tai và chiếc Tỉnh Thức
Côn bằng gỗ đã đập mạnh vào lưng tôi. Tiếng vị tăng kiểm soát (Godo) vang lên:
- Hãy cố gắng tập trung, đừng tách rời
công án dù chỉ một thoáng giây.
Lạ lùng thay, cái đánh bằng Tỉnh Thức
Côn có một mãnh lực kỳ lạ làm tôi như thoát khỏi cơn mê. Tôi vội ngồi thẳng người
lên, hít một hơi dài để lấy sức rồi tiếp tục tập trung tư tưởng vào chữ ‘Vô’. Về
sau này tôi nghe nhiều người phàn nàn về việc bị đánh bằng chiếc gậy này khi họ
ngủ gật hay xao lãng tâm thân, có người đã tỏ ra bất mãn khi bị đánh như vậy.
Theo tôi thì đây là một phương pháp rất hay nhằm mục đích làm thức tỉnh những
năng lực đang bị tán loạn hoặc hôn trầm khiến người tu tích cực trong việc tu tập
hơn. Một số nhà phê bình người Âu cho việc đánh bằng Tỉnh Thức Côn là dã man,
hung bạo, không hợp với tinh thần từ bi của Phật giáo, nhưng thật ra điều này
không đúng.
Tỉnh Thức Côn chỉ là cây gậy gỗ dài
khoảng một thước, một đầu dẹp trông giống như mái chèo, được chế tạo bằng gỗ mềm
nên dù có đánh mạnh cũng không thể gây thương tích cho ai được. Nên nhớ mục
đích của cây gậy này không phải để trừng phạt mà chỉ để thức tỉnh người đang buồn
ngủ, khuyến khích kẻ đang mệt mỏi, và cảnh tỉnh một người đang xao lãng thân
tâm. Vị tăng sử dụng Tỉnh Thức Côn thường là một người nhiều kinh nghiệm, được
huấn luyện cẩn thận để làm việc này và ông rất ý thức mỗi khi vung gậy lên đánh
chứ không hung hăng gây bạo hành như nhiều người thường nghĩ. Thông thường người
bị đánh chắp tay giơ lên để tỏ lòng biết ơn và vị tăng đi kiểm soát cũng cúi đầu
đáp lễ trong tinh thần tương thân tương kính.
Một tiếng chuông vang lên báo hiệu buổi
thiền tập đầu tiên đã chấm dứt, tôi nghe có nhiều tiếng thở phào nhẹ nhõm. Theo
sự hướng dẫn của vị tăng, mỗi người thong thả xoa nắn chân tay cho đỡ mỏi một
lúc rồi sắp hàng để đi kinh hành (Kihin) quanh thiền đường. Sau buổi kinh hành,
chúng tôi được nghỉ ngơi khoảng nửa giờ trước khi vào thiền đường tiếp tục tham
cứu công án. Vì là tuần lễ Nhiếp Tâm nên mỗi ngày có tất cả bảy buổi thiền tập
như vậy từ sáng đến khuya, trong khi các khóa thiền tập khác thường chỉ có khoảng
ba hay bốn buổi thiền tập là nhiều. Ngoài các thời khóa công phu, mọi người được
nghỉ ngơi, ăn uống hay tắm rửa nhưng họ được căn dặn phải giữ tuyệt đối yên lặng
và chú tâm vào công án.
Trong ngày đầu đa số chưa quen nên ai
nấy đều mệt lả nhưng bước sang ngày thứ hai, tôi thấy nhiều người đã cố gắng tu
tập một cách kiên trì và đến ngày thứ ba thì thiền sinh chia làm hai nhóm rõ rệt,
một nhóm chăm chỉ gắng sức tham công án bất kể mệt mỏi và một nhóm chỉ cố gắng
làm sao để có thể theo kịp các thời khóa mà thôi. Về phần tôi tuy không gặp khó
khăn trong tư thế ngồi nhưng lại gặp trở ngại trong việc tham công án, hàng
trăm ý tưởng kỳ lạ cứ nảy sinh trong đầu óc khiến nhiều lúc tôi cảm thấy mệt mỏi,
chỉ muốn bỏ cuộc. Đây là một sự lạ vì tôi là một người đã có khả năng tập trung
khá cao nhưng có lẽ cũng chưa quen với lối tọa thiền tham công án này. Việc đưa
ra một đề tài đã kích thích khả năng lý luận của tôi, khiến đầu óc tôi cứ khổ
công phấn đấu để loại bỏ các tạp niệm này. Sự tranh chấp giữa các ý niệm lăng
xăng khiến tôi cảm thấy vô cùng mệt mỏi, nhưng lần nào cũng thế, mỗi khi sắp sửa
xao lãng thì vị tăng cầm tỉnh thức côn đã bước đến đập nhẹ vào vai tôi:
- Bà phải cố gắng chiến đấu mãnh liệt
thêm nữa.
Tôi thầm nghĩ tại sao tọa thiền lại là
một sự chiến đấu? Người ta há chẳng nói thiền là ngồi yên tĩnh hay sao? Tôi đã
từng ngồi yên tĩnh lặng được kia mà, tại sao trong lối tu này lại phải chiến đấu
như thế? Đang mải mê suy nghĩ thì vị tăng bước lại ghé sát vào tai tôi nói lớn:
- Đừng mất thì giờ thắc mắc làm gì,
hãy tập trung vào ‘Vô’ thôi. Đó là điều duy nhất cần làm lúc này, chỉ vậy thôi.
Cứ thế mỗi ngày chúng tôi tiếp tục
tham công án như vậy nên đầu óc của tôi mỗi lúc một căng thẳng, hơi thở của tôi
không còn nhẹ nhàng thoải mái mà trở nên hổn hển gấp rút khác thường. Tuy nhiên
tôi không phải là người duy nhất vì hầu như ai nấy đều gặp khó khăn tương tự.
Khắp thiền đường đầy những hơi thở dồn dập nặng nề, thỉnh thoảng lại có người
kêu lớn ‘Vô’, ‘Vô’ như mê sảng. Vị tăng cầm tỉnh thức côn càng ngày càng mệt nhọc
hơn trước, ông đi hết chỗ này đến chỗ khác để nhắc nhở và tùy hoàn cảnh mà ông
nhắc mỗi người một cách khác nhau. Có khi ông nói nhẹ nhàng nhưng cũng có khi
ông quát lớn và đến những ngày cuối thì gần như ai nấy đều mệt lả, không thể kiểm
soát được nữa.
Thiền đường trở nên một ‘bãi chiến trường’
với những tiếng kêu gần như tuyệt vọng: ‘Vô’, ‘Vô’... Ai nấy đều cố gắng giữ tư
thế để tránh khỏi gục xuống sàn vì kiệt sức. Tôi cố gắng tập trung tư tưởng
nhưng không thể bám víu vào chữ ‘Vô’ được vì hầu như nó và tôi vẫn còn một khoảng
cách kỳ lạ nào đó. Tôi nắm chặt hai tay lại, vận dụng tất cả sức bình sinh để
giữ công án trong tâm nhưng càng cố gắng bao nhiêu nó càng tuột ra bấy nhiêu. Mồ
hôi toát ra như tắm, tôi nghiến chặt răng lại nhưng năng lực trong người tôi dường
như biến đâu mất hết. Tôi cảm thấy như đang rơi vào một trạng thái kỳ lạ, không
còn kiểm soát được mình nữa.
Một tiếng chuông vang lên báo hiệu buổi
tập thiền đã chấm dứt, mọi người vội vã xoa bóp chân tay và chuẩn bị cho phần độc
tham (Dokusan). Vì là lần đầu còn bỡ ngỡ, tôi không biết phải làm gì hay thu xếp
để trình bày sự hiểu biết của mình như thế nào. Chúng tôi đi dọc theo hành lang
ra hậu liêu rồi chắp tay chờ đến lượt vào độc tham với thiền sư Joten. Tôi chẳng
biết mình đã chờ đợi bao lâu vì lúc đó đầu óc tôi hết sức mệt mỏi vì tập trung
quá độ, thân thể kiệt quệ thiếu điều đứng không nổi nữa. Vị tăng phụ trách ra
hiệu cho tôi bước vào một căn phòng nhỏ ở cuối dãy. Dưới ánh nến leo lét, tôi
thấy thiền sư Joten đang ngồi yên lặng chờ đợi. Lúc đó tôi không biết phải làm
gì hay tuân theo một nghi thức nào. Bao nhiêu điều được dặn dò trước khi vào độc
tham tôi đều quên hết nhưng dường như có một động năng nào đó thúc giục, tôi
thu hết can đảm bước thẳng đến chỗ thiền sư Joten ngồi và nói lớn:
- Bạch thầy, tâm chính là đạo.
Vừa thốt xong câu đó tôi bỗng giật
mình không hiểu tại sao mình lại nói như vậy. Đó không phải là một câu nói ngẫu
nhiên, nhưng là điều mà tôi đã cảm nhận được khi thực hành những nghi thức tẩy
uế bằng nước lạnh (Misogi) ở Hokkaido. Tôi nghĩ rằng đó là một kinh nghiệm về sự
giác ngộ (Satori) qua công phu tu tập nhiều năm mà tôi vẫn ấp ủ trong đáy lòng
nhưng chưa có dịp bày tỏ. Không hiểu sao trong giây phút bất ngờ, tôi lại thốt
ra như vậy. Vừa nghe tôi nói thế, thiền sư Joten đã nghiêm nghị trả lời ngay:
- Đó là một lý thuyết sai lầm.
Câu nói lạnh lùng làm tôi chưng hửng
như vừa bị dội một gáo nước lạnh lên người. Có thể như vậy sao? Tôi toan cãi rằng
đó không phải là một lý thuyết nhưng là sự cảm nhận, trực ngộ qua công phu tu tập
từ trước của tôi nhưng trước ánh mắt nghiêm trang của thiền sư Joten, không hiểu
sao tôi lại giữ thái độ im lặng. Thiền sư chăm chú nhìn tôi như chờ đợi phản ứng
nhưng không thấy tôi nói gì, ông khoát tay ra hiệu cho tôi lui ra. Tôi đã thất
bại trong việc trình bày kiến giải của mình về công án ‘Vô’. Tôi bước trở về
thiền đường trong một tâm trạng chán nản và tuyệt vọng cùng cực. Tôi không biết
phải làm gì hay thế nào nữa đây. Công phu tu tập và sự cảm nhận vẫn ấp ủ trong
lòng từ trước đến nay bỗng dưng bị gạt bỏ một cách phũ phàng không thương tiếc.
Tại sao thiền sư Joten không an ủi hay
ban cho tôi một câu nói khích lệ hơn? Phải chăng thiền sư Joten, giống vị lão
sư của Thần Đạo chỉ là những người ích kỷ, lạnh lùng đầy những mưu toan, tính
toán? Tôi cảm thấy mệt mỏi rã rời, mọi sinh lực trong người gần như mất hết.
Tôi cố gắng không lộ vẻ xúc động, bước về chỗ ngồi của mình và giữ im lặng
nhưng không hiểu sao công án ‘Vô’ lại tiếp tục ám ảnh đầu óc tôi. Hình như có một
cái gì đang phát triển trong tôi, một cảm giác rất vi tế mà tôi không thể hiểu.
Tuần lễ nhiếp tâm chấm dứt với một khóa lễ phổ thông. Sau khóa lễ, thiền sư
Joten kết thúc bằng một buổi nói chuyện ngắn:
- Trong tuần lễ nhiếp tâm này, một số
lớn quí vị chưa nắm vững được ý nghĩa của công án ‘Vô’. Có lẽ quí vị chưa cố gắng
hết sức, chưa một lòng một dạ để sống chết với công án này. Một vài người trong
quí vị đã tỏ ra hài lòng với kinh nghiệm nhỏ nhặt đạt được trong lúc tu tập
nhưng đó chỉ là những chướng ngại mà thôi. Tu thiền phải biết đi đến chung cuộc,
phải đạt chứng ngộ mới được chứ không thể có việc đi nửa chừng. Một là quí vị
ngộ, hai là không ngộ chứ không thể lưng chừng ở giữa được. Do đó quí vị phải
biết chuyên tâm vào công án, dù các vọng niệm nổi lên cứ mặc nó mà chỉ chú tâm
vào công án thôi. Một số quí vị đã mắc lỗi lầm thông thường là cố gắng đè nén
các vọng niệm đó xuống, quí vị sẽ không thể thành công như vậy được. Chư tổ đã
dạy ‘Cố đạt đến cái tĩnh bằng cách dẹp cái động thì cái tĩnh lại càng quấy động
hơn nữa, càng nỗ lực đè nén cái động bao nhiêu thì kết quả lại càng ngược lại bấy
nhiêu’. Cái ‘Vô’ của Triệu Châu đối với người chưa quán triệt là một bức tường
dày bằng sắt nung đỏ, không ai dám đâm đầu vào đó nhưng nếu dũng mãnh, cố gắng
tham công án ngày này qua ngày khác không một phút ngưng nghỉ, thì quí vị sẽ thấy
nó chẳng có gì ghê gớm cả...
Vừa nghe đến đó tôi bừng tỉnh và nghĩ
rằng có lẽ thiền sư Joten đã nói riêng cho tôi về phương pháp tham công án. Suốt
mấy ngày qua tôi chẳng đã nỗ lực đè nén những vọng niệm xuống hay sao, có lẽ vì
thế nên tôi rất mệt, nhưng hiện nay tôi đã hiểu và biết đâu tôi chẳng chứng ngô
được trong một thời gian ngắn. Tự nhiên tôi nghĩ việc gì phải chờ đợi đến khóa
nhiếp tâm sang năm như vậy, tôi sẽ về nhà tập trung năng lực để giải công án
này rồi tới độc tham với thiền sư Joten để vị này ấn chứng cho. Tôi rời chùa
Zuiryuji với tâm trạng phấn khởi lạ lùng và chuẩn bị ngay một thời khóa công
phu tu tập riêng cho mình. Tôi nghĩ một khi đã nắm được bí quyết thì thời gian
chứng ngộ chẳng còn bao lâu, chắc chỉ vài tuần hay vài tháng là nhiều. Để tham
cứu công án một cách yên tĩnh, không bị ai quấy phá, tôi quyết định tìm lên một
hang động trên núi để tĩnh tu. Gia đình tôi rất ngạc nhiên và khó chịu.
Đứa con rể phàn nàn: ‘Mẹ đã già rồi,
sao không tu ở nhà cho thoải mái, bỏ lên núi làm gì cho mệt! Không chừng gặp
loài chồn hoang rồi trở lại việc lên đồng nhập cốt thì mệt lắm’. Tôi biết thằng
con rể vẫn nghi ngờ động năng tu hành của tôi nhưng bất chấp mọi lời khuyên cản,
tôi nhất định cắt bỏ mọi ràng buộc với gia đình để tìm đạo. Tôi thương lượng với
một người tiều phu mua lại căn lều đổ nát của ông trên núi mà ông không dùng nữa.
Đó là một căn lều cỏ dột nát, bẩn thỉu, chỉ trơ trụi một tấm mền rách và một
cái bếp bằng đất thấp lè tè nhưng tôi thầm nghĩ: ‘Đức Phật ngày xưa chỉ có độc
một tấm bồ đoàn, ngồi dưới gốc cây bồ đề mà thành đạo được thì một túp lều rách
với một cái bếp cũ còn tiện nghi chán’. Tôi lập thời khóa công phu để tọa thiền
ba lần mỗi ngày, thời giờ còn lại tôi vào rừng nhặt củi mang xuống chợ bán, với
số tiền bán củi tôi có thể mua thực phẩm và không phải nhờ cậy gì đến gia đình
nữa.
Lúc đầu tôi nghĩ mình có thể chứng ngộ
trong vòng một tháng nhưng một tháng trôi qua mà tôi vẫn chưa tiến bộ được chút
nào. Tôi cố gắng nỗ lực nhiều hơn nữa, thay vì mỗi ngày ba buổi tọa thiền, tôi
gia tăng lên bốn buổi rồi năm buổi. Thời gian tiếp tục trôi, một năm, hai năm
đã qua mà tôi vẫn chưa thấy có sự thay đổi gì. Tôi có ý định trở lại tham dự
khóa nhiếp tâm để hỏi thiền sư Joten cho ra lẽ nhưng không hiểu sao tôi lại
nghĩ: ‘Mình đã từng tham dự khóa nhiếp tâm rồi, cũng chẳng có gì lạ, có mỗi
công án ‘Vô’ mà giải chưa xong thì tham dự thêm mấy khóa nữa cũng chẳng lợi lộc
gì’. Tôi nhất định không đến Zuiryuji mà chờ đến khi tự mình chứng ngộ được sẽ
đến độc tham với thiền sư Joten. Thời gian cứ tiếp tục trôi. Thấm thoát tôi đã
tham công án được bốn năm mà vẫn không thấy tiến bộ gì so với khi trước. Hơn
lúc nào hết, tôi bắt đầu sợ hãi và mất niềm tin. Nhiều lúc tuyệt vọng, tôi đã
nghĩ đến việc tìm cái chết.
Sau cùng tôi tạm ngưng việc tham công
án cho đầu óc bớt căng thẳng rồi kiểm điểm lại hành động của mình trong bốn năm
qua. Tôi thấy mình đã có cố gắng nhưng không hiểu sao vẫn không thể hòa nhập được
với ‘Vô’. Tôi đành kết luận có lẽ nghiệp của mình quá nặng, không thể tu hành
tiến bộ được, và muốn tiếp tục tôi phải tìm cách giải trừ các nghiệp chướng
này. Tôi không nhớ đã đọc được ở đâu một phương pháp gọi là Lục Độ Ba La Mật (Bố
thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ) trong đó hạnh bố thí
đứng đầu và làm căn bản cho tất cả những Ba La Mật kia. Để tiêu trừ túc nghiệp,
người tu phải lập hạnh Bố thí bằng việc cho đi tất cả những gì mình có như quần
áo, thực phẩm, nhà cửa, tài sản, và nếu cần cả thân thể của mình nữa.
Trong việc tu thiền, có năm chướng ngại
là tham lam, giận tức, hôn trầm, trạo cử và nghi hối. Nhờ thực hành bố thí mà
người tu diệt trừ được lòng tham lam. Nhờ phát tâm bố thí một cách trong sạch
mà người tu sẽ nhẫn nhục, diệt trừ được sự giận tức. Nhờ phát tâm cầu đạt đạo
giải thoát mà người tu siêng năng bố thí do đó diệt trừ được sự lười biếng, hôn
trầm. Nhờ khởi tâm trong sạch, kính trọng mọi chúng sinh, chú ý đến hành động của
mình để không tạo thêm nghiệp nữa mà người tu diệt trừ được trạo cử. Nhờ biết bố
thí như trên mà người tu đạt được phước báu vô lượng, càng được nhiều phước
càng vững tin vào sự bố thí mà người tu diệt trừ được nghi hối.
Biết bố thí là căn bản cho mọi hạnh
khác. Tôi bèn quyết định thực hành bố thí qua việc chia xẻ những cái mình có với
những người chung quanh. Mặc dù sống bằng nghề nhặt củi, lợi tức chẳng bao
nhiêu nhưng tôi cố gắng ăn thật ít, để chia xẻ thực phẩm cho những người nghèo
và những đứa trẻ thiếu ăn trong xóm. Vào lúc đó, cuộc thế chiến thứ hai đang bước
vào giai đoạn trầm trọng, hầu như mọi hoạt động đều đổ dồn vào chiến tranh. Các
hãng xưởng sản xuất khí giới hoạt động mạnh, mọi người bị động viên vào việc sản
xuất cho chiến tranh, chỉ trừ những người già yếu, bệnh tật hay trẻ nhỏ mà
thôi. Tôi gặp Kimura, một cựu quân nhân đã phục vụ trong mặt trận Mãn Châu trở
về. Ông này bị nội thương rất nặng thường thổ huyết, không thể làm ăn gì được.
Vợ ông lại mang bầu sắp sinh cũng
không thể đi làm. Hai vợ chồng đã bán tất cả những gì họ có, từ đồ đạc, nhà cửa,
ruộng nương để mua thực phẩm nuôi thân và sau cùng khi không còn gì nữa, họ gạt
lệ rời bỏ căn nhà hương hỏa đã lọt vào tay kẻ khác, cất một cái chòi nhỏ ở chân
núi, sống bằng cách đi mót rau trái ngoài ruộng để sống qua ngày. Mùa mưa đến,
ruộng ngập nước không còn rau trái để mót, họ đành sống bằng cách đi ăn xin
nhưng trong tình trạng chiến tranh, ai ai cũng đói khổ, nên họ thường đói nhiều
hơn no. Biết rõ tình cảnh, tôi thường đến chia sẻ số thực phẩm ít oi của mình với
họ. Hôm đó khí trời giá lạnh, tôi bước vào căn lều dột nát trơ trụi không có đồ
đạc và thấy bà Kimura đang ôm bụng nằm rên la trong ổ rơm dưới đất. Tôi động
lòng trắc ẩn nghĩ đến cái chăn bằng nỉ đã cũ nát của mình.
Dù sao cái chăn cũ cũng còn ấm hơn nằm
ổ rơm, hơn nữa bà Kimura lại sắp sinh, làm sao một đứa bé sơ sinh có thể chịu đựng
được thời tiết lạnh cắt ruột như thế này. Tôi nảy ý định cho bà Kimura cái chăn
cũ của mình nhưng khi trở về lều, nhìn cái chăn rách tôi lại có ý tiếc không muốn
cho. Ngay lúc đó tôi thấy rõ hạt giống tham lam, bỏn xẻn vẫn còn ở trong tôi và
quyết định: ‘Ta phải cương quyết diệt trừ tính tham lam này’. Tôi vơ vội chiếc
chăn rách và mấy cái áo cũ mang qua lều tặng cho bà Kimura. Trên đường trở về
tôi thấy trong lòng nhẹ nhõm, thoải mái khác thường. Một cảm giác ấm áp lạ lùng
dường như nảy sinh trong tâm khiến tôi suýt kêu lớn: ‘Bây giờ có lẽ ta sẽ đạt
ngộ được rồi’. Tôi vội vã xếp bằng tập trung tư tưởng vào công án ‘Vô’ và thầm
nghĩ có lẽ lần này mình sẽ thành công nhưng rồi một năm lại trôi qua, tôi vẫn
không thấy mình tiến bộ chút nào.
Tôi đã khóc hết nước mắt, tôi đã thao
thức nhiều đêm để tìm hiểu về số phận hẩm hiu của mình. Tôi tự hỏi tôi đã làm
gì nên tội, tại sao công phu tu tập siêng năng như vậy mà không đạt được kết quả
nào? Không lẽ nghiệp của tôi lại nặng đến như vậy hay sao? Tự nhiên ý định tìm
đến cái chết bỗng nảy sinh trong đầu óc hoang mang, tuyệt vọng của tôi. Tôi lấy
một sợi dây thừng treo lên cành cây gần đó toan thắt cổ tự tử nhưng may mắn
thay khi vừa treo xong sợi dây, tôi lại nghĩ: ‘Nếu ta chết đi thì sự đau khổ
này có chấm dứt không? Chắc chắn là không, nó sẽ tiếp tục theo đuổi ta qua những
kiếp sau. Nghiệp chướng đâu thể thay đổi bằng cái chết. Người ta phải gặt hái
những gì mà người ta đã gieo, không thể trốn chạy được. Có nợ thì phải trả và
phải trả cho đến hết mới thôi. Chắc chắn trên thế gian này thiếu gì những kẻ
cũng gặp khó khăn như ta, biết đâu hoàn cảnh của họ lại chẳng bi đát hơn ta nữa.
Đi tìm cái chết chỉ là một hành động
nhất thời không giải quyết được gì hết. Giải pháp duy nhất là phải nhẫn nhục chịu
đựng để trả hết nghiệp. Khi hết nghiệp thì chắc chắn sẽ giải thoát được. Dù thế
nào chăng nữa ta cũng phải đạt ngộ giải thoát, nếu không được trong kiếp này
thì kiếp sao hay kiếp sau nữa’. Nghĩ thế tôi bèn bỏ ý định tự tử và từ đó trở
đi, dù trong hoàn cảnh tuyệt vọng nào, không bao giờ tôi nghĩ đến việc tìm cái
chết nữa. Tôi vất bỏ sợi dây thừng rồi thắp một nén nhang, thành tâm xin xám hối
những tội lỗi đã tạo và cương quyết phát nguyện sẽ tu hành để đạt đạo giải
thoát, bất chấp mọi khó khăn trở ngại. Tôi không nhớ rõ mình đã làm những gì
nhưng tôi biết chắc chắn tương lai của tôi sẽ phải thay đổi từ khi phát nguyện
này. Tôi thành kính niệm hồng danh chư Phật, xin xám hối những lỗi lầm đã phạm
và tôi đã khóc cho đến khi ngất đi lúc nào không biết.
Tôi không biết mình mê hay tỉnh nhưng
trước mắt tôi bỗng hiện ra một làn hơi mờ đục, tụ lại thành một hình bóng vật vờ
bay lượn. Hình bóng này từ từ đông đặc lại thành một con vật lông lá xù xì,
trông như con dã nhân. Con vật này vươn mình lên cao và cao mãi cho đến khi đầu
nó đụng vào những lớp mây đang bay trên trời. Tôi tự hỏi tại sao lại có hiện tượng
kỳ lạ như vậy. Tôi đã từng có dịp tiếp xúc với các cõi giới vô hình nhưng điều
này vượt ra ngoài giới hạn mà tôi hiểu biết. Tôi bèn cố gắng tập trung tư tưởng
để quán xét hiện tượng này và bất ngờ thay tôi bỗng thấy mình chính là Thái
Dương Thần Nữ. Tôi nắm rất vững quan niệm về sự giao tiếp với các thần linh
trong thiên nhiên và đã từng làm như vậy nhiều lần trong khi hành nghề cô đồng
(Miko) nhưng lần này tôi không còn thấy mình là một dụng cụ để các vị thần nhập
vào nữa, mà trở nên là một với các thần linh.
Ngay lúc đó, tôi biết mình đang kinh
nghiệm được một trạng thái đặc biệt, tối cao của Thần Đạo: Trạng thái hợp nhất
với đấng Sáng Tạo hay Thái Dương Thần Nữ. Một sự an lạc lạ lùng xâm chiếm trọn
tâm hồn tôi. Phải chăng đây chính là trạng thái mà lão sư vẫn thường nói đến,
trạng thái đạt đại đạo? Tôi thấy mình tan biến trong một biển ánh sáng lạ lùng.
Trước mắt tôi hàng ngàn hình ảnh kỳ lạ đầy màu sắc hiện ra chói lọi. Phải rồi,
tôi đang chiêm ngưỡng sự tạo thiên lập địa của Thái Dương Thần Nữ. Không !
Chính tôi là người đang sáng tạo, giữa tôi và Thái Dương Thần Nữ không còn gì
cách biệt mà là một với nhau.
Tôi thấy mình sinh hóa ra muôn loài,
ra các chư thần, ra chính tôi, chính tôi đã sinh ra tôi. Tôi đã kinh nghiệm được
mình trước khi được sinh ra. Phải chăng đó là điều mà công án ‘Bộ mặt thật trước
khi sinh ra’ đã đề cập đến? Trong khoảnh khắc đó, mọi sự bỗng trở nên rõ ràng
hơn bao giờ hết. Tôi reo lớn: ‘Ngộ rồi (Satori), ta đã chứng ngộ rồi!’ Tôi
choàng dậy trong một cảm giác kỳ lạ không thể diễn tả. Tôi thấy mình chạy nhảy
chung quanh căn lều và reo lớn như đứa trẻ được quà: ‘Satori! Satori! Satori!’
Tôi có cảm tưởng như toàn thế giới đang tràn ngập một niềm vui không kể xiết và
rồi tôi cười, cười mãi không thôi.
Không bút nào có thể diễn tả được cảm
giác sung sướng mà tôi đã kinh nghiệm được lúc đó. Cái thế giới đầy phiền muộn
vẫn quấy phá tôi từ trước đến nay bỗng dưng thay đổi một cách bất ngờ. Tôi thấy
trong người nhẹ nhõm thoải mái như vừa trút được một gánh nặng. Phải chăng tôi
đã chứng ngộ? Phải chăng ngộ là như thế? Dĩ nhiên tôi muốn được ấn chứng về
kinh nghiệm tâm linh này. Lúc đó vào đầu mùa đông, phải đợi đến cuối xuân mới
có khóa nhiếp tâm tại Zuiryuji nhưng tôi không thể chờ đợi lâu như thế được.
Tôi vội vã lấy xe lửa đi Maruyama để gặp thiền sư Joten ngay. Ngồi trên xe tôi
đã thảo một bài thơ ngắn trình bày kiến giải của mình với hy vọng sẽ được thiền
sư Joten ấn chứng cho. Khi xe lửa đến gần Maruyama, tôi lo lắng tự hỏi không biết
thiền sư Joten có chịu tiếp tôi không? Trong các khóa nhiếp tâm, người ta có thể
xin đặc tham được nhưng hiện nay không phải tuần lễ nhiếp tâm. Phần lớn các thiền
sư đều tĩnh tu, không dễ gì có thể gặp các ngài nếu không có hẹn trước. May mắn
thay, khi vừa đến trước cửa chùa Zuiryuji, tôi gặp thiền sư Joten đi đâu về,
đang chuẩn bị mở cổng bước vào. Tôi vội vã bước đến:
- Bạch thầy, cách đây hai năm con đã từng
tham dự khóa nhiếp tâm với thầy.
Thiền sư Joten nhìn tôi tỏ vẻ ngạc
nhiên:
- Thế ư?
- Đúng thế. Con đã được thầy trao cho
công án ‘Vô’ nhưng lúc đó con đã không giải được.
- Thì ra thế, có lẽ bà đã thay đổi nhiều
nên tôi không nhận ra...
Tôi vội vã rút bài thơ trong túi ra
trao cho thiền sư Joten:
- Bạch thầy, từ đó đến nay con vẫn tiếp
tục tham cứu công án và có bài thơ này, xin thầy coi qua để thẩm xét trình độ
cho con.
Thiền sư Joten nhận bài thơ từ tay
tôi, chăm chú đọc rồi gật đầu:
- Khá lắm! Khá lắm! Bà đã đạt được một
trình độ khá cao rồi đó nhưng...
- Nhưng làm sao? Con chưa ngộ hay sao?
Thiền sư Joten ngạc nhiên nhìn tôi như
không hiểu tôi vừa nói gì. Tôi hỏi dồn:
- Như vậy là thế nào? Phải làm sao mới
ngộ được?
Thiền sư Joten im lặng không trả lời.
Tôi vội hỏi:
- Con vẫn nghe nói phải cắt bỏ mọi tư
niệm để đạt đến trình độ vô ngã, phải chăng tất cả mọi tư niệm đều là vọng hết?
- Không hẳn thế.
- Thế là sao? Nếu chỉ dẹp bỏ một số tư
niệm thì làm sao người ta biết được cái nào cần giữ, cái nào cần bỏ? Làm sao
người ta có thể biết được cái nào là chân cái nào là vọng? Làm sao có thể phân
biệt được những tư niệm nào là đúng hay sai, thiện hay ác, xấu hay tốt?
Tôi liên tiếp hỏi hết câu này đến câu
khác, dường như bao thắc mắc vẫn tích lũy trong tâm tôi từ trước đến nay bỗng
được dịp tuôn ra như suối:
- Tại sao người ta cứ phải niệm chữ ‘Vô’
mãi trong tâm, như thế có được ích gì?
- Điều đó cũng giản dị thôi. Khi muối
dưa người ta thường phải nén lên hũ dưa một cái cối đá nặng để đè dưa xuống...
- À con hiểu rồi, khi người ta nhấc
cái cối đá nặng đó lên thì bao nhiêu sức mạnh bị đè nén bỗng bật lên một cách bất
ngờ chứ gì?
- Phải rồi, như thế đó.
Nói xong thiền sư Joten quay lưng bước
vào chùa rồi tiện tay đóng luôn cánh cửa lại như không muốn cho tôi làm phiền
ông nữa. Tôi dứng sững trước cánh cửa đã đóng chặt, tự hỏi: Như vậy là sao? Ông
có xác nhận trình độ của tôi không? Tại sao ông lại có thái độ kỳ lạ như thế? Tại
sao đang nói chuyện với tôi ông lại quay lưng bỏ đi rồi đóng cửa lại như vậy?
Rõ ràng ông đã không xác nhận trình độ của tôi nhưng hình như ông cũng không phủ
nhận nó, như vậy là thế nào?
Không tìm được câu trả lời, tôi đành lủi
thủi quay về với một tâm trạng vô cùng hoang mang, chán nản.
Vài hôm sau tôi trở lại Zuiryuji một lần
nữa xin đặc tham với thiền sư Joten nhưng người ta đã từ chối lời yêu cầu của
tôi một cách lễ phép. Cái cảm giác hân hoan sung sướng vừa đạt được của tôi bỗng
dưng tắt ngúm như ngọn đèn trước gió. Niềm an lạc dễ chịu chợt tan rã như mây
khói, tôi lại rơi vào trạng thái dằn vặt khó chịu như cũ. Phải chăng tôi lại đi
lầm đường một lần nữa? Phải chăng nghiệp của tôi quá nặng, không thể thoát ra
được? Tôi thấy mệt mỏi, chán nản về việc theo đuổi sự Chứng ngộ (Satori) của
mình. Tại sao có người chỉ tham dự một khóa nhiếp tâm mà đã chứng ngộ trong khi
tôi khổ công suốt mấy năm trường mà kết quả chẳng đi đến đâu? Tôi đã tìm đủ mọi
cách để đạt ngộ mà sao kết quả cứ mịt mù như vậy?
Ít lâu sau tôi được tin thiền sư Joten mở khóa nhiếp tâm tại chùa Zuiganji thuộc tỉnh Matsushima, tôi tìm đến đó xin được đặc tham. Lần này ông chấp thuận lời yêu cầu của tôi nhưng một lần nữa, dù tôi cố gắng thu xếp tư tưởng để trình bày sự hiểu biết của mình thế nào, tôi vẫn không làm sao ăn nói trôi chảy được, dường như vẫn có cái gì vướng mắc, không thông suốt trong tâm tư tôi.
..............................
0 Đánh giá