Read more
Mặt trời mọc buổi tối –
Osho
Bài nói về Thiền
Chương 5. Khi chúng ta đạt tới thực tại...
Powered by RedCircle
Trăng
phản xạ trong suối, gió thổi qua rặng thông
trong
khí mát của tối, trong sâu lắng nửa đêm, - nó là vì cái gì?
Khi
chúng ta đạt tới thực tại, nó được thấy
không
nhân không vô nhân.
Không
tội lỗi, không thiên đường, không mất được; về tính siêu việt này, không câu hỏi!
Ai
vô ý nghĩ? Ai bất sinh?
Con người là niềm đam mê vô dụng,
Jean-Paul Sartre nói. Tại sao con người là đam mê vô dụng? Ông ấy nói nó là vậy
vì không có nghĩa trong sự sống. Con người tìm và kiếm, và cái thu được không
là gì ngoài thất vọng. Con người mang định mệnh thất bại vì nghĩa, như vậy,
không tồn tại. Thông điệp của Jean-Paul Sartre là thông điệp về thất vọng, vô vọng,
đau khổ. Nếu không có nghĩa, một cách tự nhiên, con người là niềm đam mê vô dụng. Con người tồn tại chẳng vì cái gì, tồn
tại một cách ngẫu nhiên, tuỳ tiện; con người liên tục giữ bản thân mình bận bịu
trong những thứ vô dụng, nhưng mục đích chung cuộc không là gì ngoài trống rỗng.
Không cái gì thu được. Con người tới trống rỗng và đi trống rỗng. Toàn thể nỗ lực,
và nỗ lực là lớn, chỉ là vô nghĩa.
Huyền thoại về Sisyphus trong huyền thoại
Hi Lạp là có ý nghĩa. Nó nói rằng các thần rất giận Sisyphus. Họ kết án anh ta
phải mang một tảng đá lớn lên đỉnh núi. Đó là nhiệm vụ vất vả, nó là nhiệm vụ gần
như không thể được, nhưng anh ta đã làm điều đó - anh ta mang tảng đá lên đỉnh
núi. Và thế rồi, kết quả tối thượng là ở chỗ tảng đá không thể đứng trên đỉnh
núi. Vì trọng lượng của nó, theo cách riêng của nó, nó bắt đầu lăn xuống thung
lũng lần nữa. Và điều đó xảy ra lặp đi lặp lại: Sisyphus mang tảng đá lên, chuẩn
bị cả nghìn lẻ một chi tiết, tranh đấu với chiều cao, và kết quả chung cuộc là ở
chỗ tảng đá lăn trở lại thung lũng. Sisyphus đi xuống - bắt đầu lại công việc.
Huyền thoại này là tượng trưng cho cuộc đời
con người. Từ sinh tới tử bạn vật lộn và bạn vật lộn, và đó là cuộc vật lộn vất
vả và nó là nhiệm vụ lên núi, và bạn mang tảng đá... và thế rồi, khi bạn đạt tới,
tảng đá bắt đầu trượt trở lại. Kết thúc là chết, đang đợi bạn, và chết phá huỷ
mọi điều bạn đã làm, nó lấy đi mọi điều bạn đã tạo ra. Và lại lần sinh khác...
và toàn thể điều vô nghĩa bắt đầu. Và cứ thế tiếp diễn mãi.
Nếu bạn nhìn vào cuộc sống con người,
Jean-Paul Sartre có ý nghĩa ở đó. Con người là niềm đam mê vô dụng - vô nghĩa,
mọi nỗ lực hoàn toàn không có ý nghĩa. Thế thì tại sao con người liên tục sống?
Điều đó trở thành câu hỏi quan trọng nhất - tại sao con người liên tục sống? Có
thể chỉ bởi vì hèn nhát chăng? vì con người không thể tự tử? vì con người sợ?
Một nhà hiện sinh khác, Albert Camus, đã
nói rằng vấn đề siêu hình duy nhất - điều duy nhất - là về tự tử, mọi thứ khác
là không có ý nghĩa. Tất nhiên, nếu con người là niềm đam mê vô dụng, thế thì tự
tử trở thành vấn đề quan trọng nhất. Mọi người phải đương đầu với nó - tại sao
không tự tử? tại sao liên tục sống?
Sigmund Freud nói 'Cuộc sống con người là
vấn đề chịu đựng nhiều hơn là tận hưởng.' Thế thì tại sao chịu đựng nó nếu nó
chỉ là vấn đề chịu đựng? Sigmund Freud cũng nói... và khi ông ấy nói cái gì đó
nó có trọng lượng, vì ông ấy không là triết gia; cả đời mình ông ấy đã làm việc
và tìm kiếm vào sự đi lui sâu nhất của vô thức của con người. Ông ấy là nhà tâm
lí học; nó có trọng lượng khi ông ấy nói cái gì đó. Nó không chỉ là giả thuyết,
nó dựa trên quan sát. Ông ấy nói rằng không có hi vọng cho con người, và con
người không bao giờ có thể đạt tới phúc lạc vì không có khả năng nào cho nghĩa.
Suốt các thời đại, mọi triết lí và mọi
tôn giáo đã cố cung cấp câu trả lời: rằng có nghĩa, rằng nghĩa là trong Thượng
đế, rằng nghĩa là trong thiên đường, rằng nghĩa là ở đâu đó. Họ có thể khác về
nghĩa ở đâu, nhưng về một điều họ tất cả đồng ý: rằng ở đâu đó nghĩa tồn tại.
Nhưng họ tất cả đã thất bại; mọi triết lí và mọi tôn giáo đã thất bại. Nghĩa đã
không được tìm thấy; con người đã bị vỡ mộng ngày một nhiều hơn. Con người đã
hi vọng với mọi câu trả lời, và con người đã đi với mọi câu trả lời, và lần nữa
chẳng cái gì được đưa tới. Mọi câu trả lời đều thất bại.
Thế rồi con người bắt đầu nghĩ về cách mạng.
'Nếu triết lí thất bại, nếu tôn giáo thất bại, thế thì chúng ta hãy nhìn đi đâu
đó khác. Cách mạng...' Cách mạng chính trị, cách mạng kinh tế, cách mạng khoa học...
bây giờ, chúng tất cả đã thất bại. Dường như con người mang định mệnh thất bại.
Đây là tình huống nếu bạn nhìn vào trong
mọi câu hỏi và câu trả lời mà con người đã hỏi suốt nhiều thời đại.
Câu hỏi về nghĩa là câu hỏi cổ đại nhất,
và nghĩa đã không được tìm thấy. Nhiều câu trả lời đã được cho, nhiều triết lí
đã được đề nghị, nhưng tất cả chúng là sự
an ủi; chúng cho bạn an ủi. Vâng, bạn có thể lừa bản thân bạn một lần, nhưng nếu
bạn đủ thông minh, bạn bao giờ cũng đi tới thấy cái vô tích sự của tất cả an ủi
đó. Nếu bạn đủ thông minh, những an ủi đó sẽ không giúp gì. Chúng giúp ích chỉ
cho người tầm thường, chúng giúp ích chỉ cho người đã quyết định lừa bản thân
mình, người muốn giả vờ rằng có nghĩa - nghĩa trong tiền, nghĩa trong quyền,
nghĩa trong kính trọng, nghĩa trong đức hạnh, trong tính cách, nghĩa trong việc
là thánh nhân. Nhưng nếu bạn đủ thông minh, nếu bạn liên tục thăm dò mỗi lúc một
sâu hơn, sớm hay muộn bạn đi tới hòn đá tảng về vô nghĩa.
Có thể bởi vì điều đó mọi người không
thăm dò đủ; họ sợ. Cảm giác vô ý thức nào đó có đó rằng 'Nếu chúng ta đi đủ
sâu, không cái gì sẽ được tìm thấy, cho nên tốt hơn cả là không đi đủ sâu. Cứ
bơi trên bề mặt thôi.'
Nhưng Thiền đã thành công ở nơi mọi người
đã thất bại. Phật đã thành công nơi mọi người khác đã thất bại. Và Thiền là việc
nở hoa tối thượng của sáng suốt đã xảy ra cho Phật hai mươi nhăm thế kỉ trước tại
Bodhgaya, khi ngồi dưới cây.
Sáng suốt đã xảy ra đó là gì? Kinh nghiệm
duy nhất của Phật là gì? Ông ấy đã không trải nghiệm bất kì Thượng đế nào, ông ấy
đã không bắt gặp... Thực ra, không trải nghiệm tâm linh nào đã có đó. Ông ấy đã
không thấy ánh sáng lớn, ông ấy đã không thấy kundalini dâng lên, ông ấy đã không thấy các viễn cảnh
lớn và các thiên đường vàng mở ra - không cái gì thuộc loại đó. Sáng suốt của
ông ấy là gì? Và sáng suốt đó là nền tảng của Thiền; sáng suốt đó phải được hiểu
- nó là một trong những điều quan trọng nhất đã bao giờ xảy ra cho tâm thức con
người. Ông ấy đã đi tới biết cái gì? Ông ấy đã đi tới biết một điều: rằng nếu
nghĩa bị bỏ đi, vô nghĩa cũng biến mất.
Đây là sáng suốt vĩ đại - vĩ đại nhất. Nếu
nghĩa bị bỏ đi, thế thì vô nghĩa tự động biến mất. Nó phải là vậy, vì bây giờ
làm sao bạn có thể nói sự sống là vô nghĩa nếu không có nghĩa? Nếu không có
nghĩa, thế thì vô nghĩa không thể có khả năng. Để làm cho vô nghĩa là có thể,
nghĩa sẽ được cần tới. Nếu bạn nói rằng phát biểu của bạn là vô nghĩa, điều đó
nghĩa là các phát biểu là có thể mà sẽ
có nghĩa. Nếu mọi phát biểu là vô nghĩa thế thì bạn không thể gọi bất kì phát
biểu nào là vô nghĩa - làm sao bạn sẽ so sánh được? tiêu chí sẽ là gì? Sáng suốt
của Phật vào sáng sớm đó là tới mức ông ấy đã bỏ mọi việc tìm kiếm về nghĩa. Ông
ấy đã tìm đủ lâu rồi - trong nhiều kiếp - và trong sáu năm ông ấy đã từng nhìn
vào trong sự sống này nữa. Ông ấy đã thử mọi câu trả lời, mọi câu trả lời sẵn
có ông ấy đã nhìn vào, và đã thấy chúng đều thiếu.
Sáng sớm đó, khi ngôi sao cuối cùng đã biến
mất trong bầu trời, cái gì đó đã biến mất trong bầu trời bên trong của ông ấy nữa.
Ông ấy đã đi tới sáng suốt sâu sắc, ông ấy đã thấy rằng 'Sự sống có vẻ vô nghĩa
vì mình đang đi tìm nghĩa. Sự sống là không vô nghĩa; nó trở thành vô nghĩa, nó
có vẻ vô nghĩa, vì khao khát của mình về nghĩa. Vấn đề là khao khát của mình về
nghĩa, không phải là cái vô nghĩa của sự sống. Nếu mình không khao khát nghĩa,
thế thì vô nghĩa là gì? Thế thì niềm vui lớn được thoát ra.'
Chủ nghĩa hiện sinh ở phương Tây đã bỏ lỡ,
và đã bỏ lỡ trong khi sáng suốt này đã ở rất cận kề. Chỉ một bước thêm nữa...
Những người dũng cảm - Martin Heidegger hay Jean-Paul Sartre hay Albert Camus,
Berdyaev. Những người dũng cảm; nhưng một bước thêm nữa, và chư phật chắc sẽ nở
hoa ở phương Tây. Họ vẫn còn bám lấy ý
tưởng về nghĩa, và thế thì thất vọng nảy sinh. Bạn muốn nghĩa nào đó trong sự sống.
Chẳng hạn, bạn đi ra vườn và bạn thấy hoa
hồng, và bạn hỏi nghĩa của nó là gì. Bằng việc hỏi bạn phá huỷ toàn thể cái đẹp
của nó. Bây giờ bạn không thể quan sát duyên dáng của hoa này, bây giờ bạn
không thể nhìn vào trong cái đẹp của nó; bạn không thể thấy niềm vui của hoa
này, bạn không thể thấy điệu vũ của nó
trong mặt trời, trong mưa. Bạn không thể thấy cái gì đang đương đầu với bạn -
việc nở hoa có ý nghĩa vô cùng của sự tồn tại. Bây giờ, bạn đang tìm nghĩa, bạn
hỏi 'Nghĩa của hoa hồng này là gì?' Một cách tự nhiên, không có nghĩa; bạn
không thể thu hoa này thành nghĩa. Và khi bạn không thể thu hoa này thành
nghĩa, thất vọng lớn nảy sinh. 'Không có nghĩa trong đoá hoa này sao? Sự sống
toàn là vô nghĩa, vô tích sự. Con người là niềm đam mê vô dụng.' Bạn đã rơi vào
trong đêm tối.
Một bước thêm nữa - nghĩa đã bị bỏ đi -
và bạn đã biến đổi toàn thế giới. Khi bạn bỏ nghĩa, để vô nghĩa cũng bị bỏ đi
cùng nó. Làm sao bạn có thể mang vô nghĩa được? Làm sao bạn có thể nói 'Con người
là niềm đam mê vô dụng' nếu không có dụng? Nếu tất cả là vô dụng, hoàn toàn vô
dụng, chính từ 'vô dụng' mất nghĩa.
Đây đã là sáng suốt đã xảy ra cho Phật,
điều đã phát triển dần dần và lên cao trào trong Thiền. Nếu bạn hiểu điều này,
bạn sẽ có khả năng hiểu Thiền, bằng không bạn sẽ bỏ lỡ toàn thể vấn đề. Thế thì
thơ Thiền sẽ không có nghĩa với bạn, và tranh Thiền sẽ không có nghĩa gì với bạn,
và những lời kinh hay mênh mông này của Huyền Giác sẽ có vẻ giống như vô nghĩa.
Nếu bạn hiểu sáng suốt này, thế thì ý nghĩa lớn nảy sinh. Nghĩa biến mất, vô
nghĩa biến mất, nhưng ý nghĩa nảy sinh. Và ý nghĩa oai nghiêm đó, vẻ oai nghiêm của sự sống và sự tồn tại,
là điều Thượng đế tất cả là gì.
Thượng đế là vẻ oai nghiêm đồng thời của
kinh nghiệm, tính đồng thời của phép thần đang xảy ra. Những giọt mưa này, âm
thanh của nó, buổi sáng im lặng này... vẻ oai nghiêm đồng thời này, đây là Thượng
đế.
Phật không bao giờ dùng từ 'Thượng đế' vì
nó tạo ra vấn đề; ông ấy dùng từ niết bàn. Niết bàn nghĩa là việc dừng lại;
cũng như bạn thổi tắt chiếc nến, và chiếc nến đã biến mất, chiếc nến đã dừng hiện
hữu - nghĩa biến mất, vô nghĩa biến mất. Và cùng với khao khát về nghĩa, cái gì
đó trong bạn biến mất. Nó là cái gì? Ai đang mong muốn rằng phải có nghĩa trong
sự sống? Ham muốn đó tạo ra bản ngã, cái đó tạo ra quá trình hình thành bản
ngã. Bạn càng tìm, bạn càng lao đi vì nghĩa, bản ngã càng nảy sinh. Và khi bạn
chết, chỉ bản ngã đó thất bại.
Con người không phải là niềm đam mê vô dụng
- bản ngã là vậy. Nhưng nếu bạn bị đồng nhất với bản ngã, thế thì, tất nhiên,
có vẻ như bạn là vô dụng.
Phật nói, và các Thiền sư liên tục vang vọng
điều đó, ông ấy nói 'Không có nghĩa, và không có cả vô nghĩa. Mọi thứ là như nó
vậy.' Đừng hỏi về nghĩa, bằng không bạn sẽ bỏ lỡ nó. Không tìm nghĩa, bằng
không bạn sẽ tạo ra thất vọng cho bản thân bạn. Quên mọi điều về nghĩa đi. Hoa
hồng là đẹp hoàn hảo mà không có nghĩa nào, và mặt trời cũng vậy, và mọi người
cũng vậy. Khoảnh khắc bạn nêu ra câu hỏi về nghĩa, dần dần, dần dần bạn sẽ bị mắc
bẫy nhiều hơn vào trong một loại điên khùng. Và khi bạn sẽ không tìm thấy
nghĩa, và bạn đã đặt toàn thể sự sống của bạn vào lâm nguy, một cách tự nhiên,
người ta cảm thấy thất vọng, phiền não nảy sinh.
Huyền thoại về Sisyphus là có ý nghĩa. Nó đã được viết ở Hi Lạp. Nếu như
nó đã được Phật tử Thiền viết, ông ấy chắc đã cho nó hương vị khác toàn bộ.
Sisyphus chắc đã không bận tâm về tảng đá trượt lại vào trong thung lũng, anh
ta chắc đã tận hưởng toàn bộ hành trình đi lên đỉnh và đi trở lại trong thung
lũng. Nó là hay: hoa đang nở bên cạnh đường, chim đang hót, và không khí buổi
sáng tươi mát... người ta cực lạc. Và Sisyphus đang hát bài hát - một shodoka,
chứng đạo ca. Anh ta chắc đã làm thất bại các thần nếu như anh ta đã là con người
của Thiền; các thần chắc đã kêu và khóc, vì họ đã trừng phạt anh ta, còn anh ta
đang tận hưởng! Anh ta chắc đã tận hưởng cây bên đường, và đá, và bản thân tảng
đá mà anh ta đang mang - đường viền của nó.
Và nếu như đó là buổi sáng như thế này...
và giọt mưa, và mùi của đất ướt tươi, anh ta chắc đã hát bài ca hay, anh ta chắc
đã kêu lên 'Đây là nó!', anh ta chắc đã nhảy múa cùng tảng đá, quanh tảng đá.
Anh ta chắc đã tận hưởng nó. Và khi từ trên đỉnh, tảng đá trượt xuống... âm
thanh của nó! Và lại xúc động mới, và cuộc phiêu lưu đi xuống trong thung lũng
và lại mang tảng đá lên, và tất cả cuộc hành trình đẹp đó. Thế thì toàn thể cảnh
quan thay đổi.
Nhưng tâm trí Hi Lạp đã là tâm trí logic;
họ đã tạo ra logic trên thế giới, họ là cội nguồn của mọi logic. Điều đó có vẻ
giống kết án: Sisyphus bị kết án; bạn không thể thấy bất kì nghĩa nào trong nó.
Nghĩa sẽ là gì? - khi Sisyphus lên tới đỉnh và được thưởng giải thưởng Nobel,
thế thì bạn có nghĩ sẽ có nghĩa trong nó không? Đó sẽ là tảng đá khác phải
mang. Nghĩa gì sẽ có đó? Và câu hỏi này sẽ vẫn còn liên quan: nghĩa của việc nhận
giải thưởng Nobel là gì? Bạn nghĩ gì - nếu anh ta lên tới đỉnh và trở thành triệu
phú, điều đó sẽ là nghĩa chăng? Hay anh ta trở nên nổi tiếng thế giới -
Sisyphus đã lên tới đỉnh núi, và anh ta đang nói trong mọi báo chí, và ảnh của
anh ta có trên trang nhất của mọi tờ báo lớn trên thế giới - điều đó sẽ là
nghĩa chăng? Nghĩa gì? Bạn có thể nghĩ về bất kì nghĩa gì mà sẽ là nghĩa thực
không?
Không, toàn thể suy nghĩ này là sai. Nếu
bạn nghĩ về nghĩa như kết quả, thế thì bạn sẽ bỏ lỡ toàn thể vấn đề. Đó là chỗ
sáng suốt của Phật là quan trọng vô cùng, ông ấy nói 'Nghĩa không trong kết quả
nhưng trong hành động.' Và nếu bạn không tìm nghĩa nó chỉ có thể ở trong hành động.
Nếu bạn tìm nghĩa bạn đã đi vào trong tương lai, bạn đã bỏ lỡ khoảnh khắc này,
bạn đã bỏ lỡ hiện tại. Bạn đã bỏ lỡ cái đang đấy, và cái đẹp của cái đang đấy -
phúc lành của nó, niềm vui hoàn toàn của nó.
Đây là điều Thiền là gì. Thiền bỏ việc
tìm nghĩa vì nó là tìm kiếm của bản ngã. Sự hài lòng của bản ngã được coi là
nghĩa. Thiền bỏ chính việc tìm nghĩa, và trong chính việc bỏ đó, mọi loại vô
nghĩa biến mất. Thấy cái đẹp của điều đó đi. Thế thì sự sống hiện hữu - đơn giản
hiện hữu: không có nghĩa, không có vô nghĩa. Làm sao bạn có thể trong thất vọng?
Và khi không có tìm nghĩa, thế thì bạn không còn tách rời khỏi sự sống. Khi
không có tìm nghĩa, làm sao bạn có thể phân chia bản thân bạn khỏi sự sống? Thế
thì bạn là một phần của sự thống nhất hữu cơ này, sự oai nghiêm đồng thời này,
phép thần của hiện hữu này, cực lạc của hiện hữu này. Thế thì bạn hát cùng
chim, và bạn nở hoa cùng cây, và bạn múa cùng sao. Thế thì bạn không có bất kì
thế giới riêng tư nào của riêng bạn: thế giới này là thế giới của bạn. Và thế
thì không có ý tưởng nào về tương lai. Thế thì khoảnh khắc này là tất cả: nó chứa
vĩnh hằng.
Friedrich Nietzsche đã nói 'Mất Thượng đế
nghĩa là điên khùng; và khi nhân loại khám phá ra rằng nó đã mất Thượng đế,
điên vũ trụ sẽ bùng ra.' Và điều này là từ một người mà bản thân người đó đã
tuyên bố rằng Thượng đế chết... Ông ấy sợ điều ông ấy công bố, ông ấy sợ điều
đó. Ông ấy nói rằng khi Thượng đế bị mất, con người sẽ phát điên. Đó đích xác
là điều đã xảy ra cho ông ấy - ông ấy đã phát điên. Ông ấy đã không thể sống mà
không có nghĩa mặc dầu ông ấy đã tuyên bố - ông ấy đã thách thức - rằng Thượng
đế chết. Có thể ông ấy đã thách thức quá nhiều, có thể ông ấy đã thách thức bên
ngoài năng lực của ông ấy, có thể ông ấy đã không có khả năng hấp thu cái chết
của Thượng đế - nó đã là cú choáng thế. Có thể ông ấy đã phản ứng, và đã phản ứng
với cực đoan kia, và thế rồi vết thương còn lại trong con người ông ấy. Bản
thân ông ấy đã không thể sống mà không có Thượng đế. Ông ấy là người rất bản
ngã, cho nên ông ấy không thể tin được Thượng đế; ông ấy phải tuyên bố Thượng đế
chết. Nhưng một khi ông ấy đã tuyên bố Thượng đế chết, thế thì không có nghĩa.
Chết của Thượng đế là chết của nghĩa. Thượng
đế đã vẫn còn là nghĩa trong nhiều thế kỉ. Từ khi con người đã tồn tại trên
trái đất, Thượng đế đã là nghĩa: điều đó
ngụ ý 'Chúng ta bao giờ cũng có thể nhìn tới Thượng đế', rằng 'Sự sống không là
gì ngoài việc chuẩn bị cho Thượng đế', rằng 'Sự sống là việc đợi Thượng đế', rằng
'Sớm hay muộn chúng ta sẽ về tới nhà', rằng có nhà, rằng có nhân vật người cha
hay người mẹ đang đợi bạn. Bạn không bị lạc - có thể bạn đã đi lạc lối, nhưng
không bị lạc. Bất kì lúc nào bạn có thể quyết định quay lại, và bạn sẽ thấy
nhà, và nhà sẽ không biến mất. Thượng đế vẫn còn là trung tâm - trung tâm của mọi
nghĩa; mọi nghĩa nảy sinh ra từ Thượng đế.
Bây giờ, điều khó cho bản ngã của
Nietzsche là chấp nhận bất kì nghĩa nào từ bên ngoài; ông ấy muốn nghĩa tới từ
bên trong ông ấy, nghĩa phải là của ông ấy chứ không là của Thượng đế. Ông ấy
đã không muốn vay mượn nó từ bất kì người nào - ông ấy đã là một người rất kiêu
hãnh. Ông ấy đã tuyên bố Thượng đế chết, nhưng một khi Thượng đế chết, mọi
nghĩa bị chết. Một khi Thượng đế chết, thế thì không có trung tâm nào trong sự
tồn tại, mọi thứ bắt đầu rời ra, mọi thứ bắt đầu tan rã. Mọi giá trị khác là
các giá trị phụ thuộc: chúng được dẫn ra từ Thượng đế.
Cái gì là tốt là nếu không có Thượng đế?
Cái gì là đức hạnh nếu không có Thượng đế? và cái gì là đạo đức nếu không có
Thượng đế? và ai là tội nhân và ai là thánh nhân nếu không có Thượng đế? và tại sao không làm cái này và tại sao làm cái kia
nếu không có Thượng đế? Khi Nietzsche tuyên bố 'Thượng đế chết', trong cùng một
câu ông ấy cũng tuyên bố 'Bây giờ con người là tự do.' Một cách tự nhiên, tự do
khỏi mọi giá trị, tự do khỏi mọi hạn chế, tự do khỏi mọi trách nhiệm. Bây giờ
con người không là trả lời được nữa; không ai có thể hỏi con người bất kì cái
gì. Bây giờ sẽ không có bất kì Ngày Phán xử nào, bây giờ con người là tự do, và
bất kì cái gì con người muốn làm con người có thể làm.
Fyodor Dostoevsky nói 'Nếu không có Thượng
đế, thế thì mọi thứ là được phép.' Hiển nhiên, nếu không có Thượng đế thế thì mọi
thứ là được phép, thế thì ai có đó mà ra lệnh cho bạn làm cái này hay không làm
cái này? Thế thì không vâng lời hay vâng lời cả hai là vô nghĩa. Thế thì Adam
không thể bị đuổi ra khỏi vườn Eden - không có Thượng đế có thể cấm đoán anh
ta, và không có Thượng đế có thể nói 'Không ăn quả của Cây Tri thức', và không
có Thượng đế có thể bắt buộc Adam phải vâng lời.
Và một khi Thượng đế biến mất, không có tội
lỗi, vì tội lỗi là không vâng lời, tội lỗi là đi ngược lại lời răn của Thượng đế.
Sự biến mất của Thượng đế ngụ ý sự biến mất của mọi giá trị; thế thì con người
là thuần tuý con vật mà không có giá trị nào. Nếu không có Thượng đế, thế thì
con người chắc chắn là tự do.
Jean-Paul Sartre nói 'Con người bị kết án
là tự do.' Bị kết án sao? Vâng, nếu không có giá trị nào, thế thì tự do sẽ là
quá nhiều; bạn sẽ không có khả năng sống nó. Sự sống sẽ trở thành hỗn độn: tự
do sẽ biến thành hỗn độn, và tự do sẽ biến thành điên khùng.
Và Nietzsche đã nhận biết rằng nếu như
không có Thượng đế, con người sẽ phát điên. Bản thân ông ấy đã trở nên điên; những
năm cuối đời của ông ấy đã là của điên lớn. Ông ấy mất mọi cảm giác phương hướng,
ông ấy mất mọi khả năng định hướng. Thế thì không có đâu mà đi nếu không có Thượng
đế. Nhưng Nietzsche đã không nhận biết rằng đã từng có những người nói 'Không
có Thượng đế' và đã không phát điên - Phật là một người.
Không có Thượng đế, và dầu vậy Phật đã
không phát điên. Thực ra, Phật nói rằng bạn tạo ra Thượng đế bằng cách nào đó để
duy trì sự lành mạnh của bạn. Lành mạnh của bạn không phải là lành mạnh thực -
Thượng đế được cần để duy trì nó; không có Thượng đế, bạn sẽ bị phơi ra. Bạn là
điên. Thượng đế chỉ là thủ đoạn để giữ bạn lành mạnh. Mọi tôn giáo của bạn
không là gì ngoài các chiến lược để giữ bản thân bạn lành mạnh - làm ra niềm
tin, an ủi; bằng không, sự sống sẽ là quá nhiều và bạn sẽ không có khả năng chịu
được nó - cái đau của nó, phiền não của nó. Nếu bạn hiểu Phật, thế thì tin vào
Thượng đế chỉ bằng cách nào đó bảo vệ bản thân bạn khỏi không lành mạnh bên
trong, cái đó đó.
Người thực sự lành mạnh sẽ không cần Thượng
đế. Người thực sự mạnh khoẻ, người toàn thể, sẽ không cần Thượng đế. Người đó sẽ
là bản thân Thượng đế, tại sao người đó cần Thượng đế?
Nietzsche không nhận biết rằng Phật đã sống mà không có Thượng đế. Và Phật không một mình
- Mahavir đã sống không có Thượng đế. Và Mahavir không một mình; nhiều nhiều người
chứng ngộ khác đã đi trước họ và đã kế tục họ. Ở phương Đông, những truyền thống
lớn, Phật giáo, Jaina và Đạo, tất cả đều phi Thượng đế - và dầu vậy họ là tôn
giáo. Phương Tây không có năng lực hiểu làm sao họ có thể là tôn giáo, làm sao
họ có thể gọi bản thân họ là tôn giáo nếu không có Thượng đế. Họ không thể nghĩ
được về tôn giáo mà không có Thượng đế; họ bị ám ảnh với ý tưởng về Thượng đế.
Cho nên nếu Thượng đế chết, hay Thượng đế biến mất, hay không được tìm thấy nữa,
hay con người trở nên không tin, thế thì con người sẽ phát điên. Nietzsche đã
phát điên. Và toàn thể nhân loại đang dần dần chuyển tới tính điên đó. Ông ấy
đã dự báo đúng: ông ấy là người điên rất tiên tri.
Nhưng Thiền không có Thượng đế. Thiền đã
đưa tới tính lành mạnh của nó từ đâu? - từ chỗ nào? Từ nguồn nào? Bỏ ham muốn về
nghĩa, Thượng đế bị bỏ đi. Thượng đế không là gì ngoài nghĩa được tạo ra, được
chế tạo ra bởi con người. Kinh Thánh nói Thượng đế đã tạo ra con người theo
hình ảnh riêng của ngài - điều đó là không đúng; con người đã tạo ra Thượng đế
theo hình ảnh riêng của mình - điều đó là đúng hơn nhiều. Thực ra, nói Thượng đế
là cha của con người là sai; Thượng đế là con của con người, nó là ý tưởng của
con người. Con người không thể sống mà không có Thượng đế. Đó là chứng thần
kinh của con người, điều đó chỉ ra sự phụ thuộc của con người. Con người không
thể sống mà không có hình ảnh người cha, con người cần ai đó để dựa vào, ai đó
để nhìn vào; con người cần hỗ trợ lớn -
con người không thể đứng theo cách riêng của mình, trên chân riêng của mình.
Và đó là cái đẹp của Thiền, và đó là
thông điệp của Phật: rằng con người có thể dựa trên bản thân của mình - không cần
dựa vào bất kì người nào. Và Thượng đế chắc chắn nảy sinh trong bạn khi bạn
không dựa vào bất kì người nào, vì khi bạn dựa, bạn dựa vài các niềm tin riêng
của bạn. Chúng là mơ, phóng chiếu; chúng là không thực. Từ sợ bạn tạo ra Thượng
đế. Làm sao nó có thể là thực? - nó không là kinh nghiệm của bạn. Từ thất vọng
bạn tạo ra Thượng đế; nó là sản phẩm phụ của thất vọng. Từ khổ bạn tạo ra Thượng
đế. Làm sao Thượng đế của bạn có thể là
satchitanand? Làm sao Thượng đế của bạn có thể là chân lí, phúc lạc, tâm thức?
Bạn tạo ra Thượng đế của bạn từ vô thức
của bạn - làm sao nó có thể là có ý thức? Và bạn tạo ra Thượng đế từ khổ
của bạn - làm sao Thượng đế có thể là phúc lạc? Và bạn tạo ra Thượng đế từ giả
dối của bạn - giả dối lớn nhất là tin vào Thượng đế mà không biết ngài - làm
sao Thượng đế có thể là chân lí? Không, Thượng đế không thể là satchitanand.
Phật nói: Thượng đế phải không được tạo
ra bởi bạn. Bạn phải đi tới điểm mà bạn
có khả năng bỏ mọi tìm kiếm về nghĩa và mọi khao khát về nghĩa. Với tìm kiếm đó
đã bị bỏ, mọi thượng đế biến mất theo cách riêng của chúng, mọi thiên đường biến
mất, chúng không là gì ngoài mơ. Bạn bị bỏ lại một mình, không nội dung.
Và lại nhớ, bạn không rơi vào trong thất
vọng; bạn không thể thế được - Phật không thể rơi vào trong thất vọng. Điều đó
là không thể được: hi vọng đã biến mất, vô hi vọng cũng là vậy. Mục đích đã biến
mất, làm sao bạn có thể lo âu bây giờ? Lo âu chỉ nảy sinh bởi vì mục đích - dù
bạn sẽ đi làm nó hay không, do đó có lo âu. Không thể có bất kì căng thẳng nào
khi không có nghĩa. Thế thì mọi cái còn lại là chơi đùa. Mọi cái còn lại là để
sống chính khoảnh khắc này. Thế thì nếu ăn, ăn; nếu ngủ, ngủ; thế thì nếu bước
đi, bước. Và từng hành động đều là tối thượng, và nó không có tham chiếu tới bất
kì cái gì khác. Nó không phải có bất kì tham chiếu nào để có nghĩa. Nó không là
nghĩa không là vô nghĩa; nó đơn giản hiện hữu.
Tính là vậy đó Phật gọi là tathata, như vậy:
vậy vậy vậy. Phật gọi tính là vậy này là tự do. Và tự do này không giống như tự
do của Sartre: rằng 'con người bị kết án là tự do'; nó là vinh quang, nó là huy
hoàng lớn. Nó là việc thoát ra - thoát ra khỏi là bản ngã, thoát ra khỏi mọi
giam cầm và đồng nhất, thoát ra của sự huy hoàng bên trong. Bạn nở hoa - không
có bất kì tương lai nào, bạn nở hoa trong hiện tại. Khoảnh khắc này là tất cả.
Phật đã bắt đầu cuộc cách mạng trong tâm
thức con người. Tôn giáo của ông ấy không phải là tôn giáo bình thường, nó là cực
kì phi thường. Nó là hiếm hoi, nó không phải là cái thông thường hay đa dạng của
vườn. Nó rất đặc biệt - việc truyền đặc biệt. Sáng suốt của Phật đã xuyên thấu
vào chính cốt lõi của sự tồn tại. Thiền đã nở hoa ra từ sáng suốt đó. Điều đã xảy
ra cho Phật ở Bodhgaya vào sáng nào đó dưới cây Bồ đề đã sống và phát triển. Nó đã thu thập ngày càng nhiều
năng lượng cho nó; nó đã trở thành dòng sông lớn bây giờ - đó là Thiền.
Và Thiền có cái gì đó mà rất rất bản chất
cho sự sống còn của con người trong tương lai; bằng không, tự tử sẽ là điều duy
nhất để nghĩ tới. Thiền có thể cho bạn phương án khác: phương án khác đó là
tính chất sannyas.
Tự tử ngụ ý: không có nghĩa, cho nên phá
huỷ bản thân bạn. Tính chất sannyas ngụ ý: không có nghĩa, cho nên bạn được tự
do khỏi khao khát đó, bây giờ tận hưởng bản thân bạn. Vì không có nghĩa, không
có định mệnh. Bạn tự do tận hưởng khoảnh khắc này với tính toàn bộ của bạn -
không cái gì cản trở, không Thượng đế nào phải được chăm lo, không lời răn nào.
Bạn hoàn toàn tự do hiện hữu trong khoảnh khắc này.
Tương lai sẽ là giống Thiền nhiều hơn bất
kì cái gì khác. Nếu con người là để sống sót, tôn giáo phải lấy hình dáng của
Thiền; nó sẽ ngày càng gần với Thiền hơn bất kì cái gì khác, vì Thiền không phải
là tôn giáo như Ki tô giáo hay Hindu giáo hay Jaina giáo hay ngay cả Phật giáo.
Thiền là một loại tính tôn giáo mới - không phải tôn giáo mà là tính tôn giáo.
Khác biệt giữa các tôn giáo khác là ở số lượng. Khác biệt giữa Thiền và các tôn
giáo khác là ở chất lượng: nó là cách mạng chất lượng.
Thiền cho bạn sáng suốt mới, cái nhìn mới;
cuộc sống của tự do, hoàn toàn tự do; cuộc sống tự phát, tuyệt đối tự phát; cuộc
sống của khoảnh khắc, trong khoảnh khắc, vì khoảnh khắc. Và... không có chỗ nào
khác để đi.
Đây sẽ là tương lai của nhân loại, đây là
khả năng duy nhất cho sự sống còn của con người. Chủ nghĩa hiện sinh ở phương
Tây đã tạo ra bầu khí hậu cho Thiền bật ra. Chủ nghĩa hiện sinh là Thiền nửa vời,
Thiền vô ý thức. Thiền là chủ nghĩa hiện sinh có ý thức. Sartre và Camus và Heidegger và Berdyaev và Marcel và những
người khác - họ là những người đi trước của cái gì đó đang tới, cái đã thực sự
tới cho những người có thể thấy. Do đó tôi
đang nói nhiều thế về Thiền: vì nó có hương vị của tương lai.
Con người không thể vẫn còn bị giới hạn
trong đền chùa và nhà thờ và nhà thờ hồi giáo thêm nữa. Và thế là đủ. Con người
cần toàn thể bầu trời bây giờ.
Và đây là bài ca của Huyền Giác Đại sư. Lời
kinh này là hay. Đi vào trong chúng.
Trăng
được phản xạ trong suối, gió thổi qua rặng thông
trong
khí mát của tối, trong sâu lắng nửa đêm, - nó là vì cái gì?
Huyền Giác đang nói: Nếu ông hỏi câu hỏi
này, ông là kẻ ngu. Ông có thể hỏi câu hỏi này: 'Trăng được phản xạ trong suối...
tại sao nó được phản xạ trong suối? nghĩa của nó là gì'? Nó không đẹp như nó vậy
sao? Có nghĩa nào đó được mang tới cho nó không? Nghĩa sẽ thêm vào theo bất kì cách
nào cho cái đẹp và phúc lành của nó không? Trăng được phản xạ trong suối... là
không đủ sao? Thực ra, nó là quá đủ. Bạn còn muốn gì khác? Tại sao bạn nghĩ về
nghĩa?
Việc tìm nghĩa là tham, và việc tìm nghĩa
là trần tục. Người có tính tôn giáo sẽ tận hưởng khoảnh khắc này: Trăng được phản xạ trong suối... cái đẹp,
duyên dáng, im lặng. Hoặc trăng muốn được phản xạ trong suối, hoặc suối muốn
trăng bị bắt vào trong nó như việc phản xạ. Không có ham muốn ở bất kì chỗ nào
- không ham muốn về phần trăng, không ham muốn về phần suối. Nhưng trăng có đó
và suối có đó, cho nên... phản xạ. Suối không lo nghĩ về nghĩa của trăng, trăng
cũng không lo nghĩ về nghĩa của suối. Bạn, ngồi trên bờ, lo nghĩ. 'Nghĩa của mọi
điều này là gì? Và nếu mình không thể tìm thấy bất kì nghĩa nào, thế thì tại
sao mình phải sống chút nào, tại sao không tự tử?'
Những lời hay thế, vĩ đại thế, khoảnh khắc
thần kì thế: trăng được phản xạ trong suối - và bạn, Albert Camus, đang nghĩ về
tự tử, nói về tự tử. Bạn không thể tận hưởng khoảng khắc này trong sự trần trụi
của nó sao? Bạn phải mang nghĩa nào đó cho nó sao? Bạn phải hỏi nó hữu dụng gì
sao? Bạn có muốn bán phản xạ này ở bãi chợ không? Và khi nào bạn bạn thu được tờ
mười ru pi, thế thì bạn sẽ nói 'Có, nó có nghĩa'? Bạn đang đòi hỏi về cái gì? Bạn
ngụ ý gì bởi 'nghĩa'?
Đứa trẻ đang chơi; và người bố về nhà và
nói 'Làm bài tập về nhà đi! Con đang làm gì? Làm cái gì đó hữu dụng đi!' Tại
sao bài tập về nhà hữu dụng? Vì nó sẽ mang tới tiền về sau - hữu dụng của nó còn cái gì khác? Chơi không hữu
dụng vì nó sẽ không mang tới tiền nào.
Chúng ta đã thu toàn thể sự sống thành tiện
dụng; chúng ta có mọi thứ trở thành thứ tiện ích, và tiện ích không bao giờ có
tính tôn giáo. Nếu bạn hỏi tôi ai có tính tôn giáo và ai không, đây là định
nghĩa của tôi. Thượng đế không phải là vấn đề - dù một người tin vào Thượng đế
hay không, không làm cho người ta thành tôn giáo hay phi tôn giáo, vì tôi đã thấy
hàng triệu người tin vào Thượng đế và không là người tôn giáo, và tôi đã thấy
vài người không tin vào Thượng đế nhưng là người tôn giáo. Cho nên điều đó
không liên quan; chúng ta sẽ phải tìm ra định nghĩa khác nào đó. Đây là định
nghĩa của tôi: người chỉ nghĩ về tiện dụng là phi tôn giáo. Thế thì người đó
không thể hiểu được cái đẹp, người đó bao giờ cũng tìm tiện dụng.
Bạn thấy con chim đang tung cánh - bầu trời
trong veo không mây, chỉ có con chim đang cân bằng im lặng trên đôi cánh xa xăm
- và bạn nói 'Nhìn kìa! Nhìn con chim đang tung cánh!' và bạn của bạn nói 'Thì
sao?' Người này là phi tôn giáo, người này nói 'Thì sao? Chim đang tung cánh,
thì sao? Nghĩa của điều đó là gì?' Người đó đang hỏi 'Chúng ta có thể tính tiền
nó không?' Người đó đang hỏi 'Điều đó có thể được thu lại thành tiền, thành
kinh tế không? Điều đó có thể được thu lại thành chính trị không? Điều đó sẽ
giúp tôi thắng cuộc bầu cử sắp tới không? Điều đó sẽ giúp tôi có số dư ngân
hàng lớn hơn không? Điều đó có giúp tôi
trở nên nổi tiếng hơn không? Nếu không, thế thì vấn đề là gì? Sao phí thời
gian?'
Lão Tử đang đi qua, ông ấy đi trong cuộc
hành hương. Bạn có thể hỏi 'Cuộc hành hương à - tới đâu? Ông ấy có đi tới Mecca
hay tới Kailash, hay ông ấy đang tới Kashi?' Không. Cuộc hành hương không tới
đâu cả. Chỉ tận hưởng - trong núi và sông và thung lũng - cuộc hành hương tới không đâu cả. Đệ tử của ông ấy
đi theo ông ấy. Họ tới trong một khu rừng nơi mọi cây đều bị chặt ngoại trừ một
cây, và cây đó lớn thế và cành của nó cao và dài tới mức một nghìn xe bò kéo có
thể nghỉ ngơi dưới bóng của nó. Và Lão Tử phái một trong các đệ tử của ông ấy tới
đó, người này là một triết gia. 'Hỏi xem cái gì đã xảy ra, vì cả khu rừng đã bị
chặt và hàng nghìn người vẫn đang chặt những cây còn lại, nhưng tại sao họ không chặt cây này? Cứ
đi và hỏi xem sao.'
Ông ấy yêu cầu đệ tử triết gia đi hỏi vì
ông này bao giờ cũng hỏi về tính hữu dụng, về nghĩa. Triết gia này đi, quay lại
với chút phân vân và bối rối, và nói 'Điều đó thật khó hiểu. Tôi đã hỏi họ và họ
nói vì cây đó vô dụng. Họ nói rằng mọi cành của nó là tới mức chúng không thể
được dùng để làm bất kì loại đồ đạc nào - chúng không thẳng. Lá của nó là tới mức
không con vật nào sẽ ăn chúng. Khi thầy đốt gỗ của cây này, chỉ khói bay lên,
không có lửa. Nó hoàn toàn vô dụng, đó là lí do tại sao họ đã không chặt nó.'
Và Lão Tử cười tiếng cười lớn và nói 'Ông
thấy cái dụng của vô dụng chưa? Bây giờ, cây này đã sống sót vì nó là vô dụng.
Thấy cái đẹp của cây này đi. Vì nó là vô dụng nó tận hưởng mặt trời và mây; nó
vẫn sống. Và cây hữu dụng phải bị chặt và bị phá huỷ.' Và ông ấy nói với các đệ
tử của mình 'Là vô dụng như cây này đi, thế thì không ai sẽ quấy rầy các ông,
thế thì không ai sẽ giết các ông, và ông sẽ có khả năng tận hưởng, ông sẽ có khả
năng nhảy múa. Nhìn vào điệu múa của cây đó!'
Lão Tử đang nói rằng cái dụng không phải
là mọi điều có đó trong sự sống, và nghĩ cái dụng đó là tất cả là người hướng vật
chất, là phi tôn giáo. Người bao giờ cũng hỏi về cái dụng và nghĩa là người phi
tôn giáo. Người tôn giáo tận hưởng.
Ông ấy không hỏi bất kì câu hỏi nào về sự
sống. Sự sống đẹp thế, sao phí thời gian vào việc hỏi?
Trăng
được phản xạ trong suối, gió thổi qua rặng thông
trong
khí mát của tối, trong sâu lắng nửa đêm, - nó là vì cái gì?
Huyền Giác đang nói: Ông có hỏi câu hỏi
Nó là vì cái gì? Không? Tại sao hỏi về
người? Tại sao hỏi về Thượng đế? Tại sao hỏi mọi thứ? Việc hỏi tạo ra rào chắn
cho tận hưởng. Các triết gia là những người tận hưởng sự sống ít nhất, và điều
không may là họ chi phối tâm trí mọi người. Và họ là những người tận hưởng ít
nhất trên thế giới - họ là người khổ nhất; họ bao giờ cũng hỏi tại sao.
Một người đàn bà nói với Immanuel Kant -
người đàn bà đẹp - rằng cô ấy đã rơi vào yêu ông ấy và cô ấy muốn lấy ông ấy.
Ông ấy nói 'Tại sao? Tại sao người ta rơi vào trong yêu? Và nghĩa của yêu là
gì? Tôi sẽ phải nghĩ về nó.' Và ông ấy nghĩ và nghĩ, và ông ấy đọc về yêu và
hôn nhân, và ông ấy nghĩ về mọi ý kiến ủng hộ và chống đối. Điều đó tốn thời
gian - cũng là tự nhiên. Sau ba năm ông ấy quyết định rằng nó đáng thử, vì người
ta sẽ chẳng mất gì bởi điều đó. Người ta có thể không được gì, nhưng người ta sẽ
không mất bất kì cái gì. Ông ấy đã làm nhiều lưu ý - nó đã gần như một luận án
- trong đó ông ấy đã viết mọi ý kiến ủng hộ và chống đối, và ủng hộ ít nặng cân
hơn chống đối, cho nên ông ấy đã quyết định. Ông ấy gõ cửa nhà người đàn bà
này, người bố ra mở cửa, và ông ấy nói 'Bây giờ tôi sẵn sàng, con gái của bác
đâu rồi?' Và người bố cười và ông ấy nói 'Muộn quá rồi. Nó đã lấy chồng. Giờ nó
có một con rồi. Anh mất thời gian quá lâu để suy nghĩ, anh đã bỏ lỡ điểm này!'
Ngay cả yêu với triết gia cũng trở thành vấn đề; đẹp trở thành vấn đề,
vui trở thành vấn đề. Ông ta liên tục hỏi tại sao... tại sao.
Tôi đã nghe nói về một bệnh nhân - chắc
phải là một triết gia...
Nhà phân tâm của ông ấy gợi ý cho ông ấy
rằng ông ấy lên núi để nghỉ ngơi. Thế là ông ấy đi tới đó. Sau vài ngày một bức
điện tín gửi tới nhà phân tâm: Tôi cảm thấy rất hạnh phúc - tại sao? Giờ giải
thích đi!
Ngay cả hạnh phúc cũng phải được giải
thích trước hết. Và đừng cười vào nó vì
nhiều người thế tới tôi... Khi họ bắt đầu cảm thấy hạnh phúc, khi họ bắt đầu cảm
thấy vui vẻ, khi thiền bắt đầu nở hoa trong họ, họ tới tôi rất phân vân, bối rối
- rất không thoải mái. Họ hỏi tôi 'Tôi cảm thấy rất vui vẻ tại sao?' Khổ thì được,
nhưng vui sao? Cái gì đó không được mong đợi đang xảy ra: cái gì đó mà họ chưa
bao giờ mong đợi, cái gì đó với nó họ không được chuẩn bị.
Và nhớ một điều: nếu bạn hỏi tại sao về
khổ, nó có thể được trả lời, nhưng nếu bạn hỏi tại sao về vui, nó không thể được
trả lời - vì khổ là phi tự nhiên, cho nên nó có nguyên nhân, còn vui chỉ là
tuôn chảy tự nhiên, nó không có nguyên nhân. Nếu bạn đi tới bác sĩ và bạn hỏi
'Tôi cảm thấy mạnh khoẻ - tại sao?' ông ấy không thể trả lời bạn được, ông ấy
không thể giải thích tại sao. Ông ấy không thể cho bạn đi khám tia X, điện tâm
đồ, và các xét nghiệm khác, vì mạnh khoẻ không thể được kiểm tra theo bất kì cách nào; không có
máy nào có thể nói rằng bạn là mạnh khoẻ và có thể chỉ ra nguyên nhân. Bạn mạnh khoẻ vì bạn sống động,
bạn mạnh khoẻ vì bạn phải là mạnh khoẻ;
mạnh khoẻ là tự nhiên. Nhưng nếu bạn đi tới bác sĩ, và bạn ốm, ông ấy có thể chỉ
cho bạn tại sao bạn ốm: có thể đó là lao phổi hay ung thư hay cái gì đó khác.
Nguyên nhân có thể được tìm ra - nguyên
nhân có thể được tìm ra cho cái là phi tự nhiên. Vui chỉ là tự nhiên; đừng bao
giờ hỏi tại sao. Đừng bao giờ hỏi tại sao về yêu, về vui, về đẹp, về Thượng đế,
về sự sống.
Trăng
được phản xạ trong suối, gió thổi qua rặng thông
trong
khí mát của tối, trong sâu lắng nửa đêm, - nó là vì cái gì?
Nó không hướng đích, nó không là phương
tiện cho mục đích nào đó khác, nó là phương tiện lên bản thân nó. Nếu bạn hỏi tại
sao, bạn sẽ tạo ra rắc rối, và khi câu hỏi này sẽ không được trả lời, bạn sẽ cảm
thấy rằng nó là vô nghĩa. Thất vọng sẽ nảy sinh nếu bạn hỏi tại sao, vì tự
nhiên không có nghĩa vụ trả lời bạn theo bất kì cách nào, và nó không trả lời bất
kì câu hỏi ngu xuẩn, đần độn, xuẩn ngốc nào. Trăng sẽ cười và liên tục lao đi
trên trời, và suối sẽ cười và liên tục xô tới đại dương, và gió sẽ liên tục thổi
qua rặng thông - cả thông sẽ không bận tâm để hỏi hay trả lời mà gió cũng
không. Bạn sẽ bị bỏ lại một mình.
Khoảnh khắc con người hỏi tại sao, con
người bị bỏ lại một mình, con người bị cắt ra khỏi tính toàn bộ của sự tồn tại.
Bỏ tại sao đi, và đột nhiên bạn là một với gió và thông và suối và trăng. Và
tính một đó là Thượng đế.
Thượng đế không phải là khái niệm thượng
đế học, nó là kinh nghiệm có tính tồn tại. 'Tính một' đó là Thượng đế. Khi
trăng không tách rời ở đó mà được bắc cầu với bạn, và suối không tách rời ở đó
mà được bắc cầu với bạn, khi lá trên cây và ngôi sao xa xôi nhất cả hai được nối
trong bạn và không có tại sao, thế thì mọi
thứ được đan dệt trong một hình mẫu. Hỏi tại sao, và bạn bị cắt rời; bạn trở
nên bị cô lập, bạn trở thành hòn đảo. Và thế thì khổ nảy sinh, và sợ, và đơn độc.
Bỏ tại sao đi, và bạn không một mình, bạn là một với sự tồn tại - làm sao bạn
có thể một mình được? Và trăng có đó, và gió có đó, và thông, và suối, và núi,
và sao, và sự tồn tại vô hạn, bao la này là của bạn.
Khi
chúng ta đạt tới thực tại, nó được thấy
không
nhân không vô nhân.
Điều này đang đạt tới thực tại: khi bạn
không hỏi tại sao, khi bạn bỏ khao khát, khao khát loạn thần kinh, về nghĩa.
Khao khát loạn thần kinh đó đang dẫn bạn tới thất vọng tới mức sự sống đã gần
như không thể được; chính phép màu là làm sao bạn vẫn liên tục sống. Vâng,
Freud có thể đúng khi có liên quan tới bạn: 'Cuộc sống con người nhiều phần là
vấn đề chịu đựng hơn là tận hưởng.' Bản thân ông ấy không bao giờ tận hưởng cuộc
sống; ông ấy chịu đựng.
Nhưng điều đó là xấu: chịu đựng, chịu đựng
phúc lành thế trong đó bạn có thể biến mất, trong đó bạn không cần vẫn còn tách
rời, trong đó bạn có thể trở thành một phần của điệu múa và bài ca.
Khi chúng ta đạt tới thực tại... Đây là
thực tại: bỏ câu hỏi tại sao, bỏ thái độ triết lí hướng tới sự sống, bỏ khao
khát về nghĩa, thế thì bạn đạt tới thực tại.
Đột nhiên bạn là một với sự tồn tại, đột
nhiên bạn bắt đầu hiểu ngôn ngữ của chim và ngôn ngữ của cây, đột nhiên bạn đạt
tới sự thống nhất nguyên thuỷ. Và thống nhất đó vẫn tồn tại ở cốt lõi sâu nhất
của con người bạn; ở đó bạn được kết nối với nó.
Đó là điều tôi đã nói hôm nọ: bạn vẫn được
kết nối với suối, với âm thanh hiện hành, hay với bất kì cái gì bạn muốn gọi
nó, Thượng đế, logo, niết bàn, 'dòng chảy âm thanh vô âm', shabad. Bất kì cái
gì bạn gọi nó, bạn vẫn được kết nối ở đó - chỉ trong cái đầu bạn đã trở nên bị
ngắt kết nối. Và điều tốt là chỉ trong cái đầu bạn đã trở nên bị ngắt kết nối,
nếu bạn đã thực sự trở nên bị ngắt kết nối tại chính rễ, thế thì sẽ không có
cách nào để được kết nối lại. Ở đó bạn vẫn là một với dòng suối. Đó là lí do tại
sao khi bạn đi ra biển, cái gì đó bắt đầu nổi bóng trong bạn: bạn vẫn là một với
biển. Khi bạn thấy các con sóng triều của biển, và nghe thấy âm thanh và tiếng
gầm, cái gì đó bắt đầu lang thang trong bạn - biển bên trong của bạn bắt đầu
đáp ứng.
Con người được sinh ra trong biển: con
người đã được sinh ra như cá, và cùng câu chuyện này vẫn được lặp lại với từng
đứa trẻ. Từng đứa trẻ trong bụng mẹ tồn tại trong biển, biển nhỏ, và thành phần
của nước trong bụng mẹ của người mẹ là đích xác như thành phần của nước biển -
đích xác, nó mặn như nước biển. Đó là lí do tại sao đàn bà mang thai bắt đầu ăn
nhiều muối hơn: họ cần nhiều muối hơn, họ phải tạo ra đại dương nhỏ, biển nhỏ,
bên trong bản thân họ. Đứa trẻ lại được sinh ra như cá. Trong chín tháng đó
trong bụng mẹ của người mẹ nó đã trải qua hàng triệu năm. Nó đi nhanh - với tốc
độ phản lực, nhưng nó phải trải qua mọi giai đoạn. Và ngay cả bạn, khi bạn
không trong bụng mẹ của mẹ bạn, thân thể bạn chứa nước biển, và không phải số
lượng nhỏ - bạn có tám mươi phần trăm nước biển, tám mươi phần trăm! Và trong
thân thể bạn nước phải chứa cùng lượng muối như biển; đó là lí do tại sao bạn
thiếu muối, bạn không cảm thấy năng lượng, bạn không cảm thấy sống động, bạn cảm
thấy yếu. Đó là lí do tại sao muối là một
trong những thứ cần thiết nhất trong sự
sống; ngay cả người nghèo nhất cũng phải có muối. Ở Ấn Độ người nghèo nhất chỉ
có hai, ba thứ, nhưng nhu cầu của họ bị thu lại tới mức tối thiểu vừa đủ, thế
thì... bánh mì và muối. Muối là điều phải có; không có muối sự sống bắt đầu biến mất. Bạn vẫn đang mang biển
bên trong bạn. Khi bạn đi ra biển, biển bên trong của bạn bắt đầu đáp ứng, sóng
bắt đầu nảy sinh.
Đôi khi bạn có thấy người chơi đàn veena,
người chơi đàn sitar không? Hay bản thân bạn có thử không? Có nhiều dây trên
đàn sitar; chỉ bấm một nốt trên một dây, nốt nào đó, và bạn sẽ ngạc nhiên: tất
cả các dây khác không bị chạm vang vọng với cùng nốt kia. Đó là sự thống nhất của
sự sống. Đó là điều xảy ra với Thầy. Thầy liên tục chơi một nốt nào đó trong
con người thầy, và cùng nốt đó vang vọng
trong con người bạn, trong con người của đệ tử. Điều này là satsang. Sớm hay muộn
bạn bắt đầu nghe thấy âm thanh bên trong này, bạn bắt đầu nghe thấy giai điệu
bên trong. Bạn đi ra biển, biển nói với biển bên trong của bạn. Đó là lí do tại
sao bạn bị ảnh hưởng nhiều thế vào đêm trăng tròn. Nhiều người phát điên vào đêm trăng tròn hơn bất kì đêm nào khác.
Nhiều thơ ca được sinh ra vào đêm trăng
tròn, và nhiều yêu, tất nhiên. Trong mọi ngôn ngữ của thế giới có những từ liên
quan tới chứng điên cùng với trăng. Trong tiếng Anh, 'lunatic' bắt nguồn từ
luna, trăng. Trong mọi ngôn ngữ có những từ chỉ ra mối kết nối với chứng điên;
cái gì đó xảy ra giữa trăng và tâm trí. Cũng như biển phát điên khi trăng tròn,
biển bên trong của bạn cũng phát điên khi trăng tròn. Bạn được kết nối.
Khi bạn đi vào trong rừng sâu và bạn đi tới
im lặng nguyên thuỷ đó của rừng, cái gì đó vang vọng trong bạn, hoài niệm; bạn
nhớ. Cái gì đó bên trong bắt đầu nổi lên bề mặt. Bạn mang mọi kinh nghiệm của mọi
sự tồn tại trong bạn. Khi bạn đi lên Himalayas, không chỉ Himalayas làm cho bạn
cảm thấy im lặng thế, Himalayas chỉ có thể làm cái gì đó vang vọng trong bạn:
Himalaya bên trong có đó. Con người đã sống trong núi. Không khí tươi tắn và
tuyết trinh nguyên... và cái gì đó trinh nguyên trong bạn nổi lên.
Chúng
ta là một.
Đây
là điều Thiền nhân nói.
Khi
chúng ta đạt tới thực tại, nó được thấy
không
nhân không vô nhân.
Thế thì người ta biết nó không là hữu
nhân không là vô nhân - cả hai từ là vô dụng. Thượng đế không phải là nhân, và
Thượng đế không phải là vô nhân nữa. Thế thì Thượng đế là gì? Khó nói. Thượng đế
là không thể tả được. Nó là kinh nghiệm về sự thống nhất hữu cơ với cái toàn thể,
và cái toàn thể không phải là nhân, không là vô nhân. Mọi kiểu từ ngữ đó mà phụ
thuộc vào nhị nguyên đều trở thành vô nghĩa; chúng phải bị bỏ đi. Đó là lí do tại
sao Thiền nhân im lặng về Thượng đế; họ không nói một lời.
Nếu bạn làm tượng Thượng đế, nó trở thành
nhân. Nếu bạn không làm tượng Thượng đế như người Mô ha mét giáo, nó trở thành
vô nhân. Nhưng tham chiếu vẫn còn là cùng một: nhân. Nhân hay vô nhân, người
Hindus và người Mô ha mét giáo không rất khác nhau mấy; người này làm tượng,
người khác phá huỷ chúng. Nhưng cả hai tin vào cùng một điều bằng cách nào đó.
Người tôn thờ, người phá huỷ, nhưng cả hai đang bám vào cái gì đó sâu bên dưới
mà là cùng một thứ. Người nghĩ Thượng đế là nhân, người nghĩ Thượng đế là vô
nhân.
Thượng đế không là cả hai. Mọi lời của
chúng ta đều không nói được. Thượng đế chỉ là sự hiện hữu. Sự hiện hữu là sự hiện
hữu. Đang đây là Thượng đế. Bây giờ, bạn có thể gọi cái đang đây này là nhân
hay vô nhân? Khi trăng được phản xạ trong suối, nó là nhân hay vô nhân? Và khi
gió thổi qua rặng thông, nó là nhân hay vô nhân? Những từ đó không tạo ra
nghĩa. Nó là vậy. Gió thổi trong rặng thông là đang thổi trong rặng thông, và
trăng được phản xạ trong suối là được phản xạ trong suối. Nó là vậy. Mọi điều
có thể được nói là: Nó là vậy. Đó là nghĩa của từ tathata: Nó là vậy.
Không
tội, không thiên đường, không mất hay được; về tính siêu việt này, không câu hỏi!
Một phát biểu lớn có ý nghĩa mênh mông:
Không tội, không thiên đường... Mọi tội được tạo ra vì ý tưởng của chúng ta về
cách mọi sự phải là vậy. Chúng ta không thể chấp nhận mọi sự như chúng vậy,
chúng ta muốn áp đặt ý định của chúng ta lên sự tồn tại, chúng ta đang liên tục áp đặt ý định của chúng ta lên sự tồn tại. 'Mọi
thứ phải giống thế này.' Nhưng khi gió đang thổi qua rặng thông, nó là đức hạnh
hay tội lỗi? Và khi trăng được phản xạ trong suối, nó là đạo đức hay vô đạo đức?
Thực tại đơn giản hiện hữu. Không tội,
không thiên đường... Và nếu không tội, làm sao có thể có địa ngục? - vì nếu
không có tội, không thể có trừng phạt. Nếu không có tội, không thể có đức hạnh
và không có thưởng và không có đền ơn, không thể có thiên đường. Mới hôm nọ tôi
đã nói rằng điều Charan Singh nói là hoàn toàn vô nghĩa. Bẩy địa ngục, bẩy cõi
trời... chỉ tạo ra hư cấu để khai thác mọi người. Không có địa ngục, không có
cõi trời. Địa ngục không là gì ngoài tưởng tượng - tưởng tượng đau, khổ; và cõi
trời lại là tưởng tượng - tưởng tượng về mọi kinh nghiệm vui thú mà đã xảy ra
cho bạn, và bạn muốn có chúng lặp đi lặp lại mãi, bạn muốn chúng mãi mãi.
Sự
sống đơn giản hiện hữu, và sự sống là ở đây bây giờ.
Không
tội, không thiên đường, không mất hay được...
Tôi nói đây là phát biểu lớn; người ta cần
tim lớn để hiểu nó. Người hạn hẹp sẽ bị rối trí, tâm trí hạn hẹp sẽ rất bị rối.
Nó cần chỗ mở rộng, tim mở như bầu trời.
Không có mất, không có được. Đó toàn là tham: mất và được. Đó là người
tôi gọi là người phi tôn giáo: người bao giờ cũng nghĩ dưới dạng mất và được.
Mọi người tới tôi và họ hỏi 'Chúng tôi
quan tâm tới thiền, chúng tôi thấy người của thầy múa và hát, nhưng chúng tôi
có thể hỏi cái được thực sẽ là gì?' Cái được thực sao? Hát và múa là không đủ
sao? Bạn muốn gì bởi cái được thực - cái gì đó sờ mó được, cái gì đó bạn có thể
mang về nhà và chỉ cho hàng xóm của bạn xem, rằng 'Trông đây, tôi đã có thiền,
anh không có', cái gì đó mà bạn có thể đặt trong phòng khách nhà bạn để gây ấn
tượng cho mọi người, rằng 'Nhìn đây, đây là thiền'? Bạn ngụ ý gì bởi được?
Nhưng tâm trí tham, tâm trí kinh doanh, liên tục nghĩ dưới dạng đó. Và vì tâm
trí tham này có những người liên tục khai thác bạn, họ nói 'Sẽ có cái được lớn.'
Maharishi Mahesh Yogi liên tục nói với mọi
người rằng không chỉ sẽ có lợi ích tâm linh, sẽ
có lợi ích kinh tế, tài chính nữa. 'Nếu bạn thiền, bạn sẽ kiếm được nhiều
hơn - giầu có sẽ bị hút tới bạn nếu bạn thiền, bạn sẽ thành công.'
Bây giờ, đây là loại rác rưởi gì vậy?
Nhưng đó là điều mọi người muốn. Đây đã từng là kinh nghiệm của tôi và quan sát
của tôi: từ khi cái gọi là các guru Ấn Độ đã bắt đầu đi sang phương Tây, không
guru Ấn Độ nào đã từng có khả năng biến đổi phương Tây, nhưng phương Tây đã có
khả năng biến đổi mọi guru Ấn Độ. Thay vì giúp họ thiền, mọi guru trở thành nhà
kinh doanh. Họ bắt đầu nói ngôn ngữ của họ, rằng "Điều này sẽ là cái được',
rằng 'Bạn sẽ không bị đau tim', rằng 'Bạn sẽ có cuộc sống thành công hơn', rằng
'Bạn sẽ nổi tiếng hơn', rằng 'Bạn sẽ có nhiều bạn bè hơn', rằng 'Cuộc sống hôn
nhân của bạn sẽ là cuộc sống hạnh phúc'. Thiền chẳng liên quan gì tới những điều
này, thiền là niềm vui vô cùng. Và thiền chỉ xảy ra cho những người không đòi hỏi
những điều như vậy; nếu họ đòi hỏi những điều như vậy, nó không thể xảy ra. Và
những người liên tục hứa hẹn với bạn rằng những điều này sẽ xảy ra - thiền đã
không xảy ra cho họ nữa, vì người biết thiền là gì không thể lừa bạn được.
Không
tội, không thiên đường, không mất hay được;
về
tính siêu việt này, không câu hỏi!
Và các câu hỏi không thể được hỏi về nó:
hoặc bạn trải nghiệm nó hoặc bạn không. Và câu hỏi không thể giúp được bạn trải
nghiệm nó nữa. Cứ đi ra dưới trời và quan sát. Cảm gió thổi qua rặng thông. Trở
thành gió thổi qua rặng thông, và đôi khi trở thành thông và cảm nó.
Tôn giáo phải được cảm. Trở thành suối và
phản xạ trăng, hay trở thành trăng và được phản xạ bởi suối. Và nếu thiền của bạn
đi sâu hơn bạn có thể trở thành cả hai cùng nhau - trăng và suối, cả hai cùng
nhau. Và những điều đó là những kinh nghiệm về Thượng đế. Đó là lí do tại sao
tôi nói Thiền sẽ là tôn giáo của tương
lai vì tôn giáo của tương lai sẽ có tính thẩm mĩ, nó sẽ không có tính đạo đức.
Các tôn giáo của quá khứ đã là đạo đức,
luân lí, khắt khe đạo đức. Tôn giáo của tương lai sẽ có tính thẩm mĩ. Cái đẹp sẽ
là giá trị của nó, và mọi cái khác sẽ nảy
sinh ra từ cảm giác về cái đẹp. Các tôn giáo quá khứ đã là văn xuôi; tôn giáo
tương lai sẽ là tôn giáo của thơ ca.
Trong quá khứ nếu ai đó nhịn ăn, điều đó
được coi là vĩ đại - điều đó sẽ không là như vậy trong tương lai. Nếu ai đó nhảy
múa, thế thì người đó sẽ được coi là thánh nhân. Nhịn ăn sao? Cái gì có liên
quan tới tôn giáo? Người là tự bạo, là bệnh hoạn, cần điều trị tâm lí. Người
đang giết bản thân mình, và bạn tôn thờ người đó - bạn cũng là một phần. Nếu
người đó xuống địa ngục, bạn cũng xuống
địa ngục; nếu có bất kì địa ngục nào, cả hai cùng sẽ ở đó, vì người hành hạ bản
thân mình và bạn giúp người đó hành hạ bản thân người đó. Bạn bạo hành. Khi bạn
tôn thờ một người vì người đó nhịn ăn, bạn là bạo hành, bạn là vô nhân đạo - vì
nếu bạn liên tục tôn thờ người đó, người đó sẽ phải hành hạ bản thân người đó
thêm nữa. Đó là điều xảy ra: nếu người đó muốn bản ngã của người đó được đáp ứng,
nếu người đó muốn nhiều người hơn tôn thờ người đó và nghĩ người đó là thánh nhân,
người đó sẽ liên tục nhịn ăn ngày càng nhiều hơn. Người đó sẽ tìm ra những cách
thức tinh vi hơn để hành hạ bản thân người
đó: người đó sẽ nằm trên giường gai hay người đó sẽ bắt đầu đánh bản thân mình
mọi sáng.
Đã từng có một giáo phái, một giáo phái
Ki tô giáo, và thánh nhân lớn nhất đã là một người sẽ quất roi vào thân thể ông
ta tới chảy máu mọi sáng. Mọi người sẽ tới và xem. Nghĩ về những người đó. Họ sẽ
xem, và các thánh nhân sẽ quất roi vào thân thể họ, và máu sẽ chảy ra, và thân
thể họ sẽ bị tra tấn. Và mọi người sẽ xem với niềm hân hoan vui sướng - nhìn những
người là thánh nhân lớn nhất, người có thể hành hạ thân thể người đó nhiều nhất.
Bây giờ, những thánh nhân này là ốm yếu và những người đã tới xem họ cũng là ốm
yếu. Ở Nga đã từng có một giáo phái Ki tô giáo trong đó đàn ông sẽ cắt cơ quan
sinh dục của họ và đàn bà sẽ cắt vú họ - và họ được coi là những thánh nhân lớn.
Và khi buổi lễ này xảy ra, hàng nghìn người sẽ tụ tập lại để xem nó.
Bây giờ, chúng ta đã sống trong loại thế
giới nào trong quá khứ? Chúng ta đã từng nghĩ loại người nào là tôn giáo?
Tôn giáo mới sẽ là có tính thẩm mĩ, thơ
ca. Một người sẽ được coi là có tính tôn giáo nếu người đó vẽ đẹp, hát hay, múa
đẹp. Nếu người đó có duyên dáng, nếu cuộc sống của người đó là niềm vui... Và
không chỉ trong bản thân người đó mà tuôn tràn, siêu dư thừa niềm vui; không chỉ việc người đó là phúc lạc,
người đó chia sẻ phúc lạc. Đó là tôn giáo
sẽ xảy ra trong tương lai. Và hướng dẫn đầu tiên về điều đó đã xảy ra
trong Thiền: chính chỉ các Thiền sư đã từng vẽ tranh và làm thơ. Đây là những
thoáng nhìn đầu tiên về cách mạng thẩm mĩ. Và cảm giác của tôi là ở chỗ nếu con
người có cảm giác về cái đẹp, người đó không thể tồi tệ, vì mọi cái tồi tệ là xấu.
Người có cảm giác về cái đẹp nhất định là tốt - và không có bất kì tu luyện về
cái tốt nào. Cái tốt sẽ chỉ là tự nhiên: nó sẽ đi theo sau cảm giác của người
đó về cái đẹp.
Để
cái đẹp là Thượng đế của bạn.
Không
tội, không thiên đường, không mất hay được; về tính siêu việt này, không câu hỏi!
Đừng
là triết lí, là tôn giáo đi. Đừng tự biện, trải nghiệm đi.
Ai
là vô ý nghĩ? Ai là bất sinh?
Không liên tục suy nghĩ về những điều
này, đây là những câu hỏi: Thượng đế là gì? Hồn là gì? Thiên đường là gì? Không
liên tục nghĩ về những điều này, bạn sẽ
không bao giờ giải được chúng; và câu trả lời sẽ được cho sẽ tạo ra nhiều câu hỏi
hơn và không gì khác.
Ai là vô ý nghĩ?
Ai là nhân chứng này? Ai thiền? Ai đạt tới?
Đừng hỏi những câu hỏi này; đạt tới, thiền, chứng kiến. Trở thành vô ý nghĩ và
thấy, và bạn sẽ đi tới biết ai là bất sinh, ai là bất tử.
Sống là bất sinh, sống là bất tử, sống tiếp
tục. Hình tướng liên tục thay đổi, hình tướng là nhất thời; sống là vĩnh hằng.
Nhưng nhớ rằng sống được diễn đạt qua các khoảnh khắc. Đừng tạo ra phân tách giữa
khoảnh khắc và vĩnh hằng, và đừng bắt đầu tìm cái vĩnh hằng, và đừng bắt đầu hi
sinh cái nhất thời - vì cái vĩnh hằng diễn đạt bản thân nó qua cái nhất thời, hồn
diễn đạt bản thân nó qua thân thể.
Thượng
đế đã không làm ra thế giới, Thượng đế đã trở thành thế giới.
Nếu Thượng đế đã làm ra thế giới, ngài vẫn
còn tách rời, xa cách. Thượng đế đã trở thành thế giới. Tuyên bố điều đó đi!
Trèo lên nóc nhà và tuyên bố điều đó cho toàn thế giới: Thượng đế đã trở thành
thế giới. Bây giờ không còn bất kì nhị nguyên nào nữa giữa Thượng đế và thế giới;
không có cái gì như Thượng đế và thế giới. Thế giới là thiêng liêng. Thế giới
là đầy Thượng đế; nó là tính đầy Thượng đế, nó là tính Thượng đế. Không có Thượng
đế khác bên ngoài nó.
Nó là ở đây, nó là bây giờ - trong tôi, trong
bạn, trong chim, trong cây - khoảnh khắc này. Nhưng sống nó, trải nghiệm nó.
0 Đánh giá