Chương 1. Nổi dậy lớn

Chương 1. Nổi dậy lớn

Price:

Read more

Tôi mở hội bản thân tôi – Osho

Thượng đế không ở đâu, Cuộc sống ở đây bây giờ

Chương 1. Nổi dậy lớn



Powered by RedCircle


Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,

Thạch Đầu nói:

"Pháp môn của ta là do tiên, Phật tuần tự truyền lại, chẳng bàn đến Thiền định tinh tấn, chỉ cầu thông đạt tri kiến của Phật mà nói tâm ấy là Phật.

Tâm, Phật cùng chúng sinh, phiền não và Bồ đề, danh tướng tuy khác, mà bản thể đồng nhất.

Các vị nên giác ngộ tâm linh của mình, biết rõ bản thể, rời xa phân biệt ‘Đoạn’ và ‘Thường’, tâm tính chẳng phân biệt dơ sạch.

Lấy bản thể mà nói, thì trong suốt đầy đủ siêu phàm vượt thánh, còn lấy sự tướng mà nói thì ứng dụng tùy cơ chớ không câu nệ hạn chế, mà nhiệm vận tự tại.

Nhất thiết tồn tại (tam giới, lục đạo) đều là thể hiện Phật tính của tự tâm.

Rời xa Phật tính tự tâm, tất cả như trăng đáy nước, hoa trong gương, hư ảo không thật, trong đó còn có sinh diệt để mà nói ru?

Các vị nếu hiểu được đạo lý trong đó, thì chẳng cần ở tại đây mà tham Thiền làm gì!

Các bạn,

Chào buổi tối. Và tin tốt lành...!

Tối nay chúng ta bắt đầu loại bài nói mới: Tôi mở hội bản thân tôi, Thượng đế không ở đâu: cuộc sống là bây giờ ở đây.

Phát biểu của Friedrich Nietzsche rằng Thượng đế chết, chỉ là biểu tượng vì Thượng đế không bao giờ hiện hữu ngay chỗ đầu tiên - thậm chí không được sinh ra. Làm sao ngài có thể chết được? Nhưng tuyên bố rằng Thượng đế chết là biểu tượng mạnh mẽ vô cùng.

Nó đã là việc thừa nhận rằng chúng ta đã từng tôn thờ giả dối. Và đó không chỉ là việc tôn thờ, chúng ta đã bị phá huỷ bởi điều giả dối. Chúng ta đã bị khai thác bởi giới giáo sĩ thuộc đủ mọi tôn giáo có tổ chức. Nhân phẩm của chúng ta đã bị phá huỷ. Chúng ta đã bị biến thành con rối trong tay của hư cấu.

Tuyên bố của ông ấy rằng Thượng đế chết đơn giản ngụ ý rằng Con người được sinh ra. Đó là phía bên kia của đồng tiền. Và bởi vì con người được sinh ra, con người mang tự do tới thế gian, con người mang niềm vui tới thế gian. Và con người phá huỷ mọi thứ đã bám vào giả dối tối thượng - mọi mê tín, cõi trời và địa ngục, mọi thượng đế học, mọi tôn giáo... mọi loại lập chương trình giả cho sự hiện diện của con người. Chúng cũng đã chết cùng Thượng đế.

Do đó, tôi mở hội bản thân tôi và tôi mở hội các bạn.

Phát biểu của Friedrich Nietzsche cũng bao gồm phần khác: "Thượng đế chết, do đó con người tự do." Thượng đế đã là cảnh nô lệ của con người, ngài đã là sự bó buộc. Ngài đã là nhà tù không cho phép nhân loại vươn lên những chiều cao tối thượng của nó. Ngài đã giữ toàn thể nhân loại bị thu lại thành loại ngợm, tội nhân. Cái chết của ngài là khoảnh khắc lớn để mở hội.

Cái chết của ngài ngụ ý con người đã tới tuổi trưởng thành. Con người không còn là đứa trẻ và con người không cần hình ảnh người cha. Con người có thể đứng trên chân riêng của mình. Con người không phải là cừu, như mọi tôn giáo đã từng nói cho con người, và con người không cần bất kì người chăn cừu nào. Jesus, Krishna, Mahavira, Mohammed, Moses... không nhà tiên tri nào được cần, không đấng cứu tinh nào được cần, không sứ giả nào của Thượng đế được cần. Họ toàn là những người thích làm lớn, và nhân danh Thượng đế họ đã đẩy tâm thức con người vào mức thấp nhất của sự tồn tại.

Cái chết của Thượng đế chùi sạch toàn thể bầu trời bên ngoài và chùi sạch thế giới bên trong nữa, một cách hoàn toàn - chùi sạch bạn khỏi mọi hệ thống niềm tin, chùi sạch bạn khỏi mọi định kiến, chùi sạch bạn khỏi mọi mặc cảm. Đó là điều ông ấy đã ngụ ý bởi tự do. Tự do khỏi mọi mặc cảm đã là có thể chỉ nếu Thượng đế chết. Và một khi bạn tự do khỏi Thượng đế bạn có toàn thể bầu trời cho bản thân bạn, cả bên trong và bên ngoài - bạn có thể giang đôi cánh bay vào tự do hoàn toàn. Không có bất kì cấm đoán nào, và không có bất kì kìm nén nào, bạn có thể sống cuộc sống của bạn với niềm vui, với bài ca, với điệu múa.

Thượng đế không có đó là một biến cố lớn, biến cố lớn nhất đã từng xảy ra trong toàn thể lịch sử nhân loại. Việc thiếu vắng Thượng đế cho bạn sự hiện diện vững chắc nào đó. Lần đầu tiên bạn là các cá nhân, các hồn độc lập - không phải là sinh vật đã được tạo ra, mà là tâm thức cá nhân đã hiện hữu trong sự tồn tại từ vĩnh hằng tới vĩnh hằng.

Đây là khoảnh khắc vinh quang cho những người có thể hiểu mọi hàm ý của cái chết của Thượng đế. Họ sẽ lập tức mở hội điều đó, vì nó cho bạn cảm nhận mới về chiều hướng, tính duy nhất mới, định mệnh mới. Nó làm cho bạn thành người chủ của định mệnh riêng của bạn. Không ai có đó để hướng dẫn bạn, và không ai có đó để chi phối bạn, và không ai có đó để cho bạn những lời răn.

Lần đầu tiên, trong phát biểu của Nietzsche, con người đã tới tuổi trưởng thành. Nhưng rất ít người đã nghe nói rằng Thượng đế chết và họ vẫn đang tôn thờ ngài. Họ vẫn cầu nguyện trong nhà thờ, trong đền chùa, trong nhà thờ hồi giáo. Họ vẫn đang ôm giữ giả dối dường như nó là chân lí. Và bởi vì giả dối đó toàn thể cuộc sống trở thành rởm. Họ không thể cười, họ không thể tận hưởng. Bổn phận duy nhất của họ, được mọi tôn giáo đề nghị, là thành kẻ tự bạo - hành hạn bản thân bạn nhiều như bạn có thể làm. Bạn càng hành hạ bản thân bạn, bạn càng là thánh nhân lớn hơn.

Mọi tôn giáo đã không thuyết giảng cái gì ngoài việc tự bạo. Điều đó cho tôi cái nhìn sáng suốt vào trong Thượng đế.

Nhân loại phải là người tự bạo, mặc cảm - hành hạ bản thân người đó, hành hạ và phá huỷ rễ riêng của người đó trong tự nhiên, đi ngược lại tự nhiên... chịu đựng mọi loại ngu xuẩn vì Thượng đã là kẻ tàn bạo. Mọi tôn giáo, một cách không chủ ý, đang đề nghị một Thượng đế là kẻ tàn bạo. Ngài thích nhân loại khổ. Ngài thích mọi người hành hạ bản thân họ. Ngài không thích tiếng cười của bạn, ngài không thích niềm vui của bạn. Ngài không thích vui thú của bạn, phúc lạc của bạn, phấn khởi của bạn. Ngài không thích bài ca của bạn, và ngài không thích điệu múa của bạn và việc mở hội của bạn. Ngài đã lấy đi mọi cái là đẹp trên trái đất này. Ngài ghét trái đất! Ngài chống lại trái đất. Ngài chống lại bản thân sự sống.

Cho nên nhân danh Thượng đế, điều các thánh nhân đã từng làm mọi điều này trong hàng nghìn năm không là gì ngoài việc tự tử dần dần. Bạn càng chết, bạn sẽ càng thấy có nhiều người đi theo. Bạn càng sống động, các tôn giáo sẽ kết án bạn, đám đông sẽ kết án bạn, mọi kẻ ngốc của thế giới sẽ cùng nhau tiêu diệt bạn.

Niềm vui là không chấp nhận được. Tiếng cười là không chấp nhận được. Khả năng khôi hài không phải là một phần của bất kì tôn giáo nào. Sự sống đã trở thành buồn, khổ, đau đớn, lo âu. Ai chịu trách nhiệm cho mọi điều này? Trách nhiệm đầu tiên là ở Thượng đế hư cấu, người được đại diện bởi giới giáo sĩ trên khắp thế giới. Hàng triệu người trong giới giáo sĩ này đang sống trên máu của bạn. Họ là kẻ ăn bám chứ không là tu sĩ. Và toàn thể chức năng của họ là giữ cho bạn khổ, vì chỉ người khổ có thể cúi mình trước một Thượng đế hư cấu. Và họ đã từng kính trọng những người đó - cho những người đó danh giá và kính trọng - người không là gì ngoài người điên.

Bất kì người nào đi ngược lại sự sống đều là điên.

Sự sống là mọi điều chúng ta có.

Nếu bạn đi ngược lại nó, bạn đang tự tử. Có thể đó là tự tử rất chậm - điều đó có thể mất vài năm để bạn chết. Một tôn giáo, Jaina giáo - không may tôi đã được sinh ra trong tôn giáo đó - thậm chí còn hỗ trợ cho ý tưởng tự tử. Các tôn giáo khác hỗ trợ một cách vô ý thức cho nó, nhưng Jaina giáo là rõ ràng về nó.

Nó thuyết giảng rằng nếu bạn muốn tự tử, làm điều đó đi vì cuộc sống này không đáng sống. Trái đất này không phải là nhà của bạn, nhà của bạn ở bên ngoài mây. Họ họi nó là santhara, nhưng thực tại nó ngụ ý tự tử chậm. Bất kì khi nào một người đi trên santhara, người đó lập tức trở thành thánh nhân lớn. Santhara là nhịn ăn cho tới chết - không thức ăn, và đến cuối không nước. Với người mạnh khoẻ để chết cần mất chín mươi ngày, và chín mươi ngày đó của của tự hành hạ mênh mông. Jaina giáo đơn giản làm việc có ý thức với điều mà mọi tôn giáo có điều đó như việc ngụ ý.

Mọi thánh nhân của thế giới đã từng làm cái gì? Và tính thánh nhân gì trong hành động của họ, trong hành vi của họ, trong phong cách sống của họ?

Một người đã được tôn thờ rất nhiều bởi người Ki tô giáo ở Ai Cập, vẫn còn ngồi trên một cột cao trong mười hai năm! Đó đã là tàn tích của một cung điện cổ, và chỉ một cột trụ đứng cao. Điều đó là rất khó; nó đã là một chỗ nhỏ còn lại trong mười hai năm. Ông ta không thể ngủ được - ông ta phải buộc bản thân mình vào chiếc cột. Ông ta không thể đi xuống ngay cả để đi vệ sinh, cho nên ông ta ỉa từ cột trụ đó, đái từ cột trụ đó... và mọi người đã tôn thờ ông ta...!

Ông ta phải đã khổ vô cùng chỉ để có được vinh dự này, vinh dự từ đám đông dốt nát. Chỉ để có được danh tiếng là một thánh nhân lớn, ông ta đã sống trong bẩn thỉu, xấu xí hoàn toàn. Và ông ta bỏ cột trụ này chỉ khi ông ta chết. Một đài kỉ niệm lớn tồn tại mang tên ông ta vì ông ta đã làm việc hành xác hối lỗi cho tội nguyên thuỷ của Adam và Eve.

Những cách thức kì lạ đã được tìm ra để làm sao lấy đi tự hào của bạn. Bây giờ Adam và Eve đã phạm tội sao? Tôi không nghĩ họ đã phạm bất kì tội nào. Họ đã đơn giản bị Thượng đế xúi giục ăn từ Cây Tri thức và từ Cây Sự sống vĩnh hằng. Cấm bất kì cái gì là xúi giúc - đó là tâm lí đơn giản. Thượng đế chắc đã học nhiều từ Sigmund Freud.

Trong Vườn Eden nơi Thượng đế sống, đã có hàng triệu cây. Nếu như ông ta mà không cấm hai cây đó, tôi nghĩ rằng ngay cả đến giờ chúng ta chắc đã không tìm ra chúng... cả triệu cây với quả đẹp. Chúng ta chắc vẫn đang nhai cỏ trong Vườn Eden hệt như trâu. Nếu bất kì ai phạm tội đó chính là bản thân Thượng đế.

Và tại sao ông ta đã cấm con riêng của mình không được ăn từ Cây Tri thức? Không người bố nào sẽ làm điều đó. Mọi người bố đều muốn con mình là khôn ngoan như có thể. Và tại sao người bố phải ngăn cản con riêng của mình không được ăn quả mà sẽ làm cho chúng thành vĩnh hằng, bất tử. Mọi người bố sẽ thích - ngay cả người bố bình thường trên thế gian chắc đã thích con họ là bất tử.

Đây là loại Thượng đế gì vậy? Và nếu đây là Thượng đế - ai ngăn cản con ông ta khỏi trở nên khôn ngoan, khỏi trở thành Socrates, và Phật Gautam, và Lão Tử, đây không phải là Thượng đế đáng có. Nếu bản thân ông ta đã không chết, thế thì ai đó phải giết ông ta. Ông ta đã hành hạ nhân loại đủ rồi.

Và kì lạ là sự kiện rằng chính Quỉ đã thuyết phục Eve ăn từ Cây Tri thức. Nó chỉ cho cô ấy tại sao Thượng đế đã ngăn cản họ. Ông ta không muốn bất kì người nào là ngang với ông ta - và bạn gọi Thượng đế này là từ bi sao? Và bạn gọi Thượng đế này là yêu sao? Quỉ đáng yêu hơn nhiều, từ bi hơn nhiều! Thực ra, nó đã chỉ cho con người cách thức của khôn ngoan, cách thức của bất tử.

Thượng đế đang ngăn cản con riêng của ông ta vì ông ta không muốn chúng là khôn ngoan, ông ta không muốn chúng là bất tử. Nếu chúng là bất tử và khôn ngoan thế thì chúng sẽ ngang hàng với Thượng đế, và ông ta sợ sự ngang hàng của chúng - một Thượng đế rất ghen tị. Thực ra, Kinh Cựu Ước tuyên bố điều đó qua bản thân Thượng đế. Thượng đế nói, "Ta là một Thượng đế rất ghen tị." Ông ta chắc chắn là vậy. Ông ta đã ghen tị với con riêng của mình. Ông ta thậm chí không xứng đáng được gọi là cha. Nếu Quỉ mà không bảo Eve, "Bạn phải ăn những quả này, chỉ thế thì bạn sẽ biết hiện hữu bên trong nhất của bạn rằng bạn cũng là các Thượng đế..."

Như câu chuyện này kể, nó làm rõ ràng rằng Quỉ quí mến tính cá nhân, sự kính trọng, nhân phẩm của con người hơn. Thượng đế đã chống lại con người từ chính lúc bắt đầu. Toàn thể tiến hoá đã xảy ra trong khoa học... 'Khoa học' trong chính gốc rễ của nó ngụ ý tri thức. Bất kì cái gì đã tiến hoá trong tâm thức bên trong của con người - người đã thức tỉnh, người đã chứng ngộ, người đã đi tới biết rằng sự sống là vĩnh hằng, nó là liên hoan, vô thuỷ, vô chung - chắc đã không có thể nếu không có Quỉ. Quỉ là việc nổi dậy đầu tiên chống lại Thượng đế độc tài.

Và tôi phải nói với bạn rằng từ 'quỉ' là có nghĩa nhiều hơn từ 'Thượng đế'. 'Thượng đế' đơn giản chẳng ngụ ý cái gì, nhưng 'devil-quỉ' bắt nguồn từ gốc tiếng Phạn div. Từ div được suy dẫn ra 'devil' và 'day' trong tiếng Anh; trong tiếng Hindu từ dev, dẫn ra devata, điều có nghĩa là điều thiêng liêng; từ div, dẫn ra divas, điều có nghĩa là rạng động, bắt đầu của ngày, kết thúc của đêm. Quỉ dường như là thiêng liêng hơn Thượng đế. Thượng đế dường như thực sự là anh chàng rất tầm thường, và điều tốt là ông ta chết bằng không ai đó chắc phải bắn ông ta. Điều tốt là ông ta đã tự chết, và chúng ta đã không bị vấy máu của ông ta trong tay chúng ta.

Nhưng một khi Thượng đế không còn đó, tự do của bạn trở thành có trách nhiệm vô cùng. Nó phải không rơi vào phóng túng, nó phải vươn lên trong chứng ngộ. Tự do mang tới trách nhiệm. Và tôi muốn bạn hiểu rằng trách nhiệm không ngụ ý nghĩa vụ, nó chỉ ngụ ý khả năng đáp ứng. Khả năng đáp ứng với cái gì? Với mọi tình huống, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc bạn phải nhận biết tới mức bạn có thể tìm thấy những đáp ứng nguyên bản với mọi tình huống nguyên bản. Không cái gì trong sự tồn tại đã bao giờ lặp lại.

Họ nói lịch sử lặp lại bản thân nó, vì con người là kẻ ngốc. Nhưng sự tồn tại không bao giờ lặp lại bản thân nó, vì sự tồn tại là thông minh, trí huệ, vĩnh hằng. Lịch sử cũng sẽ dừng việc lặp lại một khi có hàng triệu chư phật khắp thế giới, hàng triệu người có khả năng tỉnh táo, nhận biết, ý thức, và người cảm thấy rằng họ có trách nhiệm lớn từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc - không tương ứng với bất kì kinh sách nào nhưng tương ứng với tâm thức của mọi người.

Tự do mang tới nhiều quả, và nhiều hoa, và nhiều món quà cho bạn. Cái chết của Thượng đế không phải là cái gì đó để tiếc thương và buồn. Nó là cái gì đó để hân hoan, cái gì đó để nhảy múa, cái gì đó để mở hội. Cuối cùng con người là tự do khỏi mặc cảm, con người là tự do khỏi con mắt phán xét thường xuyên từ trời.

Điều kì lạ là Kinh Thánh nói, "Ông không phán xét," nhưng Thượng đế chỉ làm một điều, phán xét. Và họ cũng đã xác định một ngày có tên Ngày Phán xét. Với con người điều được nói, "Ông không phán xét" - và Thượng đế liên tục phán xét, và sẽ đi tới phán xét chung cuộc vào Ngày Phán xét. Loại mâu thuẫn gì vậy...?

Mới hôm nay tôi đã nhận được bức thư từ vài người Ki tô giáo nói rằng Kinh Thánh nói, "Ông không phán xét." Nhưng tôi không là người Ki tô giáo, và tôi không có bất kì nghĩa vụ nào phải tuân theo Kinh Thánh. Tôi không là người Hindu... Tôi không là người thuộc vào bất kì tôn giáo nào, cho nên tôi không có bất kì nghĩa vụ nào phải tuân theo Kinh Thánh hay Koran linh thiêng, hay Bhagavadgita linh thiêng. Mọi kinh sách linh thiêng như tôi đã nhìn vào trong chúng, là tuyệt đối không linh thiêng.

Bốn hay năm người Ki tô giáo này, những người đã viết bức thư cho tôi muốn tôi không phán xét người Ki tô giáo hay Cơ đốc giáo, vì Kinh Thánh nói, "Ông không phán xét" - và họ đang phán xét tôi! Và Kinh Thánh của họ nói, "Ông không phán xét." Tôi không là người Ki tô giáo cho nên tôi không có nghĩa vụ tuân theo Kinh Thánh. Họ là người Ki tô giáo, họ phải không phán xét tôi. Tôi thì tự do phán xét, và tôi tự do phán xét mọi người vì tôi không có bất kì định kiến nào chống lại bất kì người nào. Tôi không thuộc vào bất kì tổ chức nào, vào bất kì hệ thống niềm tin nào. Một Thượng đế dạy cho mọi người, "Ông không phán xét," bản thân ông ta liên tục phán xét - và bạn không thấy mâu thuẫn sao?

Jesus nói, "Thượng đế là yêu," nhưng dường như không có yêu nào tuôn chảy từ trời tới nhân loại. Trong ba nghìn năm chúng ta đã đánh nhau trong năm nghìn cuộc chiến tranh. Loại Thượng đế nào có đó mà cho phép Thành Cát tư Hãn được sinh ra? Thiếp Mộc Nhi được sinh ra? Nadirshah được sinh ra? Ba thế hệ của một gia đình đã giết một trăm triệu người, và họ đã không bao giờ thất bại.

Loại Thượng đế nào cho phép tổng thống Truman thả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki? Loại Thượng đế nào đang cho phép mọi chính khách ngu xuẩn chồng chất các vũ khí hạt nhân mà sẽ chỉ chứng tỏ là cái chết toàn cầu?

Nhưng như tôi đã nói với bạn, Thượng đế là kẻ tàn bạo. Ông ta thích thú khi bạn bị đau. Ông ta thích thú khi bạn nghèo. Ông ta thích thú khi bạn đói đến chết. Thích thú của ông ta đơn giản là ốm bệnh!

Từ 'tính tàn bạo-sadism' bắt nguồn từ một bá tước người Pháp, de Sade; ông ta thường hành hạ đàn bà. Ông ta là người siêu giầu, một bá tước, và có lãnh thổ bao la dưới kiểm soát của ông ta. Cho nên bất kì đàn bà đẹp nào sẽ bị lôi vào phòng tra tấn của ông ta. Bạn có phòng yêu; ông ta có phòng tra tấn - đó là phòng yêu của ông ta. Và khi người đàn bà đi vào cô ấy không thể tin được cái gì sẽ xảy ra vì trên khắp các tường có treo những loại dụng cụ tra tấn khác nhau. Ông ta cũng thường mang theo một hộp, phòng tra tấn mang theo người - vì ai biết? Ông ta có thể tìm thấy một người đàn bà trong phòng khách sạn và ông ta có thể không có các dụng cụ của mình.

Tất cả những dụng cụ đó... Đầu tiên ông ta sẽ cưỡng ép người đàn bà phải trần truồng - không theo cách yêu thương - ông ta sẽ xé quần áo của cô ấy, ông ta sẽ cào thân thể cô ấy, ông ta sẽ bắt đầu đánh cô ấy... và ông ta có mọi dụng cụ kia. Bạn đã nghe chỉ một từ 'giao cấu' - ông ta thực sự dùng việc cấu để tạo ra các lỗ trong thân thể người đàn bà. Chừng nào máu chưa chảy ra ông ta sẽ chưa được kích động. Khi ông ta thấy người đàn bà trong tra tấn hoàn toàn, thế thì ông ta ở trong kích động dục lớn, thế thì ông ta sẽ làm tình.

Và có lẽ cái gì đó của de Sade tồn tại trong mọi đàn ông bạo dâm. Chừng nào chưa có cuộc chiến gối, chừng nào chưa có xung đột trước khi lên giường, người đàn ông dường như không bị kích động. Người đàn bà đánh anh ta, đập anh ta, ném mọi thứ vào anh ta, làm kích động anh ta.

Đôi hoàn hảo duy nhất có thể có trên thế giới chắc sẽ là nếu một đối tác là kẻ tàn bạo, và đối tác kia là kẻ tự bạo. 'Kẻ tự bạo' cũng bắt nguồn từ một bá tước khác, người tận hưởng hành hạ bản thân mình. Tên ông ta là Masoch; do đó mới có từ 'masochist-kẻ tự bạo'. Cả hai đã bị cầm tù vì sự điên loạn, cả hai đều được thấy mặc cảm; người thì vì hành hạ người khác, và người thì tự hành hạ bản thân mình.

Thượng đế phải là kẻ tàn bạo trên qui mô lớn hơn nhiều so với de Sade. Ông ta là toàn quyền, toàn năng, toàn diện - mọi nơi. Bạn không thể thoát được ông ta; mắt ông ta đầy phán xét và theo dõi bạn suốt ngày đêm, hai mươi bốn giờ, dù bạn ở bất kì đâu. Ông ta đang đe doạn bạn rằng bạn sẽ rơi vào lửa địa ngục vĩnh hằng.

Ngay cả một người như Bertrand Russell đã từ chối là người Ki tô giáo bởi một lẽ đơn giản - ông ấy đã cho nhiều lí do khác, nhưng lí do đầu tiên là "Tôi không thể chấp nhận được một Thượng đế bất công thế" - rằng trong Ki tô giáo chỉ có một kiếp sống.

Ngay cả bạn sống một cuộc sống một trăm năm, như Bertrand Russell gần như xoay xở sống được, một thế kỉ... Ông ấy đã đếm một cách rất chân thành các tội mà người Ki tô giáo gọi là tội - chúng không là tội, chúng chỉ là những kinh nghiệm tự nhiên. Chúng đã được chuyển thành tội để hành hạ bạn. Làm tình với người đàn bà không phải là tội, nhưng nó đã trở thành tội. Cả hai người đang cảm thấy mặc cảm vô cùng rằng họ đang làm cái gì đó chống lại Thượng đế.

Cho nên ông ấy đã đếm mọi cái gọi là tội mà không phải là tội, nhưng chỉ vì mục đích biện luận ông ấy đã đếm mọi tội mà ông ấy đã phạm phải. Và ông ấy cũng đếm cả mọi tội mà ông ấy đã mơ tới nhưng ông ấy đã không phạm phải. Dầu vậy ông ấy nói, "Quan toà nghiêm khắc nhất không thể phán tôi ở tù nhiều hơn bốn năm rưỡi, còn Thượng đế sẽ ném tôi vào lửa địa ngục vĩnh hằng! Dường như không có cân xứng."

Nếu bạn liên tục phạm tội và không làm bất kì cái gì khác, chỉ tội và tội và tội từ khoảnh khắc bạn được sinh ra cho tới khoảnh khắc bạn ở trong mồ, thế nữa, sự vĩnh hằng của lửa địa ngục là không công bằng, nó là không công bằng.

Thượng đế dường như tận hưởng lửa địa ngục. Thượng đế dường như thích thú đầu độc mọi vui thú của bạn - bạn phải không tận hưởng bất kì giác quan nào của bạn. Các tôn giáo khác nhau có các nhấn mạnh khác nhau, nhưng một điểm là như nhau. Người Mô ha mét giáo không được phép nghe nhạc. Kì lạ? Nó là tội vì bạn đang tận hưởng giác quan, việc nghe của bạn. Bạn đang cho tai bạn vui thú, cho nên bạn không được phép nghe âm nhạc lớn.

Tôi không thể quan niệm được theo cách nào mà âm nhạc có thể là tội. Nhưng ý tưởng là ở chỗ tận hưởng là tội, cho nên bất kì cái gì bạn có thể tận hưởng đều phải bị kết án.

Jaina giáo nói bạn phải không tận hưởng vị ngon, bạn phải ăn mà không có bất kì vị nào. Bạn đang đặt con người vào mặc cảm thế. Làm sao người đó tránh được việc nếm các vị? Khi nó là ngọt, nó là ngọt! Khi nó là đắng, nó là đắng! Trên lưỡi người đó có các gai nhạy cảm quyết định ra vị. Chừng nào bạn chưa làm giải phẫu nhựa và loại bỏ mọi gai đó khỏi lưỡi của bạn, bạn không thể xoay xở để không nếm được thức ăn.

Nhưng họ đã đầu độc việc tận hưởng của bạn. Chỉ những tận hưởng nhỏ - ăn thức ăn với tình yêu và vui với bạn bè bị kết án. Và vấn đề không chỉ là một giác quan, mà cả năm giác quan.

Phật Gautam chống lại việc chạm vào đàn bà. Ngay cả chạm cũng là tội, vì việc chạm vào đàn và là niềm vui. Cô ấy ấm hơn bạn, cô ấy mong manh hơn bạn, cô ấy đẹp hơn bạn. Và cái gì sai nếu chạm vào đàn bà cho bạn niềm vui? Vui không thể là sai. Và bạn không làm hại bất kì ai, bạn không can thiệp bởi việc chạm vào người đàn bà đi ngược lại ý định của cô ấy. Cô ấy thích thú được chạm; bạn thích thú là người chạm. Tại sao Thượng đế chen vào giữa?

Nhưng ông ta bao giờ cũng có đó, đi theo bạn như quan toà. Ông ta đã trở thành lương tâm bên trong của bạn. Lương tâm bên trong của bạn là giả! Nó được tạo ra bởi các tôn giáo. Cho nên Thượng đế không phụ thuộc chỉ vào bản thân ông ta, ông ta phụ thuộc vào các tu sĩ tạo ra lương tâm trong bạn. Nó không phải là tâm thức, nó là lương tâm - một thực thể giả liên tục nói với bạn, "Cái này là không đúng. Kinh sách chống lại... Thượng đế chống lại... Không làm điều này!" Và toàn thể bản tính của bạn muốn làm điều đó.

Sư Jaina thậm chí không được phép tắm, mọi ngày, vì điều đó là tận hưởng cái mát mẻ của nước, tận hưởng cái tươi tắn của thân thể bạn. Bạn có thể thấy những người này là tội phạm. Sư Jaina thậm chí không được phép làm răng sạch. Ông ta không thể dùng bất kì bàn chải nào, hay bất kì thuốc đánh răng nào, hay bất kì nước súc miệng nào. Khó nói chuyện với sư Jaina thế - hơi thở của ông ta phát kinh tởm, toàn thân ông ta kinh tởm.

Trong một nước nóng như Ấn Độ bạn vã mồ hôi... và sư Jaina phải du hành trên những con đường bẩn, bụi. Họ không thể đi bất kì phương tiện nào vì đó là vui thú; họ phải đi bộ. Cho nên họ bước trên những con đường bụi bặm trong các làng, và việc vã mồ hôi của họ dưới mặt trời nóng, nóng rực, dội lửa lên trái đất... Họ trở nên xấu, họ trở nên thực sự bị cháy nắng. Thân thể họ, da của họ co lại. Và bụi tiếp bụi, hết tầng nọ tới tầng kia...

Mọi tôn giáo đã có chung ham muốn bằng cách này cách nọ rằng mọi vui thú của con người phải bị đầu độc. Chỉ thế thì con người mới quay hướng về tu sĩ để nhận lời khuyên nào đó, vì con người khổ. Làm cho con người khổ, lấy đi mọi khả năng của vui thú.

Tôi đã không bắt gặp bất kì đàn bà Ấn Độ nào biết cực thích là gì. Thực ra, trong tiếng Hindu không có từ nào tương đương với 'cực thích'. Đàn bà Ấn Độ chưa bao giờ biết tới cực thích. Ngay cả đàn bà phương Tây mới bắt đầu biết về cực thích chỉ mới ba mươi năm trước. Điều đó là do nghiên cứu của các nhà tâm lí, nhà phân tâm và nhà tâm thần. Sigmund Freud, Havelock Ellis, Các thầy và Johnson - họ đã mở ra cánh cửa mới cho vui thú của đàn bà.

Trong nhiều thế kỉ họ đã không biết cực thích là gì, cho nên một cách tự nhiên, họ kinh tởm dục. Họ nghĩ rằng đàn ông đơn giản dùng họ, vì họ không có được bất kì thích thú gì từ nó. Nhưng lí do đã là ở chỗ đàn ông đã không cho phép họ có cực thích.

Vào những ngày rất nguyên thuỷ anh ta phải đã trở nên nhận biết rằng đàn bà có thể có nhiều cực thích, và đàn ông chỉ có thể có một cực thích. Cho nên đàn ông không có năng lực đáp ứng cho đàn bà. Hoặc anh ta phải gọi bạn mình, hoặc anh ta phải tiêm hooc môn nào đó, vì đàn bà thường có năng lực sáu cực thích cái nọ tiếp cái kia.

Tốt hơn cả là không để cho cô ấy biết rằng cô ấy có năng lực về bất kì cực thích nào. Điều đó có thể được tránh, vì âm đạo của đàn bà là không nhạy cảm. Nó phải là không nhạy cảm vì nó sẽ cho sinh ra đứa con. Nếu nó nhạy cảm, việc sinh đứa con sẽ có đau đơn tăng lên vô cùng; nó là không nhạy cảm và vẫn có đau.

Cho nên cực thích của đàn bà chẳng có liên quan gì tới âm đạo, nó chỉ là cái máy sinh sản. Cực thích của cô ấy không phụ thuộc vào đàn ông làm tình qua âm đạo - cái đó là tốt cho sinh sản. Cô ấy có một phần tách rời, chỉ một phần rất nhỏ - âm vật - cái không ở trong cách làm tình của đàn ông với cô ấy. Chừng nào đàn ông chưa hiểu sinh lí của đàn bà, điều thường không đàn ông nào hiểu...

Đàn ông là người yêu không kinh nghiệm duy nhất trên thế giới, vì anh ta không có bất kì kinh nghiệm nào trước hôn nhân của bạn, mà đàn bà cũng không có bất kì kinh nghiệm nào trước hôn nhân. Đây là một thế giới rất kì lạ. Khi hai người sắp sửa sống chung với nhau trong cả đời họ, họ không có bất kì kinh nghiệm nào, họ không biết làm gì.

Âm vật của đàn bà là cơ quan cho cô ấy vui thích, và nó không phải là một phần của âm đạo. Việc xuất tinh của đàn ông chỉ trong hai hay ba phút là nhiều nhất. Và anh ta phải làm nhanh chóng, vì nếu bạn phạm tội, phạm tội cho nhanh vào. Không làm nó quá lâu, bằng không, nhớ lửa địa ngục.

Chừng nào đàn ông chưa hiểu sinh lí của đàn bà, điều anh ta chẳng bao giờ bận tâm... toàn thân cô ấy là nhạy cảm dục. Toàn thân của đàn ông là không nhạy cảm dục. Tính dục của đàn ông là rất cục bộ; nó chỉ trong bộ máy dục của anh ta. Toàn thân đàn bà là có tính dục, và chừng nào đàn ông chưa chơi đùa với toàn thân cô ấy và khuấy động thân thể cô ấy - đó là màn dạo đầu... Không đàn ông nào muốn làm điều đó, vì nó lâu quá, và người ta phải nhanh chóng trước khi Thượng đế bước vào. Cho nên không có màn dạo đầu!

Đặc biệt người Ki tô giáo đã đưa vào tư thế truyền giáo, trong đó người đẹp ở bên dưới, và con vật ở trên đỉnh. Người đàn bà đáng thương phải nằm ra gần như chết, và chỉ thế thì cô ấy được coi là quí bà. Chỉ gái mãi dâm tận hưởng. Không đàn bà danh giá nào sẽ rên rỉ hay rền rĩ, hay bắt đầu nói lắp bắp hay la lên vì vui sướng. Cho nên cô ấy đã được bảo phải hoàn toàn chết trong khi đàn ông làm tình. Nó là yêu một phía. Phía kia hoàn toàn chết; phía kia đã không được khêu gợi lên.

Những người hiểu tình dục học nói đàn bà nên ở trên đỉnh để cho cô ấy có nhiều khả năng chuyển động hơn, và đàn ông nên ở dưới cô ấy để cho anh ta có thể vẫn còn im lặng, vì việc xuất tinh của anh ta xảy ra chỉ hai phút! Nếu anh ta vẫn còn im lặng anh ta có thể xoay xở hai mươi phút hay ba mươi phút. Đàn bà cần ít nhất mười phút để trở nên được khuấy động. Sự chênh lệch này có đó, và nó có thể được đáp ứng chỉ nếu đàn ông hiểu rằng đàn bà không chỉ là cái máy để được dùng. Cô ấy cũng là hồn, sống động tương đương, và có mọi quyền được vui sướng như bạn có.

Cho nên màn dạo đầu là được cần, và đàn ông nên ở bên dưới và đàn bà nên ở bên trên. Đàn ông nên nằm ra như đàn bà, và đàn bà nên là đứa trẻ tinh quái thực! Chỉ thế thì mới có khả năng rằng họ đi tới cực thích vào cùng lúc. Khi họ cả hai bắt đầu đập rộn ràng và thoát ra khỏi kiểm soát, đó là khoảnh khắc khi họ biết dục chứa cái gì. Nó không chỉ là cơ quan sinh sản, nó cũng là cơ quan của vui thú mênh mông. Và vui thú đó, theo tôi, cho bạn thoáng nhìn đầu tiên về thiền, vì tâm trí dừng lại, thời gian dừng lại. Với vài khoảnh khắc đó không có thời gian, và không có tâm trí, bạn chỉ là im lặng và phúc lạc.

Tôi nói điều đó - nó là cách tiếp cận khoa học của tôi tới chủ đề này - vì không có cách khác cho đàn ông tìm ra rằng khi không có tâm trí và không có thời gian, bạn đi vào trong trạng thái phúc lạc. Ngoại trừ với dục không có khả năng khác cho tâm trí hiểu rằng đã có cách nào đó đi ra ngoài tâm trí, ngoài thời gian. Chắc chắn chính dục đã cho thoáng nhìn đầu tiên về tính thiền. Và tôi đang bị kết án trên khắp thế giới vì tôi đang nói cho mọi người sự thực.

Không ai đã tới với bất kì ý tưởng khác nào để giải thích làm sao bạn đã tìm ra thiền. Bạn không thể tìm thấy nó bằng việc chỉ bước đi trên lề đường - nó nằm đó và bạn đi qua và nhặt thiền lên. Bạn đã tìm thấy thiền ở đâu? Không một người nào trên toàn thế giới... và tôi đã được thảo luận trên khắp thế giới, bị kết án, chỉ bởi vì tôi đang nói về đi từ dục tới siêu tâm thức. Nhưng không người nào đã đưa ra bất kì giải thích nào tại sao họ đang kết án tôi vì sách của tôi - mà đã được dịch sang ba mươi tư thứ tiếng, đã đi vào trong hàng tá lần xuất bản, và được đọc bởi mọi sư dù họ là người Hindu, Jaina, người Ki tô giáo, Phật tử. Các sư là khách hàng tốt nhất cho sách đó.

Ở đây đã có một cuộc hội nghị của người Jaina chỉ vài tháng trước, và thư kí của tôi, Neelam, đã thông báo cho tôi, "Điều đó là kì lạ. Các sư Jaina tới và hỏi hỏi chỉ một cuốn sách, Từ dục tới siêu tâm thức. Thế rồi họ giấu nó trong quần áo của họ và thoát nhanh ra khỏi cửa một cách im lặng để cho không ai thấy họ ra."

Cuốn sách, Từ dục tới siêu tâm thức, không phải về dục, nó là về siêu tâm thức. Nhưng cách có thể duy nhất cho đàn ông để tìm ra rằng có cửa nào đó, con đường nào đó đi ra ngoài ý nghĩ của anh ta vào trong im lặng vĩnh hằng... Cho dù nó kéo dài chỉ một khoảnh khắc, khoảnh khắc đó là vĩnh hằng - mọi thứ dừng lại. Bạn quên mọi lo nghĩ, mọi căng thẳng.

Bạn đã bao giờ nghe nói về đàn ông nào bị đau tim khi anh ta làm tình chưa? Nó phải đã xảy ra thường xuyên hơn nếu các tôn giáo mà là thực. Thượng đế chắc sẽ giận tới mức ít nhất ngài có thể cho cơn đau tim. Lửa địa ngục sẽ là sau chết; ngay bây giờ...

Nhưng không đàn ông nào đã chết khi làm tình, vì làm tình lấy đi căng thẳng của bạn. Chính căng thẳng có thể cho bạn đau tim. Chính căng thẳng có thể đưa bạn tới điên và mất trí. Chính dục giữ bạn lành mạnh, giữ bạn bình thường, giữ bạn bên trong các biên giới của lành mạnh. Bằng không bạn sẽ là kẻ hư hỏng, và hư hỏng không cho bạn cùng chìa khoá của siêu tâm thức.

Người đồng dục nam không thể có cùng kinh nghiệm mà là có thể trong mối quan hệ dị dục. Người đồng dục nữ cũng không thể có cùng kinh nghiệm cực thích. Nhưng mười phần trăm đàn ông Mĩ đã chấp nhận rằng họ có xu hướng đồng dục nam, và hàng nghìn đàn bà đã cưới đàn bà - các đôi đồng dục nữ. Và năm nay người ta mong đợi rằng bốn mươi nghìn trẻ con sẽ được sinh ra từ các đôi đồng dục nữa.

Từ đâu mà những em bé này tới? Từ thụ tinh nhân tạo. Bây giờ các bệnh viện không chỉ chứa ngân hàng máu, mà cả ngân hàng tinh trùng. Cho nên khi một đôi đồng dục nữ muốn có con, một người sẵn sàng nhận rắc rối trong chín tháng, nhận phun vào tinh trùng của ai đó giấu tên. Việc phun vào không phải là việc vui thích. Việc phun vào không thể cho bạn bất kì cực thích nào. Mặc dầu các bác sĩ gọi nó là "chim," nó không phải là chim.

Khi bác sĩ trị liệu cá nhân của tôi, Amrito, lần đầu tiên tới từ Anh - và anh ấy là thành viên của Đại học hoàng gia các bác sĩ trị liệu, có giáo dục cao - anh ấy nói với tôi, "Bây giờ tới chim!" Thế là tôi bắt đầu cười, "Amrito, đây không phải là chim. Bạn đã bị lạc lối." Giờ anh ấy im lặng cho tôi mũi tiêm mà không nói gì.

Bốn mươi nghìn đứa trẻ đó sẽ được sinh ra năm nay ở Mĩ qua việc phun tiêm. Bây giờ những người đàn bà này hoàn toàn ở ngoài khả năng có cực thích. Và có đồng dục trên khắp thế giới, ngay cả ở những người rất thông minh.

Tôi đã chọn tiêu đề này, Tôi mở hội bản thân tôi từ một trong những nhà thơ lớn nhất của Mĩ, Walt Whitman. Nhưng ông ấy đã là một người đồng dục - đó là chỗ ông ấy đi sai. Mọi thơ của ông ấy trở thành hời hợt; ông ấy chẳng biết gì về niềm vui cực thích. Nhưng bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng rằng ngay cả một người như Socrates đã là người đồng dục; do đó ông ấy không thể trở thành một Phật Gautam. Dù thông minh thế nào, và dù là nhà logic lớn thế nào, đối thoại của ông ấy là vĩ đại nhưng cái gì đó bị thiếu. Ông ấy không phải là con người của tâm thức lớn. Ông ấy đã trở thành phi tự nhiên, ông ấy đã đi ngược tự nhiên.

Nhưng các tôn giáo đang ép buộc mọi người đi ngược lại tự nhiên. Người thứ ba trong hệ thống cấp bậc nhà thờ của Anh... tổng giám mục trong nhà thờ England là tương đương với giáo hoàng Polack. Người này chỉ có một người giữa ông ta và tổng giám mục, và có mọi khả năng rằng giám mục này lúc nào đó trở thành tổng giám mục của England. Ông ta đã tới với ý tưởng rằng vô dục đơn giản ngụ ý không có mối quan hệ dị dục, nhưng nó không bao gồm đồng dục, nó không bao gồm thủ dâm, nó không chứa việc làm tình với con vật - thú dâm, thú tính. Nó không chứa bất kì cái nào. Vô dục đơn giản ngăn cản bạn khỏi dị dục. Những nhà lãnh đạo tôn giáo vĩ đại...!

Năm mươi phần trăm các sư trong các tu viện là đồng dục. Và có khác khả năng như tu viện Mount Athos nơi hàng nghìn sư sống... Họ đã không thấy bất kì đàn bà nào từ khi họ trở thành sư, vì không đàn bà nào được phép vào - thậm chí cả bé gái sáu tháng tuổi cũng không được phép vào tu viện. Khi tôi nghe thấy điều này, tôi nghĩ, "Những sư này là sư hay quỉ?" Và họ có nhà thờ riêng của họ như một bang, cho nên họ có người gác và cảnh sát riêng của họ.

Trong một nghìn năm không đàn bà nào đã bao giờ vào trong tu viện này. Và bất kì người nào trở thành sư ở tu viện Athos không thể thoát ra còn sống lần nữa. Chỉ khi người đó chết, thân thể người đó sẽ được mang ra; đó là cam kết cả đời. Không người thông minh nào có thể cam kết bản thân mình ngay cả cho ngày mai. Ai biết cái gì sẽ xảy ra ngày mai?

Đó là điều tôi gọi là trách nhiệm. Người có trách nhiệm sẽ không cam kết bản thân mình với bất kì cái gì, sẽ không hứa hẹn bất kì cái gì, vì ai biết về ngày mai? Để ngày mai tới và chúng ta sẽ thấy. Tôi sẽ đáp ứng với tính toàn bộ của tôi cho bất kì tình huống nào, nhưng tôi không thể cam kết bản thân tôi. Tôi không bao giờ hứa bất kì cái gì với bất kì người nào. Tôi không bao giờ cam kết bản thân tôi với bất kì cái gì trong cả đời tôi. Để ngày mai tới đã. Người ta không bao giờ biết, đây có thể là ngày cuối của tôi và tôi có thể không có đó ngày mai để hoàn thành lời hứa của tôi.

Thời gian liên tục thay đổi - tôi có thể không là cùng người này ngày mai, bạn có thể không là cùng người đó ngày mai. Hôm nay có tình yêu lớn giữa tôi và bạn. Ngày mai, ai biết? Yêu biến mất, không chỉ biến mất, mà đôi khi biến thành ghét.

Con người của nhận biết sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc - đó là việc mở hội của người đó. Người đó tận hưởng mọi thứ của thế giới mà không có bất kì kiềm chế nào. Vì Thượng đế chết người đó không cần lo nghĩ. Và cùng với Thượng đế, địa ngục chết, lửa địa ngục đã bị tắt ngóm. Cùng với ông ta, cõi trời cũng chết. Cho nên đừng tham cõi trời, và đừng sợ địa ngục. Chỉ sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc với điệu múa, với niềm vui, với sự phấn khởi, với dũng cảm.

Đương đầu với mọi tình huống bằng tâm thức toàn bộ của bạn, không có bất kì mặc cảm nào. Tận hưởng âm nhạc, tận hưởng thức ăn, tận hưởng yêu - tận hưởng mọi thứ là tự nhiên.

Thượng đế đã từng chống lại tự nhiên, Thượng đế đã từng chống lại chứng ngộ, và Thượng đế đã từng chống lại kinh nghiệm của bạn về vĩnh hằng.

Thượng đế đã là kẻ thù của bạn.

Điều tốt là ông ta chết.

Đây là tin mừng cho tối nay.

Bây giờ tới các câu hỏi của bạn.

Câu hỏi thứ nhất:

Từ thời thơ ấu tôi đã từng được bao quanh bởi những người muốn tôi tin vào Thượng đế và đi theo những lời răn của ngài. Tại sao những người tin vào Thượng đế bao giờ cũng cố cải đổi người khác?

Đây là câu hỏi rất tinh tế.

Bạn có thể không hiểu thấu được ngay lập tức tại sao những người tin Thượng đế bao giờ cũng cố cải đổi người khác. Lí do là họ có hoài nghi riêng của họ, và bằng việc cải đổi người khác họ có khả năng đè nén hoài nghi của họ. Nếu họ có thể cải đổi nhiều người... bằng việc cải đổi người khác họ cũng đang cải đổi bản thân họ. Khi họ thấy rằng một nghìn người đã bắt đầu tin vào Thượng đế - "Có lẽ Thượng đế hiện hữu. Hoài nghi của mình là vô dụng." Khi họ thấy rằng toàn thế giới tin vào Thượng đế - toàn thế giới không thể sai. Đó là luận cứ, rất cổ đại, cổ đại như con người: toàn thế giới không thể sai. Và tôi nói với bạn, chỉ riêng các cá nhân, những cá nhân hiếm hoi đã là đúng. Khi cái gì đó được tin bởi toàn thế giới, nhớ, nó chắc chắn sẽ là sai! Đám đông đang sống như người mộng du, người bước đi mà ngủ, trong vô ý thức hoàn toàn. Hệ thống niềm tin của họ không thể đúng.

Tôi đã kể cho bạn một câu chuyện nhỏ...

Một nhà báo chết, và như các nhà báo đều là những người huênh hoang, ông ta lập tức gõ lên Ngọc Môn. Ông ta coi đương nhiên rằng ông ta lên Cõi trời và rằng ông ta đi tới phỏng vấn Thượng đế. Đây chắc là cuộc phỏng vấn đầu tiên đã bao giờ có.

Thánh Peter mở cửa. Ông ấy hỏi, "Ông muốn gì?"

Ông ta nói, "Cuộc phỏng vấn Thượng đế, và đây là danh thiếp của tôi."

Nhưng thánh Peter nói, "Ông không thể vào được Cõi trời. Tên ông không có trong danh sách. Và đằng nào thì chúng tôi cũng không cần bất kì nhà báo nào. Chúng tôi có hạn mức: một tá nhà báo, và họ đã ở trong đó rồi."

Và họ là vô dụng ở Cõi trời vì chẳng cái gì xảy ra, không có tin giật gân. Mọi thánh nhân gần như chết - ngồi trên mây trắng của họ, chơi đàn hạc, "Alleluia! Alleluia!" Bây giờ điều này sẽ là vĩnh viễn, cho nên tin tức gì...?

George Bernard Shaw định nghĩa đích xác tin tức là gì: Khi chó cắn người, nó không phải là tin tức, khi người cắn chó, đó là tin tức.

Nhưng ở Cõi trời, không có chó, chỉ có các thánh nhân chết như con chim dodo.

"Cho nên một tờ báo đã bắt đầu," Thánh Peter bảo ông ta, "nhưng duy nhất số đầu tiên được xuất bản. Không có tin tức cho số thứ hai. Cho nên ngay cả mười hai nhà báo cũng chỉ chờ đợi chẳng có cái gì.

"Điều tốt là ông gõ cửa khác đi; đó là Địa ngục, và bao giờ cũng có những tin nổi bật ở đó. Mọi thứ mà ông có thể thậm chí đã không tưởng tượng ra đang xảy ra, vì mọi nhà trí thức lớn có đó, mọi chính khách lớn có đó, mọi tội phạm lớn có đó... mọi người có bất kì tầm quan trọng nào đều ở đó! Vậy nên ông đi tới đó đi."

Ông ta nói, "Nhưng là nhà báo, tôi không thể đi dễ dàng thế. Ông sẽ phải cho tôi ít nhất hai mươi bốn giờ để nhìn quanh Cõi trời. Nếu tôi có thể thuyết phúc nhà báo nào đó từ hạn mức của ông đi tới Địa ngục, ông có sẵn sàng chấp nhận tôi không?"

Thánh Peter nói, "Không thành vấn đề. Nếu ai đó sẵn sàng đi xuống Địa ngục ông có thể thế vào chỗ của ông ta. Điều này là tốt. Trong hai mươi bốn giờ ông có thể đi dạo một vòng."

Khoảnh khắc ông ta vào Cõi trời ông ta bắt đầu lan truyền điều giả dối rằng sắp có một tờ báo rất lớn bắt đầu khai trương sớm ở Địa ngục, và ông tổng biên tập, phó tổng biên tập, biên tập viên trợ lí và mọi loại nhà báo được cần tới. Ông ta liên tục lan truyền tin này để nó đạt tới tất cả mười hai nhà báo này.

Sau hai mươi tư giờ ông ta đi tới gặp Thánh Peter, để hỏi xem liệu có người nào đã đi ra chưa. Thánh Peter lập tức đóng cửa lại và bảo ông ta, "Ông ở trong đi. Tất cả mười hai người đã đi rồi."

Ông ta nói, "Trời! Tất cả đã đi rồi ra? Thế thì tôi không muốn ở đây đâu. Cái gì đó phải đúng, bằng không tôi không thể thuyết phục được mười hai người."

Thánh Peter nói, "Ông có lành mạnh hay không đấy? Ông đã tạo ra dối trá này."

Ông ta nói, "Tôi biết tôi đã tạo ra dối trá này, nhưng phải có cái gì đó tương ứng thực tại đang xảy ra. Tôi không thể còn ở đây được, cứ mở cửa ra!"

Đó là lí do tại sao mọi tôn giáo đều quan tâm tới việc cải đổi mọi người, vì mọi tôn giáo, mọi tu sĩ, mọi giáo hoàng, mọi thánh nhân, mọi Ayatollah Khomeini, mọi shankaracharya, sâu bên dưới đầy hoài nghi vì niềm tin không thể phá huỷ được hoài nghi. Niềm tin chỉ có thể đè nén hoài nghi. Người mù có thể tin vào sáng, nhưng điều đó không có nghĩa người đó biết sáng. Mọi người tin đều là người mù, người không biết tí gì về chân lí. Do đó hoài nghi chỉ bị đèn nén bên dưới niềm tin.

Để giữ cho niềm tin của người ta đủ mạnh, người ta cần liên tục tuyên truyền về nó. Đó là lí do tại sao mọi nhà tuyên truyền tôn giáo bạn thấy đều rất chính thống, rất cuồng tín, phát xít. Bạn có thấy Nhân chứng Jehovah không? Họ liên tục hò hét, đánh trống, hô to dù bạn có nghe hay không. Họ không nhìn vào mắt bạn, họ chỉ nhìn vào đất và họ liên tục hò hét, và họ liên tục đọc các đoạn từ Kinh Thánh. Chỉ để gạt bỏ hoài nghi cho những người mua Kinh Thánh của họ.

Tại sao những người này quan tâm nhiều thế tới việc cải đổi mọi người? Lí do tâm lí là họ sợ. Niềm tin riêng của họ là rất mỏng; bất kì lúc nào hoài nghi có thể nảy sinh. Hoài nghi là rất có tính tồn tại. Niềm tin chỉ là chương trình đã được trao cho bạn bởi bố mẹ bạn, và các tu sĩ, và bởi các thầy cô giáo, và bởi xã hội của bạn. Nhưng nó chỉ là chương trình.

Ở Liên Xô họ đang cho một chương trình khác: không có Thượng đế. Mọi đứa trẻ đều tin rằng không có Thượng đế. Mọi người cộng sản đều tin không có Thượng đế.

Nửa thế giới là người cộng sản bây giờ, cho nên một nửa thế giới lần đầu tiên tin không có Thượng đế. Không phải là họ biết, không phải là họ đã thám hiểu bầu trời bên ngoài, hay họ đã thám hiểm tâm thức bên trong và đã tìm thấy rằng không có Thượng đế. Họ chỉ được bảo, cũng như bạn đã được bảo rằng có Thượng đế.

Mọi tôn giáo đều cố cải đổi mọi người, vì những người ở bên trong toán đó đầy hoài nghi. Khi toán này bắt đầu lớn lên, hoài nghi của họ được lắng đọng, niềm tin của họ trở nên dầy hơn, nặng hơn - "Nhiều người thế không thể sai."

Và bạn có quan sát điều này không? Bất kì khi nào một người chuyển từ tôn giáo này sang tôn giáo khác, tôn giáo mới mà người đó đã đi vào cho người đó sự kính trọng và tôn vinh lớn lao. Tôn giáo cũ kết án người đó, rằng người đó đã phản bội, nhưng tôn giáo mới cho người đó tôn vinh vì người đó đã xác nhận niềm tin của họ - "Ngay cả người thuộc vào các tôn giáo khác đang đi vào trong toán của chúng ta. Toán của chúng ta phải có chân lí, bằng không tại sao mọi người tới?"

Mọi nhà truyền giáo này trên khắp thế giới mang mọi người về Cơ đốc giáo chỉ đang làm cho những người Cơ đốc giáo bên trong toán này tin, "Mình là tôn giáo thực, còn các tôn giáo khác chỉ tàm tạm."

Con người của chân lí không bao giờ cố cải đổi bạn.

Con người của chân lí truyền đạt kinh nghiệm của người đó cho bạn. Người đó chia sẻ kinh nghiệm của mình cho bạn, nhưng điều đó không ngụ ý rằng bạn phải đồng ý với người đó. Nó cũng không ngụ ý bạn phải bất đồng với người đó. Việc chia sẻ là niềm vui của người đó, và đó là chỗ người đó được kết thúc.

Không con người nào của chân lí đã từng là nhà truyền giáo. Mọi nhà truyền giáo đang cố thuyết phục những người bên trong rằng họ là đúng vì người bên ngoài đang đi vào. Mọi nhà truyền giáo đều đang cố thuyết phục bản thân họ nữa, rằng hệ thống niềm tin của họ phải có chân lí nào đó trong nó; bằng không tại sao mọi người được cải đổi?

Cho nên đó là lí do những người tin Thượng đế bao giờ cũng cố cải đổi mọi người khác. Bằng không, việc cải đổi là việc can thiệp vào tự do của người khác. Bạn có thể thích thú chia sẻ với bạn của bạn, với sự đồng ý của họ, bất kì cái gì bạn đã trải nghiệm - không phải niềm tin của bạn mà kinh nghiệm của bạn. Và nếu bạn không có kinh nghiệm, là trung thực đi, là chân thật đi. Nói, "Tôi không có bất kì kinh nghiệm nào. Tôi chỉ có một mớ niềm tin mà người khác đã cho tôi, cái không phải là kinh nghiệm của tôi. Tôi đang mang tri thức vay mượn, tôi không biết bất kì cái gì của riêng tôi, do đó tôi không thể gợi ý bất kì cái gì cho bạn."

Tôi đang làm gì ở đây? Tôi không cố cải đổi bạn sang bất kì tôn giáo nào, hay sang bất kì giáo phái nào, hay sang bất kì tín điều nào. Tôi không có bất kì hệ thống niềm tin nào, tôi không có bất kì thượng đế học nào, tôi không có bất kì triết lí nào, tôi không có bất kì tôn giáo nào. Điều tôi đang cố truyền đạt là kinh nghiệm của tôi về chân lí. Nếu nó có thể có bất kì hữu dụng nào cho bạn, bạn có thể dùng nó. Nếu bạn thấy nó không hữu dụng gì, điều đó hoàn toàn là được. Đó là tự do của bạn, tôi sẽ không can thiệp vào tự do của bạn. Tôi sẽ không xâm lấn vào tính cá nhân của bạn. Tôi kính trọng bạn, tôi yêu bạn. Làm sao tôi có thể cải đổi bạn?

Cho nên con người của chân thành, con người của từ bi, con người của kinh nghiệm đích thực không bao giờ là người cải đổi. Chính tất cả những người tin kia, người sợ hoài nghi riêng của họ, người muốn giữ người bên trong là ở trong, và liên tục mang người mới từ bên ngoài vào. Điều đó giúp cho những người tin có niềm tin đần độn hơn, và niềm tin đần độn hơn làm cho thông minh của bạn cũng bị trì trệ. Niềm tin càng đần độn, thông minh càng trì trệ hơn. Niềm tin không giúp cho thông minh của bạn tăng trưởng, cho dù có đủ không gian để tăng trưởng. Khi bạn liên tục thúc đẩy niềm tin và che giấu hoài nghi của bạn trong các góc tối vô thức của bạn, bạn đang làm què quặt bản thân bạn. Bạn đang phá huỷ phật tính riêng của bạn, bạn đang phá huỷ tiềm năng riêng của bạn.

Bạn có thể đã là một trong những người chứng ngộ, nhưng bạn sẽ vẫn còn chỉ là người Cơ đốc giáo, hay người Hindu, hay người Mô ha mét giáo. Và đây toàn là những hư cấu, hư cấu đẹp. Bạn có thể tận hưởng chúng như những câu chuyện, như tiểu thuyết, nhưng đừng gọi chúng là kinh sách "linh thiêng."

Bốn trăm tám mươi tám trang trong Kinh Thánh linh thiêng là khiêu dâm thuần tuý. Đôi khi tôi tự hỏi tại sao mọi người liên tục bỏ lỡ bốn trăm tám mươi tám trang đó - không phải một trang, hay hai trang. Tôi đã bảo một trong các bạn tôi nhặt ra tất cả những trang đó, và anh ấy đã xuất bản một cuốn sách về bốn trăm tám mươi tám trang được rút ra từ Kinh Cựu Ước. Mọi trang đều khiêu dâm thế, xấu thế, và bạn liên tục gọi nó là Kinh Thánh linh thiêng. Ngay cả những kẻ ăn chơi và tạp chí của họ Playboy, và kẻ ăn chơi nữ và tạp chí của họ Playgirl, và Penthouse không là gì khi so sánh với Kinh Thánh linh thiêng.

Chúng không là gì khi so sánh với các đền thờ ở Khajuraho ở Ấn Độ. Ngay cả Mahatma Gandhi đã xấu hổ tới mức ông ấy muốn ba mươi đền của Khajuraho... những đền là công trình điêu khắc lớn. Không ở đâu mà có đàn ông và đàn bà được khắc đẹp thế - nhưng họ đang làm tình, họ hoàn toàn trần truồng, và hành triệu bức tượng trong ba mươi ngôi đền đó...

Đã có một trăm đền, bẩy mươi đền đã bị phá huỷ bởi người Mô ha mét giáo. Ba mươi đền đã được cứu vì chúng được ẩn trong rừng thẳm. Mahatma Gandhi muốn chúng bị che phủ bằng bùn để cho không ai có thể thấy chúng.

Bạn phải đã nghe nói về ba con khỉ nổi tiếng của Mahatma Gandhi - ông ấy thường giữ chúng trên bàn làm việc. Cho dù ông ấy chết, chúng vẫn còn đang ngồi trên bàn của ông ấy. Ba con khỉ đó đã được một người bạn gửi từ Nhật Bản. Chúng là tác phẩm điêu khắc đẹp, nhưng chúng là không đầy đủ. Chúng bắt nguồn từ Trung Quốc sang Nhật Bản, và bản gốc thường là có bốn con khỉ, không phải ba.

Con thứ tư dường như đã bị lấy đi bởi người bạn ra khỏi bộ này, hay có lẽ... Tôi ngờ bản thân Mahatma Gandhi đã loại bỏ con thứ tư khỏi bộ này. Tôi phải mô tả các con khỉ này để bạn có thể hiểu tại sao ông ấy phải đã loại bỏ... vì ba con không phải là bộ gốc.

Con khỉ thứ nhất đang bịt tai bằng tay. Con khỉ thứ hai đang bịt mắt bằng tay. Con khỉ thứ bao đang bịt mồm bằng tay. Và con khỉ thứ tư bị thiếu.

Con khỉ thứ tư - tôi biết con khỉ thứ tư. Trong bộ gốc con khỉ thứ tư đang cầm bộ phận sinh dục trong tay.

Mahatma Gandhi đã diễn giải chúng - tôi không đồng ý với diễn giải của ông ấy. Ông ấy đã diễn giải rằng con khỉ dùng tay bịt tai nói, "Không nghe bất kì cái gì xấu." Và con khỉ đang dùng tay bịt mắt nói, "Không nhìn bất kì cái gì xấu." Và con khỉ thứ ba đang dùng tay bịt mồm đang chỉ ra, "Không nói cái gì xấu." Bây giờ, bạn có thể hiểu tại sao con khỉ thứ tư bị bỏ đi - thực ra con ấy không nên bị bỏ đi nếu Gandhi đã thực sự là con người của chân lí. Con khỉ thứ tư là kết luận logic: "Giấu nguồn gốc của mọi cái xấu."

Nhưng đây không phải là diễn giải của tôi. Khi biết mọi người, và biết rằng Charles Darwin có ý tưởng lớn này rằng con người đã bắt nguồn từ khỉ - và có mọi khả năng, vì tâm trí bạn vẫn vận hành như khỉ. Diễn giải của tôi, khi tôi tới thăm đạo tràng của Mahatma Gandhi... Ông ấy đã chết, nhưng con ông ấy Ramdas là bạn tôi, cho nên anh ta mời tôi và anh ta dẫn tôi đi xem xung quanh. Đó là một chỗ xấu - Mahatma Gandhi đã là một người tự hành hạ mình và ông ấy áp đặt hành hạ lên người khác.

Tôi nói, "Ba con khỉ này... con thứ tư đâu rồi? - vì tôi biết cả bộ."

Anh ta nói, "Tôi chưa bao giờ nghe nói về con thứ tư." Và anh ta nói cho tôi về diễn giải của Mahatma Gandhi.

Tôi nói, "Điều đó không đúng. Nhìn vào nhân loại, nhìn vào trong tâm lí của nhân loại... Con khỉ thứ nhất nói, 'Không nghe sự thực vì nó sẽ quấy rối mọi dối trá an ủi của ông.'

"Con khỉ thứ hai nói, 'Không nhìn vào sự thực; bằng không Thượng đế của ông sẽ chết và cõi trời và địa ngục của ông sẽ biến mất.'

"Con khỉ thứ ba nói, 'Không nói sự thực, bằng không ông sẽ bị kết án, bị đóng đinh, bị đầu độc, bị tra tấn bởi toàn thể đám đông, những người vô ý thức. Ông sẽ bị kết án - không nói sự thực!'

"Và con khỉ thứ tư bị thiếu nói, 'Che giấu vui thú của ông. Che giấu tận hưởng của ông, không trưng nó ra cho bất kì người nào.'"

Mọi người có thể kính trọng bạn nếu bạn khổ, nhưng nếu bạn sướng mọi người ghen tị với bạn.

Mọi người đã từng hỏi tôi tại sao tâm xã của tôi thất bại ở Mĩ. Nó không bao giờ thất bại. Lí do nó đã bị phá huỷ bởi bạo lực của chính phủ Mĩ là ở chỗ nó đã là thực nghiệm thành công thế. Không bao giờ có một tâm xã trong toàn thể lịch sử con người mà thành công thế.

Đó đã là rắc rối. Nếu chúng ta thất bại, không ai sẽ bận tâm về chúng ta, nhưng chúng ta đã thành công. Trong năm năm chúng ta đã tranh đấu chống lại sức mạnh lớn nhất trên thế giới - và chúng ta không có quyền lực. Chúng ta không là quốc gia, chúng ta không có quân đội... nhưng chúng ta có chân lí về phía chúng ta.

Tâm xã đã bị phá huỷ vì nó đã thành công.

Con khỉ thứ tư nói, "Giữ vui thú của ông, niềm vui của ông, được che giấu kín. Không để bất kì người nào biết rằng ông là người vui vẻ, người phúc lạc, người cực lạc, vì điều đó sẽ phá huỷ chính cuộc sống của ông. Nó là nguy hiểm."

Và nhìn vào nhân loại tôi có thể nói mà không hoài nghi gì rằng diễn giải của tôi là tốt hơn nhiều so với diễn giải của Mahatma Gandhi. Bản thân ông ấy trong cả đời ông ấy đã dạy về vô dục. Nhưng ông ấy là người chân thật, về điều đó tôi không có hoài nghi. Chân thực của ông ấy là rõ ràng. Ngay cả vào độ tuổi bẩy mươi ông ấy đã có những cơn ác mộng về dục, và trong mơ ông ấy đã xuất tinh - vào độ tuổi bẩy mươi! Đây là toàn thể cuộc sống của kìm nén. Bằng không đến lúc một người bốn mươi hai, nếu người đó đã sống cuộc sống của mình một cách vui vẻ, không mặc cảm, không có bất kì Thượng đế nào, không có bất kì tôn giáo nào, chỉ một cách tự nhiên, tuôn chảy cùng tự nhiên với thảnh thơi sâu sắc, trong buông bỏ... đến lúc người đó bốn mươi hai người đó sẽ trở nên nhận biết rằng những vui thú này là rất nhất thời. Và bây giờ chết đang tiến tới, người đó phải tìm cái gì đó vĩnh hằng hơn.

Những vui thú này sẽ chỉ ra con đường cho người đó, rằng nếu trong cực thích dục, thời gian và tâm trí dừng lại và bạn cảm thấy dường như bạn là một phần của vĩnh hằng... bạn biến mất như bản ngã và bạn đơn giản trở thành một với cái toàn thể. Nó chỉ xảy ra cho một khoảnh khắc, nhưng nó có thể xảy ra... theo cách riêng của bạn nếu bạn có thể xoay xở đi ra ngoài tâm trí và ngoài thời gian - không cần người đàn bà, không cần người đàn ông. Mọi đàn ông, mọi đàn bà đều có năng lực đi ra ngoài. Một khi bạn biết điều đó là có thể, thế thì bạn có thể điều khiển được nó.

Đó là điều thiền là gì - chỉ đi ra ngoài tâm trí và ra ngoài thời gian, và bạn đã đi vào trong im lặng vĩnh hằng, vào trong sự sống vĩnh hằng. Và một khi bạn đã nếm trải sự sống đó toàn thể sự tồn tại của bạn trở thành mở hội.

Câu hỏi thứ hai:

Thầy có đồng ý với Stendhal khi ông ấy nói, "Cớ duy nhất của Thượng đế là ở chỗ ông ta không tồn tại"?

Tuyệt đối!

Nếu Thượng đế tồn tại, ông ta chắc đã bị giết từ lâu rồi. Con người không thể dung thứ được ông ta; ông ta đã là kẻ thù. Điều tốt là ông ta không tồn tại, cho nên bạn có thể liên tục cầu nguyện... Nghĩ mà xem...

Có một câu chuyện, một câu chuyện rất cổ đại...

Có thời Thượng đế thường hay sống ở bãi chợ, nhưng cả ngày, ngay cả trong đêm mọi người đã gõ cửa và phàn nàn về mọi thứ: "Đây không phải là loại thế giới đúng mà ngài đã tạo ra. Tại sao có nhiều ốm bệnh thế? Nếu ngài là đấng sáng tạo, thế thì tại sao ngài tạo ra thân thể mà bị ốm? Tại sao có tuổi già, và tại sao có chết?"

Cho nên mọi người đã hành hạ ông ấy quá nhiều, chuyện cổ kể lại, rằng ông ấy triệu tập một hội đồng các thiên thần và hỏi họ, "Ta hoặc sẽ chết do sự hành hạ thường xuyên này, hoặc ta sẽ phải tự tử! Các ông có thể nói cho ta xem ta phải làm gì? Những người này không để cho ta một khoảnh khắc và đòi hỏi của họ là tới mức ta không thể đáp ứng được chúng. Một người đàn bà tới và bà ta nói, 'Ngày mai, nhớ đấy, không được mưa vì tôi đang cố phơi khô bột mì.' Và người đàn ông khác nói, 'Ngày mai tôi tuyệt đối cần mưa vì tôi đang gieo hạt.' Bây giờ ta sẽ làm gì?

"Và có hàng triệu người hò hét và giận dữ vì ham muốn của họ đã không được đáp ứng, lời cầu nguyện của họ đã không được nghe."

Thế là các thiên thần nghĩ. Một thiên thần nói, "Điều tốt là ngài đi lên Everest, đỉnh cao nhất của Himalayas."

Thượng đế nói, "Ông không biết điều đó nhưng ta là toàn trí, ta biết mọi thứ - quá khứ, hiện tại, tương lai. Sẽ sớm có người lên tới đỉnh cao nhất của Himalayas. Và một khi một người đã tìm ra, sẽ có xe bus và máy bay, và đủ mọi loại xe cộ. Và họ sẽ làm đường và khách sạn, và lại sẽ có bãi chợ. Ông không hiểu: nó sẽ chỉ an bình chút xíu trong thời gian ngắn. Điều đó không có tác dụng. Ta sẽ phải đổi chỗ lần nữa."

Cho nên ai đó gợi ý, "Sao ngài không chuyển lên mặt trăng?"

Ông ấy nói, "Ông không hiểu vì ông không biết tương lai - ngay sau Everest họ sẽ lên mặt trăng. Cho nên ta sẽ phải đổi lần nữa. Chỉ cho ta cái gì đó mà từ đó ta không phải đổi chỗ!"

Thế rồi một thiên thần già tới gần ông ấy và thì thào vào tai ông ấy, "Chỗ duy nhất con người có thể không bao giờ nghĩ tới là bên trong tim riêng của người đó. Ngài cứ ngồi ở đó..."

Ông ấy đã biến mất khỏi mọi nơi. Có lẽ bạn có thể đương đầu với cái gì đó của tính thiêng liêng trong con người riêng của bạn. Trong cuộc sống riêng của bạn, bạn có thể tìm thấy cái gì đó mà có tính Thượng đế. Bạn sẽ không tìm thấy Thượng đế như một người, bạn sẽ tìm thấy phẩm chất, hương thơm, sự hiện diện; không khí nào đó mà không phải là của bạn, cái thuộc vào càn khôn.

Stendhal là hoàn toàn đúng: "Cớ duy nhất của Thượng đế là ở chỗ ngài không tồn tại." Điều đó cứu ngài; bằng không thì không có an toàn, không có an ninh.

Friedrich Nietzsche trong tác phẩm của mình, Zarathustra đã nói vậy, đi tới một điểm mà Zarathustra đang đi xuống từ hang núi nơi ông ấy đã sống nhiều, nhiều năm. Và ông ấy tìm thấy trên đường một chiếc lều của một ẩn sĩ già, và ẩn sĩ này đang cầu nguyện tới Thượng đế. Sáng sớm khi mặt trời đang mọc, ẩn sĩ này đang cầu nguyện.

Và Zarathustra lẩm bẩm cho bản thân mình, "Có thể là ẩn sĩ già này đã không nghe nói rằng Thượng đế chết?"

Khi Zarathustra đi xuống ông ấy kể lại cho đám đông, "Các ông có nghe tin rằng Thượng đế chết không?" Tất cả họ bắt đầu cười.

Họ nói, "Ông phải điên rồi. Sống trong hang trong nhiều, nhiều năm một mình, đã làm ông thành người lập dị."

Bản thân Nietzsche đã trở nên điên trong pha cuối cùng của đời ông ấy, vì ông ấy đã tuyên bố tin tốt thực sự nhưng ông ấy đã không thể xoay xở tìm ra cái gì đó để thay thế cho Thượng đế. Ông ấy đã không thể tìm ra việc mở hội sự sống, ông ấy đã không thể tìm ra kinh nghiệm về dòng chảy sống bên trong bạn. Ông ấy vẫn còn trong chân không - trong chân không ông ấy sẽ là điên.

Nhiều người phát điên ở phương Tây hơn ở phương Đông. Nhiều người tự tử ở phương Tây hơn là ở phương Đông. Nhiều người giết người ở phương Tây hơn là ở phương Đông. Nó đáng ra phải là ngược lại - phương Đông nghèo tới mức mọi người đáng phải tự tự, đáng phải phát điên... nhưng họ không thế. Cái gì đang xảy ra?

Tâm trí phương Tây đã đi tới biết Thượng đế không có đó - chân không mênh mông. Và con người không thể sống mà không có nghĩa, con người không thể sống mà không có ý nghĩa, con người không thể sống mà không có niềm vui. Nếu Thượng đế chết, con người đã trở nên tuyệt đối trống rỗng, và con người không thể sống trong trống rỗng.

Con người cần nước cam lồ của sự sống chảy qua mình. Con người cần nở hoa thành hoa sen đẹp. Con người cần hát bài ca, con người cần chơi nhạc. Con người cần mọi phúc lành mà sự tồn tại làm thành sẵn có cho bạn.

Con người phương Tây có giáo dục nhiều hơn, giầu có hơn, do đó các nhu cầu thân thể của người đó gần như được đáp ứng. Người đó nhìn lên trời và thấy bầu trời trống rỗng - không có Thượng đế. Hiểu biết này rằng không có Thượng đế, thay vì trở thành tin tốt cho người phương Tây, đã trở thành tin xấu. Người đó cảm thấy ngẫu nhiên, không cần thiết - không có lí do tại sao người đó phải ở đây.

Phương Đông biết ba tôn giáo mà không có Thượng đế nào - Jaina giáo, Phật giáo, Đạo giáo - ba tôn giáo không được định tâm vào Thượng đế. Và ba tôn giáo này dường như lành mạnh hơn các tôn giáo đã bắt nguồn từ Do Thái giáo - Do Thái giáo, Ki tô giáo, Mô ha mét giáo. Ba tôn giáo phương Đông này dường như lành mạnh hơn, vì từ chính lúc bắt đầu không có Thượng đế. Cho nên họ không phải nhìn lên trời, họ phải nhìn vào trong. Đó là chỗ duy nhất nơi họ phải thám hiểm về chân lí.

Lời cầu nguyện không phải là con đường; thiền là con đường.

Và những người đã đi tới kinh nghiệm tối thượng về thiền - Phật Gautam, Bồ đề đạt ma, Ma ha ca diếp, Mahavira, Lão Tử, Trang Tử, Mã Tổ, Thạch Đầu... tất cả họ thậm chí không nói về Thượng đế. Cái mà không tồn tại - phỏng có ích gì ngay cả nói rằng ông ấy không tồn tại? Thảo luận về Thượng đế, thảo luận về cõi trời và địa ngục, đơn giản ở ngoài vấn đề.

Do đó tôi muốn bạn hiểu rằng Thiền đã tới như việc nở hoa của sự gặp gỡ của Phật Gautam và Lão Tử. Nó là gặp gỡ của Dhamma (Pháp) và Đạo. Nó là con lai của Bồ đề đạt ma và Trang Tử. Hai tôn giáo này đã đạt tới đỉnh cao nhất, và chúng là những tôn giáo không có tổ chức. Nơi chúng đã trở nên được tổ chức, chúng chết. Chẳng hạn, ở Tây Tạng nó đã trở thành được tổ chức, nó đã trở thành chết. Ở Sri Lanka nó đã trở nên được tổ chức, nó đã trở thành chết.

Bất kì tôn giáo nào trở nên được tổ chức nó đều trở thành chết vì nó lập tức là ham muốn quyền lực, ham muốn chi phối. Nó trở thành chính trị thay vì tôn giáo.

Tổ chức phá huỷ cá nhân, hi sinh cá nhân, và cá nhân là người duy nhất có thể biết những đỉnh cao nhất của tâm thức và chiều sâu của tâm thức.

Từ gặp gỡ của Phật Gautam và Lão Tử, Thiền được sinh ra. Thiền không là Phật giáo, nó cũng không là Đạo giáo; nó là cả hai, cũng như bạn là cả mẹ bạn và bố bạn. Bạn không là người nào - cái gì đó của bố bạn, cái gì đó của mẹ bạn đang chảy trong bạn.

Thiền đã đi tới điểm cao nhất của việc diễn đạt. Nó đã trở thành gần như đồng nghĩa với sự sống vĩnh hằng. Adam và Eve đã không thể ăn được quả của cây sự sống vĩnh hằng, họ đã bị đuổi khỏi Vườn Eden. Họ chỉ mới ăn quả của tri thức. Nhưng Thiền cho bạn cây kia, cây sự sống vĩnh hằng.

Cho nên trong loạt bài này chúng ta sẽ thảo luận về Thiền, xem như tương đương với sự sống vĩnh hằng.

Thượng đế không ở đâu.

Sự sống là bây giờ ở đây.

Và Thiền là chìa khoá chủ để mở các cánh cửa của điều huyền bí của sự sống.

Lời kinh:

Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,

Thạch Đầu nói:

"Pháp môn của ta là do tiên, Phật tuần tự truyền lại, chẳng bàn đến Thiền định tinh tấn...

Từ 'meditation - thiền' ở đây có thể cho bạn cảm giác hiểu lầm, lẫn lộn, vì trong tiếng Anh có ba từ: concentration - tập trung, contemplation - suy tư, meditation - suy ngẫm. Không từ nào trong ba từ này có năng lực dịch cho từ tiếng Phạn dhyana, điều trong ngôn ngữ của Phật - ông ấy đã dùng tiếng Pali, một ngôn ngữ khác với tiếng Phạn - zhana. Và khi Bồ đề đạt ma đem thông điệp này sang Trung Quốc, từ zhana nó đã trở thành ch'ana. Và khi Lâm Tế đem thông điệp này từ Trung Quốc sang Nhật Bản, từ ch'an hay ch'ana, nó đã trở thành Zen-Thiền. Nó đã tới gần với zhan hay zhana của Phật.

Nhưng không có từ tương đương trong tiếng Anh, vì ngay cả từ 'meditation' cho ý tưởng rằng bạn đang suy ngẫm về cái gì đó. Tập trung vào cái gì đó, suy tư về cái gì đó, suy ngẫm về cái gì đó - nhưng dhyan, hay Thiền, là không có bất kì đối thể nào.

Thiền ngụ ý bạn không suy tư, bạn không tập trung, bạn không suy ngẫm, vì không có đối thể. Bạn đơn giản hiện hữu - im lặng, không ý nghĩ, không tâm trí.

Chính bởi vì điều này, Thạch Đầu cũng đưa thiền vào là: "Chẳng bàn tới thiền định tinh tấn."

Nhưng vì việc hiểu và sự sáng tỏ của bạn, khi tôi dùng từ 'meditation' - nó là từ nghèo nàn, nó không có cùng phẩm chất như 'dhyan' hay 'Thiền' - tôi dùng nó vì không có từ khác trong tiếng Anh.

Và có lí do tại sao không có từ khác - phương Tây không bao giờ đi tới điểm của dhyana. Nó không bao giờ đi tới điểm mà người ta đơn giản hiện hữu - không làm bất kì cái gì bên ngoài mà cũng không làm bất kì cái gì bên trong. Người ta đơn giản hiện hữu - hiện hữu thuần khiết, im lặng hoàn toàn. Điều đó mang bạn tới chính trung tâm, và khoảnh khắc bạn ở chính trung tâm bạn bắt đầu trưởng thành trong vị phật, trong người chứng ngộ. Nhận biết của bạn lần đầu tiên mở các cánh hoa của nó như cách hoa sen mở cánh của nó khi trời sang rạng đông khi mặt trời bắt đầu mọc, khi đêm đã hết.

Thạch Đầu là đúng: không kỉ luật đặc biệt nào được cần. Không áp dụng đặc biệt thuộc bất kì loại nào được cần. Không nỗ lực tâm trí nào được cần - đó là điều ông ấy ngụ ý bởi thiền. Điều bạn cần chỉ là bỏ mọi thứ sang bên. Siêu việt trên thân thể, tâm trí, tim. Cứ liên tục siêu việt cho tới khi bạn đi tới một điểm là điểm cuối con đường. Ở đó - bạn đơn giản hiện hữu.

Ba Tiêu nói:

Ngồi im lặng

không làm gì,

xuân tới -

và cỏ tự nó mọc lên.

Bạn không phải làm bất kì cái gì, bạn chỉ phải ngồi im lặng không làm gì, vì bất kì loại việc làm nào đều sẽ đưa bạn đi xa khỏi bản thân bạn. Khi bạn không làm bất kì cái gì, toàn thể năng lượng tụ tập ở bên trong; nó không được đầu tư vào bất kì chỗ nào. Khoảnh khắc bạn đi qua tâm trí của bạn, năng lượng đã được đầu tư vào suy nghĩ được xả ra. Khi bạn đi qua tim, mọi năng lượng đã được đầu tư vào xúc động, tình cảm, cảm nghĩ, được xả ra.

Bây giờ bạn đang trở thành quá đầy năng lượng. Việc dư thừa năng lượng này cho bạn nếm trải đầu tiên về sự tồn tại, và khi năng lượng này trở thành cột trụ cực kì cao và sâu, bạn đã tìm thấy kết nối với càn khôn. Bạn không còn một mình. Thực ra, bạn không còn nữa, chỉ sự tồn tại hiện hữu. Thế thì sự tồn tại, càn khôn, sự sống, là điệu vũ vô cùng.

Tôi dạy bạn là vũ công.

Tôi dạy bạn là người yêu.

Tôi tuyệt đối khẳng định sự sống, và mọi tôn giáo của bạn là phủ định sự sống.

Tôi hoàn toàn hiến dâng cho khoảnh khắc hiện tại. Không đi vào quá khứ vì đó là kí ức; không có sự tồn tại liên quan tới kí ức của bạn thêm nữa. Không đi vào tương lai vì đó chỉ là tưởng tượng.

Chỉ vẫn còn ở đây, và bạn sẽ ngạc nhiên. Nếu bạn chỉ ở đây bây giờ, mọi ý nghĩ biến mất, vì mọi ý nghĩ là hoặc của quá khứ hoặc của tương lai. Không ý nghĩ nào là của hiện tại.

Hiện tại là thuần khiết thế, sạch sẽ thế, rõ ràng thế, chỉ như lối mở vào càn khôn. Đây là Thiền, và đây là chìa khoá đi vào trong sự sống vĩnh hằng. Chính việc cảm về sự sống vĩnh hằng lấy đi mọi căng thẳng, lo âu về tuổi già, về ốm bệnh, về chết, và sinh ra xa khỏi bạn.

Bạn không bao giờ được sinh ra và bạn sẽ không bao giờ chết.

Chính thân thể đã từng thay đổi.

Bạn đã từng đổi nhà.

Nhưng bạn là thực tại, chân lí.

Chân lí không ở bên ngoài bạn, nó là trung tâm ẩn kín bên trong nhất.

Cho nên Thiền đơn giản ngụ ý không làm gì, chỉ hiện hữu. Và trong im lặng hoàn toàn đó của hiện hữu, bạn dần dần thảnh thơi, và xuân tới và cỏ tự nó mọc lên. Bạn đột nhiên bắt đầu nở hoa - mắt bạn bắt đầu có chiều sâu mới. Cử chỉ của bạn bắt đầu có duyên dáng mới - mọi hành động của bạn trở thành niềm vui vô cùng. Nó có thể chỉ là chẻ củi, nó có thể chỉ là mang nước từ giếng - không thành vấn đề.

Một khi bạn biết bạn không là ngẫu nhiên với sự tồn tại, một khi bạn biết bạn là bản thân sự tồn tại, sự sống lấy bước nhảy lượng tử vô cùng. Bạn không còn bị giới hạn vào thân thể, bạn không còn bị giới hạn vào tâm trí nhỏ bé. Bạn trở thành bao la và vô hạn, và chỉ trong cái bao la và vô hạn này bạn có thể hân hoan, bạn có thể phúc lạc.

Và cái bao la này đã trở thành sẵn có cho bạn vì Thượng đế chết; bằng không ông ta đang chiếm mọi chỗ, ông ta đang theo dõi bạn từ mọi phía. Ông ta đang phán xét bạn liên tục, chõ mũi vào chuyện của bạn, kết án bạn - "Cái này là sai, không làm nó." Và mọi lời răn đều chống lại sự sống.

Tôi đã nghe một chuyện cổ...

Khi Thượng đế làm ra thế giới ông ấy đi mang theo những lời răn của mình tới người Babylon trước hết, và hỏi họ, "Các ông có muốn có lời răn không?"

Họ nói, "Trước hết, chúng tôi muốn biết lời răn là gì."

Và ông ấy nói, "Ngươi phải không ngoại tình."

Họ nói, "Quên mọi chuyện về điều đó đi. Không có ngoại tình không có vui gì trong cuộc sống. Ông cứ giữ lấy lời răn của ông."

Thượng đế rất thất vọng, "Đây là loại người gì vậy?"

Ông ấy tới người Ai Cập... cùng câu hỏi đó.

"Những lời răn là gì? Đầu tiên chúng tôi phải biết nó trước khi chúng tôi nhận một lời" - và không ai sẵn sàng nhận nó.

Và thế rồi ông ấy tìm thấy Moses người đã hỏi câu hỏi sai. Khi Thượng đế nói, "Ông có muốn có lời răn không?" Moses nói, "Bao nhiêu? Nó giá bao nhiêu?"

Thượng đế nói, "Cho không mà."

Moses nói, "Thế thì sao một lời răn? Tôi sẽ lấy mười lời răn."

Nhưng khi Thượng đế không còn đó, mọi lời răn của ông ta biến mất và mọi kinh sách linh thiêng của ông ta biến mất, và thế giới trở thành một lần đầu tiên. Không tôn giáo, không biên giới tôn giáo, không phân biệt - không có Thượng đế, nhân loại là một.

Thiền dạy bạn không chỉ là một với nhân loại, mà là một với cây và sông, và núi và trời và sao. Toàn thể vũ trụ này là hiện hữu của chúng ta. Chúng ta chỉ là những đoá hoa mầu sắc khác nhau đem sự đa dạng đẹp cho sự tồn tại này. Chúng ta là cách diễn đạt của sự tồn tại, cách diễn đạt duy nhất. Điều đó cho bạn sự tự hào, cho bạn chân giá trị. Điều đó cho bạn vinh dự bản chất, lòng tự trọng mà bạn đã không thể có được nếu như Thượng đế sống.

Nhưng toàn thể nhân loại thậm chí vẫn còn chưa nghe thấy. Họ vẫn đang cầu nguyện tới điều hư cấu, và hư cấu đó đang làm cho toàn thể nhân loại thành tinh thần phân liệt, loạn thần kinh, bẩn thỉu, xấu xí.

Ba giáo sĩ đang ngồi trong ghế dài công viên một buổi tối...

Họ thường tới công viên đó mọi tối - những giáo sĩ già. Một người bẩy nhăm, một người tám nhăm, một người chín nhăm - tất cả đã về hưu.

Giáo sĩ trẻ nhất, người mới bẩy nhăm có vẻ rất buồn. Giáo sĩ thứ hai, người tám nhăm tuổi, hỏi ông ta, "Có chuyện gì vậy? Sao ông buồn thế tối nay?"

Ông này nói, "Phải làm gì đây? Tôi phải nói cho các ông để cho tôi có thể được nhẹ gánh. Chuyện xảy ra là một quí bà đẹp đã là khách ở nhà tôi, và khi bà ấy tắm tôi đã nhìn qua lỗ khoá vào thân hình cân đối đẹp của bà ấy."

Cả hai giáo sĩ kia bắt đầu cười.

Giáo sĩ thứ hai nói, "Ông ngốc. Mọi người đều làm điều đó trong thời thơ ấu."

Nhưng giáo sĩ trẻ nhất nói, "Các ông đã không nghe toàn thể câu chuyện và các ông đã xen vào. Tôi bị bắt quả tang bởi mẹ tôi."

Hai giáo sĩ kia nói, "Chúng tôi biết. Mọi người đều bị bắt quả tang. Điều này không là gì để buồn."

Nhưng người này nói, "Các ông không hiểu chút nào. Việc này đã xảy ra hôm nay! Đó không phải là vấn đề của thời thơ ấu."

Họ nói, "Thế thì đó là chuyện nghiêm trọng rồi."

"Nhưng nó không là gì cả," giáo sĩ thứ hai nói. "Điều xảy ra cho tôi, các ông không biết..."

Vấn đề của ông ấy là ở chỗ ông ấy đã không làm tình với vợ ông ấy trong ba ngày. Và cả hai giáo sĩ kia bắt đầu cười, vì cả hai đã biết "yêu" của ông ấy là gì. Vào độ tuổi tám mươi nhăm, một chân để trong mồ, một chân ở ngoài - yêu của ông ấy là gì? Họ đã biết điều đó, cho nên cả hai cười.

Ông này nói, "Sao các ông cười?"

Họ nói, "Chúng tôi cười vào yêu của ông. Đừng lo nghĩ về nó."

Yêu của ông ấy là, ông ấy sẽ cầm tay vợ ông ấy trước khi đi ngủ, siết chặt nó ba lần, và nói lời chào buổi đêm. Đó là yêu của ông ấy.

Nhưng vợ là vợ, và ngay yêu ngần ấy vợ cũng đã không cho phép ông ấy trong ba ngày. Bà ấy sẽ quay đi và nói, "Tôi đau đầu, ông ngủ đi."

Cho nên ông ấy nói, "Trong ba ngày bà ấy đã bị đau đầu. Vào đích xác khoảnh khắc tôi định làm tình với bà ấy, bà ấy nói, 'Tôi bị đau đầu; ông cứ đi ngủ đi.'"

Người thứ ba, giáo sĩ già nhất nói, "Các ông toàn là đồ ngốc. Các ông không hiểu vấn đề thực. Vấn đề thực đang xảy ra cho tôi. Mới sáng nay khi tôi định làm tình với vợ tôi bà ấy bắt đầu la lên, 'Ông là đồ điên về dục à? Cả đêm ông đã làm tình lặp đi lặp lại mãi.'"

Cho nên ông ấy nói với các bạn của mình, "Dường như tôi mất trí nhớ rồi. Tôi cứ tưởng đó là lần thứ nhất."

Nhân loại bị đè nén sẽ có mọi vấn đề này. Nhưng ai đã tạo ra mọi vấn đề này? Thượng đế của bạn, các tu sĩ của bạn... họ là những tội phạm lớn nhất, vì chính sự ngoan đạo họ dường như là người thoả mãn cho ước vọng của bạn, nhưng họ đã phá huỷ mọi thứ trong bạn.

Thiền muốn bạn phục sinh, bắt giữ cuộc sống của bạn lần nữa, điều bạn đã trao cho ai đó khác để được chăm sóc. Là người chủ đi, và bạn sẽ bắt đầu nở hoa của cái đẹp và phúc lạc và cực lạc, và là người say sưa thiêng liêng.

Thạch Đầu nói:

"chỉ cầu thông đạt tri kiến của Phật mà nói tâm ấy là Phật.

Thạch Đầu nói, "Chỉ cầu thông đạt tri kiến của Phật mà nói tâm ấy là Phật - Khi ông đạt tới sáng suốt như đã được đạt tới bởi Phật, ông nhận ra rằng vô trí là Phật..." Cứ đi ra ngoài tâm trí, và bạn đã trở thành phật. Nó là bước chuyển nhỏ thế, cuộc hành trình nhỏ thế - có lẽ chỉ một bước. Nhưng vì bạn không là toàn bộ, tôi nói với bạn về ba bước. Tôi chia một bước thành ba bước, vì bạn ngần ngại lấy cú nhảy như vậy - một bước. Bằng không chỉ có một bước: từ tâm trí sang vô trí. Nhưng vì bạn ngần ngại đi ra ngoài tâm trí, bạn sợ bạn có thể mất trí. Điều đó là đúng. Nếu bạn đi ra ngoài tâm trí từ cửa sai, bạn sẽ mất trí.

Có hai cửa đi ra ngoài tâm trí: một cửa đi thấp hơn tâm trí, một cửa đi ra ngoài tâm trí. Cả hai đều ở bên ngoài tâm trí. Nếu bạn đi vào từ cửa thấp hơn, bạn sẽ mất trí, và bạn sẽ nằm trên tràng kỉ của nhà tâm thần. Nếu bạn đi vào vô trí từ cửa trên, bạn sẽ là vị phật. Phật không bao giờ khổ từ bất kì điên, bất kì loạn thần kinh, bất kì rối loạn tâm thần nào - không cái gì.

"Chỉ cầu thông đạt tri kiến của Phật mà nói tâm ấy là Phật. Khi ông đạt tới sáng suốt như đã được đạt tới bởi Phật, ông nhận ra rằng vô trí là Phật và Phật là vô trí" - chúng là đồng nghĩa - Tâm, Phật cùng chúng sinh, phiền não và Bồ đề, danh tướng tuy khác, mà bản thể đồng nhất - vô trí đó, Phật, sinh linh hữu tình, bồ đề, và phiền não, là một và cùng một bản chất trong khi chúng đa dạng về tên gọi.

Mọi thứ được làm từ cùng một chất liệu, cùng sự tồn tại, cùng tâm thức là vô trí; chỉ cái tên là khác. Bạn có thể gọi nó là bất kì cái gì - niết bàn; bạn có thể gọi nó là cứu rỗi; bạn có thể gọi nó là giải thoát. Nhưng đây là những cái tên khác nhau của cùng một không gian mà được mô tả chính xác chỉ là vô trí, hay bên ngoài tâm trí. Bạn xuất hiện trong một không gian không có giới hạn, không biên giới, và đột nhiên bạn trở nên nhận biết rằng hiện hữu của bạn đã từng ở đây từ vĩnh hằng, và nó sẽ ở đây mãi mãi.

Chính vô trí này là phật, và chính khoảnh khắc này là thiên đường hoa sen. Bạn không phải đi bất kì chỗ nào. Bạn chỉ phải chìm vào bên trong để tìm ra đáy của con người bạn.

"Các vị nên giác ngộ tâm linh của mình, biết rõ bản thể, rời xa phân biệt ‘Đoạn’ và ‘Thường’, tâm tính chẳng phân biệt dơ sạch."

Nó là thuần khiết tới mức bạn thậm chí không thể gọi nó là thuần khiết, vì nó không bao giờ bị làm nhơ bẩn. Bất kì cái gì cũng có thể bị làm nhơ bẩn, nhưng nó là thuần khiết thế bạn thậm chí không thể gọi nó là thuần khiết. Nó không thể bị làm nhơ bẩn, sự thuần khiết của nó là tuyệt đối. Không bụi nào đã bao giờ tụ lại trên chiếc gương của tâm thức của bạn.

Điều này làm ra một vấn đề cực kì lớn. Tội nhân và thánh nhân cả hai đều có năng lực đi vào trong vô trí, vì tội nhân không thể làm nhơ bẩn vô trí của mình, thánh nhân không thể làm thuần khiết nó. Nó bao giờ cũng ở bên ngoài nhị nguyên.

Nó là thuần khiết thế và hồn nhiên thế - sẵn có cho tội nhân, sẵn có cho thánh nhân. Cả hai phải đi ra ngoài tâm trí của họ. Tội nhân phải đi ra ngoài tâm trí tội lỗi, và thánh nhân phải đi ra ngoài tâm trí thánh thiện. Nhưng cả hai phải đi ra ngoài tâm trí, và họ đạt tới cùng không gian của sự thuần khiết tuyệt đối. Nó là siêu việt trên mọi nhị nguyên; nó đơn giản hiện hữu. Bạn không thể đặt tên cho nó, bạn không thể thốt ra một lời về nó.

Một trong những nhà logic lớn nhất của phương Tây, Ludwig Wittgenstein, đã viết trong công trình lớn của ông ấy, Tractatus Logico-Philosophicus... ông ấy đã viết theo một phong cách rất kì lạ và đặc biệt, phong cách mà đã được dùng trong những lời kinh của Thiền nhân. Ông ấy sẽ chỉ viết trong những khổ thơ nhỏ và đặt số vào. Mọi khổ thơ, mọi dòng đều đầy đủ trong bản thân nó, làm ra một phát biểu đầy đủ. Cho nên ông ấy sẽ đánh số - không phải trang, nhưng ông ấy sẽ đánh số kinh thứ nhất, kinh thứ hai, kinh thứ ba, kinh thứ tư...

Một trong những câu châm ngôn - kinh ngụ ý châm ngôn, phát biểu cô đọng nhỏ nhất - tôi đã bắt gặp khi tôi là sinh viên, có nói: Cái mà không thể được nói phải không được nói. Một phát biểu đầy đủ - nếu bạn không thể nói được bất kì cái gì về vô trí, thế thì xin đừng nói bất kì cái gì, vì bất kì cái gì bạn nói đều sẽ sai. Bất kì cái gì bạn nói sẽ không đích xác là cái bạn muốn nói. Cho nên xin đừng nói bất kì cái gì về cái mà không thể diễn đạt được.

Tôi đã viết một bức thư cho ông ấy, nhưng ông ấy đã chết. Bạn của ông ấy đã gửi cho tôi lời đáp: "Nếu như ông ấy còn sống ông ấy chắc đã chấp nhận sửa đổi của ông. Ông ấy là con người chân thật vô cùng và ông ấy chắc đã không nghĩ rằng ông đã phê bình ông ấy."

Tôi đã không phê bình. Tôi đơn giản nói cho ông ấy, "Ông đang nói, 'Cái mà không thể được nói phải không được nói,' nhưng ông đã nói cái gì đó về nó rồi. Bỏ câu châm ngôn này đi. Ngay cả nói ngần này cũng là đang nói cái gì đó. Cái mà không thể được nói phải không được nói - ông đã nói cái gì đó về nó rồi." Không cái gì có thể được nói về vô trí, kể cả câu này: Không cái gì có thể được nói về vô trí.

Nó là kinh nghiệm thuần khiết - bạn có thể trải nghiệm nó. Bạn có thể có nó, bạn đã có nó. Bạn có thể nhảy múa với cực lạc khi bạn đi tới nhận ra rằng nó bao giờ cũng có đó, bạn chỉ không bao giờ nhìn vào nó. Bạn đã bận rộn thế ở bên ngoài, được tham gia nhiều vào cái tầm thường tới mức cái bản chất bị mất. Nhưng nó có đó đang chờ đợi.

Lấy bản thể mà nói, thì trong suốt đầy đủ siêu phàm vượt thánh."

"Nó vẫn còn không bị rối hoàn hảo và tự đủ. Cùng điều đó cũng là vậy với người trí huệ và người dốt nát."

Họ được làm từ cùng chất liệu: vô trí - người trí huệ và người dốt nát. Người dốt nát phải không trở thành trí huệ trước khi họ đi vào trong vô trí. Họ có thể đi vào trong vô trí từ mọi chỗ họ đang ở - tội nhân, người dốt nát, người trí huệ, người am tường. Dù bạn ở bất kì chỗ nào, khoảnh cách của bạn với vô trí là như nhau.

Đây là việc nổi dậy lớn chống lại mọi tôn giáo. Nó không nói tội nhân trước hết phải trở thành thánh nhân, người vô đạo trước hết phải trở thành người đạo đức. Thiền cho bạn sáng suốt vô cùng rằng dù bạn ở bất kì đâu, dù bạn là bất kì ai, dù hành động của bạn là bất kì cái gì, không cái gì có thể là nhơ bẩn, không cái gì có thể làm nó bị rối. Từ chính không gian của bạn, bạn đi thẳng vào vô trí. Từ những không gian khác nhau bạn đi tới cùng một trung tâm, và bạn sẽ thấy hiện hữu của bạn là tuyệt đối sạch sẽ, hoàn toàn sạch sẽ. Nó không bao giờ khác đi.

Lấy bản thể mà nói, thì trong suốt đầy đủ siêu phàm vượt thánh, còn lấy sự tướng mà nói thì ứng dụng tùy cơ chớ không câu nệ hạn chế, mà nhiệm vận tự tại.

Nhất thiết tồn tại (tam giới, lục đạo) đều là thể hiện Phật tính của tự tâm.

"Bản chất vô trí của ông không bị giới hạn trong việc làm của nó, và không được chứa trong phân loại tâm trí, tâm thức, hay ý nghĩ.

"Tam giới của ham muốn, hình tướng và vô hình tướng, và lục đạo của sự tồn tại là không hơn những thể hiện của bản thân tâm trí của ông."

Mọi cái gọi là kỉ luật, phương pháp, yoga của bạn... mọi lời cầu nguyện của bạn, chỉ là các mánh lới, phóng chiếu của tâm trí riêng của bạn. Bỏ mọi thứ đi!

Tôi nhớ tới một giám mục Cơ đốc giáo lớn...

Ông ấy có một con vẹt đẹp thường trích đọc những lời cầu nguyện Cơ đốc giáo một cách đầy đủ. Nó là một con vẹt quí giá. Con vẹt được trưng ra cho mọi khách, và nó sẽ trích đọc toàn thể lời cầu nguyện Cơ đốc giáo. Và nó là con vẹt thánh thiện, ngoan đạo thế. Nó được huấn luyện - nó thường có một vòng hạt trong một chân, và nó sẽ liên tục nói, "Alleluia, Alleluia!" Và mọi người đã ngạc nhiên rằng con vẹt ngoan đạo thế...

Nhưng nó có vẻ rất buồn, như mọi thánh nhân bao giờ cũng có vẻ vậy - bạn không thể trở thành ngoan đạo mà không trở nên buồn. Vì nó có vẻ buồn thế, ông giám mục bao giờ cũng lo nghĩ phải làm gì về điều đó, vì ngoài những điều đó ra, nó tuyệt đối bình thường.

Một hôm ông ấy đi tới gặp các thành viên của giáo đoàn của ông ấy, một người đàn bà, người mới mua một con vẹt hôm đó. Và ông chủ bán vẹt đã bảo bà ấy, "Tôi không muốn bán con vẹt này cho bà. Bà có thể lấy bất kì con vẹt khác nào. Chúng tôi có nhiều con trong cửa hàng." Nhưng bà ấy trở nên quan tâm thế tới con vẹt này - nó là loài rất đẹp.

Bà ấy nói, "Tôi sẽ trả bất kì cái gì, nhưng chỉ cho con vẹt này thôi."

Người chủ tiệm nói, "Tôi phải bảo bà rằng con vẹt này xuất thân thừ một chỗ rất xấu. Nó đã ở trong nhà thổ cho nên nó dùng các từ tục tĩu. Đó là lí do tại sao tôi đang cố cản bà khỏi lấy nó."

Nhưng quí bà nói, "Tôi sẽ dạy nó, nhưng tôi sẽ lấy nó." Nó trông đẹp tới mức bà ấy nghĩ, "Nếu nó có thể nói những từ tục tĩu, vấn đề là gì nào? Chỉ chút ít huấn luyện sẽ được cần." Nhưng điều đó đã đơn giản là không thể được. Nó sẽ nói bất kì cái gì ngay trước khách khứa, trước các hàng xóm. Nó sẽ hét lên bất kì cái gì - đủ mọi từ tục tĩu.

Cho nên khi ông giám mục tới trong cuộc thăm đều tuần, bà ấy kể nỗi khổ của mình, "Phải làm gì đây? Tôi đã mua con vẹt này... đẹp thế."

Giám mục nói, "Đừng lo. Tôi có một con vẹt rất thánh thiện, ngoan đạo, nó liên tục lần các hạt trong tràng hạt, có lời cầu nguyện đầy đủ và trích đọc hoàn hảo thế. Tôi sẽ đem con vẹt của bà về và để con vẹt này cùng với con vẹt của tôi trong cùng một lồng. Và nó là kẻ thánh thiện thế nó sẽ dạy con vẹt này." Thế là ông ấy mang con vẹt này đi.

Ông ấy để con vẹt này vào cùng lồng, và ông ấy đi vào. Khi ông ấy đi ra, ông ấy không thể tin được vào mắt mình. Con vẹt thánh thiện đã vứt bỏ tràng hạt và đang đậu rất gần con vẹt kia. Và ông giám mục nói, "Cái gì xảy ra vậy? Tại sao mày bỏ tràng hạt? Và tại sao mày không trích đọc Ave Maria hay Alleluia?"

Con vẹt nói, "Tôi đã cầu nguyện về một đàn bà, và tôi đã có được nó. Không còn vòng hạt nữa, không còn lời cầu nguyện nữa. Tôi đã có được bạn gái đẹp thế. Ông biến đi!"

Cái gọi là thánh nhân của bạn và cái gọi là tội nhân của bạn là không khác mấy - chỉ mặt nạ của họ là khác. Và kinh nghiệm của tôi là ở chỗ tội nhân của bạn là hồn nhiên hơn các thánh nhân của bạn. Tôi đã thấy các kẻ tội phạm, tôi đã thấu những kẻ giết người. Tôi thường tới thăm các nhà tù, và thế rồi chung cuộc tôi đã bị tù ở Mĩ. Tôi đã sống như một người trong cuộc trong năm nhà tù, và tôi đã thấy những con người đẹp thế, đẹp hơn nhiều so với các chính khách, so với các tu sĩ - người hoàn toàn hồn nhiên.

Thiền trao cơ hội như nhau cho cả tội nhân và thánh nhân, cho cả người tốt và cho người xấu, vì hiểu biết của nó là rất rõ ràng. Sáng suốt của nó là sâu tới mức khoảng cách từ vô trí là bằng nhau.

Cho nên không thành vấn đề loại hoàn cảnh nào bạn đã được tham dự vào. Dù bạn đang làm các thứ mà mọi người nghĩ là sai, hay dù bạn làm các thứ mà mọi người nghĩ là đúng - không thành vấn đề! Đó toàn là các hiện tượng tâm trí của bạn. Chỉ đi ra ngoài tâm trí. Khi thánh nhân bỏ tâm trí của mình, và tội nhân bỏ tâm trí của mình, cả hai đi vào trong cùng không gian, cùng phật tính.

Đây là nổi dậy lớn của Thiền. Và điều này cho bạn một loại tính tôn giáo khác toàn bộ. Điều này làm cho bạn nhảy múa, sống với tính toàn bộ mà không có kiềm chế nào, không có mặc cảm nào, vì dù bạn ở bất kì đâu, khoảnh khắc bạn muốn đi vào trong sự sống vĩnh hằng của bạn, bạn có thể lấy cú nhảy. Từ bất kì điểm nào trong sự tồn tại, từ bất kì loại nhân cách nào, bạn có thể bỏ nhân cách đó và đi vào trong im lặng hoàn toàn.

Không tôn giáo nào có chừng nấy can đảm đó; không tôn giáo nào có chừng nấy dũng cảm đó - Thiền thực sự táo bạo! Nó chỉ thuộc vào sư tử, không thuộc và cừu của Jesus Christ.

"Rời xa Phật tính tự tâm, tất cả như trăng đáy nước, hoa trong gương, hư ảo không thật, trong đó còn có sinh diệt để mà nói ru?"

Nếu thánh nhân tới trước gương, gương không bận tâm "rằng bạn là thánh nhân." Tội nhân tới - gương không làm phân biệt nào. Tội nhân là tương đương với thánh nhân, với người ngốc, với cái gọi là học giả lớn.

Gương phản chiếu bình đẳng.

Vô trí là gương của bạn.

Trước gương mọi người là bình đẳng.

Thiền cho bạn quan niệm mới toàn bộ về chủ nghĩa cộng sản tâm linh. Mọi tôn giáo đều chống lại chủ nghĩa cộng sản, chỉ Thiền có năng lực hấp thu chủ nghĩa cộng sản.

Bạn có thể là vô thần, điều đó không thành vấn đề.

Bạn có thể là hữu thần, điều đó không thành vấn đề.

Khoảng cách tới vô trí là như nhau.

Cho nên tôi không bao giờ hỏi bạn xem bạn là ai. Dù bạn là vô thần, dù bạn là hữu thần - đấy là việc của bạn. Dù bạn là cộng sản hay vô chính phủ - đấy là việc của bạn. Dù bạn là người Ki tô giáo hay người Hindu hay người Mô ha mét giáo, điều đó không thành vấn đề. Điều thành vấn đề với tôi là dù bạn có bất kì loại tâm trí nào, làm nó thành bàn nhảy và nhảy vào trong vô trí. Vô trí không biết tới các khác biệt, nó là một toàn thể càn khôn. Và với tôi, con người của vô trí là người tôn giáo duy nhất. Mọi thứ khác chỉ là rởm.

Ông ấy đang nói, "Rời xa Phật tính tự tâm, tất cả như trăng đáy nước, hoa trong gương, hư ảo không thật, trong đó còn có sinh diệt để mà nói ru?"

Bạn không bao giờ được sinh, bạn bao giờ cũng ở đây. Bạn bao giờ cũng ở trong không gian này, trong thời gian này, ở đây và bây giờ; bạn sẽ không bao giờ chết. Chết và sinh, là hai chương bề ngoài trong sự sống vĩnh hằng lâu dài - những thứ nhỏ bé; chúng không thành vấn đề; chúng không là vấn đề.

"Các vị nếu hiểu được đạo lý trong đó, thì chẳng cần ở tại đây mà tham Thiền làm gì!"

Tôi đã từng nói đi nói lại với bạn rằng bạn không cần bất kì đạo đức nào, bạn không cần bất kì kỉ luật nào. Nhưng nếu bạn đi tới vô trí, mọi điều bạn bao giờ cũng cần sẽ là được trang bị. Bạn sẽ trở nên từ bi mênh mông. Bạn sẽ có duyên dáng điều gần như không phải của thế giới này. Bạn sẽ có yêu không có bất kì điều kiện nào. Bạn sẽ chia sẻ niềm vui của bạn, phúc lành của bạn, cho tất cả và mọi người - không chỉ cho bạn bè, mà còn cho người lạ. Bạn sẽ trở thành giống như mây mưa liên tục mưa rào mà không bận tâm liệu mưa rơi lên đá, hay lên đường, hay lên mái, hay trong cánh đồng, hay trong vườn. Khi bạn có dư thừa, ai quan tâm? Bạn đơn giản liên tục chia sẻ. Bất kì người nào có tính cảm nhận sẽ nhận nó, người không có tính cảm nhận sẽ không nhận nó. Nhưng điều đó không phải là vấn đề của bạn.

Phật là tốt một cách vô chọn lựa. Không phải là ông ấy đang thực hành đạo đức nào đó, đang tuân theo các lời răn nào đó. Nó đơn giản là ông ấy không thể làm được bất kì cái gì sai. Tâm thức của ông ấy, ánh sáng của ông ấy là rõ ràng tới mức ông ấy có thể thấy đích xác cái gì là tốt. Ông ấy biết cái tốt là phần thưởng trong bản thân nó, không phải là bạn sẽ có phần thưởng trên cõi trời. Và cái xấu là trừng phạt trong bản thân nó, không phải là bạn sẽ bị trừng phạt trong địa ngục. Cho nên không có cõi trời, không có địa ngục.

Mọi hành động mang lại niềm vui của nó hay khổ của nó. Người có mắt trong trẻo có thể thấy được. Và tôi nghĩ chẳng người nào sẽ chọn khổ, sẽ chọn bệnh hoạn, sẽ chọn cái gì đó xấu và bẩn thỉu. Nếu bạn có mắt, bạn sẽ chọn - cái đẹp nhất, cái vinh quang nhất, cái oai nghiêm nhất. Điều đó sẽ tới một cách tự phát.

Gyodai đã viết bài haiku:

Vì tôi,

chưa thắp sáng đèn,

tối xuân này.

Bài haiku nhỏ này là hay vì nhỏ như giọt sương trên lá sen trong ánh mặt trời sáng sớm. Chúng long lanh hơn kim cương, hơn ngọc.

"Vì tôi..." Đó là một tối xuân đẹp. Dần dần, dần dần bóng tối buông xuống. Mặt trời đang lặn, chim bay về cây.

Hương hoa khắp xung quanh. Hoa ban đêm đang mở cánh ra.

Tối có cái đẹp riêng của nó; nó rất sạch, và nó làm cho mọi phân tách biến mất. Mọi thứ trở thành một. Tối có chiều sâu mà sáng thiếu. Tối có im lặng mà sáng không có.

Cho nên khi tối buông xuống, và ông ấy có thể ngửi thấy mùi hoa đêm mở, và chim về lại cây tạo ra âm thanh hay, ông ấy nói, "Vì tôi, chưa thắp đèn" - đừng quấy rối tối xuân đẹp này - "tối xuân này." Để tôi nghỉ ngơi, để tôi quan sát biến đổi này từ sáng vào tối.

Sáng là rất bề mặt, tối có chiều sâu. Sáng tới và đi, tối còn lại.

Bạn không phải mang nó vào; bạn không thể đẩy nó ra. Bạn không thể làm bất kì cái gì với tối một cách trực tiếp, bạn chỉ có thể làm cái gì đó với sáng. Bạn mang sáng vào - tối biến mất. Bạn bỏ sáng ra - tối bước vào. Thực ra nó không bao giờ đi bất kì chỗ nào; nó vẫn có đó, sáng chỉ che phủ nó. Khi sáng mất đi, tối còn lại.

Sáng là nhất thời vì nó phụ thuộc vào nhiên liệu. Và nhiên liệu - ngay cả nhiên liệu của mặt trời một ngày nào đó sẽ bị kết thúc, vì nó đang cho nhiều sáng thế, toả ra mọi khoảnh khắc. Nó đang trở nên nghèo đi mọi khoảnh khắc. Các nhà khoa học nghĩ rằng sẽ mất ít nhất bốn triệu năm cho mặt trời chết. Nhưng trong vĩnh hằng của sự tồn tại, bốn triệu năm không thành vấn đề.

Mọi ngày một số mặt trời cạn kiệt, trở thành già, chết, bị kết thúc. Các nhà vật lí nói chúng đi vào trong hố đen, chúng biến mất. Và mọi khoảnh khắc, như các mặt trời biến mất, mặt trời mới được sinh ra. Khoa học còn chưa khám phá ra hố trắng. Tôi nghĩ có hố đen thì phải có hố trắng. Nếu hố đen kéo các sao và hành tinh và chúng biến mất, chúng chết, thế thì có lẽ ở phía bên kia là hố trắng từ đó sau một số thời gian nghỉ ngơi - có thể chín tháng trong bụng mẹ - chúng đi ra, lại được sinh ra.

Nhưng không cái gì trong sự tồn tại chết. Mọi thứ tiếp diễn, mọi thứ bị mệt mỏi. Có khoảnh khắc sống và có khoảnh khắc chết. Nhưng hiện hữu bản chất của bạn đơn giản đi từ hành động sang vô hành động. Và lần nữa khi nó đã thu lấy năng lượng, nó được làm khoẻ mạnh lại, nó trở thành tươi tắn; nó quay lại từ bụng mẹ mới.

Chỉ vị phật không bao giờ quay lại. Cái chết của ông ấy là chung cuộc vì ông ấy không có ham muốn nào còn bị bỏ lại. Chính tâm trí ham muốn đưa bạn vào bụng mẹ khác. Phật, người đã nhận ra vô trí của mình, là hoàn toàn trống rỗng ham muốn, tham vọng. Bây giờ không có nhu cầu cho ông ấy đi vào trong bụng mẹ khác và chịu khổ chín tháng trong nhà tù. Thế rồi ra khỏi nhà tù này không phải là vui thú gì. Và toàn thể sự sống lại bắt đầu, toàn thể vòng quay. Cùng cuộc hành trình, cùng tuổi thanh niên, cùng chuyện lãng mạn, cùng những thất bại, cùng những thất vọng... và tuổi già, và nỗi sợ chết.

Mối quan tâm của Thiền là làm sao giúp bạn gạt bỏ vòng sinh tử này. Cách duy nhất là đi ra ngoài tâm trí. Chính tâm trí chứa mọi tham vọng, ham muốn, đau khổ, phiền não của bạn. Nếu bạn thoát ra khỏi nó, bạn là người thức tỉnh. Bạn đã đi tới điểm từ đó bạn có thể đi thằng vào trong càn khôn. Bạn trở thành một phần của cái toàn thể, hay chính xác hơn, bạn trở thành cái toàn thể.

Câu hỏi của Maneesha:

Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,

Trong bài thơ của mình, "Bài ca về bản thân tôi," Walt Whitman viết:

"Ông sẽ sở hữu cái tốt lành của đất và mặt trời... Ông sẽ không còn coi các thứ là đồ hạng hai hay hạng ba, cũng không nhìn qua con mắt của người chết, không nuôi dưỡng những bóng ma trong sách...

"Không bao giờ có bất kì khởi đầu nào nhiều hơn đang có bây giờ, không có tuổi thanh xuân hay tuổi già nhiều hơn đang có bây giờ, và sẽ không bao giờ có bất kì hoàn hảo nào nhiều hơn đang có bây giờ, cũng không có bất kì cõi trời hay địa ngục nào nhiều hơn đang có bây giờ."

Thưa thầy kính yêu, từ tôn sùng hư cấu tới mở hội cái ngã của người ta - đây chẳng phải là khác biệt bản chất giữ con người cũ và con người mới sao?

Maneesha, nó đích xác là khác biệt giữa con người cũ đã sống dưới sự nô lệ, và con người mới sẽ đi ra khỏi sự nô lệ của Thượng đế, của nhà thờ, của tôn giáo.

Con người cũ không bao giờ thực sự sống, người đó đi theo tri thức vay mượn. Người đó bao giờ cũng bị ra lệnh, bị kéo lê từ điểm này sang điểm kia. Con người mới sẽ sống từ tự do, tự phát, nhận biết. Người đó sẽ không có bất kì kinh sách nào, người đó sẽ không có bất kì kẻ độc tài nào, người đó sẽ không có bất kì Thượng đế nào. Người đó sẽ là bản thân mình, tâm thức tối thượng. Đây là trưởng thành thực.

Và đó là đúng lúc, đúng thời điểm! Chúng ta đã sống trong cảnh nô lệ đủ rồi. Giờ bỏ nó đi... toàn bộ! Đi vào trong bầu trời mở. Giang đôi cánh của bạn ra, toàn thể sự tồn tại thuộc về bạn.

Con người mới sẽ là hoàng đế, theo nghĩa rằng bản thân người đó sẽ là người chủ. Người đó sẽ không cho phép bất kì người chủ khác nào. Người đó sẽ không cho phép bất kì cảnh nô lệ khác nào. Người đó sẽ không cho phép các quốc gia, người đó sẽ không cho phép các giống nòi, người đó sẽ không cho phép các hệ thống đẳng cấp. Người đó sẽ không cho phép mọi loại tôn giáo và mê tín của họ. Con người mới sẽ tuyệt đối sạch sẽ và tươi tắn và hồn nhiên như đứa trẻ. Và từ hồn nhiên đó nảy sinh con người thiêng liêng, vị phật.

Phật là con người mới.

Giờ là lúc dành cho Sardar Gurudayal Singh.

Bật đèn lên!

Một sáng Jerry và Judy Jam đang ngồi ăn bữa sáng thì thở dài và đặt miếng bánh mì nướng của cô ấy xuống.

"Cưng," cô ấy nói, "Em đã từng nghĩ về lúc đó khi anh bị đắm tàu. Mọi báo chí gọi anh là anh hùng vì anh đã sống sót một mình ở Ấn Độ dương trong ba tháng trên một chiếc bè.

"Và vậy mà em cảm thấy, cưng," Judy tiếp tục, "rằng anh đã từng che giấu cái gì đó với em từ đó. Cái gì đã xảy ra?"

"Này, em yêu," Jerry đáp, cố không có vẻ giống như Chuột Mickey, "vì em đã có điều kì diệu thế với anh, anh phải thú nhận anh đang che giấu cái gì đó với em! Đã có một cô gái đáng yêu trên chiếc bè cùng anh. Chúng anh đã ở trên con tàu đó cùng nhau khi nó chìm. Chúng anh là những người duy nhất sống sót."

"A-ha!" Judy kêu lên.

"Nó đã không phải giống điều đó đâu, em," Jerry giải thích. "Điều đó là đúng, cô ấy đã là gái mãi dâm, nhưng cô ấy đã cứu đời anh! Chúng anh đã không có thức ăn, không nước - mọi thứ chúng anh có chỉ là bản thân chúng anh và ý chí sống còn."

"Em hiểu," Judy cắn cảu. "Vậy các anh đã làm gì?"

Jerry uống một ngụm cà phê dài và tiếp tục. "Em phải hiểu hoàn cảnh ở đó, cưng. Chúng anh không có thức ăn, không nước uống. Mọi thứ chúng anh có là thân thể trần trụi riêng của chúng anh."

"Anh đã nói điều đó cho em rồi!" Judy ngắt lời một cách đột ngột.

"Chúng anh ôn chặt lẫn nhau," Jerry tiếp tục. "Mọi điều chúng anh có là thân thể của mình - trần trụi dưới mặt trời cháy bỏng."

Judy không nói một lời. Cô ấy nhìn chăm chăm vào anh ta như thể anh ta là con rắn.

"Thôi được! Thôi được!" Jerry kêu lên, khi anh ta rạn vỡ dưới sự căng thẳng. "Em muốn biết sự thật chứ gì? Chúng anh đã đéo! Vâng! Chúng anh đã giao cấu mọi lúc! Nếu như không có cô gái kì diệu đó anh chắc chẳng bao giờ sống sót! Tin anh đi - cô ấy đã cứu mạng anh!"

Từ từ, Judy rót cho bản thân cô ấy một cốc cà phê khác. "Em không thích điều đó," cô ấy nói. "Nhưng em cho rằng em sẽ phải sống với điều đó. Nhưng chỉ một điều. Anh có bao giờ gặp lại cô ấy không?"

"Chỉ một lần thôi em," Jerry đáp. "Anh đã gặp cô ấy ở Las Vegas mùa hè năm ngoái tại hội nghị bán hàng."

"Và cô ấy đã làm gì?" Judy cắn cảu, nghi ngờ.

"Vẫn cùng việc đó thôi em," Jerry đáp. "Vẫn cứu mạng!"

Trên bãi cỏ điện Buckingham một buổi chiều, Hoàng tử Edward - con trai hơi kém thông minh của Nữ hoàng Elizabeth - đang ngồi đọc tạp chí Playbo. Anh ta nhìn lên anh mình, Hoàng tử Andrew, và hỏi, "Này, Andy, anh có trí tuệ: nói cho em - fox pass là gì?"

Andrew nghĩ một chốc, và thế rồi nói, "Ồ, em ngụ ý, faux pas! Đó là cách diễn đạt tiếng Pháp có nghĩa là sai lầm xã hội."

Edward ngây người nhìn Andrew. "Anh ngụ ý cái gì, 'sai lầm xã hội'?" hoàng tử kém thông minh hỏi. "Cho em một ví dụ đi."

"Thế này," Hoàng tử Andrew giải thích, "nhớ chủ nhật trước khi Tổng giám mục của vùng Canterbury tới ăn trưa không, và mẹ đưa ông ấy đi dạo trong vườn hồng?"

"Có, em có nhớ," Edward nói. "Về điều đó thì sao?"

"Nghe đây," Andrew tiếp tục. "Nhớ ông tổng giám mục bị gai đâm vào ngón cái không? Nó chảy máu nhiều, cho nên mẹ mang ông ấy vào trong cung điện. Họ đi vào trong phòng tắm cùng nhau và ở đó một lúc lâu. Và khi họ bước ra, tất cả chúng ta đã đi ăn trưa. Em nhớ mọi điều đó chứ, Edward?"

"Chắc chắn, em nhớ," Edward đáp.

"Bây giờ," Andrew tiếp tục, "em có nhớ, như anh vừa đưa cho em miếng bánh trứng sữa, mẹ đã nói, 'Tổng giám mục, vết chích1 của ông vẫn nhói chứ?' Và thế rồi tổng giám mục đáp, 'Không, thưa nữ hoàng, chỗ sưng giờ đã hạ xuống từ lúc ngài xoa bóp nó trong nhà tắm.'

"Và thế rồi món bánh trứng sữa bay ra khỏi tay anh và bắn tung toé khắp mọi người, và em kêu lên, 'Cứt!' Em có nhớ tất cả điều đó không?"

"Có, em nhớ!" Edward kêu lên rất kích động.

"Thế này," Hoàng tử Andrew nói, "khi em kêu 'cứt' - đó là faux pas!"

Một buổi chiều trên hòn đảo nhỏ Crete của Hi Lạp, một nhóm trị liệu địa phương trình diễn vở kịch Hi Lạp nổi tiếng, "Eat-a-Puss Rex." Spiro Sphincter trẻ, một diễn viên nghiệp dư, đóng một phần nhỏ trong vở kịch này. Anh ta chỉ phải lên sân khấu, tiến tới một cô gái đẹp đang nằm trên giường, và nói các lời: "Tôi muốn hôn môi cô và lấy cắp đi!"

Nhưng đêm mở màn Sphincter thực sự bồn chồn. Anh ta lên sân khấu, đầu gối run, anh ta loạng chạng tới cô gái trong giường, và lắp bắp, "Tôi muốn hôn của cô... Tôi muốn hôn của cô..." nhưng tâm trí anh ta trống trơn.

Anh ta thử lại.

"Tôi muốn hôn của cô..."

Đột nhiên, ai đó ở đằng sau nhảy lên và kêu to, "Bướm!"

Ngay lập tức bà già Acreepolis, ngồi trong các khán giả, lên cơn đau tim và ngã lăn ra chết.

Ngày hôm sau tại đám tang bà ấy, ở nhà thờ Chính thống Linh thiêng của vùng Blessed Bleeding Virgin, giám mục Cretin, người bây giờ chỉ có ba quí bà già còn lại trong toán của mình, thề trả thù!

"Chúng ta phải dập tắt lối nói thô bỉ này!" Cretin kêu lên. "Tôi sẽ chấm dứt tình trạng suy đồi đạo đức này!"

Thế là tối hôm đó tại nhà hát, Cretin ngồi ở bên cạnh sân khấu với khẩu súng ngắn đã nạp đạn để trên đầu gối và một thỏi thuốc nổ trong túi, có vẻ thành thạo và đe doạ.

Chắc chắn, trong hành động thứ hai của vở kịch, diễn viên trẻ Sphincter nhảy lên sân khấu, loạng choạng tới cô gái trong giường, và công bố, "Tôi định hôn của cô... Tôi định hôn của cô..." Nhưng lần nữa tâm trí của anh ta trống trơn.

Có một đợt sóng tiếng cười khẽ từ khán giả, và ngay lập tức giám mục Cretin nhảy trên chân và lên cò súng.

"Được rồi, mọi người," Cretin la lên, "Tôi sẽ bắn bay đầu đứa chó đẻ đầu tiên nói 'bướm'!"

Nivedano...

(Tiếng trống)

(Nói lắp bắp)

Nivedano...

(Tiếng trống)

Im lặng, và nhắm mắt lại. Cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông cứng. Đây là khoảnh khắc đúng để quay vào trong.

Thu mọi năng lượng của bạn, toàn bộ tâm thức của bạn, và xô tới trung tâm của con người của bạn mà chỉ ở dưới rốn, bên trong. Sáu phân dưới rốn...

Xô vào bên trong với sự khẩn thiết dường như đây là khoảnh khắc cuối cùng của đời bạn. Chừng nào bạn chưa có sự khẩn thiết và mãnh liệt đó, bạn không bao giờ có thể đạt tới trung tâm này.

Nó không xa xôi, nó ở rất gần; chỉ cần sự mãnh liệt và cảm giác khẩn thiết sâu sắc.

Mỗi lúc một nhanh hơn...

Mỗi lúc một sâu hơn...

Khi bạn lại gần hơn trung tâm của bạn, im lặng lớn giáng xuống bạn như làn mưa nhẹ. Bạn có thể cảm thấy cái mát mẻ của nó.

Thêm chút nữa...

Và đột nhiên bạn thấy an bình mênh mông nảy sinh từ chính trung tâm của con người bạn, bao quanh bạn như hương thơm.

Chỉ thêm chút nữa...

Và bạn sẽ bắt đầu cảm thấy bình thản, yên tĩnh, tĩnh lặng, phúc lạc mênh mông. Chỉ một bước và bạn ở trung tâm. Khoảnh khắc bạn đạt tới trung tâm bạn gần như bị say sưa bởi điều thiêng liêng.

Bạn biến mất.

Thay vào chỗ của bạn, có hình ảnh ngồi đó, biểu tượng của nhận biết phương Đông, chứng ngộ, Phật Gautam.

Nó là chính bản tính của bạn.

Mọi người bởi chính việc sinh của mình là một Phật Gautam.

Rất ít người đi đủ sâu để nhận ra nó; họ vẫn còn ở bên ngoài cả đời họ. Bạn là người may mắn nhất trên trái đất này, người đang cố đạt tới bản tính bên trong nhất của bạn.

Là phật đơn giản ngụ ý là tỉnh táo, nhận biết, ý thức. Nó có nghĩa bạn đã trở thành chỉ là nhân chứng.

Từ 'chứng kiến' này phải được nhớ, vì đây là phẩm chất duy nhất mà tạo ra phật.

Chứng kiến rằng bạn không là thân thể; chứng kiến rằng bạn không là tâm trí - đây là cách siêu việt trên thân thể và tâm trí.

Chứng kiến, chung cuộc, rằng bạn chỉ là nhân chứng.

Đây là cách người ta trở thành một Phật Gautam, đỉnh cao nhất của tâm thức đã từng được đạt tới.

Cực lạc lớn nảy sinh trong bạn - bạn chưa bao giờ biết tới nó trước đây. Bạn cảm thấy trong hoà điệu với vũ trụ, nhịp tim đập của bạn đã trở nên hài hoà với nhịp tim đập của sự tồn tại.

Để làm cho việc chứng kiến này sâu hơn và rõ ràng hơn...

Nivedano...

(Tiếng trống)

Thảnh thơi... nhưng liên tục nhớ chỉ một điều - rằng bạn là nhân chứng, không gì khác. Đây là siêu việt của bạn.

Và khi việc chứng kiến của bạn sâu sắc lên, bạn bắt đầu tan chảy vào trong vũ trụ như băng tan trong đại dương.

Thính phòng Phật Gautama đang biến thành một đại dương tâm thức - mười nghìn chư phật đã trở thành một tâm thức đại dương. Chúng ta là tách rời ở ngoại vi, nhưng chúng ta là một ở trung tâm. Trung tâm này là trung tâm của mọi người.

Tại khoảnh khắc này, hân hoan đi... và thu lấy mọi hương thơm này mà đang bao quanh bạn - phúc lạc, cực lạc. Uống mỗi lúc nhiều hơn từ dòng chảy vĩnh hằng này của sự sống của bạn. Và thuyết phục vị phật tới cùng bạn - ông ấy là bản tính của bạn, ông ấy phải tới cùng bạn. Ông ấy phải trở thành chính sự sống thường ngày của bạn; ông ấy phải diễn đạt duyên dáng của ông ấy trong hành động của bạn, trong lời của bạn, trong im lặng của của tim bạn.

Ngày đó, bạn sẽ cảm thấy là người được phúc lành nhất trong sự tồn tại, khi bạn biến mất và chỉ phật còn lại.

Điều này tôi đã gọi là ba bước của chứng ngộ:

Bước thứ nhất, phật tới đằng sau bạn như sự hiện diện - rất vững chắc, rất hiển nhiên, bạn có thể cảm thấy nó. Bạn có thể cảm thấy hương thơm của nó, bạn có thể cảm thấy sức mạnh của nó; nó rót đầy bạn bằng hân hoan lớn.

Bước thứ hai, phật tới trước bạn; bạn trở thành cái bóng. Và dần dần, dần dần cái bóng bắt đầu biến mất.

Bước thứ ba, bạn không còn nữa. Thậm chí không một cái bóng nào của nó còn lại, chỉ vị phật còn lại - tâm thức trong suốt, sự sống vĩnh hằng. Những người đi tới kinh nghiệm này là những người thực, người có thể mở hội sự sống.

Tôi mở hội bản thân tôi.

Và tôi muốn tất cả các bạn cùng mở hội bản thân bạn.

Trở thành điệu múa, trở thành bài ca.

Trở thành hoa sen, trở thành mùa xuân.

Không có tôn giáo và không có Thượng đế nào cấm đoán bạn - bạn là tự do khỏi mọi mê tín, bạn là tự do khỏi mọi thượng đế học theo hướng Thượng đế, bạn là tự do khỏi mọi rác rưởi mà mọi người trên thế giới đang mang bên trong bản thân họ. Ném nó ra để cho thế giới bên trong của bạn là sạch sẽ hoàn toàn và sẵn sàng đón chào vị phật.

Nivedano...

(Tiếng trống)

Bây giờ quay lại. Nhưng quay lại như vị phật, với cùng duyên dáng, cùng im lặng, cùng an bình, cùng phúc lạc. Ngồi xuống trong vài khoảnh khắc chỉ để hồi tưởng lại con đường vàng mà bạn đã đi trên đó, lối mở mênh mang mà đã xảy ra tại chính trung tâm của bạn.

Bạn thấy bản thân bạn gần với sự tồn tại tới mức nó bắt đầu chảy trong bạn. Điệu múa của nó trở thành điệu múa của bạn; mở hội của nó trở thành mở hội của bạn. Bao la của nó, vĩ đại của nó, huy hoàng của nó, trở thành huy hoàng của bạn.

Và nhìn, chỉ ngay sau bạn là vị phật, với mọi sự trong suốt của nó... hoàn toàn im lặng...

Đây là bước thứ nhất.

Bạn sẽ sớm có khả năng lấy bước thứ hai. Bạn sẽ trở thành cái bóng, và vị phật sẽ trở thành gần như chính tim bạn, chính nhịp đập tim.

Và bước thứ ba và cuối cùng bạn sẽ không còn lại nữa. Bạn sẽ vắng mặt, và sự sống sẽ hiện diện.

Thế thì bắt đầu mở hội.

Chừng nào sự sống chưa là mở hội bạn đã sống trong vô tích sự. Chừng nào sự sống chưa biến thành Phật Gautam bạn đã phí hoài cơ hội vô cùng được trao cho bạn bởi sự tồn tại.

Được chứ, Maneesha?

Vâng, thưa Thầy kính yêu.

Xem tiếp Chương 2 - Quay về Mục lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post