Chương 1. Bao giờ cũng thoải mái, thản nhiên

Chương 1. Bao giờ cũng thoải mái, thản nhiên

Price:

Read more

Mặt trời mọc buổi tối – Osho

Bài nói về Thiền

Chương 1. Bao giờ cũng thoải mái, thản nhiên



Powered by RedCircle


Ông không thấy ông ấy, người trí huệ thực sự, bao giờ cũng thoải mái và thản nhiên sao?

Ông ấy không gạt bỏ ảo vọng, ông ấy cũng không tìm kiếm (cái gọi là) chân lí.

Dốt nát là bản tính Phật cố hữu,

Thân giả tạm ảo vọng của chúng ta là thân càn khôn.

Giũ sạch các thứ và bám lấy trống rỗng là bệnh thuộc cùng loại;

nó cũng giống như ném bản thân người ta vào lửa để tránh bị chết đuối.

Khi được hỏi 'Tôn giáo của ông là gì?' Ta trả lời 'Sức mạnh của Makahannya.'

Lúc thì khẳng định mọi sự, lúc thì phủ định chúng, nó ở bên ngoài trí tuệ của con người.

Lúc thì với nghĩa thông thường, lúc thì ngược lại nó, trời không hiểu đầu đuôi ra sao.

Tôi đã thấy mặt trời mọc buổi tối, và kể từ đó tôi đã từng say sưa với cái đang vậy. Bạn có thể gọi nó là Thượng đế, bạn có thể gọi nó là niết bàn, bạn có thể gọi nó bằng bất kì cái tên nào - không thành vấn đề. Dù bạn cho nó cái tên hay bạn không cho nó tên, nó vẫn còn cùng một điều. Hoa hồng là hoa hồng là hoa hồng. Nhưng một điều là chắc chắn về nó: rằng mặt trời mọc buổi tối.

Cái thấy rõ bên ngoài không phải là thực; cái thực là chính cái đối lập của cái thấy rõ bên ngoài. Hiển nhiên là mặt trời mọc buổi sáng. Phủ nhận cái thấy bên ngoài và cái hiển nhiên tôi nói rằng tôi đã thấy mặt trời mọc buổi tối.

Kinh nghiệm của chư phật mâu thuẫn với kinh nghiệm của mọi người khác. Nó là không thông dụng; nó là duy nhất, nó là phi thường. Bình thường, bất kì cái gì chúng ta đã trở nên quen để biết chỉ là trò chơi tâm trí, vì chúng ta nhìn vào cái đang đó bằng đôi mắt nặng nề. Gương của chúng ta bị nhiều bụi che phủ; chúng đã trở nên không có năng lực phản xạ cái thực. Cái thực là không xa xôi, cái thực bao quanh bạn. Bạn là một phần của nó, nó là một phần của bạn. Bạn không tách rời khỏi nó, bạn không bao giờ tách rời khỏi nó. Bạn không thể tách rời khỏi nó được - không có cách nào để là tách rời khỏi nó, không thể nào tách rời khỏi nó. Nhưng dầu vậy, gương bị bụi che phủ không có năng lực phản xạ nó. Một khi bụi biến mất, bạn sẽ ngạc nhiên rằng mọi điều bạn đã từng tìm kiếm đã không cần được tìm chút nào, vì bạn đã có nó.

Tìm kiếm tâm linh là ảo vọng như bất kì tìm kiếm nào khác. Bản thân việc tìm kiếm là ảo vọng vì nó coi một điều là đương nhiên có sẵn: rằng cái gì đó bị thiếu. Và không cái gì bị thiếu! Một khi bạn coi như đương nhiên rằng cái gì đó bị thiếu, bạn bắt đầu đi tìm nó; thế thì bạn liên tục tìm nó theo mọi hướng. Và bạn càng tìm bạn càng sẽ bỏ lỡ nó, vì bạn càng tìm, gương càng trở nên bị phủ bụi. Bạn càng du hành đi tìm nó, bạn càng đi xa hơn trong việc tìm nó, bạn càng trở nên thất vọng hơn. Dần dần, dần dần bạn bắt đầu nghĩ rằng nó ở xa xôi thế... 'Đó là lí do tại sao mình không đạt tới nó.'

Thực tại chính là cái đối lập: bạn không đạt tới nó vì bạn là nó. Nó không xa xôi, nó là gần tới mức cho dù gọi là là 'gần' cũng không đúng, vì ngay cả tính gần cũng là một loại xa. Nó không xa chút nào, nó thở trong bạn. Nó không 'ở kia', nó là ở đây. Nó không 'lúc khác', nó là bây giờ. Nó bao giờ cũng cùng bạn. Từ chính lúc bắt đầu mọi người là Phật, mọi người là gương có năng lực phản xạ.

Đây là thông điệp cơ bản của Thiền - và là thông điệp vĩ đại nhất mà đã từng được chuyển giao cho con người, và là lực giải thoát vĩ đại nhất đã từng được đem tới thế gian. Nhưng bạn sẽ phải nhìn và theo cách mới toàn bộ. Mọi thứ được cần không phải là tìm kiếm mà là cách nhìn mới vào mọi sự. Cái thông thường, cái bình thường, cách  thức thường phải bị bỏ đi. Do đó tôi nói mặt trời mọc buổi tối. Dù bạn gọi nó bằng cái tên nào không thành vấn đề chút nào vì nó là vô lời, nó là tính vô lời, nó là hoàn toàn im lặng. Nó không thay đổi, không chuyển động; nó là vĩnh hằng, nó là vô thời gian.

Chúng ta đang đi trên cuộc hành trình mênh mông với Huyền Giác Đại sư, một Thiền sư lớn. Những lời kinh này được biết tới như Shodoka, Chứng đạo ca. Khi Huyền Giác trở nên chứng ngộ ông ấy đã buột ra việc hát như cây mùa xuân nở bung, nở hoa, và hàng nghìn hoa có đó, và hương thơm toả khắp. Đây là bài ca. Nhớ, nó đã không được đề cập tới bất kì thính giả nào - đó là cái đẹp của nó. Nếu ai đó đã nghe nó, đó là chuyện khác, nhưng Huyền Giác đã không đề cập tới điều đó; ông ấy chỉ đơn giản hát nó từ niềm vui vô cùng đã xảy ra trong ông ấy. Thực ra, nói rằng ông ấy hát nó là không đúng; tự bản thân nó đang hát trong ông ấy. Cũng như chúng ta nói 'Trời mưa', giống vậy trời hát. Và điều đó là đúng cho mọi người đã trở nên chứng ngộ; khán giả, nếu có đó, là phụ. Địa chỉ không phải chủ yếu, nó không tính tới người đang nghe nó - họ là không liên quan. Có thể họ làm lẩy cò nó, nhưng không có thoả hiệp.

Chỉ bởi vì điều này nhiều người đã cảm thấy, đặc biệt R. H. Blyth người đã dịch bài ca hay này sang tiếng Anh... Ông ấy nói rằng 'Huyền Giác vẫn cứ nói khi ông ấy chẳng có gì hơn để nói.' Điều đó là  đúng: một hoa hồng là đủ để nói điều bụi hồng phải nói, cả nghìn hoa không được cần tới; nhưng bụi hồng đang ngập tràn. Bạn không phải đi tới bụi hồng, bạn không phê bình bụi hồng, bạn không nói 'Tại sao mày liên tục lặp lại? Nói điều đó bằng một đoá hoa là đủ rồi. Thông điệp của mày đã được thấy và được nghe. Đoá hoa thứ hai sẽ chỉ giống như đoá thứ nhất...' vân vân và vân vân.

R. H. Blyth là đúng về logic. Ông ấy nói 'Huyền Giác liên tục nói khi ông ấy chẳng có gì hơn để nói.' Vấn đề không phải là liệu người ta phải nói nhiều hay ít, sâu bên dưới ông ấy chẳng có gì để nói chút nào, ông ấy không nói bất kì cái gì. Đó chỉ là niềm vui vô cùng, do đó nó có tên là 'Bài ca'. Nó không được ngụ ý để được nghe; nếu nó được nghe đó là chuyện khác. Khi bụi hồng nở hoa và bạn thấy hoa và cái đẹp và phúc lành bao quanh nó và bạn được xúc động, đó là chuyện khác. Bụi hồng không bao giờ nghĩ về bạn; nếu bạn đã không đi qua đó chắc đã không có gì khác, bụi hồng chắc vẫn liên tục hát bài ca của nó.

Điều như vậy là  hoàn cảnh với tôi. Bạn chỉ là duyên cớ. Tôi liên tục hát bài ca của tôi; nó không có địa chỉ, nó là việc nở hoa. Tôi cũng không có gì để nói - chắc chắn, tôi có cái gì đó để bày tỏ, nhưng tôi không có gì để nói. Điều như vậy là hoàn cảnh với Huyền Giác. Blyth đã bỏ lỡ vấn đề, nhưng tôi có thể hiểu tại sao ông ấy đã  bỏ lỡ nó: tâm trí logic bao giờ cũng bỏ lỡ nó vì 'Huyền Giác liên tục lặp lại cùng điều, lặp đi lặp lại.' các phát biểu này có tính tuần hoàn - chúng là cùng loại hoa lặp đi lặp lại mãi - chúng không nói nhiều, chúng không thêm bất kì cái gì mới. Nhưng niềm vui, sự bùng nổ là tới mức người ta đơn giản tuôn tràn với nó. Huyền Giác không thể làm được bất kì cái gì về nó, ông ấy hoàn toàn bất lực cũng như bụi hồng hoàn toàn bất lực. Thực ra, bụi hồng không làm bất kì cái gì, Huyền Giác không làm bất kì cái gì; ông ấy là nhân chứng cho bài ca của ông như bạn vậy. Bản thân ông ấy có thể cảm thấy hơi chút phân vân tại sao bài ca này diễn ra mãi thế. 'Ta đã nói nó, ta đã nói nó nhiều lần.' Nhưng làm gì nếu bài ca tiếp tục? Nếu nó tới từ chính cội nguồn của sự tồn tại, Huyền Giác không thể ngăn cản nó.

Và đây là một trong những điều có ý nghĩa nhất cần được hiểu, bằng không bạn sẽ hiểu lầm mọi chư phật. Phật Gautam đã bị hiểu lầm  vì trong bốn mươi năm ông ấy đã liên tục nói cùng một điều. Tại sao? Ông ấy có thể đã nói điều đó trong rất ít lời - những lời đó có thể được viết lên tờ bưu thiếp. Nhưng bạn đã bỏ lỡ vấn đề, bạn đã không thấy niềm vui vô cùng của việc chia sẻ, của chỉ hát nó lên vì bản thân nó.

Nhớ, đây là bài ca  - Chứng đạo ca. Nó đang nở hoa qua Huyền Giác. Huyền Giác chỉ là phương tiện, lối chuyển, trúc hổng; bản thân sự tồn tại đang hát qua ông ấy. Ông ấy không thể làm được bất kì cái gì theo cách này cách nọ; không có vấn đề gì trong việc phê bình Huyền Giác đáng thương.

Có lần một người tới J. Krishnamurti và hỏi 'Tại sao ông liên tục nói và đồng thời ông liên tục nói rằng nó không thể được nói?' Và ông ấy nói 'Hỏi hoa hồng xem, hỏi cây xem tại sao chúng liên tục nở hoa.'

Không có 'tại sao' cho nó, không có người  nào làm điều đó. Người làm đã biến mất, do đó bài ca đã trở thành có thể. Huyền Giác không còn nữa. Huyền Giác và bài ca không thể cả hai cùng tồn tại với nhau; nếu Huyền Giác tồn tại thế thì bài ca không thể tồn tại. Bài ca tồn tại chỉ khi điều kiện thứ nhất đã được đáp ứng: rằng Huyền Giác đã biến mất. Khi ông ấy không còn đó, khi ông ấy không còn cản trở lối chuyển, khi ông ấy tuyệt đối trống rỗng, chỉ thế Thượng đế có thể nắm quyền sở hữu ông ấy.

Thiền nhân không dùng từ  'Thượng đế', họ dùng từ 'bản tính Phật'. Nhưng nó là cùng một điều. Bài ca phải được hát, điệu múa phải được múa. Nó không phải là điệu múa của bạn, nó không phải là điệu múa của tôi, nó không phải là điệu múa của bất kì ai... bản thân sự tồn tại đang múa.

Huyền Giác Đại sư là một trong những đệ tử của Huệ Năng vĩ đại, Tổ thứ sáu của Thiền. Khi ông ấy tới Thầy, ông ấy ở ngay trên bờ chứng ngộ - như mọi người đều ở ngay trên bờ. Nếu bạn hiểu điều đó... chỉ một bước, và bạn được chứng ngộ; hay thậm chí không một bước - chỉ  cái nháy mắt. Khi Huyền Giác tới Thầy, kinh sách nói ông ấy ở ngay trên bờ chứng ngộ.

Và tôi nói với bạn mọi người khác đều cũng hệt như vậy - ngay trên bờ. Bạn có thể trì hoãn nó lâu chừng nào tuỳ bạn muốn, nhưng trì hoãn là của bạn - đó là quyết định của bạn; bạn có thể trì hoãn nó mãi mãi - đó là tự do của bạn; bằng không bạn đang ở trên ngưỡng. Bạn bao giờ cũng ở trên ngưỡng - bất kì khoảnh khắc nào bạn đều có thể đã trở nên chứng ngộ, bất kì khoảnh khắc nào bạn có thể trở nên chứng ngộ. Không cái gì chắn đường ngoại trừ quyết định riêng của bạn.

Nhưng ông ấy là người duy nhất, duy nhất theo nghĩa rằng ông ấy đã không sẵn sàng trì hoãn lâu hơn nữa. Khi ông ấy tới gặp Huệ Năng chỉ một chút xíu, chỉ một cái đẩy nhẹ là đủ. Ông ấy đã ngủ lâu; giấc ngủ đã biến mất. Ông ấy đã ở trong trạng thái mà khi bạn không ngủ và không thức, và chỉ một đối thoại nhỏ với Thầy, chỉ một trao đổi nhỏ, chút ít đương đầu, và ông ấy đã trở nên chứng ngộ không nỗ lực nào, không phương pháp. Chỉ nhìn vào mắt của Thầy... vài lời truyền qua giữa Thầy và Huyền Giác, và đối thoại này có ý nghĩa mênh mông.

Tôi muốn bạn hiểu điều đó. Thực ra, tôi muốn bạn có trao đổi như vậy với tôi.

Huyền Giác Đại sư bước quanh Thầy ba lần mà không cúi lạy và đơn thuần lay tích trượng của mình bằng vòng sắt.

Thầy nói 'Phàm Sa-môn, sư Phật giáo, phải đủ ba ngàn uy nghi tám muôn tế hạnh, Đại đức là người phương nào đến mà sinh đại ngã mạn như vậy?'

Khi người ta tới với Thầy người ta phải lạy ba lần: đó đã là chào đón theo  truyền thống. Khi bạn đối diện với người chứng ngộ bạn phải cúi lạy ba lần - thân thể cúi lạy, tâm trí cúi lạy, hồn cúi lạy; bạn buông xuôi hoàn toàn. Đó chỉ là cử chỉ; nó xảy ra một cách tự phát. Và khi nó xảy ra một cách tự phát chỉ thế nó xảy ra.

Mới hai, ba đêm trước, Hema đã tới gặp tôi. Cô ấy thậm  chí có thể không nhận biết về qui tắc Phật giáo rằng khi bạn đối diện với Thầy, bạn phải cúi lạy ba lần, nhưng cô ấy đã cúi lạy ba lần. Cô ấy đã cười mọi lúc vì cô  ấy đã không thể  nào hiểu nổi cái gì đang xảy ra. Cô ấy bị phân vân, cô ấy phải đã cảm thấy hơi chút kì cục, và mọi người khác bắt đầu cười. Cái gì đó đã nắm quyền sở hữu con người cô ấy. Bây giờ điều này không phải là nghi lễ. Điều đã xảy ra cho Hema đã là việc trút ra tự nhiên, sự tự phát. Nhưng trong thế giới xấu này mọi thứ tự  phát trở nên bị thu lại thành nghi thức.

Điều đó thường xảy ra cho mọi người khi họ tới gặp Phật - họ sẽ cúi lạy ba lần. Mọi người bắt đầu làm theo, bắt chước.

Trong gặp gỡ đầu tiên với Thầy, Huệ Năng, Huyền Giác bước  quanh Thầy ba lần mà không cúi lạy và đơn thuần lay tích trượng của mình bằng vòng sắt.

Thầy nói 'Phàm Sa-môn, sư Phật giáo, phải đủ ba ngàn uy nghi tám muôn tế hạnh."

Bây giờ nhìn vào điều xảy ra cho tôn giáo. Phật đã nói rằng 'Là luật lên bản thân ông. Là đèn lên bản thân ông. Không có luật khác.' Nhưng kinh sách Phật giáo đầy các qui tắc - ba nghìn qui tắc cư xử; ngay cả nhớ chúng là khó rồi. Và tám mươi nghìn qui tắc đạo đức chi li... và một sư Phật giáo được mong đợi hoàn thành tất cả chúng.

Huệ Năng nói 'Tôn kính của ông tới từ đâu, ta có thể hỏi, với đại ngã mạn của ông?' Bạn có nghĩ Huệ Năng đã nói 'Ông phải tuân theo mọi qui tắc này'? Không, không chút nào, ông ấy đơn giản khích bác. Đây là cú đẩy. Ông ấy đánh mạnh, ông ấy đánh vào người mới tới này, người ở ngay bên bờ - như mọi người khác đều vậy. Bạn có thể hiểu lầm điều đó, thế thì bạn đã trì hoãn chứng ngộ của bạn. Huyền Giác có thể đã bẻ lại 'Vô nghĩa làm sao! Người ta phải tự phát. Và tôi không bao giờ nghĩ rằng một người như thầy lại mong đợi các qui tắc ngu xuẩn đó - ba nghìn hay tám mươi nghìn...' Ông ấy có thể đã bẻ lại, và bỏ lỡ.

Huyền Giác đáp 'Sinh tử là việc lớn, vô thường quá mau.' Nó có vẻ không liên quan; nó không vậy. Ông ấy đang nói 'Bất kì khoảnh khắc nào tôi có thể chết. Thầy muốn tôi tuân theo mọi nghi lễ này - tám mươi nghìn qui tắc này sao? Và nếu tôi chết khi tuân theo tám mươi nghìn qui tắc đó, thế thì ai sẽ chịu trách nhiệm? Ai sẽ chịu trách nhiệm cho khổ của tôi, cho việc tái sinh của tôi vào trong khổ lần nữa, thầy hay tôi?' Ông ấy đã không nói điều đó, ông ấy đơn giản chỉ dẫn. Đó là câu trả lời hay: 'Sinh tử là việc lớn. Và chúng ta không chắc chắn ngay cả khoảnh khắc tiếp - làm sao tôi có thể đi vào những qui tắc đó?' Nhưng ông ấy đã không nói nhiều như vậy, ông ấy đã đơn giản chỉ ra tại sao ông ấy không tuân theo mọi qui tắc đó. '... Vô thường quá mau  - mọi thứ là một luồng. Tôi có thể chết bất kì khoảnh khắc nào. Nếu thầy nói vậy, tôi sẽ cúi lạy nhiều lần như thầy nói, nhưng nếu tôi chết giữa chừng điều đó mà không trở nên chứng ngộ, thầy sẽ chịu trách nhiệm, thưa thầy.' Ông ấy đã đổi cái nhãn. Thầy đã đẩy và ông ấy đã đáp ứng đúng.

Thầy hỏi 'Sao không ngay nơi đó thể nhận cái bất sinh, liễu chẳng mau ư?' Cú đẩy khác, khích bác khác, cám dỗ khác. 'Sao không ngay nơi đó thể nhận cái bất sinh? Sao bản thân ông không nghĩ rằng không có chết, rằng hồn là bất tử, rằng sống không bao giờ chết? Mọi người khác tin điều đó, sao ông không tin theo cách đó? Hiện thân cái không sinh và hiểu thấu cái vô thời gian - sao lo nghĩ với thời gian và luồng chảy và thay đổi? Hiểu thấu cái vĩnh hằng đi!'

Huyền Giác đáp 'Thể tức bất sinh, liễu vốn không mau. Không có cách khác. Làm sao tôi có thể hiểu thấu nó? Làm sao tôi có thể hiện thân cái không sinh và cái bất tử? Nó không phải là vấn đề về niềm tin, nó không phải vấn đề về thực hành nữa. Tôi không thể tu luyện nó vì mọi cái được tu luyện sẽ là giả - giả vì nó được tu luyện; nó sẽ bị áp đặt. Làm sao tôi có thể hiện thân nó và làm sao tôi có thể hiểu thấy cái vô thời gian? Chỉ có một cách và đó là hiện hữu. Và tôi còn chưa hiện hữu. Tôi chưa thấy nó. Tôi đã nghe mọi triết lí, tôi có thể tin vào chúng - hàng triệu người tin vào chúng - nhưng niềm tin không bao giờ dẫn tới việc biết. Chỉ hiện hữu được cần. Và tôi chưa hiện hữu, thưa thầy, tôi chưa bất tử. Tôi không biết. Mọi điều tôi biết là chết. Mọi điều tôi biết là thời gian. Và thầy đang nói gì với tôi? Tôi có phải tin không? Làm sao tôi có thể hiện thân cái bất tử chừng nào tôi chưa biết  rằng tôi là cái đó? Là bất sinh và bất tử là hiện thân nó; đó là cách duy nhất. Là vô thời gian là  hiểu thấu nó.'

'Đúng thế! Đúng thế!' Thầy khẳng định. Cú đẩy đã có tác dụng; Thầy không thể khích bác được anh ta vào bất kì cái vô nghĩa nào. Cám dỗ được cho; Thầy không thể thành công trong cám dỗ anh ta. Bằng không, cách dễ dàng, cách ít kháng cự nhất, chắc đã là để cho anh ta rơi vào bẫy. Nhưng anh ta vẫn còn ở ngoài nó.

Huệ Năng nói 'Đúng thế! Đúng thế!'

Tại điều này Huyền Giác đã hành động tương ứng với nghi thức được qui định, và tự bản thân phủ phục trên đất. Bây giờ, thấy cái đẹp của nó. Bây giờ nó đang xảy ra một cách tự phát, bây giờ nó không là cái gì đó hình thức; nó là của tim, nó là của bản thân con người. Khoảnh khắc Thầy nói 'Đúng thế! Đúng thế!' - khẳng định này từ phía Thầy, và sự tôn kính lớn đã nảy sinh trong anh ta. Không phải là tôn kính truyền thống, không phải là bất kì cái gì của cái đầu và của quan niệm, không phải là 'Ông ấy là chứng ngộ' - anh ta đã nghe nói, cho nên anh ta phải cúi lạy. Trong khoảnh khắc này khi Thầy đã nói với anh ta với ân huệ của thầy - Thầy đã biểu lộ trong sự khẳng định của mình về người mới tới này - tim anh ta cảm động; đã có tiếp xúc.

Đây là gặp gỡ thực: Thầy đã tìm ra đệ tử của mình và đệ tử  đã tìm ra Thầy của mình. Ngay lập tức, cái đã được qui định trong kinh sách đã xảy ra theo cách riêng của nó, không tương ứng với qui định, không vì qui định, nhưng vì đương đầu thực nào đó.

Với điều này Huyền Giác đã hành động tương ứng với nghi lễ được qui định, và tự phủ phục mình xuống đất.

Thấy khác biệt này; khác biệt là lớn. Bạn đi tới ai đó - bạn đã nghe nói người đó là một hiền nhân lớn - và bạn cúi lạy. Nếu điều đó chỉ vì bạn đã nghe nói rằng ông ấy là hiền nhân lớn, thế thì bạn không cúi lạy thực sự; bạn đang cúi lạy những người đã nói rằng ông ấy là hiền nhân, không cúi lạy ông ấy. Bạn là  nạn nhân của tuyên truyền, bạn đã bị ước định bởi ý kiến công chúng. Bạn đang cúi lạy công chúng; việc cúi lạy của bạn chẳng liên quan gì tới người này, người thực  này. Khi bạn nhìn vào mắt và bạn thấy hiền nhân ở đó... và không tương ứng với ý tưởng của bạn, vì bạn có thể có ý tưởng nào đó về hiền nhân phải thế nào. Nếu tương ứng với ý tưởng của bạn về một người là hiền nhân và bạn cúi lạy, bạn cúi lạy bản thân bạn; bạn bày tỏ kính trọng cái ngã riêng của bạn, bạn đang vỗ lưng riêng của bạn, bạn đang nói với  bản thân bạn 'Mình đúng làm sao! Trông đấy, đây là điều mình bao giờ cũng nghĩ một hiền nhân phải như vậy, và đây là một hiền nhân, người là  bằng chứng rằng suy nghĩ của mình là đúng.' Đó là việc tôn cao cái ngã, tôn cao bản ngã.

Nhưng khi bạn thực sự nhìn vào mắt hiền nhân, bạn cảm thấy năng lượng của người đó và làm bản thân bạn thành sẵn có cho sự hiện diện của ông ấy, cái gì đó xúc động trong tim và đột nhiên bạn thấy bản thân bạn cúi lạy, đó là việc khác toàn bộ - không của thế giới này, không của thế gian; nó là thiêng liêng. Đó là gặp gỡ của Thầy và đệ tử, đó là khai tâm thực.

Tại điều này Huyền Giác đã chấp nhận tương ứng theo nghi lễ được qui định, và phủ phục bản thân mình, thế rồi lát sau cáo từ Thầy. 'Trở về mau quá!' Thầy nói. Ngay lập tức, anh ta cúi lạy, phủ phục bản thân mình, và nói 'Bây giờ, cám ơn thầy về mọi điều thầy đã làm cho tôi. Tôi phải ra đi bây giờ.' Thầy nói 'Trở về mau quá!'

Huyền Giác đáp 'Vốn tự không động thì đâu có mau?' Một cuộc đương đầu khác, bây giờ nó bắt đầu từ phía đệ tử. Thầy hài lòng; thầy đã đồng ý, thầy đã nói 'Đúng thế! Đúng thế!' Một phần được hoàn thành, nhưng đối thoại này, là toàn bộ, phải có phần khác nữa. Bây giờ đệ tử này khích bác Thầy, anh ta nói 'Vốn tự không động thì đâu có mau?' Vật lí hiện đại cũng nói vậy. Phật giáo bao giờ cũng nói vậy. Vật lí hiện đại, đồng ý ở nhiều điểm với trực giác của Phật; thực ra, vật lí hiện đại gần như là Phật giáo. Nếu bao giờ sẽ có bất kì gặp gỡ nào giữa khoa học và tôn giáo, nó sẽ xảy ra giữa Phật giáo và khoa học, qua Phật giáo và khoa học. Ki tô giáo tụt lại xa đằng sau - có vẻ gần như ấu trĩ, Do Thái giáo cũng vậy, Hồi giáo cũng vậy. Hindu giáo tới gần hơn một chút, Jaina giáo gần thêm một chút, nhưng Phật giáo là song song. Bất kì cái gì khoa học hiện đại đã khám phá ra đều được khám phá bởi Phật từ hai mươi nhăm thế kỉ trước. Tất nhiên, trong ngôn ngữ khác mà nó đã được diễn đạt - nó không là ngôn ngữ của toán học, nó là ngôn ngữ của thơ ca - nhưng thông điệp là một; thơ ca đó có thể được dịch thành toán học.

'Vốn tự không động thì đâu có mau?'

Thầy nói 'Cái gì biết không động?' Nếu chuyển động là không thực thế thì người biết nó không thể thực. Ai biết? Ai là nhân chứng của nó? Nếu mơ là không thực, người mơ không thể là thực. Khi mơ được thấy là không thực, người mơ cũng được thấy là không thực. Chúng xuất hiện cùng nhau, chúng biến mất cùng nhau  - chúng là các mặt của cùng một đồng tiền. 'Nếu chuyển động là không thực' Thầy nói 'thế thì ai biết? Ai là điều này mà tuyên bố chuyển động là không thực hay tương đối?'

Huyền Giác nói 'Thầy tự phân biệt. Thầy hỏi tôi tại sao tôi trong vội vàng thế. Thầy đã phân biệt, thầy đã tạo ra thời gian với câu hỏi của thầy. Tôi đơn giản là lễ phép khi trả lời thầy. Thầy là nguyên nhân của nó.'

Thầy sung sướng mênh mông và kêu lên 'Ngươi đạt ý bất sinh rất sâu!' Vì nếu người ta có thể biết, nếu người ta có thể thấy, rằng thời gian là không thực, thế thì sinh và tử cả hai đã biến mất - vì chúng tồn tại trong thời gian, chúng là các biến cố của thời gian. Nếu bản thân thời gian là không thực, thế thì sinh và tử biến mất. Đây là giải thoát. Và đó là điều xảy ra trong thiền sâu: bạn đi tới thấy rằng thời gian là không thực.

Khoảnh khắc tâm trí dừng lại, thời gian dừng  lại; chúng dừng lại cùng nhau. Do đó Phật tử nói: Tâm trí là thời gian. Chúng là đồng nghĩa, chúng là hai cái tên cho một hiện tượng. Chính chuyển động của tâm trí tạo ra chuyển động của thời gian. Chính tâm trí chuyển động tạo ra ảo vọng về thời gian chuyển động. Một khi tâm trí dừng lại, là im lặng hoàn toàn, ý nghĩ biến mất và không cái gì chuyển động, mọi thời gian biến mất. Mỗi lúc bạn xuyên thấu vào trong thiền, thời gian dừng lại, đồng hồ dừng lại, thế giới dừng lại. Thế thì bạn không trong quá khứ không trong tương lai thậm chí không trong hiện tại; bạn đơn giản hiện hữu. Không có thời gian - bạn không thể có quan hệ bản thân bạn với thời gian. Cho nên định nghĩa tốt nhất về thiền là 'trạng thái vô thời gian' hay 'trạng thái của vô trí'.

Thầy nói 'Ngươi đạt ý bất sinh rất sâu!'

Nhưng Huyền Giác lại nhận xét 'Bất sinh há có ý sao? Nếu không có thời gian, không có sinh. Nếu không có sinh, nghĩa của bất  sinh là gì?' Mọi nghĩa phụ thuộc vào cái đối lập của  nó. Nếu ai đó hỏi bạn sáng là gì, bạn sẽ phải mang tối vào để định nghĩa nó. Nếu ai đó hỏi bạn mạnh khoẻ là gì, bạn sẽ phải mang bệnh vào để định nghĩa nó. Mọi từ có nghĩa trong ngữ cảnh của cái đối lập của nó. 'Bất sinh há có ý sao?' Huyền Giác lại tấn công. Anh ta đã không thể khích bác Thầy lần thứ nhất, anh ta muốn kéo Thầy vào tranh cãi.

Nhưng bạn không thể kéo Thầy vào tranh cãi được; thầy không có đó để tranh đấu, thầy không có đó để tranh cãi. Đó là lí do tại sao thầy đồng ý một cách vui sướng 'Ngươi đạt bất sinh rất sâu!' Đây không phải là cách tranh cãi. Biện luận ngụ ý rằng cho dù bạn không đúng, cho dù bạn thấy rằng bạn không đúng, bạn liên tục nhấn mạnh rằng bạn là đúng và người kia là sai. Biện luận là hành trình bản ngã, tiết mục bản ngã. Bạn không thể tranh cãi với Thầy vì không có người nào cả. Bạn có thể có đối thoại với Thầy nhưng không có biện luận. Bất kì khi nào thầy thấy ra vấn đề rằng bạn đã tới gần chân lí, thầy sẽ lập tức khẳng định điều đó, thầy sẽ nói 'Điều này là vậy, điều kia là vậy. Ông đúng.' Vấn đề không phải là ai đúng, vấn đề bao giờ cũng là cái gì là đúng.

Thấy khác biệt này đi. Khi bạn thảo luận với ai đó nó không bao giờ là vấn đề về chân lí, vấn đề là 'Ai đúng, anh hay tôi?' Bạn sẽ bắt gặp nhiều ví dụ như thế này trong kinh sách Phật giáo, và đôi khi bạn sẽ có cảm giác một đối thoại lớn, thảo luận lớn, biện luận lớn, sẽ bắt đầu. Và nếu bạn quen đọc các sách phương Tây, các đối thoại của Plato nơi Socrates cứ liên tục tranh cãi và tranh cãi, bạn sẽ mong đợi cái gì đó giống điều đó. Nhưng bạn sẽ bị thất vọng vì với Thầy khoảnh khắc bất kì cái gì đi tới gần chân lí, thầy sẽ lập tức khẳng định. Dù nó tới từ bạn hay từ bất kì người nào khác - điều đó không thành vấn đề. Chân lí thành vấn đề; nó tới từ ai là không liên quan. Đó không phải là xung đột bản ngã.

Huyền Giác đã muốn kéo Thầy... Anh ta đã muốn thử Thầy, kiểm tra xem liệu anh ta có thực sự tìm thấy hiền nhân hay chỉ là ảo vọng. Người này có cái đẹp mênh mông, duyên dáng, có đôi mắt sâu thẳm, có năng lượng yêu lớn quanh người đó, nhưng người ta phải cẩn thận - mọi điều này có thể chỉ được tu luyện. Nếu người ta thực hành đủ lâu, mọi sự gần như bắt đầu có vẻ dường như chúng là thực. Cho nên lần nữa anh ta nói 'Bất sinh há có ý sao?'

Thầy nói ngược lại 'Không có ý, cái gì biết phân biệt?' Chúng ta có thể phân biệt chỉ nếu có nghĩa trong lời. Nếu không có nghĩa trong lời thế thì không có khả năng cho phân biệt. Thế thì bạn không thể nói 'Đây là ngày' và thế thì bạn không thể nói 'Đây là đêm.' Làm sao bạn sẽ phân biệt được nếu không có nghĩa trong lời? Nếu lời chỉ là vô nghĩa thế thì không phân biệt nào là có thể.

Huyền Giác nói 'Phân biệt cũng không phải ý.' Anh ta liên tục nhấn mạnh ngày càng sâu hơn: anh ta  muốn thấy liệu Thầy có trở nên giận không, liệu Thầy có nói cái gì đó chứng tỏ rằng mọi 'tính hiền nhân' này chỉ là tu luyện không.

Thầy đã hạnh phúc thế, thầy cười. Thầy kéo Huyền Giác lại gần mình, thầy ban phúc lành cho anh ta và nói 'Lành thay! Lành thay!'

Đây là đối thoại kì lạ. Bạn cảm thấy cái gì trong đối thoại duy nhất này? Tính duy nhất của nó là gì? Nó là duy nhất vì ở đây hai người của sức mạnh vô hạn đối diện nhau mà không có bất kì cạnh tranh nào; hai người của chân lí đối diện nhau mà không có bất kì biện luận nào. Điều này chỉ xảy ra khi sức mạnh là thực. Chỉ sức mạnh thực mới có năng lực chấp nhận chân lí của người kia. Khi sức mạnh không là thực bạn bao giờ cũng phòng thủ: bạn sợ bạn có thể bị phơi ra. Khi sức mạnh là không thực bạn di chuyển thận trọng; bạn không thể nói người kia là đúng vì thế thì bạn sai. Khi sức mạnh là không thực nó bao giờ cũng là sức mạnh bản ngã. Sức mạnh thực không phải là của bạn; sức mạnh thực là của cái toàn thể, của cái toàn bộ. Điều này chỉ xảy ra khi sức mạnh là thực. Sức mạnh thực ngụ ý sức mạnh thuần khiết, không trên người khác.

Phân biệt này phải được hiểu. Có hai loại sức mạnh trên thế giới: một là sức mạnh trên người khác, cái chính là quyền lực chính trị là gì. Các vua có nó, các chính khách và các nhà độc tài, nhưng nó là bất lực; sâu bên dưới nó là nghèo. Họ đang che giấu cái gì đó - sự bất lực của họ - trong việc la hét về quyền lực. Họ chỉ đang tạo ra quyền lực quanh bản thân họ để cho họ không cần đối diện với bất lực của họ. Sức mạnh tôn giáo, sức mạnh tâm linh, không phải là sức mạnh trên người khác; nó đơn giản là sức mạnh, nó chỉ là sức mạng thuần khiết. Nó không có tham chiếu tới người khác, đó là lí do tại sao nó có thể khiêm tốn thế, hồn nhiên thế. Sức mạnh thuần khiết là ở chỗ hiền nhân có sự xuất sắc còn chính khách và nhà độc tài hầu hết thiếu. Đó là lí do tại sao tôi nói đi nói lại rằng chính trị và tôn giáo là đối lập đối xứng. Chính khách không thể có tính tôn giáo; điều đó là không thể được về bản chất. Người tôn giáo không thể là chính khách; điều đó nữa cũng là không thể được về bản chất. Họ đi vào trong các loại sức mạnh khác nhau. Một đằng là sức mạnh trên người khác, đằnh kia đơn giản là trống rỗng bên trong và sức mạnh là của Thượng đế. Nó giáng xuống bạn vì bạn là trống rỗng, bạn trở thành đầy nó. Sức mạnh trên người khác có tính phá huỷ. Sức mạnh thuần khiết là tính sáng tạo thuần khiết.

Trước khi chúng ta đi vào lời kinh có đôi điều cần được lưu ý. Hubert Benoit gọi Thiền là 'học thuyết đột ngột' như đối lập với mọi học thuyết khác mà ông ấy gọi là 'học thuyết tiến dần'. Vì điều đầu tiên, với Thiền, ông ấy dùng số ít, còn với các học thuyết khác dùng số nhiều - vì học thuyết đột ngột chỉ có thể là một. Nhưng có thể có nhiều học thuyết tiến dần như có nhiều người; từng người có tiến bộ theo cách riêng của mình. Cho nên có thể có hàng triệu học thuyết tiến dần - ông ấy là đúng trong việc dùng số nhiều - và học thuyết đột ngột chỉ có thể là một. Nó không thể khác cho những người khác nhau, vì nó là đột ngột. Nó không phụ thuộc vào bạn, bạn là ai, nó chỉ phụ thuộc  vào một điều: rằng bạn biến mất. Và sự biến mất là đột ngột, bất thần. Điểm này phải được hiểu vì nó là rất nền tảng cho Thiền.

Yoga là học thuyết tiến dần; Thiền, học thuyết đột ngột. Đó là cái nhìn nền tảng của nó - có cái đẹp lớn lao và vĩ đại. Nó đơn giản ngụ ý một điều: rằng Phật tính không phải là cái gì để được đạt tới. Trong Yoga samadhi phải được đạt tới: bạn phải hoàn thiện trên bản thân bạn, bạn phải đi tiếp và làm việc  trên bản thân bạn. Nó là một chương trình hoàn thiện lớn, chương trình thành đạt, chương trình hoàn thành. Trong Thiền mọi điều bạn phải tìm là ở chỗ bạn đã là Phật rồi, rằng không có hoàn thành, rằng không có trưởng thành, rằng không có đạt tới, rằng Phật tính là bản tính bên trong của mọi người.

Mọi người là Phật; dù bạn biết điều đó hay không thì cũng không tạo ra khác biệt gì. Vài chư phật đang ngủ say và ngáy, vài chư phật đã trở nên thức tỉnh, nhưng cả hai đều là chư phật.

Trong Thiền không có phương pháp. Không phải là Thiền sư không cho phương pháp cho đệ tử của họ, họ có cho - họ cho phương pháp chỉ để chứng tỏ cho bạn, cho ham muốn và sự hài lòng của trái tim bạn, rằng mọi phương pháp là vô dụng. Họ cho các phương pháp để cho bạn làm việc trên phương pháp, và dần dần, dần dần bạn thấy ra cái vô tích sự của nó. Khoảnh khắc bạn thấy ra cái vô tích sự của một phương pháp và bạn được kết thúc với cái đó, phương pháp cao hơn sẽ được trao cho bạn và cứ thế tiếp tục. Các phương pháp mỗi lúc cao hơn sẽ được cho; và chung cuộc, dần dần, dần dần bạn sẽ không bám vào mọi phương pháp vì bạn sẽ thấy cái vô tích sự của tất cả chúng.

Một ngày nào đó bạn sẽ đi tới điểm mà bạn sẽ thấy rằng chẳng có gì để được đạt tới, không đâu mà đi. Khoảnh khắc đó trong Thiền được gọi là  'hoài nghi lớn'. Khoảnh khắc đó được biết ở phương Tây qua các nhà huyền bí Ki tô giáo là 'đêm tối của hồn'. Nó thực sự là đêm tối của hồn, hoài nghi lớn. Không cái gì được đạt tới, không đâu mà đi, mọi tương lai biến mất; bạn ở trong một loại choáng. Thế thì bạn là ai? Thế thì bạn đang làm gì ở đây? Thế thì tại sao có sự tồn tại này? Mọi thứ dường như vô nghĩa nếu không có đạt tới, nếu không có cách nào đạt tới và không có chỗ nào để đạt tới và không có ai để đạt tới. Thế thì tất cả những cái này là gì? Hoài nghi lớn nảy sinh.

Hoài nghi nào đi trước tỏ ngộ satori? Hoài nghi lớn này, đêm tối này của hồn, bao giờ cũng đi trước tỏ ngộ. Hoặc bạn rơi trở lại vì hoài nghi này - bạn bắt đầu lại đi vào trong các phương pháp, bạn lại bắt đầu bám lấy các phương pháp, con đường và cách thức, và kinh sách và nguyên lí và triết lí và học thuyết. Bạn rơi trở lại; chỉ để tránh hoài nghi bạn bắt đầu bám lấy cái gì đó lần nữa. Nhưng nếu bạn thực sự dũng cảm... Và đây là dũng cảm thực: rằng bạn vẫn còn trong hoài nghi, và bạn không rơi trở lại, và bạn không bám vào bất kì cái gì lần nữa. Bạn bỏ bản thân bạn trong đêm tối này của hồn, bất lực, mất hút - hoàn toàn mất hút, không thấy nghĩa và không thấy tương lai. Nếu dũng cảm này có đó, tỏ ngộ xảy ra. Đột nhiên, từ hoài nghi lớn này, và nỗi đau và phiền não của nó, bạn trở nên thức tỉnh.

Điều song song tồn tại trong ác mộng. Bạn phải đã thấy nó xảy ra lặp đi lặp lại: nếu ác mộng là quá khủng khiếp, mơ bị tan vỡ. Bạn có thể liên tục mơ những giấc mơ dịu ngọt cả đêm; không có vấn đề gì. Mơ dịu ngọt tới mức nó giống như điệu ru: nó giữ bạn say sưa, ngất ngây. Nhưng nếu mơ là khủng khiếp? - bạn bị hổ đuổi theo, và con hổ đang tới mỗi lúc gần hơn và gần hơn và gần hơn; và sợ... và tim bạn đang đập nhanh, và hơi thở của bạn không còn nhịp điệu, và bạn vã mồ hôi; và bạn chạy và chạy, dường như không có lối thoát, và thế rồi bất thần bạn thấy rằng con được đã kết thúc trong vực thẳm, không còn đường nào mà đi; và con hổ đang tới mỗi lúc một gần hơn, bạn gần như có thể cảm thấy hơi thở của nó trên lưng bạn; và thế rồi móng vuốt của nó... và dòng máu chảy ra từ lưng bạn - bạn có thể tiếp tục  vẫn ngủ được không? Ác mộng là quá nhiều; nó nhất định phá huỷ giấc ngủ của bạn. Đột ngột, bất thần, bạn tỉnh dậy. Nó giống như cú nhảy bất thần từ trạng thái tâm thức này sang trạng thái khác. Một khoảnh khắc trước bạn đã ngủ, giờ bạn thức. Không có hổ, chỉ vợ bạn - và tay cô ấy để trên lưng bạn, và hơi thở của cô ấy... Mọi thứ đã biến mất.

Hoài nghi lớn là điểm mà người ta cảm thấy ác mộng lớn nhất, nơi cả  đời người ta biến thành ác mộng với mắt mở. Khi bạn thấy rằng toàn thể cuộc sống đã mất nghĩa... Vì sự sống có nghĩa chỉ nếu bạn có mục đích. Khi bạn được tôn cao bởi các mục đích, cuộc sống có nghĩa; khi không có mục đích, nghĩa biến mất. Đột nhiên bạn thấy rằng bạn không có bất kì nền đất nào dưới chân bạn; bạn đang treo trong trống rống. Bạn đang rơi như chiếc lá khô vào trong cái hố không đáy, không biết nào đó, và nó toàn là tối tăm, và thậm chí không có một tia sáng.

Đây là công việc của Thiền sư: đẩy bạn vào trong hoài nghi lớn này. Một khi điều này xảy ra, tỏ ngộ nhất định xảy ra chừng nào bạn không rơi trở lại và bắt đầu mơ những giấc mơ dịu ngọt.

Ở cùng với Thầy thực là ở trong lửa. Ở cùng Thầy thực là đối diện với chết của bạn, là đối diện với sự triệt tiêu của bạn. Đó là lí do tại sao Thiền được biết như chứng ngộ bất thần, học thuyết đột ngột.

Hubert Benoit cũng nói rằng tỏ ngộ có hai nghĩa. Một là trạng thái tỏ ngộ trong đó mọi người hiện hữu: chim và cây và núi và bạn và mọi chư phật - quá khứ, hiện tại, tương lai. Toàn thể sự tồn tại là trong trạng thái tỏ ngộ. Đây là cách nói khác rằng Thượng đế ở mọi nơi, trong mọi thứ; rằng Thượng đế là hồn của mọi thứ. Phật tính là bản tính của mọi người. Và nghĩa thứ hai là biến cố tỏ ngộ. Mọi người từ mọi vĩnh hằng là trong trạng thái tỏ ngộ. Biến cố tỏ ngộ chỉ là chốc lát giai  thoại, lịch sử, khi con người đột nhiên dừng việc không nhận ra rằng mình bao giờ cũng ở trong trạng thái tỏ ngộ.

Bạn là Phật. Khi bạn nhận ra điều đó, hay khi bạn nhớ điều đó, đó là biến cố tỏ ngộ. Biến cố tỏ ngộ chỉ là cửa sổ nhìn vào trạng thái tỏ ngộ, và biến cố tỏ ngộ này rõ ràng có thực tại chỉ trong con mắt của người chưa trải nghiệm nó. Người đã trải nghiệm nó nhận ra rằng người đó bao giờ cũng trong tỏ ngộ. Đó là lí do tại sao chúng ta không thể nói về tiến bộ, tiến hoá, đạt tới, nhận ra, vân vân và vân vân.

Thầy của Huyền Giác, Huệ Năng, nói 'Không có hoàn thành. Không có nhận ra.' Và thế rồi điều theo sau như chuyện tất nhiên là ở chỗ nỗ lực hướng tới nhận ra toàn là vô dụng.

Thế thì tại sao Thiền nhân làm nỗ lực? - chỉ để thấy ra cái vô tích sự của chúng. Dần dần cái vô tích sự được chứng minh, và thế thì người ta bị bỏ lại chỉ với một  câu hỏi thường hằng. Trong Thiền nó được gọi là 'hoài nghi lớn'; việc này đi trước biến cố tỏ ngộ. Việc nhận ra tỏ ngộ bao gồm việc nhận ra rằng ý tưởng về nhận ra là ảo vọng, và ý tưởng về con đường để nhận ra là ảo vọng, vì mọi thứ là việc nhận ra từ chính lúc ban đầu - nó đã là hoàn cảnh.

Đây là cái nhìn nền tảng nhất của Thiền. Nếu bạn hiểu nó, thế thì Chứng đạo ca, Bài ca chứng ngộ, của Huyền Giác Đại sư, có thể dễ dàng được hiểu.

Bây giờ tới bài ca:

Ông không thấy ông ấy, người trí huệ thực sự, bao giờ cũng thoải mái và thản nhiên sao?

Ông ấy không gạt bỏ ảo vọng, ông ấy cũng không tìm kiếm (cái gọi là) chân lí.

Dốt nát là bản tính Phật thực chất,

Thân giả tạm ảo vọng của chúng ta là thân càn khôn.

Những phát biểu có ý nghĩa mênh mông. Những phát biểu của việc nổi dậy lớn chống lại mọi tôn giáo chính thống. Những phát biểu có thể gây choáng cho bạn. Những phát biểu không bao giờ có liên quan tới các tôn giáo như Ki tô giáo, Hindu giáo, Jaina giáo, Hồi giáo. Phật giáo là cái nhìn cao nhất có thể.

Ông không thấy ông ấy...?

Phật ở bên trong bạn. Bạn không thấy ông ấy sao?

người trí huệ thực sự, bao giờ cũng thoải mái và thản nhiên sao?

Bạn đã bao giờ trải nghiệm  cái gì đó trong bản thân bạn mà bao giờ cũng vẫn còn thản nhiên không? Nếu bạn nhìn, bạn sẽ  thấy. Bạn bị đau, nhưng cái gì vẫn còn ở trên nó: cái đó là bản tính Phật của bạn. Bạn đang trong khổ lớn; cứ nhìn sâu một chút, cứ tìm sâu một chút, đào sâu một chút, và bạn sẽ thấy cái gì đó ẩn kín ở đó mà không bị chạm tới bởi khổ. Có rối loạn lớn trong tâm trí bạn - ý nghĩ rồi ý nghĩ, và lưu thông tiếp diễn mãi; nó là lưu thông điên khùng - nhưng bạn không thể  thấy rằng có một nhân chứng cho tất cả nó sao? Người quan sát trên núi đó sao?

Cái đó là thực tại của bạn. Cái đó là Phật ẩn trong bạn. Và nó đã ở đó rồi; chỉ việc nhận ra là được cần.

Ông không thấy ông ấy, người trí huệ thực sự, bao giờ cũng thoải mái và thản nhiên sao?

Ông ấy không gạt bỏ ảo vọng…

Không có nhu cầu gạt bỏ bất kì ảo vọng nào. Ảo vọng là ảo vọng. Việc biết nó là ảo vọng là đủ; không có nhu cầu gạt bỏ nó. Đó là lí do tại sao Thiền sư liên tục sống trong thế giới, trong bãi chợ. Ông ấy không phải là người trốn chạy; ông ấy không sợ thế giới. Ông ấy không giống những người theo Veda, người nói 'Thế giới là ảo vọng, cho nên chúng ta phải từ bỏ nó.' Thấy cái nực cười của nó đi. Nếu thế giới là ảo vọng, cái gì có đó mà từ bỏ? Làm sao bạn có thể từ bỏ ảo vọng? Và không chỉ điều đó, nhưng những người này từ bỏ thế giới, họ đi lên các hang động Himalaya và họ ngồi đó được thoả mãn lớn rằng họ đã từ bỏ. Họ đã từ bỏ cái gì? Nếu nó là ảo vọng, nó không thể bị từ bỏ, và nếu nó không phải là ảo vọng thế thì bạn là ngu mà từ bỏ nó. Theo cách nào nó cũng không thể bị từ bỏ. Nếu nó là thực, không có cách nào từ bỏ nó - không có nhu cầu nữa. Nếu nó là không thực, làm sao bạn có thể từ bỏ nó?

Việc thấy rằng nó là ảo vọng là đủ. Thấy điều đó, động thái thay đổi; đột nhiên bạn không còn quan tâm tới ảo vọng quanh bạn, bạn được định tâm vào tâm thức chứng kiến.

Ông ấy không gạt bỏ ảo vọng, ông ấy cũng không tìm kiếm (cái gọi là) chân lí.

Ông ấy không phải là người tìm kiếm, vì người tìm kiếm sống trong tương lai. Sống trong tương lai là sống trong ham muốn, và sống trong ham muốn là sống trong thế giới. Đây là từ bỏ của Thiền: không sống trong tương lai, vì tương lai là chưa có; không sống trong ham muốn. Không thành vấn đề liệu bạn ham muốn tiền hay thiền, samsara hay samadhi. Điều bạn ham muốn không tạo ra khác biệt - bất kì đối thể nào cùa ham muốn sẽ có tác dụng - ham muốn sẽ còn dai dẳng. Ham muốn là vấn đề. Cho nên người thực của Thiền không tìm kiếm cái gọi là chân lí.

Thấy vấn đề này đi. Huyền Giác gọi nó là 'cái gọi là chân lí'. Mọi chân lí đều là cái gọi là vì chân lí thực không thể được thốt ra. Mọi chân lí đều do con người tạo ra.

Mới hai hay ba ngày trước một sannyasin đã viết một bức thư cho tôi. Khi làm Chứng ngộ mãnh liệt, anh ta đi tới thấy rằng ngay ở bụng anh ấy, gần cơ hoành, có một tấm thép cứng chia anh ta ra làm đôi, và vì nó anh ta không thể là một và toàn thể. Chỉ có một lỗ nhỏ trong nó qua đó anh ta kết nối với phần thấp hơn của thân thể anh ta. Và anh ta rất phân vân vì bên dưới cái lỗ này anh ta thấy được viết 'Made in USA. Patent applied for.' Thế rồi anh ta trở nên rất lo nghĩ 'Đây là cái gì?' Dù bạn có tấm thép được làm ở Mĩ hay ở Ấn Độ, nó vẫn là người làm.

Khổ của bạn là nhân tạo. Chịu đựng của bạn là nhân tạo. Bạn đã dùng tính sáng tạo của bạn để tạo ra nó. Bạn đã dùng sai lực sáng tạo của bạn. Và một khi bạn đã tạo ra cái gì đó trong tâm trí bạn, nó là thực chừng nào bạn chưa rút lại sự hỗ trợ của bạn. Mọi cái có vẻ là thực với bạn là thực vì bạn đang hỗ trợ cho thực tại của nó; bạn liên tục nuôi dưỡng nó. Rút lại hỗ trợ của bạn đi. Bạn không cần đi ra khỏi bãi chợ; bạn có thể chỉ rút lại sự hỗ trợ dù bạn ở bất kì chỗ nào. Và cách rút lại là: chỉ là nhân chứng cho nó, chỉ nhìn nó một cách im lặng, không phán xét.

Ông ấy không gạt bỏ ảo vọng, ông ấy cũng không tìm kiếm (cái gọi là) chân lí.

Dốt nát là bản tính Phật thực chất…

Cho nên đừng lo nghĩ. Cho dù bạn là dốt nát, đừng lo nghĩ; bạn vẫn là Phật - chỉ không nhận biết. Bạn là người giầu, và bạn đang ngủ và bạn mơ rằng bạn đã trở thành người ăn xin. Nhưng bạn đã không trở thành người ăn xin, bạn vẫn giầu. Kho báu của bạn vẫn là của bạn, số dư ngân hàng của bạn là của bạn, và đến sáng khi bạn dậy, bạn sẽ không cần gạt bỏ người ăn xin và bạn sẽ không cần tìm kho báu. Bạn sẽ biết rằng nó bao giờ cũng có đó, ngay cả khi bạn đã nghĩ rằng bạn là người ăn xin.

Toàn thể thế giới này là mơ được chúng ta tạo ra và duy trì.

Thân giả tạm ảo vọng của chúng ta là thân càn khôn.

Và đừng tạo ra bất kì phân biệt nào rằng 'cái này là không thực' và 'cái kia là thực'. Tất cả là một.

Giũ sạch các thứ và bám lấy trống rỗng là bệnh thuộc cùng loại…

Nhưng cẩn thận: chuyện xảy ra là mọi người cố giũ sạch các thứ và thế rồi họ bám lấy trống rỗng. Đó là điều tính chất sannyas cũ là gì: giũ sạch mọi thứ và thế rồi bám lấy trống rỗng. Nhưng nếu bạn bám lấy trống rỗng, bạn đã thu trống rống thành thứ to nhất có thể trên thế giới. Bây giờ cái đó là kho báu của bạn, bây giờ cái đó là sở hữu của bạn; bây giờ bạn phải rất thận trọng để bảo vệ nó. Chỉ một con chó sủa có thể phá huỷ nó. Đứa trẻ chơi và hét có thể phá huỷ nó.

Nhìn vào cái gọi là tính tôn giáo. Những thứ nhỏ quấy rối họ. Chỉ trẻ con chơi bên cạnh đường và thiền của họ bị quấy rối. Vợ đang nói hơi to một chút với hàng xóm, và lời cầu nguyện của họ bị quấy rối. Nếu bạn có một người tôn giáo, cái gọi là tôn giáo trong nhà bạn, người đó sẽ làm cho cả gia đình thành thần kinh. Đây không phải là cách có tính tôn giáo, đây là cách chi phối mọi người, hành hạ họ; nó là cách trở nên mạnh trên họ nhân danh tôn giáo. 'Bố đang thiền', và con cái không thể chơi, vợ không thể nói to, bạn không thể bật radio lên, bạn không thể xem ti vi. 'Bố đang thiền.' Và ông ấy có thể đơn giản thiền để có kiểm soát này; bằng không, không ai nghe ông ấy, vợ không bao giờ quan tâm gì... Và trẻ con là trẻ con: chúng không bận tâm gì mấy về ông già. Nhưng khi ông ấy thiền, thế thì cả nhà im lặng, đó là chính trị của ông ấy. Làm hơi tiếng động, và ông ấy bị quấy rối, ông ấy bực mình, ông ấy giận, ông ấy phát rồ, và ông ấy sẽ trả thù.

Người tôn giáo thực chỉ trở nên bình thản và yên tĩnh; không phải bởi vì tình huống là bình thản và yên tĩnh, nhưng chỉ vì người đó không còn bị gắn bó với bất kì cái gì dù là bất kì cái gì. Người đó không bị gắn bó với thế giới, người đó không bị gắn bó với Thượng đế; người  đó đơn giản không bị gắn bó. Người đó không khao khát những thứ thế gian và người đó không khao khát những thứ thế giới khác; người đó không khao khát chút nào. Người đó là thoải mái.

Ông không thấy ông ấy, người trí huệ thực sự, bao giờ cũng thoải mái và thản nhiên sao?

Giũ sạch các thứ và bám lấy trống rỗng là ốm như cùng loại…

Không có khác biệt. Có những người rất đức hạnh, nhưng đức hạnh của họ là một loại tiền - tiền của thế giới kia. Họ đang hi vọng sống trong cõi trời với mọi vui thú và vừa lòng mà họ đã phủ nhận chúng ở đây. Và họ đang cảm thấy rất thoải mái và bản ngã rất ngoan đạo khi thấy những người khác là tội nhân. Và họ biết sâu bên dưới rằng những người này sẽ phải chịu khổ ở địa ngục, và tới vĩnh hằng. Họ đang hi vọng rằng điều này xảy ra.

Bạn có gọi những người này là người tôn giáo không? Thế thì ai sẽ là phi tôn giáo? Đó là cùng loại bệnh. Bao giờ cũng nhớ điều đó, tâm trí là tinh ranh tới mức nó có thể đổi bệnh thành bệnh đối lập, nhưng thực tại bên trong nhất vẫn còn là cùng một điều. Bạn đã phụ thuộc vào tiền; bạn có thể từ bỏ tiền và phụ thuộc vào từ bỏ. Bạn đã nghĩ tiền sẽ làm cho bạn hạnh phúc, bây giờ bạn đang nghĩ từ bỏ sẽ làm cho bạn hạnh phúc. Không cái gì đã thay đổi: nó là cùng một bệnh.

nó cũng giống như ném bản thân người ta vào lửa để tránh bị chết đuối.

Bây giờ, lửa và nước có vẻ đối lập; cho nên nếu bạn bị chết đuối, bạn có thể ném bản thân bạn vào lửa tưởng rằng lửa sẽ cứu bạn. Cái đối lập không bao giờ có thể cứu được bạn. Hay bạn đang trong đám cháy và bạn nhảy vào nước - và bị chết đuối - cứ tưởng rằng nước sẽ cứu bạn. Cái đối lập không thể cứu được bạn vì cái đối lập chỉ dường như là đối lập; nó không phải vậy. Lửa và nước là trong cùng mưu đồ. Thế giới này và thế giới kia là trong cùng mưu đồ.

Thấy ra vấn đề đi. Và đừng nhảy vào cái đối lập, cứ vẫn còn ở giữa, người quan sát, nhân chứng, và bạn ở ngoài tất cả nó.

Khi được hỏi 'Tôn giáo của ông là gì?' Ta trả lời 'Sức mạnh của Makahannya.'

Lúc thì khẳng định mọi sự, lúc thì phủ định chúng, nó ở bên ngoài trí tuệ của con người.

Lúc thì với nghĩa thông thường, lúc thì ngược lại nó, trời không hiểu đầu đuôi ra sao.

Huyền Giác nói 'Khi ta được hỏi "Tôn giáo của ông là gì?" Ta nói Makahannya.' Đó là từ tiếng Nhật Bản cho Mahapragya - Tâm kinh; nó ngụ ý 'trí huệ vĩ đại'. Một câu trả lời hay. Ông ấy không nói Ki tô giáo, ông ấy thậm chí không nói Phật giáo - thậm chí không Thiền; ông ấy đơn giản nói trí huệ vĩ đại, Mahapragya.

Mahapragya này là gì? Chứng kiến. Quan sát. Trở nên ngày càng nhận biết về thực tại mà là bạn, đi tới nắm vững cốt lõi bên trong nhất của bạn.

Trí huệ phải không được thu thập từ bên ngoài. Nó là bên trong bạn; nó là thực tại bên trong nhất của bạn. Ánh sáng đã bùng cháy ở đó rồi, nhưng bạn đang giữ nó ở sau lưng. Quay lại đi! Quay một trăm tám mươi độ là được cần. Và mặt trời thường mọc buổi sáng bắt đầu mọc buổi tối.

'Ta trả lời "Sức mạnh của Mahapragya, trí huệ vĩ đại."'

Và trí huệ vĩ đại là gì?

trời không hiểu đầu đuôi ra sao.

... vì nó là tự phát.

Người khôn bình thường có những câu trả lời làm sẵn. Người đó là robot, người đó là máy tính. Bạn hỏi câu hỏi và câu trả lời đã có sẵn đó, bạn nhấn nút và câu trả lời tòi ra; điều đó là máy móc. Nó không phải vậy với trí huệ vĩ đại. Nếu bạn hỏi người Ki tô giáo câu hỏi nào đó, ngay lập tức câu trả lời tới. Người đó trích dẫn Kinh Thánh; nó không phải là câu trả lời của người đó. Nó có thể đã là câu trả lời của Jesus, nhưng ai biết? Jesus có thể đã không được thuật lại đúng. Suốt nhiều thế kỉ thông điệp của ông ấy có thể đã bị làm biến chất - có nhiều khả năng là nó đã bị làm biến chất. Hàng nghìn và hàng nghìn diễn giải... và cách mà ông ấy đã diễn đạt nó thì nhất định là khác toàn bộ với cách chúng ta sẽ hiểu nó, vì hai mươi thế kỉ đã qua rồi; lời không mang cùng nghĩa thêm nữa; nhiều, rất nhiều thứ đã thay đổi. Nhiều nước thế đã chảy xuôi sông Hằng. Cho nên khi người Ki tô giáo trả lời, người đó đơn giản trích dẫn; bất kì điều gì người đó nói là ở bên trong ngoặc kép. Do đó nó là giả. Bất kì cái gì ở bên trong dấu ngoặc kép đều là giả; nó không phải là của bạn, nó không đích thực. Và bạn có thể liên tục hỏi câu hỏi này lặp đi lặp lại; câu trả lời sẽ vẫn còn là vậy. Đó là cách để phán xét nó, đó là tiêu chí qua đó người ta nên phán xét nó. Nếu câu trả lời vẫn còn là vậy trong những tình huống khác nhau thế thì câu trả lời là máy móc. Bạn hỏi vào buổi sáng, và câu trả lời là vậy. Và bạn hỏi vào buổi trưa, và câu trả lời vẫn vậy. Và bạn hỏi vào buổi tối, và câu trả lời vẫn vậy - vì câu trả lời được làm sẵn. Nó chỉ là đĩa hát: bạn nhấn nút, nó phát lời. Nó là băng ghi âm.

Nhưng trí huệ vĩ đại là khác toàn bộ; và điều phân biệt nhất về nó là tính tự phát của nó. Vào buổi sáng nó là điều này, vào buổi trưa, điều khác, và đến tối không ai biết – ngay cả trời không hiểu đầu đuôi ra sao. Tại sao? - vì nó là tự phát thế, hoàn toàn của khoảnh khắc đó. Nó là đáp ứng.

Lúc thì khẳng định mọi sự…

Bạn hỏi Phật 'Có Thượng đế không?' và lúc thì ông ấy nói 'Có. Còn cái gì khác? Duy nhất Thượng đế hiện hữu.' Và bạn hỏi Phật hôm khác 'Có Thượng đế không?' và ông ấy nói 'Không. Chưa bao giờ nghe về điều đó. Ông đang nói điều vô nghĩa gì vậy? Thượng đế sao?' Và lần thứ ba bạn hỏi ông ấy 'Có Thượng đế không?' và ông ấy nhắm mắt lại và ngồi, im lặng, chẳng trả lời chút nào. Hay lần thứ tư bạn hỏi ông ấy về Thượng đế, và ông ấy nói cái gì đó về cái gì đó khác. Ông ấy đáp ứng với câu hỏi - thực ra, đáp ứng nhiều với người hỏi hơn là với câu hỏi. Ông ấy đáp ứng cho tính toàn bộ: hoàn cảnh của câu hỏi và người hỏi, tâm trạng, bầu khí hậu. Nó không phải là hiện tượng làm sẵn.

Lúc thì khẳng định mọi sự…

Cho nên đây là tiêu chí để phán xét trí huệ vĩ đại: nó không bao giờ máy móc, nó không bao giờ lặp lại.

Lúc thì khẳng định mọi sự, lúc thì phủ định chúng…

Nó bao giờ cũng không nhất quán. Nó chỉ nhất quán trong sự không nhất quán của nó, vì sự sống là vậy. Nó không có ý tưởng cố định để đề xuất. Nó giống gương: khỉ tới trước gương, và khỉ được phản xạ; và lừa tới trước gương, và lừa được phản xạ. Và bạn tới trước gương trong giận, và giận được phản xạ. Và bạn tới trước gương trong yêu và vui lớn, và yêu và vui được phản xạ. Gương không có ý tưởng nào về mọi sự phải thế nào, gương cho phép tự do. Cho nên dù bất kì cái gì có đó, gương phản xạ.

Lúc thì khẳng định mọi sự, lúc thì phủ định chúng, nó ở bên ngoài trí tuệ của con người.

Trí huệ vĩ đại ở bên ngoài cái gọi là khôn - khôn ngoan của con người. Khôn của con người là rất nhất quán; nó không bao giờ tự mâu thuẫn. Nó giữ theo một đường đặc biệt: nó là tuyến tính, nó là một chiều. Do đó nó là giả vì sự sống là đa chiều. Sự sống là nhiều thứ cùng nhau: sự sống là mọi thứ cùng nhau. Sự sống là ngược đời. Trí huệ vĩ đại là ngược đời.

Nhớ điều đó. Bất kì khi nào bạn bắt gặp một người rất nhất quán, biết rõ rằng người đó là triết gia nhưng không là người trí huệ. Người đó có triết học, hệ thống, trong đó người đó đã trở nên bị ám ảnh, bị cố định, bị bắt rễ. Người trí huệ là một luồng, như sông; triết gia bị đông cứng tựa băng đá. Đó là lí do tại sao triết học là lạnh, tôn giáo là ấm. Nó có hơi ấm của yêu vì nó tuôn chảy; nó liên tục tuôn chảy. Nó là chuyển động; nó là sống động.

nó ở bên ngoài trí tuệ của con người.

Lúc thì với nghĩa thông thường, lúc thì ngược lại nó…

Trí huệ vĩ đại đôi khi đồng ý với nghĩa thông thường và đôi khi tuyệt đối ngược lại nó. Không có cách nào quyết định người  thực sự trí huệ sẽ đáp ứng thế nào, không có cách dự đoán; người đó vẫn còn không thể dự đoán được. Điều này phải là tiêu chí cho việc tìm ra Thầy: nếu bạn có thể tìm ra một người sống trong sự ngược đời và vậy mà vẫn đĩnh đạc đàng hoàng, người sống trong sự ngược đời vậy mà hoàn toàn bình thản...

Ông không thấy ông ấy, người trí huệ thực sự, bao giờ cũng thoải mái và thản nhiên sao?

... người sống, nhưng không có ý tưởng về sống thế nào; người đơn giản sống, người sống một cách hồn nhiên; và người tựa gương phản xạ mọi thứ đi qua; người không phóng chiếu bất kì cái gì mà chỉ phản xạ; người không hành động trên sự sống mà chỉ tiếp nhận.

Người thực sự trí huệ mang nữ tính, tiếp nhận, thụ động. Đó là  lí do tại sao Phật có vẻ nữ tính thế. Phẩm chất đó của tính thụ động, phẩn chất đó của tính tiếp nhận... Người đó chỉ là chỗ chứa. Người đó phản xạ sự sống: người đó cho phép sự sống phản xạ trong người đó, được phản xạ qua người đó. Người đó hát bài ca mà sự tồn tại muốn hát qua người đó. Người đó không có ý tưởng gì về cái của riêng mình; người đó không cản trở.

Bài ca này cũng là bài ca về Mahapragya. Đây là một trong những bài ca hay nhất đã từng được hát - vì không có ca sĩ trong nó, vì bài ca đã tự nó hát.

Xem tiếp Chương 2 - Quay về Mục lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post