Chương 7. Thiền là yêu

Chương 7. Thiền là yêu

Price:

Read more

Con người nguyên bản - Osho

Bài nói về Thiền

Chương 7. Thiền là yêu



Powered by RedCircle


Thưa thầy kính yêu của chúng tôi, Bạt Đội đã nói:

Nếu ông giải phóng bản thân ông khỏi đau khổ của sáu cõi giới, ông phải học con đường trực tiếp trở thành Phật. Cách này không khác hơn việc nhận ra tâm trí riêng của ông.

Bây giờ, tâm trí này là gì? Nó là bản tính thực của mọi sinh linh hữu tình, cái tồn tại trước khi bố mẹ của chúng ta được sinh ra và do đó trước việc sinh riêng của chúng ta, và cái hiện tại đang tồn tại, không thể thay đổi và vĩnh hằng. Cho nên nó được gọi là mặt nguyên bản của người ta.

Tâm trí này là thuần khiết về bản chất. Khi chúng ta được sinh ra nó không được tạo mới, và khi chúng ta chết đi nó không diệt vong. Nó không phân biệt nam hay nữ, nó không có bất kì mầu sắc nào về tốt hay xấu. Nó không thể được so sánh với bất kì cái gì, cho nên nó được gọi là bản tính Phật. Vậy mà vô vàn ý nghĩ nảy sinh từ tự tính này như sóng dậy trong đại dương hay như các hình cảnh được phản xạ trong gương.

Nếu ông muốn nhận ra tâm trí riêng của ông, ông phải trước hết nhìn vào trong cội nguồn từ đó các ý nghĩ chảy ra. Ngủ và làm việc, đứng và ngồi, tự hỏi bản thân ông một cách sâu sắc, "Tâm trí riêng của mình là gì?" với khao khát mãnh liệt để giải quyết câu hỏi này. Điều này được gọi là "huấn luyện" hay "thực hành" hay "ham muốn về chân lí"  hay "khao khát về nhận ra." Điều được thuật ngữ thành 'toạ thiền" không nhiều hơn việc nhìn vào trong tâm trí riêng của người ta.

Vì việc tìm tâm trí riêng của người ta chung cuộc dẫn tới chứng ngộ, thực hành này là điều tiên quyết để trở thành Phật.

Anando, đó là khoảnh khắc lớn của hân hoan rằng chung cuộc Bạt Đội đã về tới nhà.

Thói quen cũ khó chết. Ông ấy bây giờ là thầy, nhưng đây đó, vài mảnh từ trước, từ khi ông ấy chỉ là thầy giáo, vẫn còn hiện diện. Bây giờ chúng có thể được tránh, hay chúng có thể được cho phương hướng đúng. Nhưng người này đã đi tới. Ông ấy đã bắt đầu nói từ kinh nghiệm riêng của ông ấy. Ông ấy không còn là vẹt.

Là vẹt là dễ dàng thế, chỉ lặp lại lời ai đó khác, là tiếng vọng. Nhưng là thầy cần xương sống thép - là bản thân người ta và là nhận biết hoàn toàn để cho không cái gì đi vào và làm ô nhiễm sự thuần khiết của bạn. Thầy có lẽ là điều huyền bí nhất, hiện tượng thần thông nhất trong sự tồn tại.

Ông ấy biết và ông ấy không thể nói là ông ấy biết. Ông ấy hiện hữu và ông ấy liên tục nói rằng ông ấy đã biến mất. Ông ấy khám phá ra Phật trong bản thân ông ấy, hoàn hảo - nhưng ông ấy phải nói rằng ông ấy đã trở thành Phật. Nhưng không ai trở thành Phật. Nó không phải là một loại dần dần nào đó, loại giáo dục, kỉ luật hay thực hành. Nhưng khó khăn của thầy là ở chỗ thầy phải dùng lời mà bạn có thể hiểu.

Nhưng bây giờ tôi có thể thấy và tôi sẽ nói cho bạn các điểm ở đâu mà làm cho tôi chắc chắn về Bạt Đội. Mặc dầu ông ấy đã xa lâu rồi, sụp xuống và trồi lên, đi trên đường này hay đường nọ - đêm của ông ấy đã là dài và tối - chung cuộc ông ấy đã đạt tới lúc mặt trời lên. Ánh sáng chiếu khắp nơi.

Khoảnh khắc bạn được chứng ngộ, toàn thể sự tồn tại được chứng ngộ. Và ngay cả nếu các thói quen cũ có đó, kinh nghiệm mới của bạn sẽ tự diễn đạt bản thân nó từ mọi ngõ ngách của thói quen cũ của bạn. Nó cũng giống như nhà đang tối đột nhiên bạn mang đèn vào bên trong. Tường có thể che giấu rằng nhà có ánh sáng bây giờ, nhưng cửa  sổ, cho dù cửa sổ đóng, sẽ chỉ ra rằng ánh sáng đã tới. Nhà không còn tối nữa.

Tình huống là tương tự trong trường hợp của thầy giáo. Người hồn nhiên đi vào tính thầy rất dễ dàng, vì với người đó là đệ tử là hành động rất đơn giản và tự phát của yêu. Nhưng với học giả điều đó là khó, và uyên bác của ông ấy càng sâu, càng khó cho ông ấy ngay cả nghĩ rằng bất kì người nào đó khác cũng có thể biết nhiều hơn ông ấy biết - và ông ấy chẳng biết gì. Mọi điều ông ấy coi là tri thức chỉ được nhồi nhét bởi kí ức. Ai đó khác có thể đã trải nghiệm nó, nhưng ông ấy chỉ là việc lặp lại. Ông ấy không là người nguyên bản. Tôi đã  hi vọng rằng một ngày nào đó Bạt Đội sẽ nói cái gì đó mà sẽ làm lộ ra sự huy hoàng của ông ấy và vinh quanh của ông ấy.

Bạt Đội đã nói:

Nếu ông giải phóng bản thân ông khỏi đau khổ của sáu cõi giới, ông phải học con đường trực tiếp trở thành Phật.

Bạn phải nhớ rằng vì sự uyên bác sâu của ông ấy, phát biểu này bị trộn lẫn.

Khi ông ấy nói, Nếu ông giải phóng bản thân ông khỏi đau khổ của sáu cõi giới, ông phải học con đường trực tiếp trở thành Phật, lần đầu tiên ông ấy nói con đường trực tiếp, đường một chiều duy nhất, đường đi vào trong.

Bạn không phải lang thang khắp thế giới. Chỉ việc quay chút ít vào trong là đủ, và mọi điều bạn đã khao khát trong nhiều kiếp, đột nhiên được khải lộ là cái ngã riêng của bạn. Bạn đã đi tìm bản thân bạn, và đó đã là khổ của bạn: bạn không thể tìm ra bản thân bạn. Bạn đã không thể tìm thấy bản thân bạn trong giầu có, hay trong quyền lực; bạn đã không thể tìm thấy cái gọi là tình yêu. Bạn đã nhìn mọi nơi, bạn đã bước đi theo hàng nghìn con đường trong hàng nghìn kiếp, nhưng bạn đã không bao giờ đạt tới bản thân bạn. Đây là đau khổ cơ bản: không biết bản thân bạn. Không nhận biết về cái vĩnh hằng của bạn là khổ duy nhất - mọi khổ đều là những diễn đạt nhỏ của nó.

Nhưng bây giờ Bạt Đội nói có con đường trực tiếp. Con đường trực tiếp đơn giản là nhắm mắt lại và quay vào bên trong. Quên thế giới dường như nó là mơ. Điều đó không có nghĩa rằng nó là mơ, đó chỉ là con đường để tập trung toàn thể sinh lực của bạn vào bên trong. Quên toàn thế giới đi dường như nó là mơ, dường như nó không tồn tại. Duy nhất bạn hiện hữu - thế thì toàn thể năng lượng bắt đầu chảy hướng tới trung tâm của bạn. Không có chỗ nào để đi; mọi cánh cửa đều đóng.

Có một câu chuyện rất kì lạ về tirthankara của người Jaina, Mahavira...

Trong mười hai năm ông ấy vẫn còn trong im lặng tuyệt đối. Ông ấy thậm chí  sẽ không chỉ dẫn bất kì cái gì, hay làm bất kì dấu hiệu nào, vì đó lại là ngôn ngữ, bạn đang truyền đạt cái gì đó, thông điệp nào đó. Ông ấy đã không truyền đạt thông điệp, ông ấy đã không hỏi điều gì. Trong mười hai năm, ông ấy vẫn còn trần trụi trong rừng sâu.

Một hôm chuyện xảy ra là ông ấy đang đứng đó bên cạnh dòng sông, và một người đã lùa nhiều bò cái để mang chúng tới sông uống nước và ông ta đã thấy Mahavira.

Ông ta hỏi ông ấy lặp đi lặp lại, "Ông có ở  đây không?" Nhưng Mahavira đơn giản nhìn ông ta và không nói bất kì cái gì - thậm chí không cảm xúc gì trên mặt ông ấy để chỉ ra rằng ông ấy đã nghe thấy.

Người này nói, "Tôi có việc khẩn cấp phải đi, tôi mới được thông báo rằng nhà tôi bị cháy. Và tôi không thể đem tất cả những con bò này đi được, tôi phải chạy! Vậy xin ông chăm nom lũ bò của  tôi. Đằng nào thì ông cũng chẳng làm gì cả, chỉ đứng trần như thằng ngốc - ít nhất ông có thể chăm nom bò của tôi. Tôi sẽ sớm quay lại!"

Người này rất sửng sốt rằng Mahavira đã không biểu lộ bất kì dấu hiệu nào, liệu ông ấy là điếc hay không. Ông ta hô to, nhưng không có hiệu quả. Ông ta phải chạy đi, nhà của ông ta đang bị cháy. Cho nên ông ta nói, "Thôi được, dù ông nói bất kì cái gì hay không, tôi cứ giả sử là ông sẽ trông nom bò của tôi. Nhưng nếu ông không trông, ông sẽ thấy rằng tôi là người rất ác!"

Nhưng không có dấu hiệu đáp ứng nào. Không ai đã sống trong im lặng như Mahavira.

Người này về nhà. Và nhiều giờ sau, đến tối ông ta quay lại. Mahavira vẫn đứng ở chỗ của ông ấy, nhưng mọi bò đều đã mất.

Ông ta hỏi, "Bò đâu rồi?" Nhưng ông ấy điếc như trước.

Người này nói, "Đây là người kì quái thế. Ít nhất ông ấy có thể nói cho mình bò của mình đã đi đâu. Nếu ông ấy không muốn nói, ông ấy có thể ra dấu bằng ngón tay chúng ở đâu."

Nhưng Mahavira sẽ không dùng ngay cả tay mình vì điều đó cũng là ngôn ngữ; cử chỉ cũng là ngôn ngữ. Ông ấy đã rất rõ ràng về điều đó, rằng không ngôn ngữ nghĩa là không ngôn ngữ.

Người này chạy quanh và thấy mọi bò đã tụ tập đằng sau bụi cây. Thế là ông ta nghĩ, "Ông ấy rất láu cá và tinh ranh. Ông ấy giấu bò đằng sau bụi cây và khi mặt trời lặn và trời tối, ông ấy sẽ lấy tất cả chúng đi."

Đó là kết luận tự nhiên cho người thường. Và ông ta phát rồ vì Mahavira đã không trả lời. Ông ta không thể quan niệm được rằng ai đó có thể trong im lặng thế.

Thế là ông ta lấy bó đuốc đang cháy và nói với Mahavira, "Mãi cho tới giờ ông đã giả vờ rằng ông không thể nghe được, nhưng từ giờ trở đi ông sẽ không có khả năng nghe." Và ông ta dí các bó đuốc cháy vào cả hai tai ông ấy. Mahavira không nói bất kì cái gì.

Người này rất phân vân. Nhưng bây giờ không cái gì có thể được làm, ông ta đã phá huỷ tai của ông ấy. Có lẽ ông ta sai, có lẽ ông ta đã nghi ngờ không cần thiết người này.

Nó là chuyện huyền thoại từ điểm này trở đi. Mãi cho tới đây nó dường như là sự kiện, vì Mahavira vẫn còn điếc sau thời điểm này, và tai ông ấy vẫn còn bị bỏng, nhưng sau điều này các đệ tử phải đã dựng ra nó. Tôi không muốn bạn tin vào việc dựng ra, nhưng có ý nghĩa để biết nó...

Thần Indra, người cai quản trên mây và cầu vồng, thấy mọi điều xảy ra này và cảm thấy rất buồn cho Mahavira đáng thương, người đã không bao giờ làm bất kì cái hại gì cho bất kì người nào. Thần nghĩ, "Ít nhất ông ấy cần vệ sĩ." Thế là thần đi xuống.

Với thần thì điều đó là có thể, không dùng bất kì ngôn ngữ nào, không dùng thân thể hay tâm trí, vẫn có liên hệ, trao đổi. Điều đó không chống lại im lặng, nó ở bên ngoài im lặng.

Trao đổi là ở chỗ Indra, không nói, không thấy được hay nghe được  cho bất kì người nào, đã nói, "Ta cảm thấy rất tiếc cho ông. Ta muốn chỉ định một hay hai vệ sĩ vì ông vẫn còn tuyệt đối im lặng; bất kì người nào cũng có thể làm hại ông."

Mahavira đã trao đổi, "Người này đã làm cho tôi một phục vụ lớn. Mãi tới giờ im lặng của tôi mới chỉ được một nửa. Tôi đã không nói, nhưng tôi nghe thấy, và việc nghe cũng là gây rối. Tôi biết ơn ông ta rằng ông ta đã phá huỷ tai tôi; tôi không cần bất kì vệ sĩ nào, vì vệ sĩ chỉ có thể bảo vệ thân thể tôi, không bảo vệ tôi. Không ai có thể làm hại tôi được - ông biết điều đó. Cho nên đừng bị lo nghĩ một cách không cần thiết, cứ an bình và quay về công việc của ông đi."

Phần này dường như là huyền thoại vì không có Thượng đế của mây và cầu vồng, nhưng nó có ý nghĩa theo nghĩa rằng Mahavira đã không giận. Ngược lại ông ấy đã nói, "Mãi cho tới giờ, im lặng của tôi đã chỉ một nửa - tôi đã không nói nhưng những người khác đã nói và tôi đã nghe. Và tự nhiên đã không cung cấp bất kì cách nào để đóng tai ông lại cũng như ông nhắm mắt lại, cho nên ông ta chắc chắn là người rất tốt và ông ta đã làm cho tôi sự phục vụ lớn. Ông ta bây giờ đã làm cho im lặng của tôi là đầy đủ."

Im lặng thế, mà là đầy đủ, là con đường trực tiếp.

Cách này không khác hơn việc nhận ra tâm trí riêng của ông.

Từ `tâm trí' là từ thói quen cũ của ông ấy khi là thầy giáo, nhưng ông ấy đang dùng nó với chữ T hoa, và điều đó là tương đương với vô trí. Tâm trí cũ không còn đó nhưng ông ấy dùng từ theo thói quen.

Thầy giáo đã dùng, thay vì tâm trí, tâm trí siêu việt, Tâm trí với chữ T hoa. Nhưng người không là học giả sẽ đơn giản nói, "Không có tâm trí thêm nữa... tại sao ông thậm chí nói về tâm trí siêu việt?"

Cái mà không hiện hữu - bạn không thể siêu việt nó. Ông ấy vẫn đang mang bộ xương chết; điều ông ấy muốn nói là đúng, nhưng thói quen cũ của ông ấy về nói vẫn có đó và ông ấy vẫn dùng chúng.

Ông ấy nói, Con đường trực tiếp để trở thành Phật...

Nhưng không ai đã bao giờ trở thành Phật. Đó là ngôn ngữ của học giả, thầy giáo, người thuyết giảng, triết gia. Kinh nghiệm về con người tồn tại, con người nguyên bản, là ở chỗ bạn bao giờ cũng là Phật. Bạn có thể không nhận ra nó, bạn thậm chí có thể phủ nhận nó, nhưng điều đó không thành vấn đề. Cá có thể phủ nhận đại dương vì cá không bao giờ biết đại dương. Nó đã được sinh ra trong đại dương, nó đã sống trong đại dương và một ngày nào đó nó sẽ biến mất trong đại dương; nó chỉ là một con sóng thuần nhất.

Có một chuyện cổ Sufi...

Một con cá trẻ có tâm  trí triết lí bắt đầu truy vấn, "Mình đã nghe nói nhiều thế về đại dương. Đại dương ở đâu?"

Không ai có thể trả lời. Chúng tất cả đều ở trong đại dương. Khắp xung quanh không là gì ngoài đại dương. Một con cá già nói với cá triết gia trẻ, "Đại dương và chúng ta không tách rời. Con là đại dương. Chúng ta chỉ là sóng trong đại dương."

Bạn không cần trở thành Phật. Bạn chỉ phải im lặng, trải nghiệm cái đã có đó rồi.

Bây giờ, tâm trí này là gì? - lần nữa, với chữ T hoa. Ông ấy đang cố làm ra phân biệt nhưng chắc sẽ tốt hơn mà hỏi, "Bản tính Phật này là gì? Tâm thức này là gì?" Từ `tâm trí' có thể lừa dối.

Nó là bản tính thực của mọi sinh linh hữu tình...

Mô tả của ông ấy là đúng, đó là lí do tại sao tôi nói ông ấy đã về nhà - tất nhiên ông ấy về muộn, nhưng ông ấy đã về tới.

…bản tính thực của mọi sinh linh hữu tình, cái tồn tại trước khi bố mẹ của chúng ta được sinh ra và do đó trước việc sinh riêng của chúng ta, và cái hiện tại đang tồn tại, không thể thay đổi và vĩnh hằng. Cho nên nó được gọi là mặt nguyên bản của người ta.

Bây giờ, cái gì đó mới, mặt nguyên bản, mặt nguyên bản tối thượng. Đây không phải là lặp lại. Cấu trúc cổ về ngôn ngữ của ông ấy bị đập tan. Các mảnh của nó sẽ treo cùng ông ấy trong vài ngày, có lẽ hơn. Nhưng dần dần chúng sẽ rơi rụng đi, vì cái  bản chất được hiểu thấu. Nó được gọi là mặt nguyên bản của người ta. Phật là  mặt nguyên bản của bạn.

Tâm trí này là thuần khiết bản chất.

Bây giờ bạn có thể  thấy điều tôi ngụ ý, những thói quen cũ. Lần nữa, ông ấy mang từ `tâm trí' vào. "Tâm trí là thuần khiết bản chất." Ông ấy nên nói rằng vô trí là thuần khiết bản chất. Tâm trí là không thuần khiết; vô trí là thuần khiết. Nhưng ông ấy phải học cách diễn đạt như thầy. Ông ấy biết cách diễn đạt như thầy giáo nhưng ông ấy bây giờ trở thành thầy. Chúng ta có thể hiểu khó khăn của ông ấy.

Vô trí này là thuần khiết về bản chất. Khi chúng ta được sinh ra nó không được tạo mới, và khi chúng ta chết đi nó không diệt vong. Nó không phân biệt nam hay nữ, nó không có bất kì mầu sắc nào về tốt hay xấu.

Mô tả này chỉ ra rằng ông ấy đã bắt đầu thấy và cảm.

Nó không thể được so sánh với bất kì cái gì, cho nên nó được gọi là bản tính Phật. Vậy mà vô vàn ý nghĩ nảy sinh từ tự tính này như sóng dậy trong đại dương hay như các hình cảnh được phản xạ trong gương.

Nếu ông muốn nhận ra tâm trí riêng của ông…

Xin chú ý, bao giờ cũng thay thế từ của ông ấy `tâm trí' bằng `vô trí'. Tôi không phải nhắc bạn lặp đi lặp lại. Bất kì khi nào ông ấy nói tâm trí - bạn nghe vô trí.

... ông phải trước hết nhìn vào trong cội nguồn từ đó các ý nghĩ chảy ra.

Ông ấy đang làm hết sức để gạt bỏ uyên bác cũ của ông ấy và để mang cái tươi tắn cho cách diễn đạt của ông ấy, và thỉnh thoảng ông ấy thành công.

ông phải trước hết nhìn vào trong cội nguồn từ đó các ý nghĩ chảy ra. Ngủ và làm việc, đứng và ngồi, tự hỏi bản thân ông một cách sâu sắc,

Đây là thói quen cũ. Con người của hiểu biết đơn giản biết, không có câu hỏi, không câu trả lời. Nếu bạn vẫn đang hỏi điều đó nghĩa là bạn đã không tìm thấy nó.

Ông ấy nói:

Tự hỏi bản thân ông một cách sâu sắc, "Tâm trí riêng của mình là gì?"

Không có nhu cầu. Bạn là nó. Trải nghiệm nó đi. Bạn đang hỏi ai? Bạn nghĩ bất kì người nào khác sẽ trả lời nó sao?  Bạn có thể thưởng thức vị ngọt của quả, bạn có thể ngửi hương thơm của hoa, nhưng bạn không thể nói nó đích xác trong lời. Và điều này là thực tại sâu hơn.

… với khao khát mãnh liệt để giải quyết câu hỏi này.

Không có câu hỏi thêm nữa. Nó chỉ là thói quen cũ của ông ấy, tâm trí cũ của ông ấy - tâm trí máy móc, cái liên tục lặp lại những ngày uyên bác cũ của ông ấy.

Điều này được gọi là "huấn luyện" hay "thực hành"

Một khi bạn thấy bản tính cái ngã, không có thực hành và không có huấn luyện, hay bất kì ham muốn chân lí hay khao khát nhận ra. Trong hội chúng của các thầy, ông ấy sẽ có vẻ là người mới thế nếu ông ấy nói,

Điều này được gọi là "huấn luyện" hay "thực hành" hay "ham muốn về chân lí"  hay "khao khát về nhận ra."

Nếu bạn đã nhận ra, không thể còn lại bất kì khao khát nhận ra nào. Chỉ uống cốc nước thuần khiết - điều là khó tìm ra ở Poona!

Sự tồn tại chơi những trò chơi kì lạ. Nó đã làm ra chỗ này để đánh thức bạn, nhưng nó không có phẩm chất cho điều đó. Nếu bạn uống ngay cả nước ô nhiễm của  Poona, cơn khát của bạn sẽ mất đi. Bạn có thể có amip - đó là điều khác, không liên quan chút nào tới Thiền. Tôi đã xem qua toàn thể văn đàn của Thiền; họ không bao giờ nói tới amip. Nhưng bạn biết rằng bạn phải đi qua amip trước khi bạn có thể đạt tới chân lí và trở thành Phật. Bạn phải chịu đựng amip. Nó là một loại cản trở mới bị áp đặt lên chư Phật tiềm năng.

Phật Gautam sẽ trong khó khăn. Ông ấy sẽ phải được đưa vào bệnh viện vì ông ấy sẽ không biết gì về amip. Đây là đặc thù lớn của Poona. Nhưng nó là tốt; nó đánh thức bạn dậy, nó giữ cho bạn nhận biết. Nó giúp bạn trở thành tâm thức quan sat. Tránh amip ra!

Điều được thuật ngữ thành 'toạ thiền" không nhiều hơn việc nhìn vào trong tâm trí riêng của người ta -  lần nữa, nhớ, nó là vô trí, vì việc tìm kiếm tâm trí riêng của người ta chung cuộc dẫn tới chứng ngộ - không phải tâm trí.

Tâm trí phải bị bỏ đi lâu từ trước. Bạn phải tìm vào trong vô trí, trong không gian im lặng đó nơi bạn sẽ gặp bản thân bạn, Phật của bạn.

Vì việc tìm tâm trí riêng của người ta chung cuộc dẫn tới chứng ngộ, thực hành này là điều tiên quyết để trở thành Phật.

Nó không là điều tiên quyết để trở thành Phật, nó là điều tiên quyết để khám phá ra Phật. Đây là những khác biệt nhỏ về từ nhưng chúng chỉ ra rằng khoảnh khắc bạn nói về trở thành, bạn đang nói về quá trình thay đổi. Trở thành là thay đổi, nhưng khoảnh khắc bạn nói về hiện hữu, bạn đang nói về tính đây này. Không có thay đổi. Phật là hiện hữu của bạn, không là trở thành của bạn. Nhưng tôi có thể hiểu được khó khăn của Bạt Đội; ông ấy đang nói điều đúng nhưng bằng từ sai.

Tôi hi vọng ông ấy sẽ làm bài tập ở nhà thêm chút ít.

Jakuan đã viết:

Giai điệu hoàn hảo - như gió

trong rặng thông của đường dốc xa xa. Tâm trí là bầu trời được lau sạch:

nghe thấy nó bên ngoài bản thân nó.

Thầy, trong phá biểu đơn giản này, nói toàn thể kinh sách: "Giai điệu hoàn hảo - như gió trong rặng thông của đường dốc xa xa. Tâm trí là bầu trời được lau sạch: nghe thấy nó bên ngoài bản thân nó."

Cách diễn đạt Thiền khác:

Nhìn mặt

hơn nghe tên.

Bạn đã nghe quá nhiều về Phật, giờ là lúc nhìn mặt.

Anando đã hỏi:

Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,

Đêm hôm qua tôi nghe thầy nói tới Thiền là "chuyện tình vĩ đại." Vâng, hiếm khi yêu hay từ bi được nhắc tới trong các giai thoại thiền hay các bài nói của các thầy. Tại sao có điều này?

Anando, khi bạn yêu một người, bạn không quấy rầy người đó bằng việc nói "Anh (Em) yêu em (anh)" lặp đi lặp lại; bằng không người đó sẽ giết bạn. Có giới hạn bạn có thể nghe "Anh (Em) yêu em (anh)" bao nhiêu lần. Người ta phát chán.

Cứ thử nó trên bất kì người yêu nào và xem tình yêu còn lại được bao lâu. Bạn trai hay bạn gái sẽ biến mất, vì bạn có thể ăn kẹo nhưng có giới hạn, bằng không ốm sẽ theo sau.

Thiền không bao giờ nhắc tới yêu. Hiểu biết riêng của tôi là ở chỗ con người của Thiền đơn giản yêu như người đó thở. Nó không phải là cái gì đó đặc biệt, không có nhu cầu nhắc tới nó. Bạn không cảm thấy tình yêu của tôi mặc dầu tôi không bao giờ nói nó sao? Bạn muốn tôi nói nó lặp đi lặp lại sao?

Thiền không nói nó, đó là chỉ dẫn lớn lao rằng nó hiểu. Yêu không nên được nói ra, nhưng được biểu lộ ra trong

 

mọi cử chỉ - qua mắt bạn, qua tay bạn, qua im lặng của bạn. Nó sẽ toả sáng quanh bạn. Nó là một với từ bi. Từ bi cũng không được nhắc tới.

Thiền không được sinh ra ở Mĩ, nơi có những nhà tư tưởng lớn người có thể là lớn chỉ ở Mĩ, như Dale Carnegie và Napoleon Hill...

Sách của Dale Carnegie đã là sách bán chạy nhất ở Mĩ, thứ hai chỉ sau Kinh Thánh Linh thiêng. Ông ấy thường dạy các lớp học và trường học nơi mọi người được dạy rằng dù bạn yêu hay không yêu, không thành vấn đề. Điều thành vấn đề là lời, là cách diễn đạt. Ai có thể biết về cái bên trong? Trước khi đi ra khỏi nhà, hôn vợ bạn và nói, "Anh yêu em, cưng. Anh sẽ nhớ em nhiều lắm."

Bạn có thể có những ý nghĩ khác bên trong, tuyệt đối mâu thuẫn với điều này: "Bây giờ là lúc tận hưởng..." Hay bạn có thể nghĩ về bạn gái của bạn! Nhưng điều đó toàn là bên trong - vợ bạn không phải là người đọc tâm trí. Cho nên chỉ nói nó, và hôn cô ấy chẳng tốn kém gì, ít nhất ba lần một ngày. Khi bạn quay về từ văn phòng, lại hôn vợ bạn và nói với cô ấy, "Anh yêu em, cưng." Và lại làm thế trước khi lên giường; đừng quên. Những kẻ ngốc này như Dale Carnegie được coi là triết gia lớn người đang giúp mọi người trong mối quan hệ của họ.

Yêu thực không có lời để diễn đạt bản thân nó. Yêu thực là sự hiện diện, bạn có thể cảm thấy nó. Nó bao quanh bạn như gió, nó trút lên bạn như mưa. Hoa hồng không nói, "Tôi đẹp làm sao." Và nếu hoa hồng bắt đầu học Dale Carnegie và bắt đầu nói với bạn, "Anh đi đâu đấy, anh yêu? Em yêu anh lắm. Và em đẹp thế," bạn sẽ phải nói, "Câm đi! Cứ là hoa đi - đừng làm phiền tôi!" - bạn có thể làm cái gì khác được?

Câu hỏi của bạn là rất chính xác. Thiền là yêu, và Thiền là từ bi, nhưng không có nhu cầu làm ra bản cương lĩnh, lời tuyên bố về nó. Trong im lặng hoàn toàn - việc truyền chiếc đèn.

Bây giờ trước khi bạn đi vào, tôi phải nói vài chuyện cười để cho bạn có thể quay lại; bằng không, thế giới này không đáng quay lại. Tôi làm mọi nỗ lực mà ít nhất thế giới nhỏ bé của chúng ta là vui vẻ, cười nói, để cho khi bạn đi vào trong bạn sẽ không còn lại ở đó, bạn sẽ mang Phật ra. Bạn phải không vẫn còn ở đó. Chỉ mang Phật ra - trong hành động của bạn, trong tình cảm của bạn, trong yêu của bạn. Nhưng đi ra!

Và chỉ để chắc, tôi phải kể cho bạn vài chuyện cười để cho bạn không trở nên nghiêm chỉnh và vẫn còn bên trong suy nghĩ thế giới là mơ. Nó toàn là luồng thay đổi - "tại sao bận tâm... đằng nào thì không ai sẽ nhớ mình, và nó là an bình thế ở đây..." Từ không gian an bình này, đi tới căng tin là bước nhảy lượng tử.

Các bạn ở đây là chư Phật, và thế rồi thấy cùng chư Phật ăn trong căng tin - người ta đơn giản bị choáng. Tôi không biết căng tin của các bạn ở đâu, tôi không bao giờ đi bất kì đâu. Chỉ như vậy vì không thấy Phật nào đó đang làm cái gì đó mà không như Phật, tôi giữa bản thân tôi đóng trong phòng của tôi. Tôi chỉ tới vào buổi tối để gặp các bạn, khi các bạn sẵn sàng là chư Phật - chỉ trong vài phút, thế rồi các bạn tự do.

Kowalski đang đứng tại chỗ đi tiểu yên tĩnh đi đái, thì anh ta để ý rằng anh ta bị nhòm bởi một người lùn.

Kowalski tiếp tục đái, đột nhiên anh ta thấy người lùn kéo chiếc ghế đẩu tới cạnh anh ta. Người lùn trèo lên ghế và bắt đầu ngưỡng mộ bộ máy của Kowalski từ một khoảng cách ngắn.

"Úi chao!" người lùn kêu lên. "Anh có các hòn xinh nhất tôi đã từng thấy."

"Này, er... cám ơn!" Kowalski nói, ngạc nhiên và lấy làm hãnh diện. Thế rồi anh ta bắt đầu cất đi.

"Nghe đây," người lùn nói. "Tôi biết đây là yêu cầu khá kì lạ, nhưng tôi tự hỏi liệu anh có thấy phiền không nếu tôi chạm vào chúng?"

Giật mình, Kowalski do dự. Nhưng thấy không có hại thực gì trong điều đó, anh ta nói, "Được."

Nhón trên đầu ngón chân trên ghế đẩu, người lùn với lên và nắm chắc hòn của Kowalski. Thế rồi lớn tiếng, anh chàng nhỏ bé la lên, "Được, cái khác thường này! Đưa qua ví của anh đây, hoặc tôi sẽ nhảy!"

Giovanni ngẩng đầu trong thất vọng.

"Nó-a là thảm kịch!" anh ta kêu lên với bạn mình, Luigi.

"Sao-a?" Luigi hỏi.

"Tôi về-a nhà đêm qua, và tôi thấy gì?" Giovanni nói. "Vợ tôi đang-a trên giường với người Trung Quốc!"

"Thế à? Anh đã-a nói gì?" Luigi hỏi.

"Tôi có thể nói gì á?" Giovanni kêu lên một cách điên khùng. "Tôi không-a nói tiếng Trung Quốc!"

Terry Turkeynose  đang ngáy một cách duyên dáng một đêm thì anh ta bắt đầu mơ rằng Thượng đế đang nói chuyện với anh ta.

"Terry!" giọng trầm âm vang của Thượng đế. "Ta có những kế hoạch lớn cho anh, cho nên tốt hơn cả là anh làm sạch việc làm của anh!"

Sáng hôm sau, Terry phi nhanh ra khỏi nhà. Anh ta đi tới bệnh viện Facial Fixit Clinic, nhận việc làm mũi, cấy tóc, răng mới, phơi cháy nắng, và rồi phung phí số tiền còn lại của mình và quần áo hợp thời trang thực sự.

Anh ta bước về nhà kiệt sức toàn bộ và đau người sau một ngày điên rồ như vậy, thì anh ta nghe thấy tiếng ầm ầm phía trên cõi trời. Terry bồn chồn nhìn lên, và và bị xe bus chẹt qua.

Điều tiếp anh ta biết, anh ta ở trên cõi trời, đang đứng trước Thượng đế toàn năng.

"Cứt thiêng!" Terry kêu lên với Thượng đế. "Ngài có dở hơi không?"

"Này, ta lấy làm tiếc," Thượng đế nói, vừa nhặt mấy cái răng giả mới từ trên đất và trao lại chúng cho anh ta.

"Vậy tại sao ngài đã đẩy tôi vào tất cả rắc rối đó," Terry la lên, "và rồi thủ tiêu tôi!"

"Này, trông đây, người," Thượng đế nói oang oang, "ta đã nói ta lấy làm tiếc - Ta chỉ đã không nhận ra anh!"

Được, Nivedano... (Tiếng trống)

(Nói lắp bắp)

Nivedano... (Tiếng trống)

Im lặng. Nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể bạn bị đông cứng.

Thu mọi tâm thức của bạn tại trung tâm con người bạn - không đi ra ngoài, mà đi vào trong. Khi tâm thức đi vào trong, nó trở nên rất được kết tinh, và niềm vui lớn nảy sinh.

Lần đầu tiên bạn cảm thấy bạn được phúc lành, và lần đầu tiên bạn là Phật.

Để việc nhận ra này đi sâu vào trong mọi thớ thịt của con người bạn, để cho bạn có thể vẫn còn là Phật hai mươi bốn giờ.

Nó là niềm vui thế, điệu vũ thế, cái đẹp thế, duyên dáng thế để vẫn còn là Phật hai mươi bốn giờ. Nó là con người riêng của bạn, diễn đạt bản thân nó trong niềm vinh quang và huy hoàng của nó.

Mỗi lúc một sâu hơn... Nivedano...

(Tiếng trống)

 

Thảnh thơi. Để thân thể vẫn còn ở đó, và tâm trí nữa - nhưng bạn không là cả hai. Bạn chỉ là tâm thức thuần khiết, vô trí, người quan sát trên núi.

Đây là con người nguyên bản của bạn. Con người nguyên bản là Phật.

Nivedano... (Tiếng trống)

Quay lại. Đem kinh nghiệm của bạn cùng bản thân bạn...

Dần dần, im lặng, duyên dáng, ngồi xuống như Phật, không do dự gì.

Nó là cái gì đó mà bạn đã quên mất, nó lại được nhớ lại. Hồi tưởng lại kinh nghiệm này về không gian bên trong, cái im lặng và cái vĩ đại của nó, an bình và huy hoàng của nó...

Đây là vài khoảnh khắc mà sẽ chứng tỏ là quí giá nhất trong đời bạn. Và nếu bạn đủ tỉnh táo, bạn sẽ lan toả những khoảnh khắc này tất cả trên khắp sống và chết của bạn, vì kinh nghiệm này về Phật bên trong bạn là kinh nghiệm về tính vĩnh hằng bên trong bạn.

Được chứ,  Anando? Vâng, thưa Thầy kính yêu.

Chúng ta có thể mở hội mười nghìn chư Phật chứ? Vâng!

Xem tiếp Chương 8 - Quay về Mục lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post