Read more
Tôi mở hội bản thân tôi –
Osho
Thượng đế không ở đâu, Cuộc sống ở đây bây giờ
Chương 2. Rung chuông trong
trái tim bạn
Powered by RedCircle
Thưa thầy kính yêu của
chúng tôi,
Khi Đại Điên lần đầu tới
Thạch Đầu, thầy hỏi ông ta, "Cái nào là tâm của ông?"
Đại Điên đáp, "Ấy
là lời lẽ vậy."
Với câu này, Thạch Đầu mắng
nạt, "Quái!" - và đuổi ra.
Mười ngày sau, Đại Điên
lại tới và hỏi, "Câu trả lời mấy hôm trước nếu không đúng, vậy thì ngoài
đó ra cái gì là tâm?"
Thạch Đầu nói, "Trừ
chuyện nháy mày nhướng mắt, hãy đem tâm lại đây."
Đại Điên nói, "Chẳng
có tâm để đem lại."
Thạch Đầu nói,
"Nguyên lai có tâm, sao bảo không tâm? Không tâm là hoàn toàn giống với phỉ
báng."
Ngay lời nói này Đại
Điên đạt đại ngộ.
Các
bạn, đầu tiên, vài câu hỏi.
Câu hỏi thứ nhất:
Với chúng tôi, các từ
'Thượng đế' và 'vô trí' có đồng nghĩa không?
Không,
không chút nào đâu. Thượng đế không bao giờ có thể đồng nghĩa với vô trí. Thượng
đế bao giờ cũng ở đó, xa xăm. Thượng đế bao giờ cũng được nói tới bởi từ 'cái
đó' - vô hình, chỉ là hư cấu. Vô trí bao giờ cũng được nói tới như cái này.
Vô
trí là thực tại của bạn, bản tính tối thượng của bạn; Thượng đế là dối trá do tâm
trí tạo ra. Vô trí là chân lí của bạn, sự huy hoàng của bạn, chính vũ trụ của bạn.
Chúng không thể đồng nghĩa.
Thượng đế không tồn tại;
vô trí tồn tại.
Thượng đế chỉ là niềm
tin; vô trí là trải nghiệm.
Thượng đế đã từng là
nguyên nhân của mọi ốm bệnh tinh thần của bạn.
Vô trí là mạnh khoẻ thuần
khiết, tính toàn thể.
Khoảnh
khắc bạn thốt ra từ 'Thượng đế' bạn lập tức bắt đầu nghĩ về ông ta như một người,
như đấng sáng tạo. Vô trí không phải là người; ngược lại, chính nhân cách của bạn
biến mất, chỉ thế thì vô trí bắt đầu nở hoa. Vô trí không phải là đấng sáng tạo.
Nó bao giờ cũng ở đây, và sẽ vẫn còn ở đây; nó bao giờ cũng bây giờ. Vô trí là
vĩnh hằng của bạn, chính cội nguồn sống của bạn.
Thượng
đế chỉ là cái cớ để khai thác nhân loại và giữ nhân loại trong lệ thuộc tinh vi
và vô hình. Thượng đế đã là nhà tù của bạn; vô trí là tự do của bạn. Thượng đế
đã từng ở trong tay của các tu sĩ, và tu sĩ đang làn việc xấu nhất trên thế giới,
vì toàn thể kinh doanh của họ phụ thuộc vào dối trá.
Vô
trí không có tu sĩ, nó đơn giản có đó bên trong bạn. Và một khi bạn trải nghiệm
nó, đột nhiên bạn trở nên nhận biết rằng vô trí không phải là sở hữu của bạn,
nó không phải là độc quyền của bạn. Kinh nghiệm đầu tiên xuất hiện là ở chỗ nó
là vô trí của bạn, nhưng bạn sớm trở nên nhận biết rằng vô trí chứa toàn thể vũ
trụ, nó chứa toàn thể sự tồn tại.
Thượng
đế bao giờ cũng là người ngoài. Bạn không thể tạo ra bất kì cái gì nếu bạn
không là người ngoài. Người Hindus nói tới Thượng đế như thợ gốm, nhưng thợ gốm
phải là ở bên ngoài cái bình, chỉ thế thì ông ấy mới có thể sáng tạo ra nó. Nếu
ông ấy ở bên trong bình, bình đã được tạo ra rồi. Ông ấy làm gì bên trong bình?
Thợ gốm phải ở bên ngoài, chỉ thế thì ông ấy mới có thể tạo ra bình. Mọi tôn
giáo có cùng ý tưởng này trong các biểu tượng khác nhau - nhưng Thượng đế là
người ngoài.
Nếu
có Thượng đế bạn chỉ là sinh vật, người được tạo ra. Không có Thượng đế bạn là
chư phật, người không được tạo ra. Thượng đế là gánh nặng nhất mà con người đã
từng mang, và vì điều đó không có tiến bộ, không có tiến hoá. Gánh nặng này, xiềng
xích này, liên tục kéo bạn lùi lại. Chúng không cho phép bạn đi nhanh hơn tới
những đỉnh cao hơn của tiến hoá.
Thượng
đế phải hoàn toàn bị phá huỷ khỏi tâm trí của bạn. Điều đó là sự cần thiết và
khẩn thiết tuyệt đối. Một khi bạn bỏ Thượng đế bạn sẽ ngạc nhiên bao nhiêu dối
trá đã đơn giản biến mất. Ông ta là cội nguồn, nền tảng của mọi dối trá. Cứ
quan sát Thượng đế biến mất và bạn sẽ thấy cõi trời đã biến mất, địa ngục đã biến
mất, sợ đã biến mất, kinh hãi, tham... chúng đơn giản mất đi. Thượng đế đã là cội
nguồn. Lần đầu tiên bạn có thể thở dễ dàng.
Thượng
đế mang tính phán xét; vô trí không có phán xét. Thượng đế đã liên tục kết án bạn;
vô trí là trạng thái phúc lạc, cực lạc. Thượng đế chỉ được lập trình trong tâm
trí bạn.
Ở
Liên Xô họ lập chương trình khác đi. Họ lập chương trình không-Thượng đế, nhưng
cả hai đều là chương trình. Người vô thần không biết rằng không có Thượng đế,
mà người hữu thần cũng không biết rằng có Thượng đế. Cả hai là các hệ thống niềm
tin mâu thuẫn lẫn nhau. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng người này là đúng và
người kia là sai. Cả hai không thể là đúng, nhưng cả hai có thể là sai - và cả
hai là sai.
Người
đích thực sẽ không chấp nhận bất kì hệ thống niềm tin nào dù là của người vô thần
hay của người hữu thần. Người đó sẽ thám hiểm theo cách riêng của mình xem chân
lí là gì; người đó sẽ không thích tri thức gián tiếp. Bạn không bao giờ nghĩ về
điều đó, nhưng bạn sẽ không muốn đi giầy của ai đó khác. Bạn sẽ không muốn mặc
quần áo dùng rồi của ai đó khác. Nhưng toàn thể tâm trí của bạn là được nghe
qua trung gian, và không chỉ là thứ được nghe qua trung gian, thực ra, tâm trí
của bạn đã đi từ người này sang người khác sang người khác trong hàng triệu
năm. Việc sống với tâm trí này không phải là sống chút nào.
Tâm
trí bạn được vay mượn - cuộc sống của bạn không thể là chân thành và chân thật.
Tâm trí bạn được vay mượn - đạo đức của bạn không thể là thực, nó sẽ chỉ là đạo
đức giả. Từ tâm trí vay mượn, làm sao bạn có thể kiểm soát được bất kì tính thực
nào, bất kì chân thành nào, bất kì đích thực nào, bất kì tính nguyên bản nào?
Thượng đế là dối trá cổ nhất, và vô trí là kinh nghiệm nguyên bản tươi tắn.
Thượng
đế không ở đâu; vô trí ở đây bây giờ.
Vô
trí là tương đương với sự sống, là tương đương với sự tồn tại. Thượng đế là chống
lại sự sống, Thượng đế là chống lại sự tồn tại.
Bạn
không thể thấy mọi tôn giáo là chống lại sự sống sao? Họ không muốn bạn sống. Bất
kì cái gì làm cho bạn vui vẻ, bất kì cái gì làm cho bạn thực sự sống động - họ
bắt đầu nghiền nát nó, kết án nó là tội lỗi.
Vô
trí đơn giản cho phép bạn là tự nhiên. Nó cho bạn cơ hội là tự nhiên, được thảnh
thơi, là thoải mái - không mặc cảm, không kiềm chế, không kìm nén. Tự nhiên được
chấp nhận trong tính toàn bộ của nó, nó trở thành chính tim bạn, chính con người
bạn.
Không
có đạo đức từ bên ngoài. Thượng đế bên ngoài đó đã tạo ra mọi thứ từ bên ngoài,
áp đặt lên bạn. Và mọi người trên khắp thế giới đang mang núi tải trọng những
niềm tin, đạo đức, lời răn. Chúng toàn là những bịa đặt của tâm trí.
Vô
trí không phải là bịa đặt của tâm trí, nó là khám phá. Bạn không phải phát minh
ra nó, nó đã ở đây rồi. Bạn chỉ phải ở đây - và có gặp gỡ, và có biến đổi. Và từ
gặp gỡ và biến đổi đó nảy sinh một loại đạo đức mới toàn bộ, một loại tự phát mới,
một loại duyên dáng tự nhiên mới, yêu mới cho sự tồn tại, tôn kính mới cho mọi
thứ đang ở đây, cho mọi thứ bao quanh bạn.
Nhưng
mọi thứ tới từ chính con người bên trong nhất của bạn đang bị ngăn cản bởi Thượng
đế, bởi các tu sĩ, bởi kinh sách. Chúng là kẻ thù của bạn. Bạn phải cân nhắc điều
đó rất rõ ràng. Chừng nào bạn chưa hiểu ai là chướng lại, bạn sẽ không bao giờ
đạt tới vô trí.
Thượng
đế là chướng ngại lớn nhất cho vô trí.
Vì
Thượng đế, các tôn giáo hướng theo Thượng đế đã không thể xoay xở được bất kì
loại thiền nào, vì thiền đi vào trong, và Thượng đế ở bên ngoài. Và vì Thượng đế
ở bên ngoài, mọi tôn giáo hướng Thượng đế đã phát minh ra lời cầu nguyện.
Lời
cầu nguyện là với Thượng đế bên ngoài, và không ai đã thấy Thượng đế đó. Vài
người đã giả vờ - hoặc họ nói dối hoặc họ ảo giác, nhưng không ai đã thấy Thượng
đế. Đó là một trong những giả thuyết không được chứng minh nhất. Đừng mang cùng
bạn những giả thuyết không được chứng minh; chúng trở thành rất nặng nề. Khi thời
gian trôi qua chúng liên tục thu thập thêm trọng lượng. Trọng lượng này trở
thành nặng tới mức bạn dừng trưởng thành. Không có không gian nào còn lại cho bạn
trưởng thành. Mọi loại rác rưởi, đồ đạc, mục nát... bao quanh bạn. Bạn không có
bất kì không gian nào để di chuyển.
Nếu
Thượng đế có đó bạn không có bất kì không gian trống nào, bạn không có bất kì bầu
trời trống nào. Bạn không có bất kì khả năng nào để tiến hoá - không có không
gian. Bạn sẽ tiến hoá ở đâu? Thượng đế đang rót đầy mọi chỗ. Đó là lí do tại
sao các tôn giáo nhấn mạnh rằng ông ấy là toàn diện. Nếu ông ấy là toàn diện,
thế thì không có không gian nào để lại cho bạn. Nếu ông ấy là trên tất cả, thế
thì dù bạn đi bất kì đâu, bạn sẽ vật lộn chống lại Thượng đế.
Vô
trí là không gian thuần khiết. Nó đơn giản cho bạn lối mở mà liên tục mở rộng
khi kinh nghiệm của bạn trở nên chín chắn. Chung cuộc, bạn thấy chỉ có một
không gian thuần khiết tất cả bao quanh bạn, vô hạn và vĩnh hằng - và bạn có thể
giang đôi cánh của bạn. Nó là nhà của bạn - bạn có thể bay cao như bạn muốn.
Không có trọng lượng lôi bạn xuống, lôi bạn ra sau. Kinh nghiệm về vô trọng lượng
là đồng nghĩa với vô trí.
Một
câu chuyện Sufi kì lạ...
Một
nhà huyền bí Sufi ở lại trong nhà của một đệ tử. Nhưng ông ấy thường cầu nguyện
Thượng đế to tới mức hàng xóm bắt đầu phàn nàn. Vào nửa đêm ông ấy sẽ bắt đầu
hét to lên - bạn phải hét to nếu bạn muốn đạt tới Thượng đế vô hình. Bạn không
biết ông ấy ở đâu. Chẳng ai biết số điện thoại của ông ấy, chẳng ai biết địa chỉ
của ông ấy. Một cách mù quáng, bạn chỉ giơ tay lên trời, cái không bao giờ trả
lời vì chẳng có ai để trả lời.
Được
nhìn theo góc độ khoa học, những người đang cầu nguyện Thượng đế là tuyệt đối
không lành mạnh, loạn thần kinh, vì họ nói với ai đó người không bao giờ có đó.
Không câu trả lời nào đã bao giờ tới.
Người
Sufi đó quen hét to. Chung cuộc, đệ tử này quyết định rằng tốt hơn cả là để ông
ấy trong tầng hầm ban đêm. Thế là họ thu xếp một cái giường trong tầng hầm của
ngôi nhà, để cho ông ấy có thể cầu nguyện to tuỳ ông ấy muốn và không ai sẽ bị quấy
rầy.
Nhưng
vào nửa đêm toàn thể hàng xóm tụ tập lại, và họ nói, "Sao ông đã để ông ấy
lên mái nhà ông?"
Anh
ta nói, "Sao lại mái nhà? Chúng tôi đã để ông ấy trong tầng hầm mà."
Nhưng
họ lên mái nhà và ông ấy đã ở đó đang cầu nguyện Thượng đế to thế. Và khi bạn cầu
nguyện từ mái nhà, một cách tự nhiên âm thanh của bạn đánh thức mọi hàng xóm.
Đệ
tử này hỏi, "Thầy xoay xở thế nào mà lên tận mái nhà?"
Nhà
huyền bí nói, "Ta phải xoay xở thôi, vì từ tầng hầm Thượng đế sẽ không
nghe thấy ta."
Người
Mô ha mét giáo có những cột trụ lớn quanh nhà thờ hồi giáo của họ, những cột trụ
cao họ gọi là tháp. Và tu sĩ leo lên các cột trụ cao, vì nếu bạn cầu nguyện từ
cột trụ cao có khả năng Thượng đế có thể nghe thấy bạn.
Người
Hindu có trong các đền của họ - người Tây Tạng cũng có chúng trong đền của họ -
các loại chuông, chiêng. Bạn có biết chủ định của chúng là để thu hút sự chú ý
của Thượng đế không? Cho nên bạn có một cú đánh mạnh vào chiêng và Thượng đế sẽ
lắng nghe bạn. Thế rồi sau khi làm cú đánh vào chiêng, hay vào trống, hay vào
chuông, bạn có thể cầu nguyện.
Trong
đền Hindu chuông có ở chỗ bạn bước vào. Và đền càng lớn, chuông càng lớn. Đền
càng giầu, chuông càng lớn hơn... âm thanh chói tai. Đầu tiên bạn phải rung
chuông để đánh thức Thượng đế để ông ấy lắng nghe bạn. Nhưng bạn không biết ông
ấy ở đâu. Chiêng của bạn, chuông của bạn đang vang vọng trong bầu trời trống rỗng.
Không có ai để được đánh thức.
Vô
trí là thực tại mà bạn có thể trải nghiệm, nhưng với điều đó không lời cầu nguyện
nào được cần. Bạn không phải nhìn ra ngoài bạn. Bạn phải nhắm mắt lại, và bạn
phải nhìn vào trong mà không có ý tưởng nào về bạn đang định tìm cái gì. Nếu bạn
có bất kì ý tưởng nào rằng đây là điều bạn sẽ đi tìm, thế thì có lẽ nhất, bạn sẽ
tưởng tượng, và bạn sẽ nghĩ bạn đã tìm thấy nó.
Đi
vào bên trong mà không có bất kì định kiến nào, vì mọi định kiến là một phần của
tâm trí. Jesus của bạn, Krishna của bạn, Rama của bạn - tất cả là một phần của
tâm trí bạn. Nếu bạn mang bất kì định kiến nào cùng bạn, bạn vẫn còn bị giới hạn
vào tâm trí. Nếu bạn muốn siêu việt trên tâm trí và đạt tới vô trí, điều là tâm
thức tối thượng, tâm thức thuần khiết, chính bản chất của sự tồn tại... Nhưng với
điều đó, lời cầu nguyện không giúp gì được, mà các đền chùa cũng không giúp gì
được, mà các kinh sách cũng chẳng giúp gì được.
Không
triết lí nào được cần, không hệ thống niềm tin nào được cần, không thượng đế học
nào được cần. Mọi điều bạn cần là dỡ tải bản thân bạn khỏi mọi thứ đã từng bị
áp đặt lên bạn.
Dỡ
tải bản thân bạn đi.
Làm
nhẹ gánh bản thân bạn đi.
Bỏ
mọi thứ đã từng được trao cho bạn bởi bố mẹ bạn, bởi thầy cô giáo, bởi các tu
sĩ, bởi những người lãnh đạo của bạn.
Bỏ
mọi thứ mà đã tới từ bên ngoài.
Vứt
nó ra!
Và
đột nhiên bạn sẽ thấy tâm trí bạn đang nhường đường cho vô trí. Bạn chỉ phải bỏ
rác rưởi - và Thượng đế là một phần của rác rưởi, phần nặng nhất.
Cho
nên không có khả năng nào cho Thượng đế và vô trí là đồng nghĩa.
Ở
đây, chúng ta đang tìm kiếm mà không có bất kì niềm tin nào, không có bất kì giả
thiết nào. Chúng ta đơn giản đi vào trong tính chủ thể của chúng ta, vào trong
lãnh thổ của chúng ta.
Khi
có liên quan tới tôi, đây là ngôi đền duy nhất: thân thể bạn. Khi có liên quan
tới tôi, tính chủ thể của bạn - im lặng, an bình, chỉ là không gian trống rỗng
- là chính cội nguồn bạn đã từ đó tới, và là chính mục đích bạn đang đi hướng tới.
Khi
cội nguồn và mục đích gặp gỡ, bạn được chứng ngộ - toàn thể vòng tròn, toàn thể
cuộc hành hương là đầy đủ. Bạn đã rời khỏi cội nguồn như người dốt nát, bạn đã
quay về lại cội nguồn như người hồn nhiên. Bạn đã lại trở thành đứa trẻ.
Một
việc sinh được cho bởi bố mẹ bạn, việc sinh khác bản thân bạn phải kiểm soát.
Việc sinh thứ hai là việc sinh thành vấn đề. Việc sinh thứ nhất sẽ kết thúc
trong chết. Việc sinh thứ hai là bắt đầu của vĩnh hằng: không chết, không kết
thúc, không bắt đầu.
Vô
trí là toàn thể vũ trụ, và không thể tìm thấy vô trí này bằng việc tôn thờ, bằng
lời cầu nguyện, bằng việc tin. Tâm trí này cần bạn được chữa hoàn toàn khỏi mọi
ý thức hệ hướng quá khứ, khỏi mọi tôn giáo có tổ chức, khỏi mọi kinh sách, khỏi
mọi cái đã từng bị áp đặt lên bạn. Nó là rởm, nó là nhựa.
Hoa
hồng thực tới tự bụi hồng từ lãnh thổ của nó. Bạn có thể treo hoa hồng nhựa lên
bụi cây, nhưng chúng sẽ không có hương thơm, và chúng sẽ không sống. Và vì
chúng không sống, chúng sẽ không chết. Chúng sẽ treo ở đó. Chúng đã chết rồi;
chúng là hoa do con người chế ra.
Thượng
đế là ý tưởng do con người chế ra.
Vô
trí không phải là ý tưởng của bạn. Vô trí không được chế tạo bởi con người. Vô
trí là món quà của sự tồn tại. Bạn chỉ có thể biết ơn, bạn chỉ có thể trong biết
ơn sâu sắc khi bạn tìm thấy vô trí. Bạn sẽ không tìm thấy ngay cả một lời để
nói cho sự tồn tại. Ngay cả việc nói "cám ơn" sẽ có vẻ rất hời hợt.
Ở
phương Tây nó là rất hình thức, bạn thậm chí nói "cám ơn" cho mẹ bạn,
bạn cám ơn bố bạn - không phải là bạn thực sự ngụ ý điều đó, nó chỉ là một phần
của nghi lễ.
Ở
phương Đông nó là khác toàn bộ. Tôi chưa bao giờ nói cám ơn bố tôi, tôi chưa
bao giờ nói cám ơn mẹ tôi. Nó bề ngoài thế, nó nghi thức thế. Khi bạn yêu ai
đó, bạn không thể thốt ra lời 'cám ơn'. Điều đó sẽ phá huỷ toàn thể cái đẹp của
kinh nghiệm này.
Cho
nên khi bạn đi tới vô trí, bạn hoàn toàn câm lặng.
Kabir
đã làm một phát biểu. Ông ấy nói kinh nghiệm về vô trí là gunge keri sarkara -
dường như người câm đã nếm đường. Người đó không thể nói được. Người đó biết vị,
nhưng người đó câm; người đó không thể nói được.
Kinh
nghiệm về vô trí là không thể diễn tả được. Bạn có thể có nó, bạn có thể nhảy
múa trong mở hội nhưng bạn không thể nói được bất kì cái gì về nó. Điệu múa của
bạn chắc chắn sẽ chói sáng với niềm vui mới, với cực lạc mới, với say sưa mới.
Điệu múa của bạn sẽ chỉ ra việc toả sáng mới, hào quang mới quanh bạn. Mắt bạn
sẽ chói sáng. Lần đầu tiên chúng đã thấy cái gì đó đáng thấy. Toàn thể con người
bạn sẽ đập rộn ràng cùng niềm vui, vì bạn đã trở về cội nguồn nguyên thuỷ.
Để
các Thượng đế chết đi. Đừng mang họ. Mọi người đang mang các Thượng đế chết, và
khi ai đó là chết và bạn liên tục mang người đó, bạn bắt đầu bốc mùi. Mọi người
tôn giáo đều bốc mùi vì họ đang mang xác chết.
Có
một huyền thoại hay của người Hindu...
Shiva,
một trong các Thượng đế của người Hindu, một trong ba Thượng đế, ba ngôi của
Hindu giáo... Vợ của Shiva chết, nhưng ông ấy không chấp nhận cái chết của vợ
mình. Tâm trí ông ấy thường xuyên bảo ông ấy, "Nếu mình đi khắp nước có thể
có ai đó có thể làm phục sinh cô ấy."
Ông
ấy thường sống ở Himalayas, cho nên ông ấy đi xuống với xác chết của Parvati, vợ
ông ấy. Chính từ parvati có nghĩa con gái của núi... người đàn bà đẹp, nhưng chết.
Ông ấy đã mang cái xác này đi khắp nước, hỏi mọi người, "Có thầy lang nào,
bất kì người nào có phép màu không?"
Cái
xác đang phân huỷ, và nó sớm rời ra từng mảnh. Chân rơi ra chỗ này, tay rơi ra
chỗ khác... Người Hindu có mười hai chỗ linh thiêng. Mười hai chỗ linh thiêng
đó trong nước là mười hai chỗ mà các bộ phận của Parvati rơi ra. Nhưng cho dù
các bộ phận đã rơi ra, Shiva vẫn tiếp tục đi khắp nước cho tới khi ông ấy thấy
rằng phần cuối cùng đã rơi mất. Ông ấy phải mất nhiều năm.
Nhưng
việc mang Thượng đế chết của bạn là cuộc hành hương lâu dài hơn - hàng triệu
năm. Và bạn liên tục tin rằng một ngày nào đó, ở chỗ nào đó, Thượng đế sẽ hiện
ra. Trong khi đó bạn liên tục mang cái xác này. Cái xác này đang phá huỷ bạn nữa,
vì nó mục mát, và nó làm ra nhân loại mục nát.
Thượng
đế là ốm bệnh; bạn phải đơn giản bỏ nó đi. Nhưng điều tốt duy nhất là ở chỗ bạn
đang mang ốm bệnh, cho nên bạn có thể bỏ nó. Nó là niềm tin của bạn, cho nên bạn
có thể vứt nó ra! Nó không phải là cái gì đó là một phần của bạn, nó là cái gì
đó bạn đang ôm giữ một cách không cần thiết. Nó không ôm giữ bạn! Đây là điều đẹp
duy nhất về nó - rằng bạn có thể bỏ Thượng đế.
Một
hôm tôi đã bỏ Thượng đế, và từ đó tôi đã cảm thấy vô trọng lượng thế, phúc lạc
thế. Bản thân tôi đã thường mang thân thể chết này, nhưng tôi đã nhận ra rằng
thân thể này là chết - không thở, không nhịp tim đập - điều đó đã là tuỳ ở tôi
liệu mang nó hay bỏ nó. Và khi tôi bỏ nó, lần đầu tiên tôi cảm thấy bản thân
tôi là cá nhân. Thân thể chết này đã tràn ngập tôi, nó đã che phủ tôi từ mọi
phía. Nó đã trở thành nhân cách của tôi.
Trong
một khoảnh khắc tôi đã cảm thấy bị trần trụi, vì nhân cách đã bị bỏ đi, các mặt
nạ đã rơi đi. Nhưng tôi sớm biết rằng sự trần trụi này, việc khoả thân này là tự
nhiên. Mọi người đều trần trụi đằng sau quần áo. Khoảnh khắc bạn bỏ quần áo
đi... Bạn đã bao giờ cảm thấy tự do nào đó chỉ trên bãi biển khi bạn bỏ quần áo
của bạn không? Bạn đột nhiên cảm thấy mặt trời bằng thân thể bạn, gió thổi trên
thân thể bạn, và cảm giác tự do vô cùng - chỉ bằng việc bỏ quần áo, cái không nặng
gì mấy.
Thượng
đế là rất nặng. Nó liên tục trở nên nặng hơn và nặng hơn khi thời gian trôi
qua. Một khoảnh khắc tới khi nó nặng hơn bạn - bạn bị nghiền nát dưới tải trọng
như núi. Chừng nào người ta chưa tự do khỏi Thượng đế, người ta không biết tự
do là gì.
Cho
nên Thượng đế không thể đồng nghĩa với vô trí.
Vô
trí thực sự là thuốc giải độc cho căn bệnh có tên Thượng đế.
Vô
trí là tự do của bạn.
Mọi
xiềng xích bị bỏ đi, mọi ý nghĩ bị bỏ đi, mọi tình cảm bị bỏ đi... đột nhiên bạn
thấy chỉ điều bản chất thuần khiết nhất còn lại. Mọi cái đã che phủ nó, hết tầng
nọ tới tầng kia, đã bị bỏ đi. Việc bỏ này tôi gọi là thiền.
Chung
cuộc chỉ nhân chứng, sakshi, còn lại - chỉ nhận biết thuần khiết. Đây là tự do
tối thượng, và tôn giáo đích thực là dành cho tự do tối thượng và giải thoát tối
thượng.
Các
tôn giáo hướng theo Thượng đế thậm chí không thể cho bạn cảm giác về tự do, hay
chiều hướng về tự do. Toàn thể nỗ lực của họ là để hướng tâm trí bạn tới Thượng
đế. Rót đầy tâm trí bạn bằng Thượng đế, lặp đi lặp lại tên ngài để cho nó trở
nên ăn sâu vào trong tâm trí bạn. Nó càng trở nên ăn sâu, sẽ càng khó rời bỏ
nó. Bạn càng sớm rời bỏ Thượng đế, càng tốt. Và bạn sẽ phải rời bỏ một ngày nào
đó, cho nên tại sao không bây giờ! Người ta không thể sống với dối trá mãi mãi.
Duy nhất chân lí có thể được sống mãi mãi.
Bạn
phải tin chỉ vào dối trá, bạn không phải tin vào chân lí. Chân lí phải được
khám phá. Tôi dạy bạn thái độ bất khả tri thuần khiết - người không tin, người
không không tin, nhưng là người tìm kiếm, người nghiên cứu, người thám hiểm.
Chắc
chắn điều đầu tiên cần được thám hiểm là con người bên trong riêng của bạn. Đó
là sự sống gần nhất đang đập rộn ràng, mọi thứ khác có chút xa xôi hơn. Con người
của thông minh đầu tiên sẽ nhìn vào bên trong nhà riêng của mình trước khi người
đó đi tìm trên mặt trăng và trên sao Hoả. Đầu tiên người đó sẽ nhìn vào bên
trong để xem cái gì có đó. Và những người đã đi vào bên trong không bao giờ tới
với tay trống rỗng. Họ tới với nhiều phúc lạc, nhiều cực lạc, với sự dư thừa tới
mức họ bắt đầu chia sẻ, vì khi họ chia sẻ họ đi tới hiểu kinh tế bên trong.
Bạn
càng chia sẻ bạn càng có nhiều hơn. Nếu bạn không chia sẻ, bạn sẽ thậm chí
không có cái mà bạn đã có. Jesus nói, "Những người có sẽ được cho nhiều
hơn, và những người không có, thậm chí bất kì cái gì họ có sẽ bị lấy đi."
Tôi không thể đồng ý với ông ấy. Tôi nói với bạn, bạn càng cho nhiều hơn, bạn sẽ
càng có nhiều hơn; bạn càng cho ít hơn, bạn sẽ càng có ít hơn. Nếu bạn không
cho chút nào, bạn sẽ không có bất kì cái gì còn lại.
Chia
sẻ là từ bi duy nhất.
Chia
sẻ là phục vụ duy nhất.
Chia
sẻ là cách duy nhất mà người thức tỉnh sống. Đó là tính cách thực. Đó là đạo đức
đích thực. Đó là tính tôn giáo thực.
Bạn
không có Thượng đế, nhưng bạn trở thành tính Thượng đế. Do đó tôi nói, khoảnh
khắc bạn bỏ Thượng đế bạn đang đi theo hướng đúng trở thành tính Thượng đế. Bạn
sẽ là thiêng liêng trong cực lạc của bạn, trong không gian im lặng của hiện hữu
của bạn. Bạn sẽ là thiêng liêng. Nhưng bạn sẽ là thiêng liêng vì bạn sẽ tham
gia vào trong sự tồn tại thiêng liêng. Mọi thứ là linh thiêng với người đã đi tới
biết bản thân mình, người đã khám phá ra bí mật sự sống ẩn kín của mình. Mọi thứ
trở thành linh thiêng.
Một
câu chuyện được kể về nhà huyền bí Nanak...
Ông
ấy đi tới Kaaba, chốn linh thiêng của người Mô ha mét giáo. Đó là một câu chuyện
hay.
Ông
ấy tới Kaaba trước tối, nhưng danh tiếng của ông ấy đã tới đó rồi, cho nên mọi
người chờ đợi ông ấy. Họ đón ông ấy, chào mừng ông ấy, nhưng ông ấy rất mệt.
Cho nên ông ấy nói, "Tôi muốn đi ngủ, tôi đã đi bộ nhiều dặm đường."
Thế
là họ chuẩn bị một chiếc giường dưới một cây, nhưng ông ấy quay chiếc giường.
Người Mô ha mét giáo không ngủ với chân chĩa về Kaaba, nhưng ông ấy đã quay chiếc
giường để cho chân ông ấy hướng về Kaaba, và đầu ông ấy ở phía đối lập.
Khi
tu sĩ trưởng của Kaaba nghe nói về điều đó, ông ta chạy tới. Ông ta nói,
"Chúng tôi tưởng ông là nhà huyền bí lớn, nhưng ông thậm chí dường như
không là tôn giáo. Ông không hiểu rằng ông đang làm tổn thương tình cảm của
chúng tôi. Ông đang để chân ông chĩa về chỗ thiêng liêng nhất và đất linh
thiêng nhất! Ông phải quay chân ông đi."
Nanak
cười. Ông ấy nói, "Khi có liên quan tới ta, dù ta quay chân ta tới đâu, ta
đều thấy chúng hướng tới đất thiêng, vì với ta toàn thể sự tồn tại là linh
thiêng. Bây giờ nếu ông nghĩ có chỗ nào đó mà không linh thiêng, xin quay chân
ta sang đó. Ta sẵn lòng!"
Đã
có im lặng. Tu sĩ này không thể nói được rằng đã có chỗ nào đó là không linh
thiêng. Nhưng điều này không thể được dung thứ, rằng người này tiếp tục để chân
hướng tới Kaaba.
Tôi
nghĩ cho tới điểm này đó là sự kiện. Bên ngoài điểm này nó trở nên mỗi lúc một
biểu tượng hơn. Nhưng ngay cả điều đó vẫn có ý nghĩa...
Chung
cuộc, ông tu sĩ quay chân ông ấy và quay đầu ông ấy hướng tới hòn đá thiêng.
Nhưng họ hoàn toàn thất vọng, ngạc nhiên. Họ không thể tin được vào mắt họ. Bất
kì chỗ nào họ chuyển chân của Nanak đi, Kaaba di chuyển theo.
Điều
này phải là biểu tượng thôi, nhưng nó có ý nghĩa. Nó có tính thơ ca, nhưng nó
cho bạn cảm giác rằng nếu mọi thứ là linh thiêng và thiêng liêng, không thành vấn
đề bạn để chân của bạn ở đâu, nó bao giờ cũng hướng tới đất thiêng. Toàn thể sự
tồn tại là thiêng liêng với nhà huyền bí. Nanak đã biểu lộ hiểu biết của ông ấy
rất rõ ràng. Duy nhất con người của vô trí có thể làm điều đó.
Con
người của vô trí biết rằng ở mọi nơi sự sống đang đập rộn ràng - trong cây,
trong sông, trong núi... Ngay cả Himalayas vẫn đang tăng trưởng. Nó là núi trẻ
nhất trên toàn thế giới, nhưng thực sự mạnh mẽ vì nó đã có những đỉnh cao nhất
trên thế giới và chúng vẫn còn đang tăng trưởng - gần 3cm mỗi năm. Nhưng điều
đó ngụ ý nó sống động, nó không là núi chết. Nó đang vươn lên hướng tới các vì
sao, có lẽ rất chậm vì nó không phải là núi nhỏ. Và với núi, ngay cả vươn lên
3cm một năm là rất nhanh. Nhìn vào vĩnh hằng, nếu Himalayas liên tục tăng trưởng
theo cách này, chúng sẽ sớm chạm các vì sao, điều đó sẽ không lâu.
Khi
bạn thấy sự sống ở mọi nơi, trong các tảng đá - có lẽ đang ngủ say cho nên bạn
không thể cảm thấy nó, có lẽ một chiều hướng khác - trong cây, tới mức bạn
không thể hiểu được nó... Nhưng mọi thứ là sống động thừa thãi thế, mọi điều bạn
cần là không gian và tính cảm nhận của vô trí.
Thượng
đế là sự mù của bạn. Vô trí sẽ cho bạn mắt tươi tắn để nhìn lại vào vũ trụ.
Câu hỏi thứ hai:
Nietzsche đã làm quan
sát rằng khi "người thường" ở trong tình huống không thoải mái,
"họ bao giờ cũng tìm cách thoát ra khỏi nó bằng việc dùng thông minh nhỏ
nhất."
Thượng đế có đơn giản là
nỗ lực đầu tiên và cuối cùng của nhân loại trì trệ không?
Có,
tuyệt đối có. Thượng đế là bịa đặt của người trì trệ, của kẻ ngốc, của người khờ
dại, của người muốn lối tắt để cho họ không phải áp dụng bất kì thông minh nào.
Thượng đế là niềm tin của người không thông minh. Thượng đế là niềm tin của người
vô ý thức. Thượng đế là niềm tin của những người vẫn còn ngủ và mơ. Khoảnh khắc
bạn thức dậy, mọi mơ biến mất, và cùng với mơ Thượng đế của bạn cũng sẽ biến mất.
Vô
trí đang thức dậy từ giấc ngủ của tâm trí.
Vô
trí là mặt trời mọc.
Tâm
trí đã từng là đêm tối dài dài, và vô trí nở hoa trong thông minh vô cùng,
không phải trí tuệ. Trí tuệ là một phần của tâm trí, thông minh là một phần của
vô trí. Đó là hiện tượng khác toàn bộ. Và khi ngọn lửa đó của thông minh vươn
lên trong bạn thành ngọn lửa lớn, bạn không tìm thấy bất kì Thượng đế nào ở bất
kì đâu, nhưng bạn chắc chắn tìm thấy mọi thứ là thiêng liêng vì mọi thứ là sống
động.
Cho
nên tôn kính lớn với sự sống - đó là điều tôi dạy bạn. Nhưng bạn sẽ biết sự sống
chỉ khi bạn đã chạm tới sự sống riêng của bạn. Thế thì bạn sẽ biết tiêu chí cho
sống động là gì. Ngay bây giờ bạn không biết tiêu chí cho sống động là gì.
Câu hỏi thứ ba:
Qua cuộc chạm trán gần
đây riêng của tôi với chết, tôi đã bắt gặp nhiều câu chuyện của những người từ đa
dạng văn hoá và các nền tảng tôn giáo khác nhau, người tạm thời rời khỏi thân
thể họ và dường như với những người quan sát là đã chết. Họ đã báo cáo nhìn thấy
"sinh linh ánh sáng," điều là yêu thương và từ bi toàn bộ.
"Sinh linh"
ánh sáng này có thể là cơ sở trên đó khái niệm về Thượng đế đã được tạo ra
chăng?
Không,
không chút nào. Kinh nghiệm này là đích thực. Đôi khi nó xảy ra cho những người
gần chết - không hoàn toàn, nhưng gần chết. Họ thấy sinh linh chói sáng. Nó là
con người riêng của họ, nó không phải là Thượng đế. Trong thiền bạn sẽ bắt gặp
cùng sinh linh chói sáng mà không đang chết.
Thiền
là một loại chết. Bạn được tách rời khỏi thân thể, bạn được tách rời khỏi tâm
trí - đó là điều chết làm. Bạn bị tách rời khỏi thân thể, bạn bị tách rời khỏi
tâm trí. Đột nhiên bạn trở nên nhận biết về sinh linh chói sáng, điều bạn nghĩ
là tách rời khỏi bạn vì bạn chưa bao giờ thấy kinh nghiệm như vậy trước đây. Nếu
bạn đã là thiền nhân, bạn chắc đã nhận ra - "Đây là tôi."
Bạn
là ánh sáng, thân thể chói sáng bên trong thân thể này - ngọn lửa, ngọn lửa ánh
sáng vĩnh hằng. Nhưng những người đã gần chết và quay lại sự sống, vì họ không
có bất kì kinh nghiệm nào về thiền, họ tưởng họ đã thấy cái gì đó, sinh linh
chói sáng. Họ nhớ nó một cách mơ hồ, yếu ớt, tiếng vọng xa xăm, nhưng họ nhớ
nó. Họ đã thấy cái gì đó chói sáng. Một cách tự nhiên họ không thể quan niệm được
rằng họ đã thấy bản thân họ.
Thượng
đế không được dựa trên kinh nghiệm của những người đã gần chết và đã quay lại sự
sống. Nhưng thiền biết đích xác điều đã xảy ra cho những người này - họ đã bắt
gặp bản thân họ. Nhưng bởi vì việc bắt gặp đã là lần đầu tiên, và nhanh thế...
cũng giống như tia sét, nó tới và đi ngay, và họ trở lại sự sống. Một cách tự
nhiên họ nghĩ họ đã thấy đối thể nào đó, người nào đó đang đứng đó với thân thể
chói sáng, rạng ngời, vì họ đã biết chỉ các đối thể trong các kiếp sống của họ.
Họ không bao giờ biết chủ thể.
Thiền
nhân sẽ không phạm sai lầm. Thiền nhân sẽ nhận ra ngay lập tức - là sống hay chết
- rằng người đó là ánh sáng vĩnh hằng chói sáng.
Lời
kinh:
Thưa thầy kính yêu của
chúng tôi,
Khi Đại Điên lần đầu tới
Thạch Đầu, thầy hỏi ông ta, "Cái nào là tâm của ông?"
Đại Điên đáp, "Ấy
là lời lẽ vậy."
Với câu này, Thạch Đầu mắng
nạt, "Quái!" - và đi ra.
Đại
Điên còn chưa chứng ngộ, nhưng ông ấy phải đã là một học giả lớn. Ông ấy đã đọc
trong kinh sách rằng tâm (vô trí) là một mà từ đó mọi thứ nguyên thuỷ phát sinh
ra. Khi phật nói, ông ấy không nói những lời vay mượn. Việc nói của ông ấy bắt
nguồn từ vô trí. Vô trí đang chảy trong lời của ông ấy, do đó có cái đẹp.
Cùng
những lời bình thường trên môi của phật chắc chắc trở thành phép thần thông, sống
động. Những lời rất bình thường đột nhiên lấy hương vị khác toàn bộ, hương thơm
mới. Chúng bắt đầu có tính thơ ca. Chúng có quanh chúng hào quang nào đó. Đó là
lí do tại sao lời của phật bắt đầu rung chuông trong tim bạn.
Ông
ấy không nói những lời kì lạ. Bạn biết những lời đó, bạn dùng những lời đó.
Nhưng khi vị phật nói cùng những lời đó, vì chúng tới từ vô trí, chúng mang
không gian nào đó quanh chúng, điều làm cho lời của người đã thức tỉnh có thẩm
quyền thế. Người thức tỉnh không phải là người có quyền thế. Người đó không chỉ
huy bạn, người đó không cho trích dẫn từ kinh sách để hỗ trợ như bằng chứng.
Người đó có thẩm quyền riêng của mình.
Tôi
đã từng kể nhiều câu chuyện, và những người không hiểu tôi đôi khi đã viết thư,
"Các câu chuyện của thầy liên tục thay đổi. Lúc thì thầy nói cái gì đó,
lúc thì chuyện của thầy đổi hoàn toàn..." Họ chỉ nghe các lời đơn thuần, không
nghe tôi. Họ là người mù, họ không thể thấy được rằng chuyện của tôi là việc
đáp ứng cho những người tôi đang nói. Trong khoảnh khắc hiện tại nó lấy hình dạng
mới, nghĩa mới, chiều hướng mới.
Chuyện
của tôi liên tục thay đổi vì sự sống liên tục thay đổi. Tôi có thể làm gì được
về nó? Lúc thì nó là mùa xuân và có hoa khắp chốn, và lúc thì nó không là mùa
xuân và cây đang đứng trần trụi không lá nào. Tôi có thể làm được gì? Sự sống
liên tục thay đổi. Chuyện của tôi không chết, chúng sống động như tôi sống động.
Chúng đang tới từ cội nguồn sống.
Và
họ đã bảo tôi - các học giả lớn và các giáo sư, các nhà ngôn ngữ, những người
thuộc vào các tôn giáo khác nhau - "Tôi thích chuyện của thầy nhưng nó
không có trong kinh sách chút nào." Tôi nói, "Thế thì bạn phải để nó
vào. Kinh sách của bạn không tăng trưởng, nó là chết. Nếu bạn thích câu chuyện
này, nếu bạn cảm thấy đã có nghĩa nào đó, thế thì để nó vào trong kinh sách của
bạn đi."
Phật
không phải là kết thúc của thế giới. Sẽ có chư phật sau Phật Gautam. Sẽ có chư
phật sau tôi, sau bạn, và chắc chắn họ sẽ liên tục hoàn thiện. Nó không phải là
nỗ lực, nó là hiện tượng tự phát.
Khi
tôi bắt đầu câu chuyện tôi không biết hình dáng của nó sẽ lấy thế nào. Tôi ngạc
nhiên nhiều như bạn vậy - "Trời! Câu chuyện này không phải là câu chuyện
tôi đã nghe trước đây." Nhưng tôi có thể làm gì được? Nó không phải là tâm
trí của tôi. Tâm trí có hệ thống bộ nhớ, cho nên nó liên tục lặp lại cùng đĩa
âm thanh, và bị mắc kẹt ở điểm nào đó mỗi lúc. Nếu nó là chiếc máy quay đĩa cổ,
kim liên tục dừng lại ở cùng chỗ. Bạn bắt đầu lại; lần nữa nó sẽ dừng tại cùng
chỗ.
Một
lần tôi đã tham gia như một sinh viên trong cuộc thi liên đại học về hùng biện.
Tôi đã là người đầu tiên lên nói, và người thứ hai tới từ đại học Sanskrit ở
Varanasi. Nó được chuyên dành hoàn toàn cho kinh sách và ngôn ngữ tiếng Phạn.
Nhưng sinh viên này phải đã cảm thấy hơi chút tự ti với các sinh viên khác người
đến từ các đại học khác, vì ở Đại học Sanskrit họ không dạy tiếng Anh. Cho nên
anh ta phải đã nhồi nhét một câu tiếng Anh về Bertrand Russell, chỉ để gây ấn
tượng.
Nhưng
anh ta đã bồn chồn. Khi anh ta bắt đầu, sau ba hay bốn dòng, anh ta nói,
"Bertrand Russell đã nói..." - trong tiếng Anh - và thế rồi anh ta dừng
lại. Tâm trí anh ta trống trơn. Tôi ngồi ngay bên cạnh anh ta vì anh ta là người
nói thứ hai. Toàn thể thính phòng đầy các sinh viên và giáo sư, và có im lặng lớn
khi anh ta dừng lại. Tôi nghĩ tôi phải giúp anh ta, cho nên tôi bảo anh ta,
"Lặp lại đi."
Và
khi bạn đã học nhồi nhét cái gì đó, bạn có thể lặp lại nó chỉ từ chính lúc bắt
đầu. Cho nên anh ta nói, "Thưa các chị các anh..." Cho nên toàn thể
khán giả bắt đầu cười. Anh ta lại lặp lại ba hay bốn câu và đi tới điểm,
"Bertrand Russell đã nói..." - và dấu chấm hết.
Tôi
nói, "Lặp lại đi!" Không tìm được lối ra, anh ta lại bắt đầu,
"Thưa các anh và các chị..."
Và
điều đó là vui thế - trong mười phút điều đó tiếp tục. Tôi sẽ nói, "Lặp lại
đi," và không tìm thấy lối ra nào... và tôi là sự giúp đỡ duy nhất. Mọi
người cười. Và anh ta sẽ nói, "Thưa các chị và các anh..." - và bị kết
thúc! Mọi người chờ đợi ba câu này, "Bertrand Russell đã nói..." - chấm
hết.
Sau
mười phút, ông chủ tịch, ông phó hiệu trưởng của đại học này, bản thân ông ấy
cũng cười, và ông ấy bảo anh chàng này, "Ngồi xuống đi. Đừng lo nghĩ, mọi
thứ là được.
Cứ
ngồi xuống" - anh ta thì vã mồ hôi. Và ông hiệu trưởng nói với tôi,
"Anh đáng ra không nên làm điều này."
Tôi
nói, "Tôi đơn giản giúp anh ta thôi. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng anh ta là
chiếc máy hát. Tôi nghĩ đôi khi anh ta có thể trượt lên trước - 'Bertrand
Russell đã nói...' Nhưng anh ta đã chứng tỏ đúng là chiếc máy hát, bị hỏng. Đó
không phải là lỗi của tôi. Và đằng nào thì anh ta cũng đã cho một buổi tối vui
vẻ thế. Cho dù thầy cho anh ta giải nhất, tôi sẵn sàng, vì anh ta đã cho nhiều
vui thế, không ai có thể cho được."
Bây
giờ các nhà khoa học đã tìm thấy rằng hệ thống bộ nhớ của bạn vận hành đích xác
như chiếc máy hát. Họ đã mở não vì các lí do khác, nhưng bằng cách nào đó họ đã
thấy rằng nếu họ để một điện cực vào điểm bộ nhớ trong não bạn, bạn bắt đầu nói
cái gì đó. Và nếu họ lấy điện cực ra, bạn dừng lại và não bạn tự động đảo ngược
lại. Lần nữa khi họ đặt điện cực trở lại, bạn bắt đầu từ "Thưa các anh và
các chị" - lại cùng điều đó. Lấy điện cực ra, và bạn dừng lại.
Họ
đã khám phá ra rằng tâm trí có hệ thống đảo ngược tự động - một khi bạn đã dừng
lại, nó quay ngược lại vị trí nguyên gốc của nó. Bạn chạm vào điểm đó lần nữa
và người này bắt đầu nói cùng điều. Không có lí do tại sao người đó đang nói -
không ai đã hỏi bất kì cái gì. Nhưng người đó bất lực - bộ nhớ bắt đầu lặp lại
như đĩa hát.
Đại
Điên phải đã là một học sĩ. Anh ta đã trích dẫn câu này, không từ kinh nghiệm
riêng của mình mà từ kinh sách.
Anh
ta nói cái gì? Khi Thạch Đầu hỏi anh ta, "Cái nào là tâm của ông?"
Đại
Điên đáp, "Ấy là lời lẽ vậy." Người nói một cách nguyên bản. Nếu người
ta nói chỉ điều được vay mượn, nó là từ tâm trí. Nhưng nếu người ta nói một
cách nguyên bản, tự phát, thế thì nó tới từ chỗ được gọi là tâm hay vô trí.
Nhưng anh ta quên mất từ 'một cách nguyên bản'. Điều đó xảy ra cho các học sĩ;
nó không thể xảy ra cho vị phật. Bất kì cái gì tới, đều tới từ chính cội nguồn.
Nhưng khi bạn đang lặp lại kinh sách, cái không phải là kinh nghiệm của bạn, sẽ
có khó khăn nào đó.
Nếu
như anh ta nói, "Người nói một cách tự phát - đó là chỗ của vô
trí..." Anh ta đã quên mất một từ 'nguyên bản' đó, và có lẽ nó đã không được
viết trong bản thân kinh sách, vì không phật nào đã viết ra một lời. Mọi kinh
sách đã được soạn ra bởi các đệ tử của họ, đôi khi hàng trăm năm đã trôi qua và
thế rồi các đệ tử của đệ tử... nhiều thế hệ đã qua.
Bốn
sách phúc âm của Jesus được ghi lại sau khi ông ấy chết, và không phải ngay lập
tức, ba trăm năm sau đó. Bây giờ không ai là nhân chứng; mọi nhân chứng đã chết.
Và những sách phúc âm này đã được ghi lại bởi những người đã không thấy Jesus.
Họ thậm chí đã không thấy Jerusalem. Bây giờ các học giả nghiên cứu kinh thánh
đã tìm ra rằng ngay cả địa lí mà họ đã nhắc tới trong bốn sách phúc âm là sai.
Nhưng người này đã không bao giờ tới Israel. Họ đã nghe từ người khác, người đã
nghe từ người khác, người đã nghe từ người khác.
Đó
là lí do tại sao tôi đã nói về sách phúc âm của Thomas mà đã được viết ở Ấn Độ.
Ông ấy là đệ tử trực tiếp của Jesus, nhưng sách phúc âm của ông ấy không được
đưa vào trong Kinh Thánh linh thiêng. Nó đã được khám phá ra chỉ ba mươi năm
trước đây, nhưng nó là hay nhất vì ít nhất Thomas đã là nhân chứng. Và nó có
cái đẹp mênh mông vì nó không chỉ là điều ông ấy đã là nhân chứng cho Jesus, ở
đây ở Ấn Độ ông ấy đã trải qua biến đổi.
Ông
ấy đã thiền, ông ấy đã thực hành yoga, ông ấy đã sống như một sannyasin và đã
chuyển từ tu viện này sang tu viện khác. Không khí của Phật vẫn còn đó. Phật đã
qua từ năm trăm năm trước điều đó, nhưng hương thơm của ông ấy vẫn còn sống động.
Cho nên trong sách phúc âm của Thomas có thẩm quyền nào đó mà thiếu trong bốn
cuốn phúc âm của Kinh Thánh. Đầu tiên ông ấy đã là nhân chứng, ông ấy đã nghe
Jesus, và thứ hai bản thân ông ấy đã trải nghiệm chân lí. Việc tổ hợp của hai
điều này, cho thẩm quyền lớn hơn cho sách phúc âm thứ năm của Thomas so với
Kinh thánh Linh thiêng.
Thomas
là người duy nhất trong toàn thế giới, có thân thể đã không bị hư hỏng. Thân thể
của ông ấy vẫn ở trong nhà thờ ở Goa. Mọi năm vào thời gian Christmas, thân thể
của ông ấy được mang ra khỏi nhà thờ và quan tài của ông ấy được mở ra cho bất
kì người quan sát nào, cho bất kì nhà khoa học mào, cho bất kì nhà nghiên cứu
nào. Không ai đã có khả năng hình dung ra tại sao nó có vẻ tươi tắn thế, dường
như ông ấy vừa chết mới đây. Dường như đã không có phương cách nào được dùng.
Nó không được giữ trong nhiệt độ đông cứng, nó là ở một đất nước nóng, nhưng
ngay cả da cũng không có vẻ như da chết. Ông ấy có vẻ tươi tắn thế. Tôi đã thấy
thân thể này.
Phép
màu của Jesus có thể đã là huyền thoại, nhưng người này thực sự điều khiển phép
màu. Sau hai nghìn năm ông ấy là người duy nhất trên khắp thế giới có thân thể
có vẻ dường như nó chỉ vừa mới chết bây giờ - hay có lẽ ông ấy ngủ say. Không
có mùi, và nếu nó có thể còn lại trong hai nghìn năm; không có vấn đề cho nó
còn lại mãi mãi. Việc chăm nom phải được thực hiện để không ai quấy rối nó.
Đã
từng có những nỗ lực để quấy rối nó bởi người Hindus, bởi người Mô ha mét giáo,
bởi những người không phải là người Ki tô giáo, vì nó là luận cứ lớn thiên về Ki
tô giáo. Nhưng ông Thomas này đã không là người Ki tô giáo, ông ấy không bao giờ
biết về Ki tô giáo. Ông ấy tới chỉ sau khi Jesus bị đóng đinh. Ông ấy đã rời khỏi
Jerusalem bởi lẽ đơn giản là Jesus phải đã nói cho các bạn thân của ông ấy - và
Thomas đã là một trong những người rất gần gũi với ông ấy - về Ấn Độ, và về các
đại học ở Nalanda và Takshashila, và về thiền.
Cho
nên bây giờ Jesus đã bị đóng đinh, ông ấy đã thấy chẳng ích gì mà ở đó, và ông ấy
đã rời đi. Ông ấy đã tới bằng thuyền, cho nên ông ấy lên bờ ở Nam Ấn Độ. Nhưng
ông ấy đã du hành trên khắp Ấn Độ, và đã gặp mọi loại nhà huyền bí những người
được bắt rễ sâu trong thiền. Thân thể của ông ấy là bằng chứng rằng ông ấy phải
đã đi theo phương pháp nào đó mà được biết cho các lạt ma Tây Tạng, cho người
Ladakh.
Họ
thường dùng phương pháp thiền nào đó khi thiền nhân sắp chết... vào khoảnh khắc
cuối cùng, một quá trình được gọi là Trung ấm (Bardo). Nó không là gì ngoài việc
gợi ý hậu thôi miên. Khi một người sắp chết, người đó ở trong trạng thái rất
mong manh. Và nếu người đó đã từng là thiền nhân, thế thì người đó thức tỉnh
hoàn hảo. Chết đang tới, nhưng người đó thức tỉnh hoàn hảo. Người đó có thể được
thôi miên và được nói cho, "Khi ông rời khỏi thân thể, thân thể sẽ vẫn còn
không bị động chạm như nó vậy..." Bạn phải liên tục lặp lại để cho nó đi
vào, không chỉ trong tâm trí người đó, nó đi vào ngay cả trong xương, trong tuỷ,
trong máu người đó.
Trung
ấm là việc thôi miên rất mãnh liệt, và nó cũng có thể cho các chiều hướng cho
tương lai cho hồn đang rời khỏi thân thể. Cả hai điều này có thể được làm. Thân
thể có thể được gìn giữ bởi gợi ý hậu thôi miên. Nhưng bạn không thể làm nó nếu
người này đã chết. Thế thì không có ai nghe gợi ý hậu thôi miên. Người này phải
còn sống, chỉ trên bờ của chết. Bạn cho người đó gợi ý hậu thôi miên:
"Thân thể bạn sẽ còn nguyên, sẽ còn nguyên... bạn đi tiếp." Và nếu người
đó là thiền nhân, ngay cả xương, máu, thân thể bắt đầu lắng nghe. Hồn sẽ rời đi
nhưng thân thể sẽ vẫn còn đầy đủ khi hồn đã rời khỏi nó. Đây là một cách mà
Trung ấm được dùng cho thân thể.
Và
có cách thứ hai. Bạn có thể cho gợi ý với hồn đang rời đi như loại bụng mẹ nào
sẽ là tốt - "Chọn đúng vào. Đừng là ngẫu nhiên." Hàng triệu người
đang làm tình, và hàng triệu người đang chết. Cho nên những hồn đó đang lang
thang khắp nơi, tìm một đôi đang làm tình. Điều này là ngẫu nhiên. Vì họ chết một
cách vô ý thức, họ dò dẫm vô ý thức trong bóng tôi, và bất kì người nào tới gần
cạnh, chỉ bởi tình cờ họ đi vào trong bụng mẹ đó.
Trung
ấm ngăn cản điều ngẫu nhiên. Nó cho hồn một hướng đúng: "Bạn cần một loại
bụng mẹ nào đó, cho nên đừng vội vàng. Bạn đã là thiền nhân, và bạn phải tìm ra
người mẹ, người bố, người sẽ cho phép bạn thiền - không chỉ cho phép bạn thiền
mà còn là người sẽ giúp bạn thiền, người mà bản thân họ là thiền nhân. Cho nên
đừng vội vàng! Chọn một đôi đi."
Đôi
khi con người của thiền mất thời gian để tìm bụng mẹ đúng; người bình thường lập
tức đi vào trong bụng mẹ. Trung ấm cho hai loại khả năng: thân thể có thể được
giữ, và hồn có thể được cho cảm giác về chiều hướng nơi đi. Nhưng điều này là
có thể chỉ nếu người này đã từng ở sâu trong thiền, đã từng thực hành thiền
trong một thời gian lâu, và có khả năng vẫn còn ý thức khi chết tới, vì chết là
việc mổ lớn nhất.
Tự
nhiên đã quản lí điều đó để cho không người nào phải chết một cách có ý thức,
cũng như bác sĩ phẫu thuật sẽ không sẵn sàng mổ nếu bạn có ý thức. Đầu tiên ông
ấy sẽ cho bạn thuốc mê hay cái gì đó làm cho bạn vô ý thức. Thế rồi ông ấy có
thể mổ bạn vì bạn không biết điều đang xảy ra.
Bạn
ngủ say tới mức mọi thứ có thể bỏ ra khỏi thân thể bạn, xương có thể bị cắt, bị
thay thế, bất kì cái gì cũng có thể được làm.
Chết
là việc mổ lớn nhất, vì toàn thể gắn bó của bẩy mươi năm với thân thể phải bị
phá vỡ. Tự nhiên đã quản lí - đây là trí huệ của tự nhiên, thông minh của tự
nhiên - rằng một người không có năng lực tách rời khỏi thân thể, người không biết
rằng "Mình không là thân thể," phải được làm cho vô ý thức. Bằng
không người đó sẽ trải qua đau đớn và lo âu vô cùng.
Cho
nên đó là trí huệ tự nhiên, nhưng điều đó không áp dụng cho thiền nhân. Thiền
nhân có thể đảm đương chết một cách có ý thức mà không bị bất kì đau đớn nào,
không bị bất kì đau khổ nào, không lo âu nào.
Đại
Điên đáp, "Ấy là lời lẽ vậy."
Với
câu này, Thạch Đầu mắng nạt, "Quái!" - và đi ra.
Điều
này phải nói cho Đại Điên, "Câm đi! Điều đó không phải là ông, nó được vay
mượn. Ta có thể thấy tính chết của phát biểu của ông." Quát lên
"Quái!" là nói "Câm đi!" Và thế rồi ông ấy bỏ đi ngay lập tức,
vì chẳng ích gì mà phí thời gian với người này, anh ta chỉ là học sĩ chết.
Mười
ngày sau, Đại Điên lại tới và hỏi, "Câu trả lời mấy hôm trước nếu không
đúng, vậy thì ngoài đó ra cái gì là tâm?"
Anh
ta đã nhận ra. Anh ta chân thành, ít nhất, chân thực.
Đầu
tiên anh ta đã cố lừa Thạch Đầu - bạn không thể lừa được thầy, điều đó là không
thể được. Thầy nhìn thấu suốt bạn. Thầy biết câu trả lời tới từ đâu: từ tâm trí
hay từ vô trí. Điều đó rõ ràng thế với thầy việc câu trả lời tới từ đâu. Bất kì
câu trả lời nào từ tâm trí - "Quái! Câm đi!"
Anh
ta phải đã nghĩ về điều đó: "Tại sao thầy cư xử theo cách nghiêm khắc thế?
Và mình là người lạ, người mới. Chắc chắn phải có lí do nào đó tại sao thầy cư
xử mà không có bất kì từ bi nào. Mình phải sai." Và thế rồi trong thiền mười
ngày anh ta đã hiểu, "Điều mình đã nói đã chỉ là lặp lại kinh sách."
Cho nên anh ta quay lại.
"Mười
ngày sau, Đại Điên lại tới và hỏi, "Câu trả lời mấy hôm trước nếu không
đúng, vậy thì ngoài đó ra cái gì là tâm? Xin thầy nói cho tôi. Tôi không biết"
Người
tìm kiếm đích thực bắt đầu với "Tôi không biết, vì mọi điều tôi biết không
phải là của tôi. Điều đó không thành vấn đề. Tôi có thể có nhiều tri thức,
nhưng khi có liên quan tới tôi, tôi không biết." Việc chấp nhận này là bắt
đầu của tìm kiếm. Nếu bạn đã biết, không có nhu cầu tìm, không có nhu cầu kiếm.
Thạch
Đầu nói, "Trừ chuyện nháy mày nhướng mắt, hãy đem tâm lại đây."
Kì
lạ, nhưng thầy là những người kì lạ. Họ có cách riêng của họ để đẩy bạn vào
lãnh thổ không biết của con người riêng của bạn.
Thạch
Đầu nói, "Trừ chuyện nháy mày nhướng mắt, hãy đem tâm lại đây."
Đại
Điên nói, "Chẳng có tâm để đem lại." Ngay chỗ đầu tiên, tôi không biết
tâm (vô trí) là gì. Chỗ thứ hai, nếu nó là vô trí làm sao có thể đem nó ra được?
Nó không phải là vật. Nó thậm chí không phải là ý nghĩ, nó là nhận biết thuần
khiết. Nó không thể được đem ra đây như một vật cho quan sát của thầy."
Thạch
Đầu nói, "Nguyên lai có tâm." Ông không thể mang được nó ra - ta có
thể hiểu. Nó không là vật, nó không là ý nghĩ, nó chỉ là hiện hữu thuần khiết,
cái đây này, cái như vậy.
"Nguyên
lai có tâm, sao bảo không tâm?" Nó chỉ là tính đây này trong sự tồn tại.
Vì ông không thể mang được nó ra, ông nghĩ, "Nó không có. Đó là lí do tại
sao mình không thể mang được nó ra." Ông không thể mang được nó ra vì vô
trí là toàn thể vũ trụ. Làm sao ông có thể mang được nó ra? Nó đã ở đây.
Chính
khoảnh khắc này nó ở đây, như nó đã ở trước Thạch Đầu.
"Sao
bảo không tâm? Không tâm là hoàn toàn giống với phỉ báng." Cứ nói tôi
không biết đi. Nói vô trí không là vật, không là ý nghĩ, do đó nó không thể được
đem ra. Nhưng đừng nói vô trí không có. Chỉ vô trí hiện hữu - sự thuần khiết hiện
hữu.
Ngay
lời nói này Đại Điên đạt đại ngộ - nghe thấy phát biểu này, rằng mọi cái đang
hiện hữu, là vô trí. Tính đây này và vô trí là hai cái tên của cùng một thứ. Sự
hiện diện này của sự sống trong cây, trong đá, trong người, trong chim... tính
đây này bao la này, sự hiện diện này là vô trí. Ông không phải mang nó ra đây,
nó đã ở đây rồi. Ông không thể đem nó đi bất kì chỗ nào khác.
Khi
có liên quan tới thời gian, nó là bây giờ.
Khi
có liên quan tới không gian, nó là ở đây.
Nếu
bạn im lặng, bạn sẽ lập tức trở nên nhận biết về nó.
Phát
biểu này đã làm ra việc xuyên thấu sâu vào trong Đại Điên, ông ấy đã được chứng
ngộ lớn.
Người
tìm kiếm đích thực, người tìm kiếm chân thành, người không che giấu bản thân
mình sau tri thức giả, tri thức vay mượn, người không giả vờ rằng mình biết mà
không biết, nếu người đó chấp nhận "Tôi không biết" - người đó đã rất
gần với chân lí. Người đó đã chấp nhận sự hồn nhiên của mình bây giờ không có
rào chắn. Không Thượng đế, không kinh sách, không tri thức - người đó chỉ ở gần
như người ta có thể ở gần với vô trí. Một cú đẩy nhẹ của thầy, một phát biểu nhỏ
bé, và người đó sẽ được chìm nhập trong sự tồn tại. Việc chìm ngập đó vào trong
sự tồn tại là chứng ngộ. Việc biến mất trong sự tồn tại là chứng ngộ.
Tôi
bao giờ cũng thích một câu chuyện từ Trung Quốc...
Hoàng
đế Trung Quốc là một hoạ sĩ lớn. Vào ngày sinh thứ bẩy mươi của ông ấy, ông ấy
cảm thấy già, và có lẽ ngày đó không còn xa khi ông ấy phải rời bỏ thân thể.
Cho nên ông ấy đã thu xếp một cuộc thi lớn trước khi ông ấy rời bỏ thân thể: cuộc
thi vẽ tranh trong toàn Trung Quốc.
Đầu
tiên, ở mọi bang sẽ có thi, và một bức tranh sẽ được chọn. Thế rồi thi chung kết
sẽ có ở kinh đô, và hoàng đế sẽ chọn bức tranh vĩ đại nhất là cái nào. Đích
thân ông ấy là một người thi. Ông ấy đã vẽ một bức tranh đẹp.
Mọi
hoạ sĩ tới từ khắp Trung Quốc. Tất cả họ đều mang những vải vẽ lớn mà họ đã
làm. Chỉ một người tới mà không có bức vẽ nào, chỉ sơn và cọ - anh chàng kì lạ!
Hoàng
đế hỏi, "Tranh đâu?"
Anh
ta nói, "Tôi không thích các thứ cũ. Tôi sẽ vẽ tươi mới ở đây và bây giờ.
Bệ hạ phải cho tôi một căn phòng, vì tôi không vẽ trên vải vẽ, tôi sẽ vẽ lên tường.
Cho tôi căn phòng lớn nhất trong cung điện của bệ hạ và đừng quấy rầy tôi. Và cử
lính canh gác sao cho không người nào quấy rối tôi. Tôi không biết sẽ mất bao
lâu, vì nó sẽ là thứ tự phát. Tôi không biết tôi sẽ vẽ cái gì. Tôi chỉ đi vẽ từ
tính tự phát, bất kì cái gì xảy ra, tuy nhiên sẽ lâu đấy."
Nhà
vua nói, "Ta già rồi, đó là lí do tại sao ta đã thu xếp cuộc thi này. Ông
phải làm nhanh và chóng vào."
Anh
ta nói, "Không. Tôi không biết đâu. Nó có thể nhanh. Sáng mai tôi có thể
thông báo với bệ hạ rằng bức tranh được hoàn tất, hay có thể lâu hơn. Tôi không
thể hứa được."
Không
người của hiểu biết nào đã bao giờ có thể hứa cho bất kì ai, vì ai biết về khoảnh
khắc tiếp? Mọi việc hứa là trong dốt nát.
Nhà
vua nói, "Ông là người khó tính, nhưng ta có thể thấy trong mắt ông, và ta
có thể thấy trên mặt ông - có lẽ ông sẽ là hoạ sĩ lớn nhất." Thế là ông ta
cho anh ta căn phòng lớn nhất trong cung điện - và có nhiều phòng lớn - với bức
tường phẳng để anh ta có thể vẽ, và anh ta đóng cửa lại.
Hoạ
sĩ nói, "Không ai được vào, ngay cả bệ hạ, chừng nào bức tranh chưa hoàn
thành. Tôi sẽ ra để ăn hay bất kì cái gì tôi cần." Và anh ta treo bức màn
để cho ngay cả lính gác cũng không thể có cái nhìn vào bên trong về cái gì đang
xảy ra đằng sau tấm màn.
Anh
ta mất ba năm, và nhà vua nói, "Ông đang làm gì? Ta có thể chẳng bao giờ
có khả năng thấy bức tranh của ông, ta có thể chết!"
Hoạ
sĩ nói, "Không thành vấn đề. Nếu bệ hạ chết, bệ hạ chết. Nếu bệ hạ sống bệ
hạ sẽ có khả năng thấy nó. Nhưng tôi không thể làm được bất kì cái gì trong vội
vã."
Hoàng
đế phải đợi.
Bốn
năm trôi qua và hoạ sĩ bước ra một sáng và nói với hoàng đế, "Bức tranh đã
hoàn thành. Mời bệ hạ xem."
Tò
mò thế đã nảy sinh trong tâm trí của hoàng đế. Trong bốn năm ông ta đã nghĩ,
"Thằng cha này đang vẽ gì vậy?" Bản thân hoàng đế cũng là hoạ sĩ. Chẳng
phải mất bốn năm cho một bức tranh. Và khi anh ta tới hoàng đế lập tức đi theo
anh ta. Họ đi ra sau tấm màn.
Bức
tranh thực không thể tin nổi; nó có vẻ thực thế. Anh ta đã vẽ một khu rừng khổng
lồ, xanh tươi thế, xanh tươi tốt, gần như ba chiều. Và một con đường nhỏ đi vào
- bạn có thể thấy con đường đang đi mãi vào trong... và thế rồi nó biến mất
trong rừng thẳm.
Và
hoàng đế nói, "Con đường này dẫn tới đâu?"
Hoạ
sĩ nói, "Chúng ta hãy xem... Đi cùng tôi đi. Chúng ta có thể bước đi và
xem con đường đi đâu, vì không trải nghiệm bệ hạ sẽ không biết nó đi đâu."
Câu
chuyện là, cả hai đi vào trên con đường - lính gác dõi theo - và khi con đường
rẽ vòng, cả hai rẽ vòng và từ đó chẳng cái gì được biết nữa.
Câu
chuyện này - trong bức tranh bạn không thể bước vào được - là chuyện biểu tượng
thôi. Nó nói bạn có thể đi vào tính đây này của mọi thứ. Hoạ sĩ này đã làm bức
tranh sống động tới mức các cành đang chuyển động trong gió. Con đường này
không phải là đường thường, và nghĩa biểu tượng của nó là: nếu bạn không thể đi
vào trong bức tranh, bức tranh không đáng gọi là bức tranh. Nhưng việc đi vào không
có nghĩa đi vào vật lí. Việc đi vào ngụ ý bạn mất hút hoàn toàn: bạn không còn
nữa, chỉ bức tranh hiện hữu.
Đó
là cách bạn đi vào trong thiền - bạn không còn nữa. Bạn bắt gặp tính đây này vô
cùng; mọi thứ biến mất, bạn biến mất, vậy mà tính đây này còn lại. Kinh nghiệm
đó về tính đây này là chứng ngộ. Câu chuyện này đơn giản là một đại diện biểu
tượng của chứng ngộ.
Hoạ
sĩ không xứng là hoạ sĩ nếu bản thân người đó không thể biến mất trong bức
tranh riêng của mình. Picasso tương truyền đã nói, "Khi tôi vẽ, tôi không
còn nữa, chỉ bức tranh có đấy."
Nijinsky
đã nói nhiều lần trong đời ông ấy - vì ông ấy đã được hỏi đi hỏi lại -
"Khi tôi đang múa tôi không còn nữa. Chừng nào tôi còn hiện hữu, điệu múa
là bề ngoài. Chỉ khi việc múa còn lại và tôi không còn nữa, thế thì nó có phẩm
chất vô cùng." Các nhà khoa học đã quan sát, và họ có thể thấy phẩm chất
vô cùng này. Bất kì khi nào ông ấy quên bản thân ông ấy hoàn toàn trong việc mữa,
ông ấy thường nhảy lên cao hơn lực hấp dẫn cho phép. Các nhà khoa học đơn giản
đâm lúng túng làm sao hình dung ra được điều đó, vì việc nhảy nhiều như thế là
không thể được.
Và
ngay cả việc ông ấy trở lại còn huyền bí hơn... Sức hút kéo mọi thứ nhanh thế.
Bạn thấy mọi đêm - bạn nghĩ sao đang rơi. Trên khắp trái đất sáu nghìn sao rơi
mọi ngày lên trái đất. Chúng không phải là sao, sao là rất lớn, lớn hơn cả
nghìn lần, cả triệu lần lớn hơn trái đất. Nếu một ngôi sao rơi, chúng ta bị kết
thúc. Những cái đó không phải là sao, những cái đó là những tảng đá nhỏ mà đã
còn lại treo trong không gian.
Khi
mặt trăng tách khỏi trái đất - một thời nó đã là một phần của trái đất... Bạn
có mọi đại dương lớn này, Ấn Độ dương, và Thái Bình dương, và Đại Tây dương lớn.
Tất cả những đại dương này được tạo ra bởi vì bùn và đá và mọi thứ từ những chỗ
này đã văng ra, vì trái đất đã là lỏng - lúc ban đầu nó là lỏng. Trăng chính là
tổ hợp của toàn thể các thứ đã rơi ra khỏi trái đất. Nhưng nó đã tạo ra những đại
dương lớn - Thái Bình dương sâu năm dặm.
Nhưng
khi những đống đất đá lớn đó rơi ra, nhiều mảnh nhỏ cũng rơi ra. Những mảnh nhỏ
đó chỉ trôi nổi trong không gian, hàng triệu mảnh đá các kích cỡ khác nhau. Sức
hút của trái đất kéo những hòn đá này xuống, và tại điểm mà bầu không khí bắt đầu,
nó là hai trăm dặm sâu. Quanh trái đất có tầng dầy hai trăm dặm của bầu khí quyển,
vì lên tới điểm đó có không khí. Bên ngoài chỗ đó không có không khí; nó là
không gian thuần, ngay cả không khí cũng không tồn tại. Đôi khi những hòn đá nhỏ
đó - và có vài hòn lớn nữa...
Hòn
đá ở chỗ linh thiêng mà người Mô ha mét giáo tôn thờ, Kaaba, cũng là một trong
những hòn đá đã rơi từ không gian bên ngoài xuống, nhưng nó là hòn đá rất khổng
lồ. Trong mọi bảo tàng bạn có thể thấy những hòn đã đã đi tới trái đất.
Nhưng
điều gì xảy ra khi tình cờ chúng đi vào bầu khí quyền của trái đất? Sức hút kéo
chúng nhanh tới mức ma sát với không khí làm cho chúng biến thành đá bốc lửa,
đá cháy. Đó là lí do tại sao bạn có thể thấy chúng tới điểm nào đó, và thế rồi
đột nhiên chúng biến mất. Nếu đá là nhỏ, thế thì đến một điểm nào đó và nó sẽ bị
cháy hết. Lực hút là tới mức chỉ những hòn đá rất lớn có thể đi tới trái đất, bằng
không chúng biến mất trong không khí ở đâu đó.
Việc
quay lại của Nijinsky là tuyệt đối chống lại lực hấp dẫn. Ông ấy tới hệt như
chiếc lông rơi xuống từ từ - chuyển động quay lại của ông ấy chậm thế. Cả hai
điều này đều chống lại lực hấp dẫn: thứ nhất việc nhảy của ông ấy, và thế rồi
việc quay về như chiếc lông dường như ông ấy không có trọng lượng nào: lực hấp
dẫn không thể có tác dụng trên nó.
Và
ông ấy được hỏi đi hỏi lại về điều đó. Ông ấy nói, "Tôi đã thử rồi, nhưng
bất kì khi nào tôi thử, nó không xảy ra cho nên tôi không thể nói được gì về
nó. Khi tôi không có, khi tôi hoàn toàn thất vọng và quên tất cả về nó, một
ngày nào đó đột nhiên nó xảy ra. Khi tôi không cố làm nó, nó xảy ra. Tôi không
có, chỉ điệu múa có đó. Khi tôi không có, chỉ điệu vũ hiện hữu." Nijinsky
có lẽ là vũ công vĩ đại nhất trên thế giới.
Nhưng
điều này là không may - rằng những người này đã được sinh ra ở phương Tây. Họ
đã không có ý tưởng rằng họ đã gần thế với vô trí. Họ cần một thầy chỉ để cho họ
cái đẩy chút xíu. Nijinsky chắc đã là một Phật Gautam, và Picasso chắc đã là một
Phật Gautam. Họ đã tới gần thế. Nhưng phương Tây không có ý tưởng nào về cách
tiến lên trước, cách đi vào trong bức tranh.
Cứ
đi tiếp trên con đường và mất hút. Điều đó sẽ là kinh nghiệm lớn của bạn - khi
bạn mất đi. Khi bạn không còn nữa, chỉ sự tồn tại hiện hữu.
Và
sự tồn tại này cho bạn phúc lạc thế, cực lạc thế, vĩnh hằng thế, tới mức bạn nhất
định cảm thấy sự thiêng liêng vô cùng, sự tôn kín lớn với sự sống và vũ trụ bao
la này, cái đã cho sinh ra bạn.
Một
ngày nào đó nó sẽ cho phép bạn biến mất lần nữa vào trong tâm thức đại dương.
Việc đi vào tâm thức đại dương này là chứng ngộ.
Shiki
viết:
Trăng mọc -
lá tiếp lá tiếp lá
chấp chới rơi.
Ông
ấy phải đang ngồi dưới cây, và nó phải là lúc rụng lá.
"Trăng
mọc..." - ông ấy đang ngắm trăng lên.
Thiền
có nhiều cách thiền - ngắm trăng lên. Nhấn mạnh là vào việc ngắm, không vào
trăng. Ngắm mặt trời mọc. Nhấn mạnh là vào việc ngắm, điều tôi đang gọi là việc
chứng kiến để làm cho nó rõ ràng hơn - chứng kiến mặt trời đang mọc. Và chứng
kiến "lá tiếp lá tiếp lá chấp chới rơi" - và bạn chỉ là nhân chứng.
Một
phía mặt trời đang mọc, phía bên kia, "lá tiếp lá tiếp lá chấp chới
rơi." Và giữa hai điều này bạn chỉ là gương, không phán xét.
Ông
ấy không nói rằng mặt trời mọc là đẹp, và ông ấy không nói rằng lá tiếp lá tiếp
lá đang tạo ra âm nhạc hay trong không khí. Không, ông ấy không làm bất kì phán
xét nào. Ông ấy đơn giản mô tả điều ông ấy đã chứng kiến, hệt như gương, chiếu
cho bạn mặt trời đang mọc, và lá tiếp lá tiếp lá đang chấp chới rơi. Ông ấy chỉ
là người ngắm.
Đây
là toàn thể bí mật của Thiền.
Câu hỏi của Maneesha:
Thưa thầy kính yêu của
chúng tôi,
Thánh Bernard viết:
"Thượng đế là ai? Tôi không thể nghĩ được câu trả lời nào tốt hơn: Ngài
người hiện hữu."
Eckhart phát biểu:
"Ông phải yêu Thượng đế như không Thượng đế, không linh hồn, không người,
không hình ảnh, mà như ngài vậy - Cái một tuyệt đối, thuần khiết, hoàn toàn, được
phân tách từ mọi cái hai và trong ngài chúng ta phải chìm vĩnh hằng từ hư không
tới hư không."
Nếu người ta thay thế
danh từ 'ngài' bằng 'nó', phải chăng hai nhà huyền bí ki tô giáo này đang nói
ngôn ngữ của Thiền?
Maneesha,
bạn có thể đổi 'ngài' thành 'nó', và chắc chắn họ sẽ nói ngôn ngữ của Thiền,
nhưng bạn không thể làm được điều đó. Đó là những phát biểu của họ, không phải
của bạn. Họ vẫn đang nói 'ngài'. Họ thậm chí không nói 'bà ấy'; 'nó' là xa xôi
- mặc dầu họ đã đi tới rất gần vấn đề. Đó là lí do tại sao các thánh nhân đã
trong rắc rối với nhà thờ chính thống, đặc biệt là Eckhart người đã bị tra tấn,
quấy nhiễu, đe doạ bị đuổi nếu ông ấy xuất bản sách của ông ấy. Sách của ông ấy
đã được xuất bản sau cái chết của ông ấy vì những phát biểu này.
Phát
biểu này là cực kì hay, nhưng dầu vậy, bằng cách nào đó hình ảnh nhạt nhoà của
Thượng đế vẫn hiện diện. "Thượng đế là ai? Tôi không thể nghĩ câu trả lời
tốt hơn: Ngài người đang hiện hữu." Dùng từ 'ngài' và nói "người hiện
hữu," là rất gần; duy nhất 'ngài' đang đứng ở giữa.
Đó
là điều tôi đã nói cho bạn - ngay cả một khái niệm rất mỏng về Thượng đế như
người sẽ tạo ra đủ rào chắn cho bạn.
Thánh
Bernard đã tới rất gần, nhưng là gần vẫn là ở khoảng cách nào đó. Tính gần là một
loại khoảng cách. Điều đó ngụ ý cái gì? Bạn có thể còn cách một li, hay một dặm
xa, hay nghìn dặm xa - bạn vẫn ở xa. Ngay cả xa một li - bạn ở xa. Một li đó là
dầy như bức Trường thành Trung Quốc, đá cứng.
Khi
Thánh Bernard nói, "Ngài người hiện hữu," việc dùng từ 'ngài', ông ấy
chấp nhận một nhân cách, và không chỉ một nhân cách mà một nhân cách nam. Cả
hai là sai. Sự tồn tại không nam không nữ. Nó diễn đạt trong cả hai - như nữ,
như nam, nhưng bản thân nó đơn giản là tính đây này thuần khiết. Cách diễn đạt
của nó sẽ là việc hiển lộ, nhưng bản chất của nó là như nhau. Đàn bà trong lãnh
thổ của cô ấy là tâm thức thuần khiết như đàn ông trong lãnh thổ của anh ta.
Nếu
Thánh Bernard mà thực sự trải nghiệm tính đây này, ông ấy chắc đã không dùng từ
'Thượng đế' hay 'ngài'. Dường như ông ấy đã là một người khổng lồ lớn, như chỉ
về trí tuệ. Nhiều lần các triết gia đã tới rất gần, nhưng họ liên tục đi vòng
và đi xa ra. Chỉ tới gần là không đủ, nhưng ngay cả điều này đã bị kết án bởi
nhà thờ kết án, bởi giáo hoàng.
Chắc
chắn Thánh Bernard có quan niệm nào đó về Thượng đế nam, và bạn không thể thay
đổi được phát biểu của ông ấy. Nếu bạn thay đổi phát biểu của ông ấy, thế thì
nó tới đích xác điều Thiền là gì. Nhưng thế thì nó sẽ không là phát biểu của
Thánh Bernard, nó sẽ là phát biểu của bạn.
Cho
nên tôi muốn nói rằng ông ấy đã tới rất gần, nhưng vì 'Thượng đế', và vì việc lập
trình trong tâm trí ông ấy về Thượng đế Ki tô giáo vẫn còn đó, điều đó ngăn cản
ông ấy không có bước nhảy lượng tử từ tâm trí vào vô trí. Ý tưởng của ông ấy vẫn
ở bên trong tâm trí. Ông ấy đã vạch ra một cách logic và hợp lí rằng nếu Thượng
đế có đó, ngài chỉ có thể được mô tả là "Ngài người hiện hữu." Nhưng
điều này không là kinh nghiệm đích xác.
Kinh
nghiệm đích xác sẽ không dùng từ 'Thượng đế', sẽ không dùng từ 'ngài'. Nó là
mang tính hống hách nam, và nó đem nhân cách cho sự tồn tại cái là phi nhân
cách. Nó là vô hạn, cho nên nó không thể có nhân cách được. Nó không thể được gọi
là người, và nó không thể được gọi là ngài.
Cho
nên Thánh Bernard vẫn không chứng ngộ - vĩ đại về mặt trí tuệ, vĩ đại về logic,
nhưng về mặt tồn tại vẫn nhỏ bé xa xôi khỏi chân lí.
Eckhart
thậm chí tới gần hơn, có thể chỉ xa một mảnh của một li, khi ông ấy nói,
"Ông phải yêu Thượng đế như không Thượng đế, không linh hồn, không người,
không hình ảnh, mà như ngài vậy - Cái một tuyệt đối, thuần khiết, hoàn toàn, được
phân tách từ mọi cái hai và trong ngài chúng ta phải chìm vĩnh hằng từ hư không
tới hư không." Ông ấy đã tới rất gần hơn Thánh Bernard, và do đó ông ấy bị
kết án nhiều hơn Thánh Bernard, vì ông ấy đang phá huỷ toàn thể thượng đế học
Ki tô giáo.
Nhưng
dầu vậy tôi vẫn nói ông ấy ở bên trong khuôn khổ của Thượng đế Ki tô giáo, mặc
dầu ông ấy dường như là một người tài trí tinh tế hơn Thánh Bernard - một rào
chắn rất mỏng, rào chắn kiểu giấy gạo Nhật Bản. Nhưng điều đó là đủ để giữ mắt
bạn nhắm.
Phát
biểu của ông ấy là hay: "Ông phải yêu Thượng đế như không Thượng đế."
Nhưng tại sao dùng từ 'Thượng đế' chút nào nếu nó là được yêu như không Thượng
đế? Tại sao không nói, "Ông phải yêu không Thượng đế, không linh hồn,
không người, không hình ảnh, nhưng chỉ là Cái một tuyệt đối, thuần khiết, hoàn
toàn, được tách rời khỏi mọi cái hai, và trong nó chúng ta phải chìm vĩnh hằng
từ hư không tới hư không"? Nhưng chỗ bắt đầu của ông ấy, "Ông phải
yêu Thượng đế," là việc lập trình Ki tô giáo.
Thiền
đã bỏ mọi việc lập trình. Nó đã dám chắc nhiều như tâm thức con người có năng lực.
Bây giờ việc làm ra phát biểu này có thoả hiệp nào đó với nhà thờ. "Ông phải
yêu Thượng đế" - để cho nhà thờ Ki tô giáo được thoả mãn rằng ông ấy đang
nói về Thượng đế, mặc dầu hơi điên rồ, vì ông ấy nói, bạn phải yêu Thượng đế
như không Thượng đế. Thế thì ngài là ai? đàn bà? đàn ông? cây? đại dương...? Bạn
ngụ ý gì bởi "không Thượng đế"?
Cho
nên Ki tô giáo kết án ông ấy, nhưng bởi vì ông ấy đã nói, "Ông phải yêu
Thượng đế," họ bảo ông ấy đừng xuất bản những bài viết đó khi ông ấy còn sống,
vì chúng sẽ tạo ra hoài nghi trong tâm trí mọi người. Và chúng đã làm điều đó
ngay cả ngày nay.
Họ
đã ngăn cản một nhà khoa học lớn người Pháp, Chardin, không cho xuất bản bài
báo của ông ấy về người vượn Bắc Kinh - ông ấy đã khám phá ra người vượn Bắc
Kinh - "vì bài báo của ông sẽ đi ngược lại Ki tô giáo." Và bởi vì ông
ấy đã là một tu sĩ được phong, ông ấy phải tuân theo các mệnh lệnh từ Vatican.
Họ đã phá huỷ một người vĩ đại. Ông ấy đáng ra có thể đã đóng góp nhiều. Nhưng
nếu bạn không có bất kì phản hồi nào, nếu các nhà khoa học khác không biết điều
bạn viết ra, điều bạn đang khám phá, và bạn không biết ý kiến của họ... Nó cần
phản hồi thường xuyên.
Khoa
học tăng trưởng, không bởi nhà khoa học, nó tăng trưởng trong mọi nhà khoa học.
Có đối thoại thường xuyên diễn ra qua các bài báo, qua các hội nghị, qua sách vở,
qua các tạp chí định kì... đối thoại thường xuyên đang xảu ra trên khắp thế giới.
Đó là cách khoa học cố gắng hình dung ra giả thuyết tốt nhất về bất kì cái gì.
Bây
giờ ngăn cản Chardin không xuất bản bất kì bài báo nào, không tham dự bất kì hội
nghị nào, không viết bất kì sách nào trong khi ông ấy còn sống - và tất nhiên
khi bạn chết ai đó khác sẽ viết nó, bạn sẽ không... Ai đó khác không có cùng nền
tảng khoa học, không có cùng khám phá. Và sau cái chết của bạn điều gì xảy ra
cho ý tưởng của bạn sẽ không là phản hồi; bạn sẽ không có khả năng cải tiến nó.
Họ đã phá huỷ một nhà khoa học lớn có cùng tầm cỡ như Albert Einstein.
Nhưng
tôi cũng giận Chardin. Thay vì dừng các bài viết và nghiên cứu, sao ông ấy
không từ nhiệm là một linh mục Ki tô giáo? Ông ấy đã từ bỏ khoa học để nghiêng
về mê tín Ki tô giáo. Không ai đã nêu ra câu hỏi rằng ông ấy cũng là một phần của
toàn thể trò chơi nô lệ này; mọi người đã kết án Vatican.
Tôi
kết án Vatican, nhưng tôi cũng lên án Chardin - lên án Chardin nhiều hơn
Vatican. Vatican đã từng làm điều đó trong nhiều thế kỉ - điều đó là không mới.
Nhưng tại sao Chardin lại như cừu thế? Tại sao ông ấy không thể thu lấy dũng cảm?
Một người có thông minh mênh mông thế đáng ra đã rời bỏ giới giáo sĩ. Cái gì có
trong nó? Tôn giáo mà ngăn cản bạn khỏi tuyên bố chân lí thì không đáng là một
phần của nó.
Nhưng
ông ấy đã chứng tỏ là kẻ hèn - ông ấy đã dừng viết. Và bây giờ một xã hội
Chardin tồn tại ở nước Pháp, nơi xuất bản các công trình và bài báo và nghiên cứu
của ông ấy - nhưng điều đó là quá trễ. Nếu ai đó nêu ra câu hỏi, Chardin không
có đó để trả lời. Và vào lúc Chardin chết, các nhà khoa học khác đã đi tới những
giả thuyết tốt hơn. Nếu như ông ấy đã được phép, hay nếu như ông ấy đã có can đảm
để bước ra khỏi nhà thờ, ông ấy chắc đã xoay xở cải tiến. Nó là sự trưởng thành
và tiến hoá liên tục. Khoa học không phải là cái gì đó tĩnh tại.
Khi
Albert Einstein được hỏi, "Nếu ông mà không khám phá ra lí thuyết tương đối,
ông có nghĩ bao giờ nó được khám phá không?" Albert Einstein nói, "Sẽ
không mất tới hơn ba tuần đâu." Và chung cuộc người ta đã thấy rằng ai đó ở
Đức cũng đã khám phá ra nó trước Albert Einstein, nhưng người đó là anh chàng
lười biếng và đã không công bố bài báo. Cho nên không phải sau ba tuần, mà trước
ba tuần, nó đã được tìm ra.
Einstein
là đúng - rằng khi cái gì đó có đó, sớm hay muộn nó phải được khám phá ra. Bạn
không thể liên tục bỏ lỡ nó nếu có chân lí trong nó.
Eckhart
cũng đã chứng tỏ hơi chút hèn, cũng như Chardin. Ông ấy đã tới rất gần, nhưng
ông ấy liên tục xác nhận rằng ông ấy yêu Thượng đế. Tất nhiên ông ấy có những
điều kiện đó "như không-Thượng đế..." Thế thì sao? Và nếu bạn yêu chỉ
tính đây này của sự tồn tại, thế thì tại sao liên tục gọi nó là Thượng đế? Sao
liên tục giữ cái mê tín cũ đó, dối trá cũ đó? Chỉ là thoả hiệp với Vatican, chỉ
là sợ rằng nếu bạn không làm chừng nấy bạn nhận nguy hiểm cho cuộc đời bạn.
Tôi
đã được sinh ra trong Jaina giáo, và khi tôi bắt đầu nói chống lại ý thức hệ của
họ - và khi tôi nói bất kì cái gì tôi nói nó với toàn bộ con người của tôi - họ
đã không có khả năng trả lời tôi. Chỉ huy cao nhất của họ đã quyết định đuổi
tôi khỏi Jaina giáo. Nhưng tôi đã viết cho họ: "Các ông không cần đuổi
tôi, tôi đuổi toàn thể Jaina giáo của các ông và toàn thể xã hội Jaina của các
ông. Các ông không cần đuổi tôi, tôi đã đuổi các ông rồi." Cho nên họ bị
choáng, họ không thể hình dung ra được phải làm gì. Họ không thể đuổi tôi được,
tôi đã ở ngoài rồi - có thành vấn đề gì? Và tôi nghĩ điều đó đã chẳng làm bất
kì cái gì hại cho tôi.
Thoả
hiệp bao giờ cũng là hèn nhát.
Chân
lí không bao giờ thoả hiệp.
Maneesha,
cả hai người này đã rất gần với Thiền, nhưng đã là người hèn. Thượng đế làm cho
mọi người thành hèn. Tôn giáo làm cho mọi người thành hèn. Bằng không, nguy hiểm
là gì? Eckhart đáng phải rời bỏ Ki tô giáo, Thánh Bernard đáng phải rời bỏ Ki
tô giáo, và thế thì họ chắc đã là những Thiền sư đầu tiên ở phương Tây. Nhưng họ
bỏ lỡ cơ hội lớn đó, chân giá trị lớn đó. Họ vẫn còn là nô lệ cho nhà thờ Ki tô
giáo.
Tôi
muốn bạn là sư tử và không giống cừu như Jesus muốn bạn là vậy. Ông ấy đã sỉ nhục
nhân loại rất tệ.
Giờ
là lúc dành cho Sardar Gurudayal Singh - thời gian thực sự trọng đại. Bật đèn
lên, vì tôi muốn thấy mặt mọi người đang cười!
Ba
người đàn bà - Betty Boobs, Lucy Legs, và Nellie Knickers - gặp nhau tại cuộc họp
các bạn cũ trường phổ thông. Họ sớm bắt đầu buôn chuyện về những đàn ông mà họ
đã lấy, và điều họ thích trên giường.
"Chồng
tớ, Bob," Betty Boobs nói, "giống như chiếc xe Rolls Royce 1989 - thuận
tiện, vừa cỡ, mạnh mẽ và rất thoả mãn!"
"Chồng
tớ, Larry," Lucy Legs nói, "giống như xe Cadillac 1970 - vẫn còn khá
thuận tiện và thoả mãn, nhưng đôi khi thiếu hiệu năng. Nói chung, còn cưỡi được
tốt."
"Hmm,
chồng tớ, Norbert," Nellie Knickers nói, "giống như xe Ford Model-T
loại cũ."
"Thật
à?" hai người kia nói, nhìn chăm chăm vào Nellie đang đầy sửng sốt.
"Sao cậu nói thế?"
"Thế
này," Nellie tiếp tục, "điều tớ ngụ ý là - anh ấy xoay xở để phục hồi
hai lần một năm, nhưng anh ấy phải khởi động bằng tay!"
Trên
tầng thứ bốn mươi hai của toà nhà Fast Buck Brokers, phó chủ tịch điều hành,
Bilbo Ballbag, đang phỏng vấn các cô gái vào việc làm thư kí.
Sau
khi kiểm tra nhiều người xin việc có tài năng và năng lực, Bilbo chung cuộc
thuê Gorgeous Gloria vào việc này.
Sau
hai ngày, Gloria đang cúi người xuống để lấy cái gì đó từ ngăn kéo đáy của tủ hồ
sơ, và Bilbo Ballbag nhìn thoả thích. Ông ta lập tức gọi cô ấy vào văn phòng của
mình.
"Nhìn
đây, Gloria," ông ta nói, mắt ông ta chơi đùa với đầu vú cô ấy, "Tôi
tự hỏi liệu có có phiền gì khi làm việc với tôi qua cuối tuần?"
"Được
chứ," Gloria nói, cho Bilbo cái nháy mắt, "điều đó là tuyệt."
"Tốt,"
Bilbo đáp, "chúng ta có thể đem mọi công việc phụ này được làm trên con
thuyền buồn xa hoa của tôi!"
"A,
anh," Gloria nói, "nhưng em bị say sóng khủng khiếp."
"Đừng
lo nghĩ!" Bilbo nói, vã mồ hôi khi ông ta nới lỏng chiếc cà vạt. "Tôi
sẽ chăm nom mọi thứ."
Tối
hôm đó, trên đường về nhà từ chỗ làm việc, Bilbo dừng lại trong hiệu thuốc. Ông
ta đi tới quầy và tiến tới Victor Vaseline, nhân viên bán hàng.
"Cho
tôi một bao cao su Trojan," Bilbo nói, "và một chai thuốc chống
nôn."
"Vâng,
thưa ông," Victor nói, sờ soạng dưới quầy, và thận trọng đưa cho Bilbo hai
thứ mua. "Không phải là việc của tôi, thưa ông," Victor tiếp tục,
"nhưng nếu nó ảnh hưởng tới ông như vậy, sao ông bận tâm?"
Trong
số những người Ki tô giáo ban đầu, có tin đồn rằng Đấng cứu tinh, Jesus Christ,
được ban phúc lành với cái máy dục khổng lồ, được dùng để hăm doạ mọi người đi
theo ông ta, đàn ông và đàn bà như nhau.
Và
câu chuyện kể: Vào ngày định mệnh đó trên đồi Calvary, Jesus đã bị treo trên
cây chữ thập được vài giờ, nhìn lên trời, chờ đợi Thượng đế.
Ông
ấy nhìn xuống và thấy cô gái yêu thích của mình, Mary Magdalena, đang khóc
trong đám đông, và cảm thấy khuấy động của linh hồn trong khố.
"Mary!
Mary!" Jesus gọi ra. "Lại gần hơn đi!"
Ngần
ngại, Mary bước ra khỏi đám đông hướng tới cây chữ thập. Cô ấy lại gần hơn,
nhưng dừng lại trên đường của mình khi cô ấy thấy chỗ đang lồi lên khổng lồ
trong quần lót của Christ.
"Mary!
Mary!" Jesus rền rĩ. "Gần hơn, lại gần hơn!"
Mary
đưa chân tiến lên một cách bồn chồn khi nhìn thấy núi đang nhô lên trong quần
lót của ông ấy - thế rồi cô ấy dừng lại, lần nữa.
"Mary!
Mary!" Jesus hổn hển. "Anh có cái gì đó từ Thánh Linh truyền cho em -
lại gần hơn đi!"
"A!
Christ, không đâu!" Mary kêu lên, mắt cô ấy như vọt ra. "Đừng cho em
thêm cứt Thánh Linh đó nữa! Em có thể thấy việc phục sinh của anh từ đây!"
Nivedano...
(Tiếng
trống)
(Nói
lắp bắp)
Nivedano...
(Tiếng
trống)
Im
lặng...
Nhắm
mắt lại, và cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông cứng.
Đây
là khoảnh khắc đúng để đi vào bên trong. Thu mọi năng lượng của bạn, toàn bộ
tâm thức của bạn, và chạy xô tới trung tâm của con người bạn, chỗ ở ngay dưới rốn
của bạn, bên trong - 6 cm bên dưới, đích xác - với sự khẩn thiết, dường như đây
là khoảnh khắc cuối cùng của đời bạn. Duy nhất những người đã từng đạt tới
trung tâm của họ, người có sự khẩn thiết này, sự mãnh liệt này.
Mỗi
lúc một nhanh hơn...
Mỗi
lúc một sâu hơn...
Khi
bạn tới gần hơn trung tâm bên trong của bạn, im lặng lớn giáng lên bạn hệt như
cơn mưa nhẹ với sự mát mẻ của nó. Và bên trong bạn, an bình lớn nảy sinh, an
bình đi qua hiểu biết.
Gần
thên chút nữa - và bạn cảm thấy được phúc lành thế.
Gần
hơn chút nữa, và bạn được say sưa với điều thiêng liêng. Chỉ một bước và bạn ở
tại trung tâm của con người bạn, hoàn toàn cực lạc.
Khi
bạn được định tâm, bạn không còn nữa, chỉ tính đây này thuần khiết. Tính đây
này chúng ta đã gọi một cách biểu tượng là phật. Đây là con người nguyên bản của
bạn.
Định
tâm, im lặng, không còn con người cũ của bạn - hoàn toàn trần trụi, chỉ một cột
ánh sáng... bạn là phật.
Mọi
người được sinh ra với phật ẩn kín trong người đó.
Từ
phật nghĩa là người đã thức tỉnh.
Nó
là quyền tập ấm vĩnh hằng của mọi người.
Phật
chỉ có một phẩm chất: quan sát, chứng kiến.
Chứng
kiến rằng bạn không là thân thể.
Chứng
kiến rằng bạn không là tâm trí.
Và
chung cuộc, chứng kiến rằng bạn chỉ là nhân chứng - chỉ là gương phản xạ mọi thứ.
Tại
khoảnh khắc này bạn là người may mắn nhất trên trái đất. Mọi người quan tâm tới
điều tầm thường; bạn đang đi vào điều bản chất và cái vĩnh hằng.
Bạn
có thể cảm thấy tôn kính vô cùng với sự tồn tại, niềm vui lớn trong tính linh
thiêng của mọi thứ. Toàn thể vũ trụ trở thành nhà bạn; bạn không là người ngoài.
Để
làm việc chứng kiến của bạn sâu hơn,
Nivedano...
(Tiếng
trống)
Thảnh
thơi... nhưng liên tục nhớ rằng bạn chỉ là nhân chứng.
Khi
việc chứng kiến của bạn sâu sắc lên, bạn bắt đầu tan chảy trong đại dương tâm
thức. Mười nghìn chư phật biến mất trong một tâm thức, trong một đại dương tâm
thức.
Thính
phòng Phật Gautama đã biến thành đại dương tâm thức không có bất kì sóng nào và
không có bất kì gợn sóng nào - hoàn toàn im lặng và yên tĩnh.
Đây
là không gian thực của bạn, đây là vô trí của bạn. Từ vô trí này bạn có thể đi
vào trong càn khôn. Đây là cánh cửa, lối mở.
Thu
lấy an bình, im lặng, phúc lạc, cực lạc, say sưa thiêng liêng, trước khi
Nivedano gọi bạn quay lại.
Và
cũng thuyết phục vị phật tới đằng sau bạn - ông ấy là pháp của bạn. Ông ấy là bản
tính của bạn; bạn đã không bao giờ yêu cầu ông ấy. Và ông ấy đã từng chờ đợi và
chờ đợi, ẩn sâu bên trong bạn. Yêu cầu chân thành, tim đón chào, và ông ấy nhất
định tới đằng sau bạn.
Đây
là bước đầu tiên của chứng ngộ: Phật Gautam ở đằng sau bạn như cái bóng. Nhưng
cái bóng này là huyền diệu, cái bóng này không tối; cái bóng này là sáng thuần
khiết, hiện diện thuần khiết. Bạn có thể cảm thấy hơi ấm của nó, bạn có thể gần
như cảm thấy cái chạm của nó. Nó bao quanh bạn bằng hương thơm mới, và nó cho bạn
chiều hướng mới toàn bộ để sống.
Hành
động mọi ngày của bạn bắt đầu thay đổi mầu sắc của chúng, cách tiếp cận của
chúng. Chính cuộc sống của bạn trở thành có tính thiền.
Tại
giai đoạn thứ hai, vị phật tới trước bạn, và bạn trở thành cái bóng. Là cái
bóng của vị phật là kinh nghiệm đẹp.
Và
kinh nghiệm này liên tục trở nên ngày càng sâu hơn khi cái bóng biến mất.
Tại
giai đoạn thứ ba và cuối cùng, không còn bạn nữa - thậm chí cả cái bóng, chỉ vị
phật hiện hữu.
Tính
đây này là chìa khoá chủ để mở mọi cánh cửa của sự tồn tại huyền bí bao quanh bạn.
Một khi bạn có chìa khoá này, bạn là người chủ của con người riêng của bạn.
Không có người nào ở trên bạn, không có người nào ở dưới bạn. Lần đầu tiên bạn
trải nghiệm đồng cảm với toàn thể sự tồn tại.
Tôi
gọi điều này là tính tâm linh đích thực duy nhất, tính tôn giáo đích thực duy
nhất.
Bây
giờ đừng quên yêu cầu vị phật tới đằng sau bạn...
Nivedano...
(Tiếng
trống)
Quay
lại... nhưng quay lại như vị phật, với duyên dáng lớn, an bình, im lặng.
Ngồi
xuống trong vài khoảnh khắc chỉ để nhớ lại con đường vàng bạn đã đi qua, trung
tâm mà bạn đã tìm thấy bên trong bạn, lối mở vào trong càn khôn, và mọi hương
thơm đó từ cõi bên kia; im lặng đang trút xuống bạn, và hơi ấm của vị phật người
đã tới đằng sau bạn.
Bạn
có thể cảm thấy ông ấy. Nó là chính bản tính của bạn. Nó là bạn trong tính chân
lí của bạn, trong kinh nghiệm tồn tại của bạn.
Nếu
bước thứ nhất được hoàn thành, bước thứ hai sẽ tự động theo sau. Khi bước thứ
hai được hoàn thành, bước thứ ba sẽ tự động đi theo.
Ngày
bạn sẽ hoàn thành bước thứ ba sẽ là ngày may mắn nhất trong đời bạn. Ngày đó bạn
sẽ được thức tỉnh từ giấc ngủ dài, lâu, giấc ngủ tâm linh. Ngày đó bạn sẽ trở
nên chứng ngộ.
Thế
thì không còn sinh nữa, không còn tử nữa. Bạn đã trở thành một với cái toàn thể.
Đây
là tính linh thiêng duy nhất tôi biết. Không có linh thiêng khác.
Được
chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy kính yêu.
..............................
0 Đánh giá