Chương 6. Rễ trong vũ trụ

Chương 6. Rễ trong vũ trụ

Price:

Read more

Con người nguyên bản - Osho

Bài nói về Thiền

Chương 6. Rễ trong vũ trụ



Powered by RedCircle


Thưa thầy kính yêu của chúng tôi, Manzan đã nói:

Con đường tối thượng là một con đường vĩ đại thực. Tâm trí của đức tin là tâm trí không thể quan niệm được, bất nhị.

Tâm trí và con đường không giảm khi trong ảo vọng, không tăng khi trong chứng ngộ; mọi thứ là thực tại hoàn hảo, từng thức đặc biệt là đầy đủ - ông không thể hiểu thấu hay bác bỏ bất kì cái gì.

Tuy nhiên, cho dù vậy, "Nếu ông không thực hành nó, nó sẽ không trở nên biểu lộ; nếu ông không thực hiện nó, ông không thể đạt tới nó."

Nó giống như có ngọc giấu trong túi ông và ông khổ vì muốn có thức ăn và quần áo.

Một dịp khác Manzan đã nói:

Nhận biết hoàn hảo vĩ đại là đại dương của an bình tối thượng. Tĩnh lặng và im lặng, vô vàn hình tướng và hình ảnh phản xạ tại đó. Vậy mà đột nhiên, khi gió của các đối thể nổi lên, nó biến thành đại dương sinh và tử, với những con sóng của tâm thức và những tình cảm dâng lên cuồn cuộn cả ngày lẫn đêm, nơi mọi sinh linh hữu tình xuất hiện và biến mất, không có kết thúc trong tầm nhìn. Mặc dầu hai đại dương này dường như khác nhau, thực sự chúng tới từ cùng nguồn - tâm trí.

Về nguồn gốc, không có dấu hiệu của phân biệt trong nguồn tâm trí. Sống và chết và niết bàn tất cả trở lại bản tính bản chất của cội nguồn.

Do đó, khi ông nhận ra cội nguồn tâm trí, toàn thể vũ trụ là đại dương vĩ đại, tròn trĩnh, hoàn hảo.

Nhưng làm sao nhận ra cội nguồn tâm trí? Ông phải giải phóng thân thể và tâm trí trên đệm ngồi trước khi ông có thể làm vậy.

Anando, trước khi chúng ta thảo luận về Manzan và phát biểu của ông ấy - vài điều cần thiết.

Một là từ `tâm trí'...

Trong tiếng Phạn, có hai từ: một từ là man mà từ đó các từ tiếng Anh `mind' và `man' cả hai đã được suy dẫn ra; từ kia là chit, điều có thể được dịch xấp xỉ là tâm thức, nhận biết, tính quan sát.

Việc dịch của các từ này đã lấy cuộc hành trình dài thế. Với Phật Gautam  nó đã không trong tiếng Phạn; nó đã là một nhánh nhỏ của tiếng Phạn, tiếng Pali. Các từ này đã bắt đầu lang thang và lấy hình dạng và hình tướng mới.

Thế rồi khi chúng đạt tới Trung Quốc, chúng đã lấy các hình tướng thậm chí không thể nhận ra nổi, và sau Trung Quốc, chúng đã đạt tới Nhật Bản. Chúng đã đi xa  khỏi nguồn gốc của chúng tới mức dịch chúng từ tiếng Nhật Bản sang tiếng Anh thực sự là bài thể dục!

Người dịch này đã dùng phương pháp nào đó: bất kì chỗ nào có liên quan tới man, tâm trí bình thường, ông ấy dùng chữ t thường. Và bất kì chỗ nào có liên quan tới chit, tâm thức vũ trụ, ông ấy dùng Tâm trí với chữ T hoa.

Trong viết, điều đó là hoàn toàn tốt; trong đọc, nó trở thành khó hơn. Dù là T chữ hoa hay t chữ thường, trong cả hai trường hợp bạn đều sẽ gọi nó là "tâm trí."

Cho nên nhớ, mọi lúc ông ấy dùng tâm trí... Tôi sẽ nhắc bạn khi nào nó là T hoa và khi nào nó là t thường. Bạn có tâm trí chữ t thường, giọt sương của của Tâm trí vũ trụ. Khi giọt sương này biến mất trong đại dương, nó trở thành tâm trí với chữ T hoa. Nó không còn là của bạn, nó không là của ai cả. Nó đơn giản là vũ trụ, sự tồn tại, nhận biết. Nó không thuộc vào bất kì người nào, nó không là sở hữu của bất kì ai.

Thứ hai, bao giờ cũng là quá trình khó khăn cho người chứng ngộ đem kinh nghiệm của mình vào trong ngôn ngữ. Mọi người nói ấp úng. Nó không phải lỗi của người này; chính quá trình này là quá trình cố gắng làm điều không thể được. Kinh nghiệm về tâm thức vũ trụ là xa xôi với ngôn ngữ tới mức khi bạn kéo lê nó xuống ngôn ngữ, nó trở thành cái gì đó khác. Thế thì nó có thể có nhiều cách diễn giải.

Kinh nghiệm của bạn là một, tuyệt đối cá nhân, tuyệt đối rõ ràng. Không có vấn đề về bất kì nghĩa thay phiên nào hay bất kì sự xen vào nào. Nhưng khi bạn đem nó xuống mức của ngôn ngữ, thế thì hàng nghìn vấn đề nảy sinh.

Bạn phải nhớ khó khăn của người chứng ngộ, và bạn phải từ bi, vì ngôn ngữ của chúng ta là nghèo tới mức nó không thể chứa đựng được các thứ của cõi bên kia.

Chẳng hạn, Shrimad Bhagavadgita của Krishna có một nghìn cách diễn giải. Bây giờ, hoặc Krishna đã là điên tới mức ông ấy sẽ nói những lời với một nghìn nghĩa... Lời với một nghìn nghĩa chẳng ngụ ý cái gì! Và những nghĩa đó là mâu thuẫn lẫn nhau. Nhưng trong việc đem chúng vào ngôn ngữ, chúng trở thành mong manh. Có một nghìn bình chú lớn về Gita của Krishna, và tất cả chúng kết án lẫn nhau. Tất cả chúng phóng chiếu tâm trí riêng của họ - và họ là tự do, vì Krishna không có đó để ngắt lời, để nói, "Đây không phải là nghĩa của ta."

Lời có thể có nhiều nghĩa. Đặc biệt các ngôn ngữ cổ hơn - Phạn, Hi Lạp, Do Thái, A rập - có cái đẹp nhưng cũng có khó khăn. Cái đẹp của chúng là ở chỗ chúng rất có tính thơ ca. Thơ ca cần nhiều tự do nhất có thể được để dùng lời. Ngay cả dùng cùng một lời theo các nghĩa khác nhau cho nhà thơ tự do lớn.

Nhưng bạn không thể viết khoa học theo cùng cách như bạn viết thơ ca. Nó phải biểu thị đích xác một điều mà bạn đang cố chỉ ra chính xác. Bạn không thể viết  một chuyên luận về khoa học trong tiếng Phạn; điều đó là không thể được, vì ngay lập tức sẽ có những nhà bình luận và sẽ có những khác biệt, và điều đó sẽ đơn giản tạo ra rối ren.

Khoa học có tính văn xuôi rất lớn. Nhưng thế giới bên trong của con người là chính cái đối lập; nó rất có tính thơ.

Cho nên điều đã rất tốt là những ngôn ngữ cổ đại này đã có năng lực có một từ với nhiều nghĩa, và nhiều từ với một nghĩa. Họ có thể xoay xở truyền đạt cái gì đó mà không thể truyền đạt được trong văn xuôi.

Nhiều lần tôi sẽ phải nhắc bạn chỗ người dịch đã hiểu lầm Manzan.

Manzan là thầy đã chứng ngộ. Điều ông ấy đang nói là tuyệt đối đúng, nhưng cách ông ấy đã được dịch... và tôi không thể trách người dịch được. Manzan đang nói từ trên đỉnh núi, đỉnh tuyết phủ, và người dịch đang dịch trong thung lũng tối của tâm trí vô thức. Điều đó gần như là đối thoại giữa người  ngủ và người thức. Người thức nói cái gì đó và người ngủ, nếu người đó nghe chút nào, nghe thấy cái gì đó khác. Có thể nhất người đó không nghe, người đó liên tục thêu dệt mơ riêng của người đó.

Đối thoại giữa người ngủ và người thức là giống như đối thoại của thầy với người tìm kiếm. Nếu người tìm kiếm chỉ là học trò, người đã tới để thu nhận tri thức, người đó sẽ bắt giữ lời nhưng người đó sẽ quên rằng những lời đó là trống rỗng. Chỉ bao quanh lời ở đâu đó là hướng dẫn; lời đã không là thứ thực. Lời đã được dùng chỉ như phương tiện, nhưng nó đã mang cái gì đó vô hình.

Chỉ đệ tử có thể hiểu cái vô hình vì người đó không quan tâm tới thu nhận tri thức, cho nên người đó không chú ý mấy tới lời. Người đó cho việc mở nhiều hơn tới việc truyền vô lời. Đó là nhiệm vụ rất khó khăn, nhưng nếu bạn tỉnh táo và mở, có thể hiểu ngay cả người  đã đi ra ngoài ngôn ngữ.

Manzan chắc chắn đã đi ra ngoài ngôn ngữ. Ông ấy nói:

Con đường tối thượng là một con đường vĩ đại thực.

Tới chân lí không thể có nhiều đường. Tới chân lí chỉ có một con đường tối thượng. Được thu về sự đơn giản của nó, đó là không đồng nhất bản thân bạn với thân thể và tâm trí và  chỉ là nhân chứng, không có bất kì phán xét nào, không có bất kì ca ngợi nào, không có bất kì hoạt động nào về phần bạn - chỉ là tấm gương phản xạ. Đây là con đường tối thượng và đây là con đường thực duy nhất. Có hàng nghìn con đường khác được đề nghị, nhưng chúng không dẫn tới chân lí, chúng dẫn tới các chỗ khác...

Chẳng hạn, nếu ai đó đọc thuộc lòng tên Phật. Phật không bao giờ trở thành vị phật bằng việc đọc thuộc lòng tên ông ấy. Ông ấy đi theo con đường tối thượng - và điều đó nữa cũng trong một tình huống kì lạ vì ông ấy đã không có thầy. Ông ấy loạng choạng và mò mẫn trong sáu năm liên tục, từ cửa tới cửa, từ thầy tới thầy, nhưng không ai đã thoả mãn cho cơn khát của ông ấy. Họ đã nói về những điều lớn lao nhưng ông ấy có thể thấy rằng những điều lớn lao đó đã không xảy ra cho họ. Họ đã chỉ giống như vẹt, lặp lại. Họ đã là những học giả uyên thâm nhưng không là những người trí huệ có trải nghiệm.

Sau sáu năm tìm kiếm rất cố gắng, một đêm trăng tròn ông ấy đã ngồi dưới một cây gần Bodhgaya. Và ông ấy đã mệt mỏi thế với toàn thể việc tìm kiếm này - và điều này đã từng bị bỏ qua hoàn toàn bởi các học giả, rằng ông ấy đã mệt thế với toàn thể việc  tìm kiếm, chán ngán tới mức ông ấy đã nghĩ, "Mình đã từ bỏ thế giới - bây giờ để mình từ bỏ việc tìm kiếm này nữa. Mình mệt mỏi hoàn toàn thế, mình không muốn làm bất kì cái gì."

Đêm đó ông ấy ngủ lần đầu tiên trong sáu năm mà không có bất kì căng thẳng nào, không có bất kì lo âu nào, được hoàn toàn thảnh thơi. Và khi ông ấy mở mắt ra, ngôi sao cuối cùng trên trời buổi sáng đã vừa mới biến mất.

Nhìn ngôi sao đó đang biến mất, không ham cái gì, không muốn cái gì - thậm chí không chân lí, thậm chí không chứng ngộ - đột nhiên ông ấy trở thành tấm gương. Trong gương, khi ngôi sao biến mất trên bầu trời... từ gương của ông ấy mọi thứ đã biến mất. Ông ấy đã trở nên chứng ngộ không phải vì ông ấy đã khao khát nó, ông ấy đã trở nên chứng ngộ vào khoảnh khắc mà ông ấy đã bỏ mọi khao khát. Mọi khao khát đều là khao khát của tâm trí, và tâm trí là rào chắn duy nhất.

Cho nên cái gì là con đường tối thượng, Đường Lớn? Được tách rời khỏi tâm  trí và cấu trúc thân thể. Đây là những hình phạt tù của bạn. Và khi bạn trở nên được tách rời, xa hẳn, xa xôi, bên ngoài và bên ngoài, đột nhiên bạn thấy rằng bạn chỉ bao gồm tâm thức thuần khiết. Tâm thức của bạn đã bị cầm tù trong hình tướng thân thể nào đó, trong tâm trí nào đó. Và bạn đã bị cầm tù trong nhiều thế kỉ, trong nhiều, nhiều việc sinh. Chỉ một thoáng nhìn nhỏ về cõi bên kia và trái tim đập rộn ràng với niềm vui mới. Điệu vũ giáng lên bạn. Sự sống trở thành lễ hội, cuộc liên hoan từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, vì bây giờ bạn không còn là tù nhân hay nô lệ. Bạn là bản thân tự do.

Manzan đang nói: Con đường tối thượng là một con đường vĩ đại thực. Có nhiều con đường được đề nghị... và chúng sẽ dẫn tới chỗ nào đó. Nếu bạn liên tục tụng mật chú, bạn có thể cảm thấy an bình nào đó, mạnh khoẻ  nào đó, hạnh phúc nào đó, nhưng đây không phải là chứng ngộ. Bạn có thể tôn thờ Thượng đế với tin tưởng nhiều nhất có thể... vì tin tưởng toàn bộ là không thể được; hoài nghi bao giờ cũng được ẩn đằng sau nó. Nếu không có hoài nghi không có nhu cầu về bất kì niềm tin nào. Niềm tin đơn giản che đậy hoài nghi. Cho nên bạn liên tục tôn thờ - hiển nhiên, với niềm tin lớn - nhưng bạn biết rằng ngay khoé mắt bạn có chút ít hoài nghi về liệu Thượng đế  này có tồn tại hay không. Bạn có thể không nói điều đó cho bất kì người nào - bạn thậm chí có thể không nói cho bản thân bạn, nhưng bạn biết điều đó; hoài nghi có đó.

Nhưng nếu bạn liên tục tôn thờ Thượng đế, bạn có thể bắt đầu có linh ảnh về Thượng đế, điều là ảo giác thôi, điều chỉ giống như mơ. Nó là quá trình dễ dàng thế. Cứ đi lên hang núi trong ba tuần khi nhịn ăn - việc nhịn ăn giúp rất nhiều. Đó là lí do tại sao mọi tôn giáo đã chấp nhận nhịn ăn như một hiện tượng tôn giáo lớn.

Điều nhịn ăn làm là lấy đi mọi hoạt động của việc tiêu hoá của bạn; năng lượng của bạn mà được tham gia vào tiêu hó được giải phóng ra. Và thế rồi tập trung vào một Thượng đế: Rama hay Krishna hay Christ. Bây giờ toàn thể năng lượng là sẵn có. Bạn có thể đã cảm thấy trong cuộc sống bình thường của bạn rằng nếu dạ dầu bạn trống rỗng, bạn không thể ngủ được. Vấn đề là gì? Năng lượng được tham gia vào trong dạ dầy đi vào trong đầu và nó giữ bạn thức. Bữa ăn ngon và bạn lập tức bắt đầu ngáy, vì mọi năng lượng được kéo xuống dạ dầy. Tâm  trí không còn có hạn ngạch của nó để nghĩ, để mơ, để ảo giác; nó sẽ phải đợi một thời gian.

Có nhiều nghiên cứu về mơ diễn ra trên khắp thế giới. Nhiều nhà tâm thần, nhà phân tâm, đang nhìn vào mơ và bị ngạc nhiên rằng chỉ trong hai giờ đầu, khi bạn đi ngủ, chủ yếu là không mơ. Sau hai giờ này, mơ bắt đầu.

Trong giấc ngủ tám tiếng, sáu tiếng bạn mơ và chỉ hai tiếng bạn ngủ. Nhưng hai tiếng đó là giờ đầu. Một khi thức ăn của bạn đã được tiêu hoá và năng lượng được xả ra, tâm trí bắt đầu vận hành. Nó là cùng năng lượng. Tâm trí bắt đầu vận hành, tạo ra mơ. Những ham muốn không được hoàn thành, những ngăn cấm bị đè nén, tất cả bắt đầu sủi bong bóng lên.

Nếu bạn đi vào hang trong núi trong việc nhịn ăn ba tuần, đích xác vào ngày thứ tư hay thứ năm việc thèm ăn biến mất. Và một khi việc thèm ăn của bạn biến mất, bạn đã mất kết nối với đất. Bây giờ bạn chỉ là tâm trí, và toàn thể năng lượng của bạn là sẵn có cho tâm trí. Và nếu bạn tập trung vào Thượng đế nào đó, bạn sẽ bắt đầu thấy Thượng đế đó. Quãng ngày thứ mười bốn hay mười lăm, bạn sẽ có việc đương đầu đầu tiên với Thượng đế của bạn.

Đến lúc ba tuần của bạn trôi qua, bạn sẽ thậm chí bắt đầu nói chuyện và nhận câu trả lời từ Thượng đế của bạn - và bạn đang làm cả hai điều này! Và không phải là bạn đang ngủ đâu - hoàn toàn thức, mở mắt. Bạn có thể đi vào bất kì nhà thương điên nào và bạn có thể thấy mọi người nói chuyện với ai đó; bạn không thấy người họ đang nói. Họ không chỉ nói, họ cũng trả lời. Và điều lạ nhất là ở chỗ khi người điên hỏi một câu hỏi, người đó có thanh khác, giọng khác. Khi người đó trả lời, người đó có thanh khác. Hiển nhiên! Đó là ai đó khác đang trả lời người đó. Nếu bạn không thể thấy được bất kì người nào, đó là vấn đề của bạn.

Những người đã tuyên bố việc nhận ra Thượng đế là những người ảo giác lớn. Cách thức của họ không phải là cách thức tới chân lí. Cách thức của họ là cách thức tạo ra điều không thực, ảo vọng, dường như nó là thực. Nó là cách thức của "dường như."

Nhưng nó là đơn giản, nó ở trong tay bạn. Bạn có thể tạo ra bất kì Thượng đế nào. Bạn có thể nói, bạn có thể nhận câu trả lời cho lời cầu nguyện của bạn, và bạn có thể được thoả mãn mênh mông. Nhưng bạn sẽ không được biến đổi. Trở về nhà, bạn sẽ lại là cùng người cũ, có lẽ bản ngã thêm một chút. Và tính ích kỉ ngoan đạo là độc hơn bất kì cái gì khác. Bạn đã nhận ra Thượng đế; mọi người khác là  kém hơn bạn, chỉ là người hữu tử bình thường, người không biết bất kì cái gì về bất tử cái tới bằng việc đương đầu với Thượng đế và rằng duy nhất Thượng đế có thể hỏi ý kiến bạn.

Thiền chẳng liên quan gì tới bất kì Thượng đế nào. Không người chân thành nào, không người thông minh nào có liên quan gì với bất kì hư cấu nào. Người đó tìm kiếm bên trong. Người đó nhìn vào bên trong - vì người đó là sự sống, cho nên phải có trung tâm nào đó bên trong bản thân người đó, từ đó sự sống nảy sinh.

Và trung tâm đó không thể là tách rời khỏi sự sống vũ trụ - nó liên tục được tiếp nhiên liệu từ đâu? Một khi bạn đã tìm thấy trung tâm sự sống của bạn, bạn cũng đã tìm thấy, ở phía bên kia, rằng đây là con đường đi tới sự sống vũ trụ. Từ đây bạn có rễ trong vũ trụ.

Bạn hiện hữu mà không phải là không có rễ. Mọi nuôi dưỡng cho bạn đều đang tới từ cội nguồn ẩn kín bên trong bạn.

Thiền là việc tìm kiếm sinh lực này. Bạn có thể cho nó bất kì cái tên nào. Người dịch này đã gọi nó là "Tâm trí của đức tin." Có lẽ nhất người đó là người Ki tô giáo, vì nhiều nhà truyền giáo Ki tô giáo đã dịch các kinh sách cổ đại của phương Đông. Vì điều đó, ngôn ngữ Ki tô giáo và cách diễn đạt Ki tô giáo đã đi vào trong các kinh sách phi Ki tô giáo - không cố ý, rất vô ý thức.

Tôi nhớ rằng một nhà truyền giáo Ki tô giáo đi tới Lâm Tế, một Thiền sư lớn từ Trung Quốc, người đưa Thiền vào Nhật Bản...

Nhà truyền giáo này tuyệt đối chắc chắn rằng nếu ông ta đọc Bài giảng trên Núi, ông ta chắc có khả năng cải tâm anh chàng Lâm Tế này. Và ông này dường như rất có ảnh hưởng; nếu như ông này được cải tâm, mọi người đi theo ông này chắc sẽ được cải tâm.

Ông ta hỏi xin phép Lâm Tế: "Tôi muốn đọc cái gì đó từ kinh sách của tôi, và tôi muốn biết ý kiến của ông." Ông ta bắt đầu đọc Bài giảng trên Núi, và sau có thể mới được hai đoạn, Lâm Tế dừng ông ta lại. Và ông ấy bảo ông ta, "Bất kì ai đã viết ra những dòng này đều là bồ tát. Một ngày nào đó người đó sẽ trở thành Phật."

Nhà truyền giáo rất choáng...

Mọi người đều là bồ tát. Bồ tát ngụ ý, về bản chất bạn là Phật - chỉ việc nhận ra, nhớ lại, và bạn không bao giờ là bất kì cái gì khác.

Bài giảng trên Núi là một bài văn học hay, nhưng Lâm Tế đã dừng nhà truyền giáo này lại và nói, "Đừng phí thời gian. Bất kì ai đã viết những dòng này chắc chắn là một bồ tát có công lao lớn. Một ngày nào đó ông ấy sẽ trở thành Phật."

Người Ki tô giáo đã dịch các kinh sách phương Đông và Viễn Đông để chỉ ra cho người Ki tô giáo, "Trông đây, những người nguyên thuỷ này nghĩ họ có tính tôn giáo!" Nhưng toàn thể sự việc đem lại kết quả ngược. Phải mất chút thời gian, nhưng khi mọi người bắt đầu nhìn sâu vào trong kinh sách phương Đông, họ thấy Kinh Thánh của họ và Koran là rất bình thường, rất trần tục.

Chính bởi vì tâm  trí Ki tô giáo của người dịch này, điều được hoà hợp với đức tin... Thiền không cần bất kì đức tin nào. "Đức tin" chắc chắn ngụ ý bạn không biết vậy mà bạn tin. Thiền chống lại bất kì đức tin nào. Nó dành cho truy hỏi, không cho đức tin - truy hỏi mãnh liệt.

Thiền tới gần khoa học hơn bất kì tôn giáo nào khác bởi lẽ đơn giản rằng nó không yêu cầu bất kì đức tin nào. Nó yêu cầu ở bạn chỉ việc truy hỏi mãnh liệt vào trong bản thân bạn, việc làm sâu sắc tâm thức, không tập trung - sự lắng xuống, sự thảnh thơi của tâm thức, để cho bạn có thể tìm ra cội nguồn riêng của bạn. Chính cội nguồn đó là cội nguồn của toàn thể sự tồn tại.

Tâm trí của đức tin là tâm trí không thể quan niệm được, bất nhị... Bây giờ xin đổi "Tâm trí của đức tin" thành "tâm thức." Tâm thức là bất nhị; và bởi vì nó là bất nhị, nó là không thể quan niệm được, không thể quan niệm được với tâm trí.

Tâm trí chỉ có thể quan niệm được nhị nguyên - ngày và đêm là tách rời. Tâm trí không thể quan niệm được rằng ngày chỉ là dạng khác của đêm; sáng là ít tối hơn và tối là ít sáng hơn.  Phân biệt giữa chúng không phải là nhị nguyên mà chỉ là tương đối. Chúng là một. Đó là lí do tại sao điều xảy ra dễ dàng tới mức đêm đổi thành ngày, ngày đổi thành đêm. Nếu như có nhị nguyên, thế thì vào bất kì lúc nào, đêm phải đã nói, "Tôi không muốn đi," hay mặt trời có thể  đã nói, "Đủ rồi! Hôm nay tôi sẽ đi câu cá." Nhưng chúng không tách rời. Chúng chỉ là hai pha của một năng lượng.

Theo cùng cách, sống và chết là hai pha của cùng một năng lượng. Chết không phải là kết thúc của sống. Bản thân chết là một phần của sống, và sống tiếp diễn. Bạn đã chết đi nhiều lần rồi, và dầu vậy bạn vẫn sống. Sự sống của bạn là vĩnh hằng. Chết là một chương nhỏ đây đó, khi bạn đổi nhà của bạn, nhưng điều bản chất của hiện hữu của bạn vẫn còn y nguyên. Bao nhiêu lần bạn đã thay đổi nhà không thành vấn đề, nhưng điều đó là không thể quan niệm được đối với tâm trí.

Tâm trí và con đường không giảm khi trong ảo vọng, không tăng khi trong chứng ngộ; mọi thứ là thực tại hoàn hảo.

Lần nữa, tôi muốn bạn đọc thay vì 'tâm trí' thì là tâm thức:

Tâm thức và con đường không giảm khi trong ảo vọng. Chúng đơn giản bị quên đi, không giảm. Chúng bị che phủ bởi mây nhưng không giảm.

Khi trăng bị mây che, nó không bị giảm đi - nó đích xác là như cũ dù mây có che phủ nó hay đi trên con đường của chúng tới đâu đó khác. Mây hay không mây, trăng vẫn còn trong cái đẹp hoàn hảo của nó mà không có bất kì cái gì tăng hay giảm.

Tâm thức và con đường không giảm khi trong ảo vọng, cho nên khi bạn không là Phật, đừng nghĩ rằng bạn là cái gì đó kém hơn Phật. Bạn có thể biết, bạn có thể không biết, nhưng Phật tính của bạn đích xác vẫn là như thế. Nếu bạn không biết, Phật của bạn bị che phủ bởi mây.

Tâm trí không là gì ngoài mây. Sự đồng nhất với thân thể không là gì ngoài mây. Và bạn bị lạc trong mây và quên mất bản thân bạn. Quên bản thân người ta là rất dễ dàng, điều dễ nhất trên thế giới. Vì bạn biết, dù bạn quên hay không, nó có đó. Bạn không quên bất kì cái gì khác, nhưng bạn có thể quên - bạn đã quên; bạn không có ý tưởng bạn là ai. Nhưng dù bạn quên hay nhớ, đây chỉ là mây hay không mây, nhưng trăng đang trong sự huy hoàng đầy đủ của nó, chói sáng trong cái đẹp đầy đủ của nó. Phật tính của bạn không bao giờ tăng, không bao giờ giảm.

khi trong chứng ngộ; mọi thứ là thực tại hoàn hảo, từng thứ đặc biệt là đầy đủ - ông không thể hiểu thấu hay bác bỏ bất kì cái gì…

Vì nhận biết là không phán xét, tựa gương. Nó chỉ phản xạ, nó không nói, "Bạn thực sự là đẹp vô cùng!" Nó không nói, "Bạn thực sự rất giản dị chất phác - chỉ đi ra khỏi con đường này; nó gây tổn thương khi gặp bạn. Từ đâu bạn có mặt này?"

Gương đơn giản phản xạ mà không phán xét, ca ngợi theo bất kì cách nào, không nói bất kì cái gì về cái gì được phản xạ trong nó. Và một khi vật này qua đi, gương lại trống rỗng.

Thiền đã được mô tả bởi các thầy lớn là gương trống rỗng.

Gương không bám lấy cái gì đó vì cái gì đó đẹp đi ngang qua. Nó không bắt giữ bộ quần áo sari..."Em đi đâu đấy, cưng? Chúng ta đi ăn tối đi."

Hôm qua tôi đã nói cho bạn về phong trào khoai tây ti vi lớn. Trên đường quay lại, Anando đã bảo tôi rằng tin vừa mới tới là bây giờ ở New York, các khách sạn lớn đang cấp dịch vụ đặc biệt cho các khoai tây ti vi. Vì họ không thể rời khỏi ghế  của họ, họ chỉ phải gọi điện cho khách sạn và khách sạn chuẩn bị bất kì cái gì họ cần và mang nó tới ghế của họ, ở đó họ ăn và liên tục nhìn vào máy thu hình. Nhưng họ phải là thành viên.

Phong trào đó sẽ lan rộng khắp Mĩ và châu Âu và có thể Nhật Bản. Nó thực sự là phong trào phi chính trị, phi tôn giáo, rất đặc biệt - không cái gì giống nó đã từng xảy ra trước đây. Và mọi người đeo phù hiệu nói rằng họ thuộc về Phong trào Khoai tây Tràng kỉ. Nó là sự kính trọng lớn; không phải mọi người có thể đảm đương được điều đó. Bẩy giờ rưỡi một ngày xem truyền hình là yêu cầu cơ bản. Chỉ kẻ ngốc có thể làm điều đó.

Tôi gọi ti vi là cái "hộp ngốc." Truyền hình liên tục cung cấp đủ mọi loại vô nghĩa; truyền hình đang trở thành vấn đề lớn. Nó có thể đã là giải pháp lớn; nó có thể đã là công cụ lớn trong giáo dục mọi người. Nhưng ngược lại, nó đang phá huỷ mọi người. Không ai đọc, và nếu không ai đọc bạn không thể nghĩ rằng sẽ lại có sinh ra một Leo Tolstoy hay Fyodor Dostoevsky hay Anton Chekhov. Bạn không thể quan niệm được có những nhà thơ lớn, triết gia lớn; không ai sẵn sàng đọc.

Mọi người chỉ bị dính chặt vào máy thu hình của họ, cái chứa gần bẩy mươi nhăm phần trăm quảng cáo và hai mươi nhăm phần trăm giải trí. Nó sẽ  phá huỷ thông minh của mọi người... vì bạn không phải nghĩ bất kì cái gì, bạn không phải trả lời bất kì cái gì, bạn chỉ thảnh thơi ở đó. Truyền hình có thể là thảm hoạ lớn, như nó đang diễn ra.

Nó có thể được dùng theo cách rất cao cả - để giáo dục mọi người về hoà bình, về tình yêu, để giáo dục mọi người về âm nhạc, về nhảy múa. Hàng nghìn chiều là có thể mà truyền hình có thể làm thành sẵn có. Bạn không cần đi khắp thế  giới, bạn có thể chỉ ngồi trong ghế của bạn và truyền hình có thể mang toàn thế giới chuyển động trước bạn - Taj Mahal, và Ajanta và Ellora, và Bodhgaya và  Khajuraho trong mọi chi tiết của chúng, với mọi loại thông tin. Nó có thể trở thành kinh nghiệm sống, vì việc đọc là một thứ; việc nhìn là thứ khác.

Khi bạn đọc, bạn đọc chỉ các từ chết. Khi bạn nhìn, Taj Mahal trở thành sống động trước bạn. Bạn không phải đi lại, Taj Mahal sẽ đi và chiếu cái đẹp của nó từ mọi phía, vào những giờ khác nhau trong đêm... bạn có thể biết nhiều về Taj Mahal khi ngồi trong ghế của bạn hơn là một người có thể biết khi phí hoài thời gian nhiều năm, vì Taj Mahal thay đổi cái đẹp của nó vào những đêm khác nhau.

Vào đêm trăng tròn, quãng chín giờ, Taj Mahal có phẩm chất tựa mơ tới mức bạn có thôi thúc rất mạnh để chạm vào nó và cảm thấy liệu nó là thực hay bạn đang tưởng tượng nó. Vào ban ngày, cùng Taj Mahal có vẻ bình thường - không cái gì đặc biệt.

Nhưng truyền hình đang mang mọi người tới trạng thái nguyên thuỷ. Không ai đọc những tiểu thuyết lớn; không ai có thời gian. Tôi đã bắt gặp những người thậm chí đã không biết tới tên của Tolstoy, vì nó không có trên truyền hình. Họ đã không nghe nói tới tên của Dostoevsky. Họ không có ý tưởng nào về tiểu thuyết lớn hay bài thơ lớn là gì. Họ được nạp cho những đồ đồng nát và họ thu thập đồ đồng nát đó.

Và vấn đề là ở chỗ những người này sẽ không bao giờ nghĩ tới thiền, vì bạn không thể xem truyền hình bằng mắt nhắm. Bạn có thể ăn thức ăn... Mọi người đang làm tình khi xem truyền hình! Những người này phải đang làm loại yêu gì vậy? Người ta thực sự ngạc nhiên với tài khéo léo của con người.

Truyền hình liên tục từ sáng tới nửa đêm. Truyền hình đã trở thành toàn thế giới. Mọi điều bạn biết là truyền hình. Và mọi nghệ thuật lớn, thơ ca, tiểu thuyết, kịch - chúng đã biến mất hoàn toàn. Ai quan tâm tới sách?

Ở Mĩ, mọi người chỉ mua sách bìa giấy, vì chúng là rẻ và bạn có thể xem đây đó và bỏ chúng trong máy bay. Không ai muốn mua sách bìa cứng vì nó nặng khi phải mang đi và nó tốn kém khi vứt đi. Những người yêu sách đã biến mất, và cùng với họ, những sách lớn có giá trị thẩm mĩ đã hoàn toàn mất đi.

Mọi người đang rơi vào trong trạng thái nguyên thuỷ. Chắc chắn, những người này trở nên rất khờ khạo. Thường xuyên, đây là những người sùng đạo, người Ki tô giáo sùng đạo. Bất kì cái gì truyền hình liên tục nói..."Đây là kẹo cao su tốt nhất" - bạn bắt đầu nhai kẹo đó vì nếu truyền hình đang nói điều đó, nó không thể sai được. Và không một đài truyền hình nào - mọi đài truyền hình, từ mọi hướng cùng một quảng cáo, cùng kẹo cao su. Và cùng người đàn bà đẹp đang nói cho bạn, "Kẹo cao su này tuyệt vời làm sao. Bạn phải mua nó!"

Và nếu bạn là thành viên của Câu lạc bộ Khoai tây Tràng kỉ bạn chỉ điện thoại tới cửa hàng, cho số của bạn, và kẹo cao su sẽ được cung cấp cho bạn! Bây giờ truyền hình đang cai quản tâm trí mọi người.

Thiền đã trở thành gần như không tồn tại. Bạn không có thời gian để thiền, vì thiền ngụ ý ngồi im lặng không làm bất kì cái gì và xuân tới và cỏ tự nó mọc lên. Ngồi im lặng trong vài khoảnh khắc là không thể được. Truyền hình - bạn không thể bỏ lỡ trận đá bóng này! Và mọi người trở nên bị tham gia  nhiều thế và bị đồng nhất tới mức họ la hét, họ nhảy nhót ngay trước ti vi của họ vì phe của họ đang thắng và họ phải cho hỗ trợ tinh thần nhiều hơn.

Tôi đã thấy một người ném ti vi của anh ta lên sàn vì phe của anh ta bị thua trò chơi đá bóng! Tôi đã hỏi anh ta, "Anh đang làm gì vậy? Đây không phải là lỗi của chiếc ti vi."

Anh ta nói, "Tôi cảm thấy giận thế, tôi có thể làm bất kì cái gì."

Đồng nhất nhiều thế... Và thiền chính là cái đối lập - không đồng nhất. Bạn đơn giản ngồi với mắt nhắm và bạn có màn ảnh truyền hình sinh học, tự nhiên trong tâm trí bạn. Và nó đem tới những điều lớn lao cho bạn! Bạn chỉ xem và bạn sẽ thấy Sophia Loren... nhưng đừng phán xét. Thậm chí không nói xin chào. Cô ấy sẽ tới và đi, bạn chỉ đợi. Cứ kiên nhẫn. Không mời cô ấy tham gia cùng bạn đi ăn tối tại Kim cương Xanh.

Đồng nhất, hay biện minh, hay phán xét, tất cả  là chống lại thiền. Bạn đơn giản nhìn. Bất kì cái gì tới trước mắt bạn, chỉ nhìn nó như mây bay qua. Và mọi thứ trôi qua và nếu bạn có thể đủ kiên nhẫn, màn ảnh sớm trống rỗng. Khi màn ảnh là trống rỗng, bạn đã đi ra ngoài tâm trí. Bạn đã đi vào thế giới của Thiền.

Tuy nhiên, cho dù vậy, "Nếu ông không thực hành nó, nó sẽ không trở nên biểu lộ; nếu ông không thực hiện nó, ông không thể đạt tới nó."

Nó giống như có ngọc giấu trong túi ông và ông khổ vì muốn có thức ăn và quần áo.

Điều Manzan đang nói là: Bạn là Phật. Bạn sẽ vẫn còn là Phật dù bạn nhận ra sự kiện này hay không. Nhưng nếu bạn không thực hành... và bởi "thực hành" không được ngụ ý điều bạn hiểu. "Nếu ông không thực hành" ngụ ý nếu bạn không làm nỗ lực nhỏ để liên tục nhớ bạn là ai, bạn sẽ vẫn còn là Phật nhưng điều đó sẽ không là việc biểu lộ.

Vấn đề là gì, nếu bạn có chiếc đèn trong nhà và bạn đã che phủ nó bằng chăn? Nó không thể biểu lộ ánh sáng của nó. Sự quên lãng của chúng ta là chiếc chăn phủ  lên bản thân chúng ta. Nó không cho phép Phật của chúng ta toả sáng. Nó không cho phép Phật của chúng ta được thấy và được trải nghiệm bởi người khác.

Nếu bạn không thực hiện nó, bạn không thể đạt tới nó. Việc thực hiện và việc đạt tới đơn giản là cùng một điều. Thực ra, đó là vấn đề tôi đã nói cho bạn lúc bắt đầu. Không thực hiện nào được cần mà cũng không đạt tới nào được cần. Điều được cần là im lặng sâu sắc trong đó bạn có thể tìm thấy đích xác cái gì là cội nguồn sự sống của bạn.

Đạt tới là về các đối thể - ai đó đạt tới đỉnh Everest, ai đó đạt được giải thưởng Nobel, ai đó đạt tới là người giầu nhất trên thế  giới... Đạt tới là bên ngoài bạn. Chúng đem bạn đi xa khỏi bản thân bạn.

Cái ngã của bạn, chính con người bạn, đã ở đó rồi - nó phải không được đạt tới. Mà nó cũng không phải được thực hiện.

Bạn có hiểu nghĩa của thực hiện không? - để làm cái gì đó thành thực mà đã không có đó.

Chẳng hạn, hoạ sĩ làm bức tranh. Ông ta thực hiện cái gì đó. Nó đã ở trong mơ của ông ấy; ông ấy phóng chiếu mơ và "thực hiện" bức tranh.

Nhưng Phật của bạn không phải là mơ của bạn. Phật của bạn cũng không thể được thực hiện không thể được đạt tới; nó chỉ có thể được nhớ tới.

Người đã dịch lời kinh này phải nghĩ theo cách của người Ki tô giáo. Không có cách khác trong Ki tô giáo - bạn phải "đạt tới." Bạn phải có trái tim của đức tin; bạn phải đạt tới Thượng đế qua Jesus, cách tiếp cận trực tiếp là không được phép. Jesus phải nhận ra bạn, rằng bạn là người tin tưởng đích thực, và ông ấy sẽ cầu nguyện Thượng đế để cho bạn vào. Các nhà truyền giáo đã quen với ngôn ngữ riêng của họ.

Thiền không tương tự với bất kì tôn giáo khác nào theo bất kì cách nào. Tính duy nhất của nó là không thể quan niệm được. Làm sao nó đã trở thành duy nhất thế? Mọi tôn giáo có tính lặp lại lẫn nhau: họ có thể có các  thượng đế khác nhau nhưng họ có thượng đế; họ có thể nói trong các ngôn ngữ khác nhau nhưng điều họ nói có thể được so sánh.

Bây giờ tồn tại trong các đại học của thế giới một môn học mới, "Tôn giáo so sánh." Thiền không thể được đưa vào trong môn học đó. Nó là không so sánh được với bất kì cái gì, nó chỉ là bản thân nó. Nó có cách thức rất duy nhất: không thành đạt, không đạt tới, vì bạn là nó rồi. Cho nên chỉ một điều rất đơn giản được cần, việc nhớ lại.

Tôi đã kể cho bạn một câu chuyện cổ...

Một sư tử cái cho sinh ra một sư tử con khi nó nhảy từ gò này sang gò khác. Giữa hai gò một đàn cừu đông đảo đang đi qua. Sư tử con rơi vào trong đám cừu, và nó lớn lên cùng lũ cừu. Nó đã trở thành sư tử, mà có hơi chút kì lạ, nhưng điều đó được đám đông chấp nhận. Nó chưa bao giờ cư xử không đúng đắn.

Đó đã là một hiện tượng lạ, nhưng nó vẫn còn là cừu nhai cỏ, rất bất bạo hành, và rất sợ các thú hoang như các con cừu khác. Và nó thân thiện tới mức cừu không bao giờ bận tâm về hình dáng của nó, chiều cao của nó, chiều dài của nó. Nó đã là con sư tử chính thức.

Một hôm, một tai biến xảy ra. Một con sư tử già nhìn thấy đoàn diễu hành các con cừu này và trong chúng, ở giữa chúng, một con sư tử lớn. Nó không thể  tin được vào đôi mắt già nua của mình. Nó đã thấy nhiều, một kẻ già từng trải... Nó nói, "Trời, cái gì đã xảy ra  cho con sư tử này?" Thế là nó xông vào đám cừu - cả đám chạy tán loạn và con sư tử này cũng chạy, nhưng con sư tử già bắt giữ nó. Nó la hét và nó nói, "Tôi muốn đi với người của tôi, cho nên đừng làm phiền tôi!"

Sư tử già nói, "Yên lặng đi! Ta không làm phiền con.

Chỉ đi cùng ta."

Gần đó là một chiếc hồ nhỏ, một vũng nước im lặng. Con sư tử già lôi con sư tử trẻ đang rất ngần ngại, nhưng nó phải đi. Nó biết rằng sư tử già có thể là nguy hiểm. Nó đã chấp nhận bản thân nó là cừu, hiển nhiên, và không tuân theo mệnh lệnh của sư tử thì có thể là vấn đề sống và chết.

Sư tử già mang sư tử trẻ đến bên cạnh hồ và bảo nó, "Nhìn vào trong hồ và xem mặt ta và mặt con." Run rẩy, nó nhìn; nó phải nhìn. Nhưng khi nó nhìn vào chiếc gương của hồ, lập tức một thay đổi hình thái lớn...

Nó gầm lên như sư tử  - nó chưa bao giờ gầm trước đây. Sư tử già nói, "Công việc của ta được thực hiện. Con đã quên bản thân con; giờ con đã nhớ ra."

Mọi chư Phật đều không là gì ngoài sư tử già, ép buộc bạn nhìn mặt nguyên bản của bạn chỉ để cho bạn có thể nhớ: bạn không là điều bạn nghĩ bạn là vậy; bạn là cái gì đó bao la, cái gì đó vĩ đại, cái gì đó vũ trụ, cái gì đó vĩnh hằng.

Không có nhu cầu về bất kì thực  hiện nào, bất kì đạt tới nào. Nhưng chắc chắn người ta phải nhớ.

Thiền chỉ là nỗ lực nhớ lại.

Nó không cho bạn bất kì cái gì; nó không lấy bất kì cái gì khỏi nạn. Nó đơn giản làm cho bạn nhận biết về việc là sư tử... và đột nhiên, tiếng gầm của sư tử.

Một trong những bài giảng của Phật Gautam có tên là Tiếng gầm của Sư tử.

Một dịp khác Manzan đã nói:

Nhận biết hoàn hảo vĩ đại là đại dương của an bình tối thượng. Tĩnh lặng và im lặng, vô vàn hình tướng và hình ảnh phản xạ tại đó. Vậy mà đột nhiên, khi gió của các đối thể nổi lên, nó biến thành đại dương sinh và tử, với những con sóng của tâm thức và những tình cảm dâng lên cuồn cuộn cả ngày lẫn đêm, nơi mọi sinh linh hữu tình xuất hiện và biến mất, không có kết thúc trong tầm nhìn. Mặc dầu hai đại dương này dường như khác nhau, thực sự chúng tới từ cùng nguồn… cùng tâm thức vũ trụ.

Bãi chợ và đền chùa không phải là hai thứ tách rời. Tâm trí trong rối loạn và tâm trí trong an bình không phải là hai thứ tách rời. Hồ bị khuấy động bởi gió đầy sóng và hồ im lặng không sóng nào là cùng một hồ.

Là Phật hay không là Phật chỉ là hai mặt của một tâm thức.

Chính quyết định của bạn để vẫn còn ở bên ngoài bản thân bạn hay đi vào trong, ít nhất cũng thỉnh thoảng. Vì nếu ngay cả một khi bạn đi vào trong, bạn sẽ là người khác - ngay cả ở bên ngoài. Vị của cái bên trong, hương thơm của cái bên trong bắt đầu tới qua bạn - qua cử chỉ của bạn, qua mắt bạn, qua lời bạn, qua im lặng của bạn. Mọi thứ sẽ chỉ ra rằng bạn đã tìm thấy cái gì đó mà người khác bỏ lỡ.

Do đó, khi ông nhận ra cội nguồn tâm trí, toàn thể vũ trụ là đại dương vĩ đại, tròn trĩnh, hoàn hảo.

Nhưng làm sao nhận ra cội nguồn tâm trí? Ông phải giải phóng thân thể và tâm trí trên đệm ngồi trước khi ông có thể làm vậy.

Phát biểu cuối này là điều thiền là gì - giải thoát bạn khỏi thân thể và tâm trí. Và đó không phải là vật lộn. Điều đó đơn giản là không bị đồng nhất. Chỉ vẫn còn im lặng và nhận biết, bạn sớm được giải thoát. Bạn thấy thân thể bạn từ bên trong lần đầu tiên, bộ xương và thịt và túi da. Lần đầu tiên bạn thấy thân thể bạn từ bên trong và bạn thấy tâm trí bạn chỉ đầy rác rưởi, mọi loại ý nghĩ, mọi thứ được vay mượn. Và bạn là ở ngoài cả hai.

Tính chất ở bên ngoài này, người quan sát này trên núi, là việc nhận ra Phật tính.

Một bài haiku Thiền:

Cảm nhận mặt trời trong làn sương của mưa, múc ra nước trong

từ chiều sâu của lửa.

Chúng ta được bao quanh bởi nhiều mây, nhiều mưa. Nhớ tới bản thân bạn... không bị lạc.

"Múc nước trong từ chiều sâu của lửa." Một điều dường như không thể được là múc nước trong từ lửa. Nhưng dù nó có thể là không thể được thế nào, nó xảy ra. Đây là điều huyền bí của sự tồn tại.

Ở đây, lửa biến thành nước. Ở đây, điệu vũ của mưa công bố mặt trời. Không có đối lập trong sự tồn tại, không mâu thuẫn. Mọi thứ hỗ trợ cho mọi thứ khác.

Bài haiku khác:

Tâm trí -

chúng ta sẽ gọi nó là gì?

Nó là âm thanh của gió thoảng thổi qua rặng thông

trong bức tranh mực nho.

Chúng ta sẽ gọi tâm trí là gì? Đó là câu hỏi thường xuyên. Nó chỉ là bong bóng xà phòng - hay gió thổi qua rặng thông. Nó không phải là bản chất.

Ý nghĩ của bạn thậm chí không dầy như giấy thông thảo.

Chúng chỉ là chữ kí trên nước.

Nhưng chúng chi phối cuộc sống của bạn.

Bạn cho phép chúng chi phối cuộc sống của bạn.

Chung cuộc đó là trách nhiệm của bạn. Bạn có thể dừng điều này chính khoảnh khắc này và thoát ra khỏi cảnh nô lệ - không ai ép buộc bạn là nô lệ của tâm trí bạn.

Bạn có thể di chuyển bất kì khoảnh khắc nào bạn quyết định.

Không có nhu cầu để trễ hay trì hoãn.

Anando đã hỏi:

Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,

Manzan có làm điều đó như một thầy không?

Chắc chắn, Anando. Ông ấy đã làm nó như một thầy.

Ông ấy có vẻ tốt, ngoại trừ khi ông ấy nói về tâm trí của đức tin.

Tôi đã bảo bạn việc dịch này là bởi nhà truyền giáo Ki tô giáo. Với họ, đức tin là điều vĩ đại.

Với Thiền sư, đức tin là rào chắn. Bạn phải dọn sạch mọi đức tin và mọi niềm tin. Bạn phải chỉ im lặng, tìm kiếm, mắt bạn không có bụi trong chúng. Mọi đức tin không là gì ngoài bụi.

Không nhận ra bản thân chúng ta, có bất kì cái gì khác hơn trực giác mà chúng ta có thể dùng để biết sự khác biệt giữa thầy giáo và điều thực không?

Anando, có nhiều thứ bạn có thể dùng để nhận ra sự khác biệt này.

Thầy giáo bao giờ cũng sẽ nói trong trích dẫn. Ông ấy sẽ trích dẫn kinh sách. Lời của ông ấy sẽ không mang bất kì thẩm quyền nào; lời của ông ấy sẽ không tới từ  chính sự hiện hữu của ông ấy.

Sự hiện diện của ông ấy sẽ khác. Sự hiện diện của thầy giáo không có hào quanh của nó. Sự hiện diện của thầy có trường năng lượng nào đó. Những người cảm nhận, nhạy cảm, gần như có thể chạm vào nó; nó là sờ thấy được.

Chính vấn đề là để mở, và ngay lập tức  bạn có thể nhận ra ai chỉ là thầy giáo và ai là thầy. Khác biệt là rất lớn, nhưng rất tinh tế. Và mọi thứ phụ thuộc vào tính cảm nhận của bạn. Mọi thứ phụ thuộc vào trái tim mở của bạn. Chỉ trái tim của bạn có thể nói liệu bạn được đương đầu bởi thầy hay chỉ đang nghe thầy giáo.

Với thầy giáo bạn không có chuyện tình. Với thầy bạn có chuyện tình vĩ đại.

Với thầy giáo, bạn có thể bị thuyết phục bởi lí lẽ của ông ấy. Với thầy, lí lẽ không thành vấn đề nhưng sự hiện diện của thầy, cái làm dịu đi cơn khát của bạn. Chỉ ở gần thầy, bạn bắt đầu cảm thấy làn gió mới, tươi mát. Thầy giáo là tù đọng, mang các kinh sách cũ rích, mục nát. Ông ấy không có kinh nghiệm tươi tắn của chân lí.

Về truyền thống, những người tìm kiếm sẽ đi từ thầy này sang thầy khác chỉ để tìm ra chỗ mà họ có thể cảm thấy một loại hoà hợp, nơi họ có thể cảm thấy với thầy tính một nào đó. Thế thì họ dừng lại. Họ đã tìm thấy thầy.

Nhưng người ta phải rất thông minh, rất cảm nhận, rất nhạy cảm, vì năng lượng của thầy là năng lượng tinh tế nhất có thể.

Nếu bạn mở, và bạn được xúc động và trái tim bạn nhảy múa và bạn muốn hát, bạn đã tìm thấy người này.

Trong Thiền, điều này được gọi là Chuyện Tình Lớn.

Có chuyện tình bình thường, chính là sinh học. Bạn thậm chí không thể giải thích được những điều đó, tại sao bạn thấy người đàn ông nào đó hay người đàn bà nào đó và đột nhiên bạn cảm thấy bạn đã rơi vào yêu. Bạn biết điều đó. Cái gì đó đã nhoáng lên trong bạn, nhưng bạn không thể cho bất kì giải thích nào. Mọi giải thích của bạn sẽ có vẻ ngớ ngẩn, ngu ngốc. Cứ thử đi. Khi bạn rơi vào yêu người đàn bà hay đàn ông, cứ thử giải thích cho ai đó người không biết gì về yêu - "Chỉ nhìn vào tóc cô ấy..."

Anh ta sẽ nói, "Vô nghĩa làm sao! Anh đã rơi vào yêu tóc à?"

"Cứ nhìn vào mũi cô ấy, nhìn vào mắt cô ấy..." Và bất kì ai bạn cho lời giải thích sẽ nghĩ bạn hơi chút dở hơi!

Một người rơi vào yêu không với cái mũi hay đôi mắt và tóc nhưng với con người toàn bộ.

Thiền là chuyện tình lớn. Nó không là sinh học. Do đó, nó trở thành thậm chí khó hơn nhưng nó đi rất sâu.

Vấn đề sinh học có thể thay đổi - phải thay đổi. Nó là hiện tượng tạm thời. Cùng người đàn bà mà bạn đã có thể sẵn lòng chết cho, giờ bạn muốn giết chết.

Tôi đã nghe nói về một nhà tâm lí học làm một chuyến đi quanh nhà thương điên và viên giám thị đã giải thích cho ông ta bất kì cái gì ông ta muốn biết. Trong một phòng nhỏ, một thanh niên ôm giữ bức hình tại tim mình đang khóc nức nở.

Người này hỏi, "Cái gì đã xảy ra cho anh ta?"

Viên giám thị nói, "Đó là thảm kịch. Anh ta là người rất thông minh, nhưng anh ta đã rơi vào yêu một người đàn bà. Anh ta ôm giữ bức hình của người đàn bà này - thức hay ngủ anh ta không rời bức hình. Nhưng người đàn bà này đã lấy ai đó khác; điều đó đã làm anh ta phát điên."

Ông giáo sư nói, "Đó thực sự là câu chuyện buồn."

Trong phòng bên cạnh một người đang đập đầu mình vào tường. Ông ấy nói, "Trời! Anh ta đang làm gì vậy?"

Viên giám thị nói, "Anh ta đã lấy cùng người đàn bà! Giờ anh ta muốn tự giết mình, cho nên anh ta phải bị đưa vào nhà thương điên."

Tại mức sinh học mọi thứ liên tục thay đổi. Điều rất tự nhiên là chúng phải thay đổi.

Tại mức tâm linh, nơi sự hiện hữu không bao giờ thay đổi... nếu bạn đã tìm thấy thầy, thế thì không có cách nào đi bất kì chỗ nào. Nhưng nếu bạn đã không tìm thấy, thế thì tốt hơn cả là không phí thời gian của bạn.

Và nó là vấn đề về xúc động bên trong của bạn, cú nhoáng lên bên trong. Bạn có thể gọi nó là trực giác. Tôi không muốn gọi nó là trực giác vì điều đó làm cho nó toán học nhiều hơn. Nó không phải là toán học đó.

Tôi có thể gọi nó là cú nhoáng lên. Cái gì đó đơn giản xảy ra cho bạn. Bạn không thể giải thích, cũng không có bất kì nhu cầu giải thích nào. Chỉ ở cùng thầy bạn sẽ thấy biến đổi xảy ra. Liệu cú nhoáng lên của bạn là đúng hay sai, thời gian sẽ chứng minh.

Nếu không biến đổi nào xảy ra cho bạn, điều đó ngụ ý hoặc bạn ở cùng thầy giáo, người giả vờ là thầy, hoặc bạn có thể ở cùng thầy, nhưng bạn không mở; bạn không muốn thay đổi. Không thầy nào ép buộc thay đổi lên bạn. Thầy tạo ra mọi tình huống trong đó thay đổi, nếu bạn sẵn sàng, sẽ tự phát xảy ra.

Bất kì cái gì xảy ra một cách tự phát đều là đẹp. Bất kì cái gì được diễn tập và thực hành và bị buộc kỉ luật đều tạo ra đạo đức giả. Không thầy nào hỗ trợ cho bất kì đạo đức giả nào.

Trước khi chúng ta đi vào trong thế giới bên trong của mình, chỉ để nhắc bạn rằng bạn phải quay lại... chúng ta sẽ đợi bạn ở đây.

Bạn có thể đi sâu nhất có thể, nhưng đừng bị mắc kẹt ở đâu đó, dù đẹp thế nào và dù say mê thế nào.

Khi Nivedano gọi bằng trống của anh ấy, quay lại nhé.

Toàn thể nỗ lực của tôi là để mang chư Phật vào bãi chợ. Tôi không muốn bạn chỉ là Phật và trốn đi. Ngay cả Sardar Gurudayal Singh cũng quay lại mọi ngày. Anh ấy đạt tới sâu nhất có thể, nhưng anh ấy bao giờ cũng nghĩ, "Ai biết loại chuyện cười gì sẽ được kể ngày mai?"

Những chuyện cười này đang giữ anh ấy trong thế giới; bằng không, anh ấy chắc đã đi từ lâu trước đây rồi.

Paddy và Sean đang bước tới quán rượu Christ là Tình yêu, thì đột nhiên họ nghe thấy tiếng nổ. Họ chạy quang góc phố để thấy rằng quán rượu đã bị thổi bay bởi quân đội giải phóng Ai len IRA.

Họ nhìn qua đống gạch vỡ thì Paddy thấy một cái đầu. Anh ta nhặt nó lên, giữ nó trong không trung và nói, "Sean, đây chẳng phải là Danny O'Riley sao?"

"Không," Sean nói, "nó không thể là vậy. Anh  ta không cao như thế đâu!"

Hai con chuột trong phòng thí nghiệm có cuộc nói chuyện qua chấn song chuồng của chúng.

"Nói cho tao đi,"  con chuột thứ nhất nói, "mày sống với giáo sư Katzoff thế nào?"

"Khá tốt," con chuột thứ hai đáp. "Tao phải mất một chút thời gian, nhưng giờ tao chung cuộc đã làm cho ông ấy được huấn luyện. Bất kì khi nào tao rung chuông, ông ấy mang bữa tối cho tao!"

Cha Finger, linh mục, được cho là có chim khổng lồ. Nó lớn tới mức ông ấy gặp khó khăn lớn trong việc làm cho bất kì đàn bà địa phương nào ngủ cùng ông ấy.

"Rất tiếc thưa cha," là câu đáp lại bao giờ ông ấy cũng nghe thấy. "Tôi ước là tôi có thể, nhưng thành viên của ông quá to với tôi!"

Cảm thấy thất vọng, cha Finger đi tới nhà thổ của Mẹ O'Mary ở phía bên kia thị trấn nơi ông ấy không bị nhận ra. Ông ấy nhanh chóng chọn một cô gái và cô ấy đưa ông ấy lên phòng tầng trên. Đóng cửa lại đằng sau ông ấy, cha Finger bảo cô gái rằng ông ta rất xấu hổ, và muốn cởi quần áo với đèn tắt.

"Điều đó là được với tôi," cô gái đồng ý, và hai người họ cởi quần áo trong bóng tối.

Khi cha Finger vào giường, ông ấy lập tức trèo lên trên cô gái trong tư thế truyền giáo.

"Ông có biết không, thưa cha," cô gái nói, "Tôi thực sự vui mừng rằng đây là điều cha đã đến vì nó. Khi tôi thấy cha bước vào, tôi đã chắc cha sẽ nói cho tôi tất cả về... Jeesus Christ!"

Nivedano... (Tiếng trống) (Nói lắp bắp)

Nivedano... (Tiếng trống)

Im lặng... nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể hoàn toàn đông cứng. Nhìn vào bên trong... đi sâu như có thể.

Không có gì để sợ; nó là không gian riêng của bạn.

Ngày càng sâu hơn. Khi bạn ở sâu nhất trong con người bạn, bạn ở cội nguồn của sự sống, và bạn cũng sẽ thấy rễ của vũ trụ.

Đây là bản tính Phật của bạn.

Được ân huệ là kinh nghiệm này về con người riêng của  bạn, vị Phật. Nhớ điều đó. Để nó trở thành chính việc thở và nhịp tim đập của bạn... hai mươi bốn giờ, hết ngày nọ tới ngày kia.

Chính việc nhớ lại này sẽ thay đổi mọi thứ trong hành động của bạn, trong cử chỉ của bạn; nó sẽ mang tới duyên dáng, cái đẹp, điều không phải của thế giới này.

Để làm cho nó rõ ràng hơn rằng bạn không là thân thể không là tâm trí, nhưng chỉ là nhận biết thuần khiết...

Nivedano... (Tiếng trống)

Thảnh thơi... buông bỏ.

Thân thể ở đó, tâm trí ở đó - bạn không là cả hai, bạn chỉ là người quan sát...

Chỉ là chiếc gương.

Phẩm chất này của việc là gương là điều làm cho bạn thành Phật. Uống từ cội nguồn vũ trụ này nhiều nhất có thể được đi.

Để nó chìm vào trong mọi thớ thịt và tế bào.

Nivedano... (Tiếng trống)

Bạn có thể quay lại - nhưng quay lại với kinh nghiệm của bạn, không bỏ nó đằng sau.

Một cách im lặng, duyên dáng, ngồi xuống trong vài khoảnh khắc, nhớ lại  và ghi nhớ sự thuần khiết bên trong của bạn, cái đẹp bên trong của  bạn... hồn nhiên bên trong của bạn.

Được chứ,  Anando? Vâng, thưa Thầy kính yêu.

Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư Phật không? Vâng!

Xem tiếp Chương 7 - Quay về Mục lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post