Read more
Mặt trời mọc buổi tối –
Osho
Bài nói về Thiền
Chương 7. Điều cốt yếu là thoải mái...
Powered by RedCircle
Ông
ấy bao giờ cũng tự mình bước đi; tự mình đi tản bộ:
Từ
lúc ta nhận ra con đường,
ta
nhận ra ta chẳng liên quan gì với sinh và tử.
Bước
là Thiền, ngồi là Thiền;
Nói
hay im lặng, động, bất động, - điều cốt yếu là thoải mái.
Đi
vào núi sâu
ta
sống trong hiu quạnh yên tĩnh.
Núi
cao, thung sâu
khi
người ta sống dưới cây thông cổ.
Có ba trạng thái bình thường của tâm thức.
Một là thức, jagrut, thứ hai là swabha, mơ, và thứ ba là sushupti, ngủ say
không mơ.
Con người bình thường sống trong ba trạng
thái này, lúc thì thức, lúc thì mơ, lúc thì ngủ say; đây là bánh xe con người
chuyển bên trong. Và vì ba trạng thái này của tâm trí mà nhiều thứ đã nảy sinh
trong tâm thức con người và văn hoá, văn minh của con người.
Loại tâm thức thứ nhất, thức, tạo ra văn
hoá riêng của nó, văn minh riêng của nó;
phương Tây đại diện cho nó. Loại văn hoá thứ hai được tạo ra bởi loại tâm thức
thứ hai, mơ; phương Đông đại diện cho nó. Đó là lí do tại sao bạn thấy rất khó
trao đổi; tâm trí phương Tây thấy gần như không thể trao đổi được với tâm trí
phương Đông. Vấn đề không chỉ là về ngôn ngữ - ngôn ngữ bạn có thể hiểu được -
vấn đề là về xu hướng.
Tâm thức thức có tính đối thể: nó nghĩ về
đối thể, về thực tại có đó bên ngoài; nó là một loại tập trung. Tâm trí phương
Tây đã mở ra sức mạnh của tập trung do đó cho sinh ra khoa học; từ sức mạnh của
tập trung, khoa học được sinh ra. Phương Đông không thể cho sinh ra khoa học,
và lí do là ở chỗ phương Đông đã không chú ý mấy tới loại tâm thức thứ nhất.
Phương Đông nghĩ dưới dạng mơ. Phương
Đông nghĩ dưới dạng cái bên trong. Phương Đông nghĩ dưới dạng tính chủ thể.
Phương Đông nghĩ bằng mắt nhắm; phương Tây nghĩ bằng mắt mở. Phương Tây tập
trung; tâm trí phương Đông thiền, đó là lí do tại sao ở phương Đông bạn sẽ thấy
người hư ảo huyền bí, nhà thơ - người đã trải nghiệm những khải lộ lớn bên
trong. Nhưng họ không thể chứng minh được nó; các kinh nghiệm vẫn còn cá nhân,
riêng tư. Phương Tây nhấn mạnh vào tính đối thể, công khai: khi bạn thức, bất
kì cái gì bạn thấy người khác cũng có thể thấy. Bạn đang thấy tôi ở đây, mọi
người có thể thấy tôi - người có mắt có thể thấy - không cần bất kì bằng chứng
nào. Mặt trời mọc, và bạn biết: bằng chứng tồn tại trong chính kinh nghiệm. Và
mọi người đều trải nghiệm điều đó - có thể có nhất trí tập thể về điều đó.
Nhưng khi tôi nói tôi đã thấy mặt trời mọc buổi tối nó không còn là kinh nghiệm
tập thể nữa; nó không còn là tính đối thể, nó trở thành tính chủ thể.
Ở phương Đông bạn sẽ thấy những người đã
trải nghiệm kundalini dâng lên trong họ, ánh sáng lớn bùng nổ dường như cả
nghìn cả nghìn mặt trời đã đột nhiên mọc lên trên đường chân trời; bạn sẽ thấy
những người đã thấy hoa sen nở bên trong - và với tâm trí phương Tây điều đó có
vẻ toàn vô nghĩa. Tâm trí phương Tây đã phát triển công nghệ, khoa học - tính khách
quan. Nó sống trong trạng thái thứ nhất, thức; hư ảo huyền bí bị bác bỏ. Ở
phương Tây hư ảo huyền bí là hiện tượng ngoài lề, người đó tồn tại ở ngoại ô của
văn minh. Người đó gần như được dung thứ; người đó vô hại, người đó có thể được
dung thứ. Nhưng người đó không có rễ trong văn hoá số đông, người đó không
trong dòng chảy chính. Ở phương Đông nhà khoa học sống theo cùng cách - ở ngoài
lề; người đó không phải là dòng chảy chính. Người đó có thể được dung thứ, người
đó có thể được dùng, nhưng kính trọng dồn vào ngườu hư ảo huyền bí, vào người
mơ, vào nhà thơ người mơ những giấc mơ lớn.
Đây là hai trạng thái bình thường, trạng
thái thứ ba xảy ra cho cả hai, nhưng bạn không thể bắt giữ được nó, tâm trí tan
biến. Trong sushupti, trong ngủ không mơ, bạn biến mất như bản ngã, và bạn biến
mất hoàn toàn tới mức bạn thậm chí không thể nhớ được vào buổi sáng cái gì đã xảy
ra. Bạn có thể nhớ được mơ, bạn không thể nhớ được giấc ngủ không mơ của bạn,
nhiều nhất nó có thể được nhớ như kẽ hở. Bạn có thể nói 'Tôi ngủ say tới mức thậm
chí không có mơ.' Nhưng đó là việc đoán; không có kinh nghiệm trực tiếp về
sushupti.
Không văn hoá nào đã tiến hoá từ sushupti
vì không có khả năng nào để bắt giữ nó một cách trực tiếp. Nhưng đó là trạng
thái bình thường sâu nhất của tâm trí. Chính là từ sushupti, giấc ngủ không mơ,
mà bạn được làm khoẻ lại mọi ngày. Bạn đi tới cội nguồn, bạn chuyển tới cội nguồn,
bạn lại trong tiếp xúc với tâm thức nguyên thuỷ, bạn lại trong tiếp xúc với nền
tảng của bạn. Bạn không còn là người, bạn không còn là người Hindu, không còn
là người Ki tô giáo, bạn không còn là đàn ông hay đàn bà, đen hay trắng, bạn
không còn là người phương Đông, phương
Tây; mọi thứ biến mất - mọi phân biệt. Bạn hiện hữu, nhưng không có căn cước,
đó là lí do tại sao từ giấc ngủ không mơ an bình lớn được cảm thấy.
Nếu bạn đi vào trong thiền sâu hơn, bạn sẽ
tới trạng thái thứ ba nơi người ta có thể trở nên nhận biết về giấc ngủ không
mơ nữa. Và nhiều người đã dừng lại ở đó; vì nó phúc lạc thế, nhiều tôn giáo đã
dừng ở đó, họ không đi ra ngoài nó.
Có trạng thái thứ tư nữa, và chừng nào bạn chưa đạt tới trạng thái
thứ tư, liên tục nhớ rằng trạng thái thứ ba là rất quyến rũ, trạng thái thứ ba
là rất đẹp, rất phúc lạc, nhưng dầu vậy bạn đã không tới nhà. Cái thứ tư là
nhà; các nhà huyền bí phương Đông đã gọi nó là turiya, turiya nghĩa là cái thứ
tư.
Thức là hướng ra đối thể, bên ngoài, nó
là một loại tập trung. Mơ là ở giữa bên ngoài và bên trong, móc nối giữa thức
và ngủ say, và ngủ say là bên trong. Thế thì cái thứ tư là gì, turiya? Nó là cả
hai và không cái nào. Nó là cả bên trong và bên ngoài, và vì nó là cả hai, đó
là lí do tại sao nó không là cả hai. Nó siêu việt lên trên cả hai, nó là bất nhị,
nó là toàn bộ. bây giờ không cái gì là bên ngoài, không cái gì là bên trong. Đối
thể biến mất và, đồng thời, chủ thể cũng biến mất; không có kinh nghiệm và
không có người trải nghiệm. Trạng thái thứ tư này được gọi là samadhi, satori.
Và cái đẹp của cái thứ tư là ở chỗ bạn
có thể sống trong thế giới vậy mà không là của nó.
Thiền tin vào cái thứ tư. Những người tin
vào cái thứ ba phải bỏ thế giới, họ phải đi lên các hang động Himalaya. Chỉ ở
đó họ mới có khả năng rơi vào trong giấc ngủ không mơ sâu liên tục. Nó là rơi
vào trong cơn mê đẹp. Giá trị tâm linh của
nó là hư không, mặc dầu không có khổ, không lo âu, vì tâm trí bị gạt
sang bên. Nhưng nó là trạng thái mê, nó là trốn thoát. Và người đó chưa biết
chân lí là gì. Người đó đã chọn một điều: trốn thoát.
Tâm trí phương Tây đi ngày càng sâu vào
trong thế giới, vào trong hoạt động, và tâm trí phương Đông đi ra khỏi hoạt động,
ngày càng ra khỏi thế giới.
Bây giờ, ở đây cả hai loại người này đã tụ
tập lại. Khi tâm trí phương Tây tới tôi
người đó bao giờ cũng hỏi làm sao quan hệ với mọi người - đó là câu hỏi của người đó - làm sao là yêu, chăm
nom nhiều hơn, làm sao trưởng thành sâu hơn trong quan hệ. Không người Ấn Độ
nào, không người phương Đông nào đã bao giờ hỏi điều này - điều đó không phải
là câu hỏi của người đó chút nào, câu hỏi của người đó là làm sao thoát ra khỏi
mối quan hệ, làm sao quên đi mọi khổ này - sinh và tử, và đầu thai, và toàn thể
bánh xe - làm sao dừng nó lại, làm sao nhảy ra khỏi nó. Bạn có thể quan sát điều
đó, nó rất rõ ràng. Tâm trí phương Tây là rõ ràng, logic, hợp lí, toán học, tỉnh
táo. Tâm trí phương Đông là mơ và, tương ứng với chuẩn phương Tây, là tồi tệ, cẩu
thả, lộn xộn, vì trong mơ bạn không thể rất rõ ràng, bằng không mơ sẽ biến mất.
Với tâm trí phương Đông, tâm trí phương Tây là trần tục, tính toán, tinh ranh,
khôn lỏi.
Loại thứ ba đã xảy ra cả ở phương Đông và
phương Tây nhưng rất hiếm. Ở phương Tây các tu viện đã tồn tại, và mọi người đã
từ bỏ thế giới và chuyển vào đó - ở phương Đông cũng vậy. Người trở nên quan
tâm tới ngủ không mơ... Và điều đó là việc thoả mãn lớn - không hoài nghi về
nó, có vui thú lớn trong nó, nó rất yên bình, không bị quấy rối, nhưng nó là một
loại chết, không sống. Và có sợ rằng nó có thể bị quấy rối - bất kì điều nhỏ bé
nào cũng có thể quấy rối nó - một ý nghĩ nhỏ bé có thể chuyển động, và mọi thứ
bị mất. Giấc mơ nhỏ là đủ để phá huỷ nó.
Thiền nhân đã làm việc với cái thứ tư.
Cái thứ tư nghĩa là: sống trong thế giới như lá sen trong nước, thức tỉnh và vậy
mà vẫn còn được định tâm. Cho nên mọi điều được cần để được làm, ở trong cơn
xoáy lốc và vậy mà vẫn còn trong trung tâm của nó, không bị ảnh hưởng bởi nó. Một
cách tự nhiên, Thiền nhân tạo ra sự sống sống động nhất, tuôn chảy, đập rộn
ràng. Thiền nhân tạo ra hành động bất hành, hay bất hành qua hành động. Các cực
gặp gỡ và hội nhập, và bất kì khi nào các cực gặp gỡ và hội nhập, có Thượng đế.
Cái thứ tư là trạng thái nguyên thuỷ,
chính trạng thái nền tảng và rất cơ sở mà từ đó ba trạng thái này đã nảy sinh.
Ba trạng thái này là các cành, cái thứ tư là rễ.
Lời kinh hôm nay bạn sẽ có khả năng hiểu
chỉ nếu bạn hiểu cách tiếp cận này, cách tiếp cận qua cái thứ tư, qua tính toàn
bộ. Người ta phải không trốn chạy, người ta phải đi vào trong thế giới sâu nhất
nhưng không bị lạc ở đó. Người ta phải vẫn còn ý thức, người ta phải vẫn còn tỉnh
táo, người ta phải đi sâu vào trong thế giới. Việc gặp gỡ của các cực đoan sẽ
mang bạn tới mùa màng phong phú nhất của sự sống.
Chuyện đã xảy ra...
Vivekananda có lần nói với Thầy của ông
ta, Ramakrishna, rằng nguyện vọng tâm linh cao nhất của ông ta đã là vẫn còn được
đắm chìm trong nhiều ngày cuối trong nirvikalpa samadhi, sự biến mất của mọi
hình tướng vào trong Thượng đế. Ông ta chân thành khao khát điều ông ấy đã coi
là kinh nghiệm tâm linh tối thượng. Nhưng Ramakrishna, người đã có lần để sáu
tháng trong nirvikalpa không đứt quãng, thân thể ông ấy được giữ sống chỉ bởi
ép buộc nuôi dưỡng, đã đáp lại 'Ông ngu. Có việc nhận ra cao hơn nirvikalpa
samadhi.' Vivekananda vào lúc đó đã được chuyên tâm cho chiều thứ ba của suy
tư, và Ramakrishna đã định chuyển ông ta sang chiều thứ tư, hay turiya.
Nirvikalpa Samadhi là trạng thái của ngủ
say. Mọi thứ đã biến mất; nó là thiếu vắng, nó là phủ định. Chiếc cốc là trống
rỗng, hoàn toàn trống rỗng; sẵn sàng để được rót đầy, nhưng còn chưa đầy. Chiếc
cốc không phải là mục đích - không thể là mục đích; việc làm trống rỗng chỉ là
phương pháp để cho một ngày nào đó chiếc cốc có thể được rót đầy bằng sự hiện
diện của Thượng đế. Nhưng Thượng đế tồn tại như thế giới - không có Thượng đế
khác. Thượng đế đã xuất hiện như thế giới; Thượng đế không ở đâu đó khác. Thế
giới là Thượng đế biểu lộ. Người ta phải làm trống rỗng bản thân người ta để
chuẩn bị, nhưng người ta phải vẫn còn trong tiếp xúc gần với thế giới bằng
không người ta trở nên bị ngắt kết nối.
Đây là cách tiếp cận của tôi tới tính chất
sannyas nữa. Đó là lí do tại sao tôi không nói bỏ thế giới, tôi nói sống trong
thế giới, chấp nhận thách thức của nó vì đằng sau nó, đằng sau màn ảnh của nó,
là bản thân Thượng đế. Nếu bạn chấp nhận thách thức này và nếu bạn sống thách
thức này một cách toàn bộ, bạn sẽ thấy rằng mọi điều được cần là ở đây. Nó phải
được khám phá. Trở nên ngày càng tỉnh táo và ý thức đi.
Cho nên đừng đi vào các đối thể quá nhiều
- đừng trở thành người phương Tây, và đừng đi quá nhiều vào mơ - đừng trở thành
người phương Đông. Đừng bị ám ảnh quá với kundalini và những kinh nghiệm như điều
đó vì đó toàn là thứ tâm trí. Vẫn còn tỉnh táo khi đi cùng mọi người, khi đi
vào thế giới, vẫn còn tỉnh táo khi đi vào trong mơ. Và có những mơ đẹp nữa, mơ
tâm linh nữa - vẫn còn tỉnh táo, không bị làm sao lãng bởi chúng. Và khi bạn có
khả năng tỉnh táo trong thế giới đối thể và thế rồi tỉnh táo trong thế giới mơ,
dần dần, dần dần bạn sẽ trở nên tỉnh táo trong giấc ngủ không mơ nữa. Và thế
thì bạn ở cổng của cái thứ tư. Và khi bạn đi vào cái thứ tư, bạn trở lại trong thế
giới; vòng tròn là đầy đủ. Nhưng bây giờ bạn là trung tâm của cơn xoáy lốc.
Ông
ấy bao giờ cũng tự mình bước đi; tự mình đi tản bộ:
Lời kinh thứ nhất của Huyền Giác. Ông ấy
đang nói về người đã đạt tới cái thứ tư - cách người đó sống, cách người đó bước,
cách người đó nói, cách người đó nghe. Không có người nào lớn hơn điều đó. Cố
hiểu cách ông ấy bước đi.
Ông
ấy bao giờ cũng tự mình bước đi; tự mình đi tản bộ:
Điều đó không có nghĩa là ông ấy đi vào trong đơn độc, không, nhưng bất kì
chỗ nào ông ấy ở, ông ấy là một mình. Trong đám đông, nhưng ông ấy là một mình.
Ông ấy sẽ thấy mình đang đứng trong đám
đông nhưng không là một phần của nó; ở đó vậy mà không ở đó. Điều đó phải được
hiểu.
Con người của Thiền bước đi bởi bản thân
người đó. Người đó được định tâm hoàn toàn, được bắt rễ, trong bản thân người
đó tới mức không cái gì có thể làm sao lãng người đó. Bạn bị làm sao lãng bởi từng
và mọi thứ đi qua bên cạnh. Bạn đang bước đi và bạn thấy một ngôi nhà đẹp; bạn
bị sao lãng. Mơ bắt đầu nảy sinh: bạn muốn sở hữu ngôi nhà này. Bạn bắt gặp một
người đàn bà đẹp, và bạn mất trung tâm của bạn; bạn đã đi vào trong mơ tưởng. Bất
kì cái gì cũng có thể làm sao lãng bạn. Ai đó xúc phạm bạn, và giận nảy sinh; bạn
bị sao lãng. Ai đó nói cái gì đó hay về bạn, và bản ngã của bạn được thổi phồng;
bạn đã mất trung tâm của bạn. Đây là bị làm sao lãng.
Con người của Thiền vẫn còn phù hợp với bản
thân người đó. Bạn có thể xúc phạm người đó, nhưng bạn không thể xúc phạm được
người đó. Về phần bạn, từ phía bạn, bạn có thể xúc phạm người đó, người đó sẽ
không nhận điều đó; người đó sẽ cười và sẽ nói tạm biệt bạn. Nhớ Zusia - mới
hôm nọ tôi đã kể về ông ấy - ông ấy đã bị đánh và ông ấy đã cười, và ông ấy hát bài hát và đi vào núi hoàn toàn hạnh
phúc - hạnh phúc rằng ông ấy đã làm cho chim tự do và hạnh phúc rằng ông ấy đã
không bị sao lãng bởi việc đánh.
Một lần một nhà huyền bí Sufi đã bị một
hoàng đế đánh và ông ấy bắt đầu cười. Ông ấy đã bùng nổ trong tiếng cười điên.
Ngay cả hoàng đế cũng bị phân vân, và ông ta hỏi 'Tại sao ông cười?' Ông ấy nói
'Vì ta là người sai! Ông nghĩ ông đang đánh ai đó khác, đó là lí do tại sao ta
cười và cái buồn cười của nó.'
Ông
ấy bao giờ cũng tự mình bước đi…
Không có cách nào đẩy ông ấy ở đây và ở
kia, bạn không thể thao túng ông ấy; ông ấy vẫn còn đó, hoàn toàn bản thân ông ấy,
ông ấy được định tâm thế, ông ấy được bắt rễ thế, trong con người của ông ấy.
Khi người ta đã biết cái thứ tư, turiya, thế thì không có sao lãng, thế thì người
ta có thể sống được ở bất kì chỗ nào.
Một lần chuyện xảy ra vào thời của Phật rằng
một gái mãi dâm đẹp rơi vào yêu một sư Phật giáo, người đã đi ăn xin. Người đàn
bà này đã gặp nhiều người đẹp - cô ấy là một trong những gái mãi dâm nổi tiếng nhất của thời đó - ngay cả các
vua cũng thường xếp hàng tại cửa nhà cô ấy, và cô ấy rơi vào yêu với một sư, với
một khất sĩ, người ăn xin.
Các sannyasin có cái đẹp mà chỉ các
sannyasin có thể có: cái đẹp đó khi người ta bước qua bên cạnh bản thân ông ấy,
cái duyên dáng đó - duyên dáng của người được định tâm - chân giá trị, thanh lịch.
Hình dung sư này đang bước đi. Và sư Phật giáo, toàn thể giáo huấn của họ bao gồm
một điều: Tỉnh táo, quan sát. Thậm chí không một hơi thở nào phải đi qua lỗ mũi
bạn mà không có nhận biết của bạn về nó.
Cho nên, tuyệt đối quan sát, có tính thiền,
ông ấy phải đã đi qua người đàn bà này. Cô ấy đã thấy nhiều người đẹp, nhưng
chưa bao giờ một người bước đi bởi bản thân người đó như thế này - và trong bãi
chợ và trong toàn thể tiếng ồn, im lặng thế dường như chợ không tồn tại. Cô ấy
lập tức rơi vào yêu người đàn ông này. Cô ấy chạm chân anh ta và mời anh ta tới
nhà cô ấy ở trong mùa mưa này, trong bốn tháng. Sư Phật giáo dừng di chuyển
trong bốn tháng trong mùa mưa. Mưa chỉ sắp tới, và mây đã tụ lại, và đó là lúc
cho họ ở lại và tìm chỗ trú ngụ trong bốn tháng.
Cho nên cô ấy đã mời anh ta: 'Anh tới nhà
tôi đi. Làm khách của tôi trong bốn tháng.' Sư này nói 'Tôi sẽ phải hỏi Thầy
tôi. Ngày mai tôi sẽ tới và đáp lại. Nếu Thầy cho phép điều đó, tôi sẽ tới.'
Cũng đã có các sư khác đi ăn xin trong thị
trấn - họ thấy toàn thể sự việc; họ trở nên rất ghen tị. Khi anh thanh niên này
quay lại Phật, anh ấy đứng trong hội chúng và đưa ra yêu cầu 'Một người đàn bà,
gái mãi dâm' - Amrapalli là tên cô ấy - 'đã ngỏ lời mời tôi ở cùng cô ấy trong
mùa mưa sắp tới. Tôi sẽ làm bất kì cái gì thầy nói.' Nhiều người nghe điều đó -
tất cả họ đứng dậy và nói 'Điều này là sai. Ngay cả cho phép người đàn bà đó chạm
chân ông đã là sai, vì Phật đã nói "Không chạm vào đàn bà, không cho phép
đàn bà chạm ông." Ông đã phá qui tắc, và giờ đây là cái gì đó, rằng ông
đang hỏi xin ở lại cùng người đàn bà này trong bốn tháng!'
Phật nói 'Ta đã bảo các ông không chạm
vào đàn bà, không để bị chạm bởi đàn bà vì các ông không được định tâm. Với người
này qui tắc đó không áp dụng được thêm nữa. Ta có thể thấy rằng anh ta có thể
bước đi một mình bởi bản thân anh ta - ta đã theo dõi anh ta - anh ta không còn
là một phần của đám đông. Các ông vẫn là một phần của đám đông. Khi các ông đi
ra chợ, các ông đi ra chợ; anh ta đơn giản đi qua đó dường như anh ta chưa bao
giờ đi.' Và với khất sĩ này Phật nói 'Được, ông được phép.'
Bây giờ, điều này là quá thể; điều này
chưa bao giờ được làm trước đây, không có tiền lệ. Mọi người đều giận, và trong
bốn tháng hàng nghìn chuyện ngồi lê mách lẻo lan đi phóng đại điều đã xảy ra ở
đó. Mọi người đều quan tâm, và nhiều tin đồn đã đưa tới rằng sư này không còn
là sư nữa, rằng anh ta đã sa ngã.
Sau bốn tháng sư này quay lại có
Amrapalli đi theo. Phật nhìn sư này, nhìn Amrapalli, và nói 'Người đàn bà đi
cùng ông có cái gì để nói với ta sao?' Cô ấy nói 'Tôi đã tới để xin được thầy
khai tâm. Tôi đã cố làm sao lãng đệ tử của thầy. Tôi đã thất bại; đây là thất bại
đầu tiên của tôi. Tôi bao giờ cũng thành công với đàn ông. Đây là người đàn ông
đầu tiên mà tôi không thể làm sao lãng - thậm chí đến một li. Ham muốn lớn đã nảy
sinh trong tôi nữa - làm sao tôi có thể đạt tới việc định tâm này. Và anh ấy
càng ở cùng tôi những ngày này, tôi càng thấy anh ấy ở xa khỏi thế giới thế
nào. Anh ấy đã sống với tôi, tôi đã nhảy múa trước anh ấy, tôi đã hát trước anh
ấy, tôi đã chơi nhạc cụ trước anh ấy - tôi đã cố quyến rũ anh ấy theo mọi cách
- nhưng anh ấy bao giờ cũng còn im lặng. Anh ấy bao giờ cũng còn là bản thân
anh ấy. Không một khoảnh khắc nào tôi đã thấy bất kì mây nào trong tâm trí anh ấy
hay bất kì ham muốn nào trong mắt anh ấy. Tôi đã cố chuyển đổi anh ấy, nhưng
anh ấy đã chuyển đổi tôi - và không nói một lời. Anh ấy đã không mang tôi tới đây,
tôi đã tới theo cách riêng của tôi. Tôi đã biết lần đầu tiên chân giá trị là
gì; tôi muốn học nghệ thuật này.'
Cô ấy đã trở thành đệ tử của Phật. Cô ấy
đã trở thành ni.
Ông
ấy bao giờ cũng tự mình bước đi…
Nhớ, điều đó không có nghĩa rằng người đó
vẫn còn đơn độc, nó chỉ có nghĩa rằng người đó vẫn còn một mình. Nếu bạn muốn
là đơn độc bạn phải đi xa khỏi thế giới, nhưng nếu bạn muốn là một mình không
có nhu cầu đi bất kì chỗ nào, bạn có thể một mình ở đây. Sự một mình cần nhận
biết. Sự đơn độc là thứ bên ngoài - bạn đơn giản phải đi xa khỏi mọi người.
Nhưng đi xa khỏi mọi người bạn vẫn còn như cũ - tâm trí bạn đã không thay đổi;
và tâm trí bạn là vấn đề, không phải mọi người. Ngồi trong hang động Himalaya bạn
sẽ nghĩ về mọi người, về vợ bạn, về con bạn, về mọi người bạn mà bạn đã bỏ lại
đằng sau, vì tâm trí không thể bị bỏ lại ở đây, nó sẽ đi cùng bạn - nó là bạn.
Đừng cố thay đổi hoàn cảnh của cuộc sống
của bạn, cố thay đổi tâm lí đi. Cố thay đổi thái độ của bạn với sự sống, đừng cố
thay đổi tình huống bên ngoài. Dùng tình huống bên ngoài và thay đổi trạng thái
bên trong. Tôn giáo giả bao gồm việc thay đổi tình huống: 'Nếu người đàn bà tạo ra ham muốn
trong bạn, trốn khỏi người đàn bà này.' Đây là thay đổi tình huống; điều này
không mấy là thay đổi - bạn đang tự lừa bản thân bạn và lừa thế giới. Tôn giáo
thực bao gồm thay đổi trạng thái của tâm trí: 'Nếu đàn bà hấp dẫn bạn, thế thì
nhìn vào ham muốn của bạn, thế thì theo dõi các ham muốn đó. Ở đâu đó bạn đã
không biết bất kì cái gì tốt hơn dục. Ở đâu đó bạn đã không biết bất kì cái gì
cao hơn dục. Ở đâu có bạn đã không biết bất kì cái gì cực lạc. Vì bạn đã không
biết bất kì cái gì cao hơn, bạn bị hấp dẫn tới cái thấp hơn. Tìm cái cao hơn
đi. Một khi bạn đã biết cái cao hơn đạt tới năng lượng của bạn, dục bắt đầu tàn
đi theo cách riêng của nó.' Đó là tôn giáo thực.
Ông
ấy bao giờ cũng tự mình bước đi; tự mình đi tản bộ:
Và việc bước đi của ông ấy là việc đi tản
bộ - điều đó cũng phải được nhớ. Nó không phải là công việc, nó là chơi đùa. Bất
kì cái gì người đó đang làm, người đó làm nó rất chân thành, người đó làm nó với
tính toàn bộ, người đó làm nó với tất cả con người của mình, với mọi năng lực của
mình. Người đó trở thành sẵn có đầy đủ cho công việc, nhưng nó không phải là
công việc, nó là chơi đùa. Người đó là không nghiêm chỉnh; chân thành, chắc chắn,
nhưng không bao giờ nghiêm chỉnh. Việc bước của người đó không hướng đích, nó là đi tản bộ. Người đó sống
cuộc sống vì người đó thấy bản thân người đó ở đây. Người đó sống vì sự sống đã
được trao cho, người đó chết vì sự sống đã bị lấy đi. Nhưng mọi hành động của
người đó là vô động cơ - không có động cơ trong nó - người đó không đi bất kì
đâu nói riêng.
Thứ nhất, người đó vẫn còn một mình trong
đám đông, người đó vẫn còn phù hợp với bản thân người đó. Và, thứ hai, mọi điều
người đó đang làm, người đó làm trong tâm trạng chơi đùa. Người đó không có chủ
định, không nghiêm chỉnh, công việc không là thế giới của người đó mà là chơi
đùa. Người đó không bỏ công việc, người đó thay đổi phẩm chất của nó.
Tôi đang nói với bạn; đây không là công
việc, đây là chơi đùa. Không có động cơ đằng sau nó - thậm chí không có động cơ
thuyết phục bạn. Nếu bạn được thuyết phục, đó là việc của bạn. Tôi không cố
thuyết phục bạn, tôi không cố chuyển đổi bạn - tôi không là người truyền
giáo, tôi không có sứ mệnh nào để hoàn
thành - tôi chỉ đang hát bài ca của tôi, shodoka của tôi. Bạn đã quyết định lắng
nghe; nếu cái gì đó xảy ra trong bạn,
cái đó là quyết định của bạn để cho phép nó xảy ra trong bạn hay không cho phép
nó xảy ra trong bạn, nhưng về phần tôi không có động cơ.
Con chim cúc cu bắt đầu gọi; và bạn xúc động,
và bạn được thay đổi, và bạn được thuyết phục về cái đẹp của tiếng hót, nhưng
điều đó là tuyệt đối của bạn - con chim cúc cu đã không theo bạn. Cây đã nở
hoa; nếu lỗ mũi của bạn được tràn ngập với hương thơm của nó, điều dành cho bạn
là chấp nhận hay bác bỏ. Mặt trời đã mọc; điều dành cho bạn là mở mắt và thấy
thế giới đầy ánh sáng mặt trời hay không mở mắt. Nhưng mặt trời không có động
cơ - nó đã gõ cửa nhà bạn mà không có bất kì động cơ nào. Nếu bạn không lắng
nghe, nó sẽ không bực mình, nếu bạn lắng nghe nó sẽ không hài lòng nữa.
Đó là việc tản bộ, và một khi bạn biết
cái đẹp của tản bộ, thế thì mọi hành động hướng đích biến mất vì chúng mang tới
khổ. Những mục đích đó là mục đích của bạn, và chúng bao giờ cũng chống lại mục
đích của cái toàn thể. Chúng va chạm với càn khôn, và một cách tự nhiên, bạn bị
đánh bại; bạn không thể đánh bại được càn khôn. Thế thì có thất vọng. Nếu mục
đích của bạn không được hoàn thành, có thất vọng và bạn sẽ trong khổ. Nếu mục
đích của bạn được hoàn thành bản ngã của bạn được thổi phồng, điều đó sẽ tạo ra
khổ. Hoặc bạn thành công hay thất bại - chỉ hai điều này là khả năng - nhưng
theo cả hai cách bạn sẽ khổ.
Quên mọi mục đích đi. Sống trong khoảnh
khắc. Tận hưởng khoảnh khắc tới khả năng đầy đủ nhất của nó; vắt kiệt nó nhiều
nhất bạn có thể làm - toàn thể nước quả của nó; nhưng có vậy thôi - không có
tương lai trong nó. Khi một người bắt đầu sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc
người đó đã học cách sống. Không bao giờ hi sinh hiện tại cho tương lai: đó là
nghĩa của tản bộ bởi bản thân người ta.
Thiền nhân giống như đứa trẻ nhặt sỏi
trên bãi biển chỉ tận hưởng ánh mặt trời và không khí mặn trong lành và tiếng gầm
của sóng và sự bao la - chỉ niềm vui chạy tung tăng đây đó, và nhặt vỏ sò và đá
mầu chẳng vì chủ định chút nào. Chúng là vô dụng - chúng không thể được bán ở
bãi chợ như hàng hoá. Chỉ xem đứa trẻ chơi trên bãi biển làm những lâu đài cát
- không ai định sống trong đó, toàn thể hoạt động này chỉ là chơi đùa. Niềm vui
là trong việc làm lâu đài, và thế rồi cùng đứa trẻ đó sẽ phá lâu đài đi. Và
nhìn đứa trẻ khi nó phá lâu đài - nó nhảy, la hét inh ỏi trong niềm vui thế
nào. Nó đã làm ra lâu đài, nó đã phá huỷ lâu đài.
Học từ đứa trẻ cách sống, học từ trẻ con
cách biến đổi phẩm chất công việc của bạn. Một khi nó trở thành chơi đùa, bạn
là người tôn giáo.
Nhưng nhìn vào trạng thái không may của
thế giới này. Người tôn giáo trở nên rất rất có động cơ. Cái gọi là người tôn
giáo không thể chơi đùa chút nào; ông ta trở nên rất nghiêm chỉnh.
Có lần chuyện xảy ra là một nhà lãnh đạo
chính trị tới dự một trong các trại của tôi ở Mahabaleshwar. Ông ta nổi tiếng ở
Ấn Độ như người cha của nghị viện Ấn Độ vì ông ta vẫn còn là nghị viên MP trong
năm mươi năm. Ngày đầu tiên ông ta xem.
Đến tối ông ta tới tôi và ông ta nói 'Mọi thứ đều được, nhưng đôi điều làm tôi
khó chịu - tôi đã thấy bốn sannyasin của thầy chơi bài. Làm sao sannyasin có thể
chơi bài được? Đây là loại tính chất sannyas gì vậy?'
Ông ta thực sự bị khó chịu, và tôi có thể
hiểu bực dọc của ông ta, không thoải mái của ông ta. Các sannyasin không được mong đợi là chơi đùa; họ
phải nghiêm chỉnh, họ phải mặt dài. Họ không được mong đợi cười, họ chắc chắn không
được mong đợi chơi bài. Và khi tôi nói 'Nhưng cái gì sai trong nó? Nếu họ thích
thú chơi bài, điều đó là hoàn toàn đúng, nó là tính thiền', ông ta lập tức rời
khỏi trại. Ông ta trở nên giận thế; ông ta không thể quan niệm được việc chơi
bài là thiền. Và mọi thiền không là gì ngoài việc chơi bài. Thiền ngụ ý vui
đùa, thiền không là hiện tượng nghiêm chỉnh. Nhưng ông ta đã tới một cách
nghiêm chỉnh - ông ta đã rất già, ông ta đã bẩy mươi nhăm tuổi và chết đang tới
gần, và ông ta muốn có an ninh nào đó
sau chết. Ông ta đã sống cuộc sống rất rất thành công, giờ ông ta muốn thành
công ở cuộc sống kia; ông ta không thể đảm đương được việc là vui đùa. Thời
gian thì ngắn, và thời gian là tiền; thời gian trôi qua nhanh. Ông ta đã tới đó
để học cách nào đó làm sao có cuộc sống thành công trong thế giới kia. Ông ta
không thể hiểu được rằng thế giới kia không phải là thế giới tách rời; thế giới
kia thực chất là trong thế giới này. Nó trở thành việc sẵn có cho tâm trí không
nghiêm chỉnh.
Không nghiêm chỉnh là cánh cửa tới thế giới
kia. Nó là ở đây; nếu bạn là nghiêm chỉnh bạn bỏ lỡ nó, nếu bạn không nghiêm chỉnh
nó đột nhiên mở cánh cửa của nó. Mọi điều huyền bí là sẵn có cho người không
nghiêm chỉnh, đó là lí do tại sao Jesus liên tục lặp đi lặp lại 'Chừng nào ông
chưa giống như trẻ nhỏ ông sẽ không vào trong vương quốc Thượng đế của ta.'
Ông ấy ngụ ý cái gì? Cái đẹp của trẻ nhỏ
là gì? Chúng là chơi đùa; chúng không biết công việc là gì. Công việc là chưa
được biết với chúng; chúng còn chưa rơi vào, chúng chưa phạm tội nguyên thuỷ. Tội
nguyên thuỷ là nghiêm chỉnh. Khoảnh khắc bạn có thể giành lại, phục hồi, đòi lại,
thời thơ ấu của bạn, bạn đã trở thành người tôn giáo.
Ông
ấy bao giờ cũng tự mình bước đi; tự mình đi tản bộ:
Từ
lúc ta nhận ra con đường,
ta
nhận ra ta chẳng liên quan gì với sinh và tử.
Huyền Giác nói
Từ
lúc ta nhận ra con đường,
Ông ấy đang nói về con đường nào? Con đường tới bản thân người ta, con đường từ
mơ tới thực tại, con đường từ ngủ tới thức, con đường từ công việc tới chơi
đùa, con đường từ nghiêm chỉnh tới không nghiêm chỉnh. Nó được gọi là con đường
chỉ để làm biểu dụ; thực ra, nó không phải là con đường.
Mới hôm nọ tôi đã nói cho bạn rằng bạn có
thể ngủ ở Poona và mơ về Philadelphia, và tôi biết có vài người ngủ ở
Philadelphia và mơ về Poona nữa. Đây là cách tâm trí của con người vận hành: nó
bao giờ cũng ở đâu đó khác. Nhưng thực tại của bạn là ở đây, tâm trí của bạn ở
đâu đó khác.
Huyền Giác đang nói về con đường nào?
Quay lại thực tại của bạn, nơi bạn hiện hữu. Lắng nghe thân thể bạn và điều đó
sẽ cho bạn manh mối. Tâm trí bao giờ
cũng mơ, thân thể không thể mơ - thân thể đơn giản ở đây, thân thể không
thể lừa dối, chỉ tâm trí lừa dối. Lắng nghe thân thể, đi vào trong giác quan của
bạn, đi vào trong thân thể bạn.
Và đó là
một trong những cái hại lớn nhất mà cái gọi là tôn giáo đã làm cho nhân
loại: họ đã giúp mọi người trở nên ngày càng trí óc hơn, họ đã giúp mọi người
trở nên ngày càng tâm trí hơn. Và khi con người sống trong tâm trí, con người bị
tâm thần. Họ đã dạy mọi người chống lại thân thể mình. Và thân thể là thực.
Thân thể tồn tại trong Thượng đế, thở trong Thượng đế; thân thể đã có đó, một
phần của Thượng đế, chúng dao động trong Thượng đế. Tâm trí không là một phần của Thượng đế, nó là cuộc
hành trình riêng tư của bạn mặc dầu nó không thể đưa bạn tới bất kì chỗ nào. Nó không thể đưa được
- nó là bất lực, nhưng nó có thể mơ, nó có thể tạo ra mơ đẹp. Nó có thể quyến
rũ bạn và bạn có thể bắt đầu đi theo vết những mơ đó cho nên bạn đi ngày một xa
hơn khỏi thực tại của bạn.
Con đường chỉ là biểu dụ. Tôi đã nói với
bạn rằng nếu bạn ở Philadelphia và mơ, và đột nhiên tôi gọi bạn 'Về nhà đi' bạn
có hỏi tôi đi đâu, đáp chuyến tầu hoả nào, hay hãng hàng không nào? Bạn có đi tới
Krishna Mohammed để hỏi về hàng không Ấn Độ không? Đằng nào thì người đó cũng
không làm việc cho Hàng không Ấn Độ, người đó làm việc cho Hàng không Rajneesh,
nhưng đó là biểu dụ - không máy bay nào ở đây, không hãng hàng không nào. Người
ta chỉ phải thức dậy. Người ta chỉ phải quay về chỗ thân thể của người ta.
Nghe theo thân thể bạn đi, thân thể là bí
mật để tìm ra con đường.
Từ
lúc ta nhận ra con đường,
ta
nhận ra ta chẳng liên quan gì với sinh và tử.
Có hai loại người trên thế giới: một, người rất quan tâm tới sinh, trong
sự sống, trong thế giới, và rất sợ chết.
Bây giờ, đó là kiểu tâm trí rất ngu; nếu
bạn bám lấy sinh, làm sao bạn có thể tránh được chết? - sinh ngụ ý nó. Điều cần
thiết của sinh là đem tới chết. Không thể có bắt đầu mà không có kết thúc; nếu
bắt đầu có đó, kết thúc nhất định có đó - kết thúc được ngụ ý trong bắt đầu;
alpha chứa omega. Bây giờ, mọi người quá quan tâm tới sinh và sống và, một cách
tự nhiên, rất sợ chết. Họ càng trở nên bị ám ảnh với sống, họ càng trở nên sợ
chết. Nhưng sống mang chết tới, sinh mang tử tới, sinh là chuyển động liên tục
tới tử. Bạn không thể tránh được nó cho nên bạn sống một loại run rẩy, trong sợ,
trong một loại kinh hãi.
Soren Kierkegaard thường nói rằng con người
sống trong kinh hãi. Con người không cần sống trong kinh hãi, con người chọn sống
trong kinh hãi. Nếu bạn bám lấy sinh, bạn sẽ sợ tử.
Và có những người rất bị ám ảnh với chết
nữa - kiểu kia, kiểu tôn giáo. Họ không quan tâm tới sống, toàn thể mối quan
tâm của họ là chết: làm sao đi vào trong các cõi ở bên ngoài chết, cõi trời và
thiên đường, và làm sao tránh địa ngục, và mọi thứ như thế. Toàn thể mối quan
tâm của họ là chết.
Một người một lần tới tôi và anh ta hỏi
'Tôi muốn biết cái gì đó về kiếp sau.' Tôi hỏi anh ta 'Bạn đã biết bất kì cái
gì về sống chưa? Nếu bạn không biết bất kì cái gì về sống, làm sao bạn có thể
biết bất kì cái gì về kiếp sau?' Anh ta cố giải thích - anh ta nghĩ tôi chắc đã
không hiểu câu hỏi của anh ta, anh ta nói 'Tôi ngụ ý, cái gì xảy ra sau chết?'
Tôi nói 'Tôi cũng muốn nói với bạn rằng nhấn mạnh của tôi là: trước hết cố xem
cái gì xảy ra trước cái chết. Bạn thậm chí đã không nhìn vào cái đang xảy ra và
bạn quan tâm tới cái sẽ xảy ra sau chết sao? Mối quan tâm của bạn là trừu tượng,
triết lí, siêu hình.' Bạn có thể chăng tơ và thêu dệt các lí thuyết, bạn có thể
bị mắc vào trong các ý tưởng và ý nghĩ của bạn hay vào trong ý tưởng và ý nghĩ
của ai đó khác.
Huyền Giác nói
Từ
lúc ta nhận ra con đường,
ta
nhận ra ta chẳng liên quan gì với sinh và tử.
Khoảnh khắc tôi thức tỉnh với thực tại,
khoảnh khắc tôi đã thấy trạng thái thứ tư của tâm thức, turiya, tôi đột nhiên
thấy không có sinh và không có tử. Sự sống liên tục; nó chỉ đổi hình tướng.
Hình tướng được sinh ra và hình tướng chết đi, nhưng sự sống bản chất là vĩnh hằng.
Và bạn là sự sống bản chất đó - chỉ quần áo thay đổi, vỏ ngoài thay đổi, nhà
thay đổi - nhưng cốt lõi bản chất liên tục mãi.
Mới hôm nọ đã có một câu hỏi. Ai đó đã hỏi
'Thầy là ai? Thầy đã tới từ đâu? Chủ định của thầy ở đây là gì? Thầy có phải là
đấng cứu tinh không?' Tôi đã không tới từ bất kì đâu. Tôi bao giờ cũng ở đây
cũng như bạn bao giờ cũng ở đây, và chúng ta bao giờ cũng sẽ ở đây.
Raman Maharshi sắp chết, và một đệ tử hỏi
'Thầy đi đâu đấy? Tại sao thầy bỏ chúng tôi?' Và ông ấy mở mắt ra, và ông ấy cười
và nói 'Ta có thể đi đâu được? Không có đâu mà đi! Ta bao giờ cũng sẽ ở đây.'
Ông ấy cười, nhắm mắt lại và chết.
Tôi có thể đi đâu? Không có đâu mà đi!
Tôi sẽ ở đây. Chúng ta không tới từ bất kì chỗ nào, chúng ta không đi bất kì chỗ
nào, chúng ta bao giờ cũng ở đây - chúng ta là sự tồn tại này. Vâng, hình tướng
thay đổi, sóng thay đổi, đại dương còn lại.
Và bạn hỏi 'Chủ định của thầy là gì?'
Không chủ định chút nào. Chủ định nào có thể có đó? Cây thì xanh, và hoa hồng
thì đỏ - có thể có chủ định gì?
Và bạn đã hỏi 'Thầy có phải là đấng cứu
tinh không?' Bây giờ, từ đó phải được hiểu; nó là phương cách. Người Do Thái đã
bỏ lỡ toàn thể vấn đề, và người Ki tô giáo cũng vậy. Đó là phương cách, đó là
phương cách để tạo ra chờ đợi, không gì khác. Đó là phương cách cổ đại nhất. Do
Thái giáo đã dùng nó, nhưng bằng cách nào đó ngôn ngữ đã bị quên lãng - như điều
đó bao giờ cũng xảy ra. Cố hiểu phương
cách này, thế thì cái nhìn mới sẽ mở ra cho bạn. Đấng cứu tinh không là gì
ngoài cái cớ để chờ đợi. 'Đấng cứu tinh
đang tới!'... điều đó bao giờ cũng khẩn thiết. 'Đấng cứu tinh đang tới! Bất kì
ngày nào ông ấy sẽ ở đây.' Bạn phải sẵn sàng, bạn phải học cách đợi, và bạn phải
học cách là kiên nhẫn.
Nhớ mọi điều tôi đã từng nói cho bạn về đợi:
đợi là lời nguyện. Nếu bạn có thể đợi, và nếu bạn không vội vàng... Nếu bạn
không đòi hỏi và bạn đơn giản đợi - thậm chí không đợi cái gì đó nói riêng, chỉ
đợi - cái gì đó sẽ xảy ra. Nó chỉ là cái nháy mắt, bao giờ cũng là cái nháy mắt.
Trạng thái thức và đợi đó sẽ giúp bạn vẫn còn mở, tỉnh táo, quan sát, nhìn.
Nhớ ngày mà khách tới, và bưu tá tới và bạn
xô ra cửa - bạn tỉnh táo thế. Mọi ngày bưu tá đều tới, ông ấy gõ cửa và không
ai nghe. Khi bạn đợi khách, chỉ làn gió nhẹ thổi qua rặng thông, và bạn xô ra cửa
- 'Có thể người đó đã tới. Có thể đây là tiếng bước chân người đó.' Bất kì cái
gì đều gợi ra cái nhìn này.
Do Thái giáo đã đóng góp vài điều cho thế
giới; đây là một trong những điều hay nhất: rằng đấng cứu tinh đang tới. Nhưng
bao giờ cũng nhớ, vì nó là phương cách, người Do Thái không thể tin được điều
đó khi một đấng cứu tinh tuyên bố 'Ta đã tới'. Họ không thể tin được người đó
vì người đó đang cố phá huỷ toàn thể phương cách của họ. Cho nên, khi Jesus tới
và nói 'Ta đã tới', họ phải đóng đinh ông ấy, họ phải cứu phương cách của họ, họ
phải phủ nhận Jesus. Đấng cứu tinh bao giờ cũng tới, nhưng không thể được phép.
Thấy ra vấn đề đi. Nếu đấng cứu tinh tới thế thì mọi thứ bị kết thúc, thế thì
làm sao bạn sẽ đợi được?
Đấng cứu tinh vẫn đang tới nhưng họ không
thể được chấp nhận. 'Họ không phải là đấng cứu tinh chúng ta đang đợi. Ông ấy
bao giờ cũng vẫn còn đang tới, chỉ thế thì chúng ta có thể vẫn còn đợi.'
Thế rồi người Ki tô giáo lấy phương cách
này: lần tới thứ hai của Christ. Bạn nghĩ họ sẽ tin vào tôi không nếu tôi tuyên
bố 'Ta là Christ thứ hai. Ta đã tới.'? 'Không' họ sẽ nói; 'Làm sao ông có thể
là Christ thứ hai được?' Họ sẽ tìm ra cả nghìn lẻ một lỗi; cũng như người Do
Thái đã tìm ra lỗi với Jesus họ sẽ tìm ra lỗi với tôi. Lí do là ở chỗ việc tới
thứ hai là cùng phương thức trong cái tên khác; điều đó không thể được phép. Đấng
cứu tinh sẽ tới, nhưng họ sẽ không được chấp nhận là đấng cứu tinh; đấng cứu
tinh phải vẫn còn đó trong tương lai để cho bạn giữ tỉnh táo. Và nếu phương
cách nào bắt giữ tim bạn, nó có giá trị mênh mông - nhiều giá trị hơn bất kì đấng
cứu tinh nào, vì phương cách này có thể tạo ra hàng nghìn và hàng nghìn người
chứng ngộ.
Tôi đã nghe...
Trong tín ngưỡng Hassid, đồng thời với việc
ca ngợi huyền bí về bản tính đấng cứu tinh được truyền qua thầy, liên tục tồn tại
mong đợi về một đấng cứu tinh vương giả, quyền năng. Khi ông ấy xuất hiện, toàn thể hành tinh sẽ
được biến đổi trong một chớp loé chói sáng, không bên trong, như nó đã xuất hiện,
mà cả bên ngoài và công khai. Không thành vấn đề bao nhiêu thế kỉ trôi qua
tương ứng với tính toán của con người việc khải lộ vũ trụ này bao giờ cũng vẫn
còn là tương lai sắp xảy ra. Người Hassid
sống với tương lai này thân thiết tới mức nó tràn ngập khắp hiện tại.
Giáo sĩ Menachem Mendel, như mọi thầy
Hassid, đã sống một cách toàn bộ trong mong đợi của ông ấy về việc tới của đấng cứu tinh Mọi sáng ông ấy sẽ
đi tới cửa sổ, nhìn ra ngoài, và buồn bã nhận xét 'Ngài chưa tới, vì thế giới vẫn
là vậy' - mọi sáng. Cả đêm ông ấy đợi và cầu nguyện, và trong giấc ngủ ông ấy sẽ mơ và đợi và quan sát. Và sáng sớm ông ấy
sẽ xô ra cửa sở và mở cửa sổ và nhìn ra ngoài, và nói 'Ngài chưa tới, vì thế giới
vẫn là vậy.'
Jesus đã tới nhưng thế giới đã vẫn là vậy,
đó là lí do tại sao người Do Thái đã từ chối ông ấy. Jesus đã biến đổi cuộc sống
của vài người, nhưng điều đó không phải là vấn đề; khi đấng cứu tinh tới, 'toàn
thể hành tinh sẽ được biến đổi trong chớp loé chói sáng'. Thế giới đã vẫn còn như
vậy. Jesus đã tới và đã đi, và thế giới không được cứu, cho nên ông ấy không phải
là đấng cứu tinh.
Ai là đấng cứu tinh? Moses, Krishna, Phật,
Mahavir, Zarathustra, Lão Tử chăng? - không ai cả, vì thế giới vẫn còn như vậy. Vâng, họ đã biến đổi cuộc
sống của vài người, nhưng đó không phải là vấn đề. Đấng cứu tinh là lí tưởng
không thể được. Nó phải là không thể được; nếu nó được làm thành có thể được,
thế thì bất kì người nào cũng sẽ tuyên bố 'Ta là đấng cứu tinh', và nó bị kết
thúc. Và đã từng có những đấng cứu tinh - Phật đã vậy, Jesus đã vậy. Đã từng có
các đấng cứu tinh, nhưng vị cứu tinh
này, người cuối cùng - người đó không bao giờ tới. Người đó bao giờ cũng sắp tới,
đang tới; bạn phải đợi người đó. Việc đợi
đó biến đổi bạn: nó là phương cách thiền.
Cho nên tôi không thể tuyên bố rằng tôi
là đấng cứu tinh. Và tôi là đấng cứu tinh. Nhưng tôi không thể tuyên bố điều đó
vì tôi không thích phá huỷ phương cách hay đó; phương cách có giá trị mênh mông
- nó đáng được bảo tồn. Nhưng tôi không tới từ bất kì đâu, bạn cũng không tới từ
bất kì đâu. Và tôi không đi bất kì đâu, mà bạn cũng không đi bất kì đâu. Chúng
ta bao giờ cũng ở đây, chúng ta bao giờ cũng sẽ ở đây.
Và đây chỉ là trò chơi mà chúng ta đã quyết
định chơi: tôi là Thầy và bạn là đệ tử - chỉ là trò chơi, trò đùa. Bạn phải
tuân theo qui tắc của đệ tử và tôi phải tuân theo qui tắc của Thầy, nhưng nó là
trò chơi bài, trò đánh bài. Không nghiêm chỉnh đi. Chơi đùa đi.
Và tôi không chỉ là đấng cứu tinh, bạn cũng vậy đấy, vì đấng cứu
tinh không là gì ngoài việc thức tỉnh trong bạn. Nó là phẩm chất trong bạn, và
phẩm chất đó giải thoát; không cái gì khác, không ai khác có thể giải thoát bạn
từ bên ngoài. Phẩm chất đó, nhận biết đó, turiya đó, cái thứ tư, khi nó chiếm
quyền sở hữu bạn, nó giải thoát. Nó là việc
cứu rỗi.
Bước
là Thiền, ngồi là Thiền;
Nói
hay im lặng, động, bất động, - điều cốt yếu là thoải mái.
Và khi bạn đã hiểu cái thứ tư, khi bạn đã
đi vào trong cái thứ tư, thế thì bước là Thiền, thế thì bạn không cần thực hành
bất kì loại thiền nào. Thế thì mọi điều bạn làm đều là thiền; thế thì bước là
thiền, thế thì ngồi là thiền. Thiền là phẩm chất của hiện hữu mà bạn mang vào
cho hành động. Nó không phải là hành động đặc thù, không phải là bạn làm cái
này thì nó là thiền - rằng bạn ngồi theo tư thế nào đó, siddhasana, và bạn giữ
xương sống dựng thẳng, và bạn để mắt nhắm hay bạn nhìn vào chỏm mũi của bạn hay
bạn quan sát hơi thở của bạn, thế thì nó là thiền - không; đây chỉ là những
phương cách cho người bắt đầu.
Mới hôm nọ Vidya đã viết một bức thư hay
cho tôi. Cô ấy nói cô ấy đã thử thiền một ngày và đã bị đau nửa đầu lắm và nửa
thân cô ấy trở nên bị tê liệt; điều đó đã chữa cho cô ấy khỏi thiền. Tôi thích
điều đó. Tôi muốn tất cả các bạn đều được chữa khỏi thiền; điều đó phải xảy ra
cho mọi người.
Người ta phải không chỉ được chữa khỏi bệnh,
người ta phải được chữa khỏi thuốc nữa;
bằng không, đôi khi thuốc trở nên nguy hiểm hơn là bản thân bệnh - người ta có
thể trở nên bị ám ảnh với thuốc.
Bạn có biết rằng các từ 'meditation-thiền'
và 'medicine- thuốc' tới từ cùng một gốc không? Thiền là một loại thuốc - việc
dùng nó chỉ cho thời gian hiện tại - một khi bạn đã học được phẩm chất này, thế
thì bạn không cần làm bất kì thiền đặc biệt nào, thế thì thiền phải lan toả khắp
cuộc sống của bạn. Chỉ khi bạn có tính thiền hai mươi bốn giờ một ngày thế thì
bạn có thể đạt tới, thế thì bạn đã đạt tới. Ngay cả ngủ cũng là thiền.
Bước
là Thiền, ngồi là Thiền…
Thế thì phẩm chất này sẽ là cái gì? Có
tính quan sát, tỉnh táo, vui vẻ, không động cơ, định tâm, yêu thương, tuôn chảy,
người ta bước đi. Và bước đi là tản bộ. Yêu thương, tỉnh táo, quan sát, người
ta ngồi, không động cơ - không ngồi vì bất
kì cái gì nói riêng, chỉ tận hưởng việc ngồi không làm gì là đẹp thế nào, thảnh
thơi làm sao, nghỉ ngơi làm sao. Sau việc bước đi lâu, bạn ngồi dưới cây, và
làn gió thoảng tới và làm mát bạn.
Từng khoảnh khắc người ta phải thoải mái
với bản thân mình - không cố hoàn thiện, không tu luyện bất kì cái gì, không thực
hành bất kì cái gì.
Bước
là Thiền, ngồi là Thiền;
Nói
hay im lặng, động, bất động, - điều cốt yếu là thoải mái.
Điều cốt yếu là thoải mái: đó là từ khoá.
Điều cốt yếu là thoải mái: đó là phát biểu mấu chốt. Làm bất kì cái gì bạn đang
làm, nhưng ở cốt lõi sâu nhất vẫn còn thoải mái, điềm tĩnh, bình thản, định tâm.
Thế thì bạn có thể ở trong đám đông và bạn sẽ không là đám đông, thế thì bạn có thể ở trong bãi chợ và bãi chợ sẽ
không đi vào trong bạn. Thế thì bạn có thể ở bất kì chỗ nào và bạn sẽ vẫn còn
không bị ô nhiễm; sự thuần khiết của bạn sẽ vẫn còn nguyên si, hồn nhiên của bạn
không bị quấy rối. Điều cốt yếu là thoải mái: Đó là phẩm chất mà người ta phải
mang tới trong từng hành động; không hành động nào phải bị loại trừ khỏi nó. Nếu
bạn sợ bất kì hành động nào và bạn loại trừ nó, cái đó sẽ còn là rào chắn, và
cái đó sẽ còn là cạm bẫy cho bạn, và bất
kì ngày nào bạn sẽ rơi vào trong nó.
Để phẩm chất này xuyên thấu vào mọi điều
bạn làm: ăn, ngủ, làm tình, bước đi, nói, là im lặng. Để phẩm chất này thấm vào
sự tồn tại của bạn, toả khắp sự tồn tại của bạn. Để phẩm chất này bao giờ và
bao giờ cũng bao quanh bạn; ngay cả rơi vào giấc ngủ vẫn cảm thấy được bao
quanh bởi nó. Và bạn sẽ sớm thấy rằng
thiền không phải là hành động của bạn, không là hoạt động; nó có sắc thái nào
đó, phẩm chất âm nhạc nào đó trong con người bạn, sự hài hoà nào đó, có giai điệu,
mà bạn mang tới mọi hành động - dù bạn
đang làm bất kì cái gì.
Đó là lí do tại sao Thiền nhân nói: Mang
nước từ giếng, chẻ củi và người ta là ở
nhà - không có vấn đề gì. Người ta có thể làm bất kì loại công việc nào và dầu
vậy thiền vẫn liên tục tồn tại; nó trở thành chính cuộc sống của bạn.
Trang Tử nói: nơm cá tồn tại vì cá; một
khi ông bắt được cá, ông có thể quên nơm. Bẫy thỏ tồn tại vì thỏ; một khi ông
đã bắt được thỏ, ông có thể quên bẫy. Lời tồn tại vì nghĩa, một khi ông bắt được
nghĩa, ông có thể quên lời. Ta có thể tìm đâu một người đã quên lời, để cho ta
có thể có lời với người đó?
Thiền
là cái bẫy; một khi phẩm chất này được bắt giữ,
điều
cốt yếu là thoải mái... bẫy có thể bị quên đi.
Đi
vào núi sâu
ta
sống trong hiu quạnh yên tĩnh.
Núi
cao, thung sâu
khi
người ta sống dưới cây thông cổ.
Điều cốt yếu là thoải mái... thế thì bạn
đã đi vào núi sâu. Bạn không cần đi lên Himalayas, Himalayas tới với bạn. Đã có Himalayas bên trong bạn.
Không cái gì là thiếu ở đó; Himalayas có đó - những đỉnh cao, Thái Bình Dương
có đó - chiều sâu. Mọi chiều cao và mọi chiều sâu đều có đó - những chiều cao
vô tận và chiều sâu vô tận có đó. Và im lặng nguyên thuỷ ngự trị ở đó, không bị
quấy rối. Ở đó trong cốt lõi bên trong nhất của bạn, bạn là trinh nguyên, và bạn
không thể mất được nó - không có cách nào để mất nó; hồn nhiên của bạn là tuyệt
đối ở đó - thậm chí không một hạt bụi nào đã vào đó. Gương là tuyệt đối trong
suốt khi bạn có thể bước trong Thiền, khi bạn có thể ngồi trong Thiền.
Khi Bước là Thiền và ngồi là Thiền, nói
hay im lặng, động hay bất động - điều đó không tạo ra khác biệt, nó tất cả là
như nhau - và Điều cốt yếu là thoải mái, bạn đang đi vào một thế giới mới, lãnh
thổ mới: bầu trời bên trong.
Đi
vào núi sâu
ta
sống trong hiu quạnh yên tĩnh.
Lần nữa nhớ, hiu quạnh không có nghĩa ẩn
dật, cũng như một mình không bao giờ có nghĩa đơn độc. Đơn độc đơn giản nói người
khác bị thiếu, một mình nói người ta đang tận hưởng bản thân người ta. Đơn độc
là trong tham chiếu tới người khác mà bạn thiếu, một mình là sự hiện diện của bản
thân bạn.
Ông
ấy bao giờ cũng tự mình bước đi; tự mình đi tản bộ:
Đây là một mình, và hiu quạnh cũng vậy.
Hiu quạnh là một mình. Bạn có thể trở trong hiu quạnh bất kì chỗ nào, nhưng bạn
không thể là đơn độc ở bất kì chỗ nào. Ẩn dật nghĩa là không có người nào, bạn
một mình; bạn phải đi, bạn phải đi xa khỏi mọi người. Ẩn dật là chống lại thế
giới, hiu quạnh không chống lại thế giới. Hiu quạnh là cái gì đó lớn lao, ẩn dật
là cái gì đó rất bình thường, trần tục.
Đi
vào núi sâu
ta
sống trong hiu quạnh yên tĩnh.
Núi
cao, thung sâu
khi
người ta sống dưới cây thông cổ.
Trang Tử nói: Mọi thứ có cái kia của nó,
mọi thứ có cái này của nó. Cái kia tới từ cái này, và cái này phụ thuộc vào cái
kia - điều định nói là cái này và cái kia cho sinh ra lẫn nhau. Nhưng nơi có
sinh, cũng phải có tử. Cái này của hiền nhân cũng là cái kia, cái kia của ông ấy
cũng là cái này. Trạng thái mà trong đó cái này và cái kia không còn tìm thấy cái đối lập của chúng được
gọi là 'chốt xoay của Đạo'.
Nơi cái này và cái kia trở thành một, nơi
thế giới này và thế giới kia trở thành một, nơi vật chất và tâm trí trở thành một,
cái đó được gọi là 'chốt xoay của Đạo'.
Huyền Giác nói
Từ
lúc ta nhận ra con đường…
Đây là con đường ông ấy đang nói tới. Khoảnh
khắc bạn nhận ra rằng tất cả là một; chết và sống, cái này và cái kia - tất cả
là một, ta nhận ra ta chẳng liên quan gì với sinh và tử.
Thế thì ta biết ta không bao giờ có bất kì bắt đầu nào và ta sẽ
không bao giờ có bất kì kết thúc nào. Thế thì ta biết cái toàn thể này thuộc về
ta và ta thuộc về cái toàn thể này. Và không có nhu cầu làm bất kì phân biệt
nào, không có nhu cầu làm bất kì phân loại nào rằng 'cái này là thấp hơn và cái
kia là cao hơn, cái này là linh thiêng và cái kia là trần tục'. Nếu bạn đã đi
vào con đường này - con đường mang bạn từ mơ tới thực tại, từ phân chia tới bất
nhị, từ nhiều tới một - thế thì bạn sẽ thấy mọi cái đẹp mà bạn đã từng tìm kiếm
ở bên ngoài lại là ở bên trong bạn, và mọi chiều cao mà bạn đã từng cố soải
cánh bay ra ngoài đều ở bên trong bạn.
Con người cố đạt tới các hành tinh, con
người cố đạt tới mặt trăng và tới sao Hoả và thế rồi tới các ngôi sao, là cuộc
hành trình giả. Sự thôi thúc không dành cho trăng bên ngoài, có trăng bên trong
nữa - sự thôi thúc là dành cho nó. Trăng bên ngoài bạn có thể đạt tới và không
cái gì sẽ xảy ra qua nó. Con người đã lên tới mặt trăng - cái gì đã xảy ra? Con
người đã lên tới Everest, đỉnh cao nhất thế giới - cái gì đã xảy ra? Dường như
đây là những thứ thay thế, chiều cao thực là cái gì đó khác, cuộc hành trình thực
là ở đâu đó khác.
Một chuyện ngụ ngôn cổ...
Ngày xưa có một nước mà bao gồm mọi nước
của thế giới. Và trong nước đó có một thị trấn được sát nhập từ mọi thị trấn của
đất nước đó; và trong thị trấn đó có một phố mà trong đó được tụ tập mọi phố của
thị trấn; và trên phố đó có một ngôi nhà che chở cho mọi nhà của phố đó; và
trong nhà đó có một phòng và trong phòng đó có một người được nhân cách hoá cho
mọi người của mọi nước, và người đó cười và cười mãi. Không ai đã bao giờ cười
như điều đó trước đây.
Tại sao người đó cười? Người đó cười vì
người đó đã hiểu rằng người đó là tất cả. Người đó cười vì người đó đã hiểu cái
ngu xuẩn của việc tìm kiếm. Không có nhu cầu tìm; mọi thứ đã được cho từ chính
lúc bắt đầu.
Đây là lưu ý Thiền liên tục: rằng mọi người
là Phật từ chính lúc bắt đầu, bạn chỉ phải bước ra khỏi mơ của bạn và nhìn thực
tại của con người bạn.
Người này đang cười - người này là chuyện
ngụ ngôn. Đây là tiếng cười trong trẻo của chứng ngộ, điều nhận thấy mọi nước,
thị trấn, phố và người là tâm trí nguyên thuỷ. Khi cái nhiều biến mất và cái một
được nhận ra, người ta đã thấy, người ta
đã về nhà. Và về nhà là mọi điều thành vấn
đề. Và thế thì người ta cười. Mọi người chứng ngộ đã cười - cười vào toàn thể
cái ngớ ngẩn của mọi thứ, cười vào toàn thể nỗ lực của nhiều nhiều kiếp thế vì
cái gì đó mà đã có bên trong họ, và họ cứ nhìn ra ngoài và họ chạy và chạy, và
săn đuổi, và làm cho bản thân họ phát rồ.
Tôi đã nghe...
Một Thiền sư viết về trải nghiệm tỏ ngộ đầu
tiên của mình...
Vào nửa đêm tôi đột nhiên tỉnh dậy. Ban đầu
tâm trí tôi lờ mờ chẳng biết gì, thế rồi đột nhiên câu hỏi đó nhoáng lên trong
tâm thức tôi..
Câu hỏi gì? - câu hỏi mà phải đã được Thầy
cho: công án, lời thách đố.
... câu hỏi đó nhoáng lên trong tâm thức
của tôi. Tôi đã đi tới nhận ra rằng Tâm trí không gì khác hơn núi, sông, và
sao.
Có thể ông ấy đã thiền về tiếng vỗ tay của
một bàn tay, vì chỉ cái một hiện hữu, cho nên mọi âm thanh là âm thanh của một
bàn tay. Nó không phải là đối thoại, sự tồn tại là độc thoại. Nó là cái một vì
chỉ có một: Thượng đế đang nói với Thượng đế. Đó là lí do tại sao tôi nói tôi
đã chọn là Thầy và bạn đã chọn là đệ tử; đây là trò chơi. Thượng đế là Thầy và
Thượng đế là đệ tử. Nó là độc thoại: ngài nói, ngài nghe; ngài múa, ngài khen;
ngài là nghệ sĩ và ngài là khán giả.
Tôi đã đi tới nhận ra, Thiền sư nhớ lại...
Tôi đã đi tới nhận ra rõ ràng rằng Tâm trí không khác gì hơn núi, sông, và đất
rộng bao la này, mặt trời, và mặt trăng, và các ngôi sao. Viên ngọc của tâm trí
nguyên thuỷ, kho báu của bản tính thiêng liêng, được khám phá tại nhà trong cõi
nhận biết nguyên thuỷ mà xuất hiện như sông, núi, sao và người. Khôi hài siêu
việt của khám phá này là tràn ngập, Thiền sư tiếp tục nói. Ngay lập tức, như
sóng dâng lên, niềm vui sướng vô cùng trào lên trong tôi, một cơn xoáy lốc thực
sự của vui sướng, khi tôi cười to và hoang dã 'Ha, ha, ha, ha, ha, ha! Không có
suy luận gì ở đây, không suy luận chút nào! Ha, ha, ha!' bầu trời trống rỗng
chia ra làm đôi, thế rồi mở cái mồm khổng lồ của nó và bắt đầu cười khoái trá
'Ha, ha, ha!'
Bạn đang săn cái đuôi của riêng bạn. Bạn
có thể liên tục săn nó mãi mãi và bạn sẽ
không có khả năng bắt được nó. Dừng lại đi, và nó là của bạn. Việc dừng lại là
con đường, không đi nữa là con đường, không đi bất kì đâu là con đường. Dừng lại.
Dừng mọi mơ, dừng mọi ham muốn, dừng mọi việc hỏi. Và nếu cho dù một khoảnh khắc
bạn có thể làm được điều đó, bạn sẽ thấy tiếng cười siêu việt nảy sinh trong bạn.
Bạn sẽ cười bản thân bạn. Bạn sẽ cười vào toàn thể cái buồn cười của việc tìm
kiếm. Và ngay lập tức nó đã được thấy và tiếng cười đã trào lên trong bạn, thế
thì
Bước
là Thiền, ngồi là Thiền;
Nói
hay im lặng, động, bất động, - điều cốt yếu là thoải mái.
Vì không có đâu mà đi, không có gì mà
tìm, không có gì mà kiếm, không mục đích, không nghiêm chỉnh, điều cốt yếu là
thoải mái. Và trong điều cốt yếu đó
Đi
vào núi sâu
ta
sống trong hiu quạnh yên tĩnh.
Người ta đi vào trong Himalayas con người
riêng của người ta và sống ở đó trong hiu quạnh hoàn toàn.
Núi
cao, thung sâu
khi
người ta sống dưới cây thông cổ.
Cây thông cổ là biểu dụ. Thiền nhân dùng
điều đó; đôi khi họ nói 'ông già', đôi khi họ nói 'con người nguyên bản', đôi
khi họ nói 'mặt nguyên bản'. Huyền Giác có nhiều tính thơ ca hơn, ông ấy nói
'ngồi dưới cây thông cổ.' Tâm thức nguyên thuỷ là cây thông cổ; nó bao giờ cũng
ở đây - nó là chính bản tính của sự tồn tại.
Khi bạn ngồi dưới cây thông cổ của nhận biết, mọi thứ là im lặng và mọi
thứ là vui vẻ, và mọi thức là hoàn toàn phúc lạc.
Không
tìm, thấy.
Không kiếm, dừng lại. Và trong việc dừng
lại đó là bí mật - bí mật của mọi bí mật. Dừng lại, và một khoảnh khắc của việc
dừng lại... và thời gian biến mất. Thấy đấy, khoảnh khắc này không có thời
gian; bạn đã dừng lại, và mọi thứ là im lặng. Và tất cả là một. Đó là nghĩa của
từ 'một mình'; một mình aloneness nghĩa là all-one-ness tính chất tất cả là một.
Dừng lại, và thấy. Và chỉ một kinh nghiệm nhỏ về 'điều cốt yếu là thoải mái',
và toàn thể cuộc sống của bạn được biến đổi.
Giả kim thuật của việc dừng lại là điều
Thiền tất cả là gì. Nếu tôi có thể truyền cho bạn việc dừng lại này, nếu việc
nhìn vào mắt tôi, nếu việc cảm thấy rung động của tôi, đôi khi bạn có thể dừng
lại và bỏ mọi việc tìm, Thượng đế sẽ xô tới bạn. Bạn không cần đi tìm ngài,
ngài đang đợi bạn dừng lại; ngài đơn giản xô vào trong bạn từ mọi phía. Con người
không bao giờ đạt tới Thượng đế. Bất kì khi nào nó xảy ra, nó xảy ra theo cách
khác: con người dừng tìm kiếm và Thượng đế tới với người đó. Điều đó bao giờ
cũng là vậy, và nó bao giờ cũng sẽ là vậy.
Không tìm. Không kiếm, vì mọi việc kiếm
là mơ và mọi việc tìm là ham muốn. Và khi không có ham muốn, người ta đạt tới.
0 Đánh giá