Chương 5. Đừng gõ cửa, đợi đã!

Chương 5. Đừng gõ cửa, đợi đã!

Price:

Read more

Tôi mở hội bản thân tôi – Osho

Thượng đế không ở đâu, Cuộc sống ở đây bây giờ

Chương 5. Đừng gõ cửa, đợi đã!



Powered by RedCircle


Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,

Linh Mặc sau khi trở thành sư dưới Mã Tổ, đã tới Thạch Đầu và nói, "Nếu ông giải được điều này bằng một từ, tôi sẽ ở lại đây. Nếu không, tôi sẽ đi."

Thạch Đầu, biết rằng người này có hứa hẹn, đã ra dấu một cử chỉ, nhưng Linh Mặc không hiểu nó. Thế là Linh Mặc xin phép ra đi và mở cửa thì Thạch Đầu gọi ông ta "Thầy giáo!"

Linh Mặc quay lại, và Thạch Đầu nói, "Từ sinh tới tuổi già, chỉ một anh chàng có đó và không cái gì khác - đừng nhìn bất kì chỗ nào thêm nữa."

Với điều này, Linh Mặc được đại ngộ. Ông ta dẫm gẫy gậy và ở lại đó.

Một lần, Thạch Đầu nói với hội chúng các sư, "Cho dù ngôn ngữ được dùng, nó là không liên quan."

Nghe thấy điều này, Dược Sơn nói, "Cho dù ngôn ngữ không được dùng, nó là không liên quan."

Thạch Đầu nói, "Ở đây, ngay cả chiếc kim không thể chui qua."

Dược Sơn nói, "Ở đây, nó như trồng hoa trên đá."

Thạch Đầu ra dấu chấp thuận điều Dược Sơn đã nói.

Các bạn,

Tôi đã từng nói cho các bạn rằng Thượng đế đã là chất độc lớn nhất cho nhân loại và tiến hoá của nó hướng tới các đỉnh tối thượng của tâm thức. Ayatollah Khomeini đã hỗ trợ điều tôi đã từng nói cho các bạn, bằng việc tuyên bố án tử hình cho Salman Rushdie và ba người khác với việc đơn giản xuất bản một phát biểu có tính sự kiện. Không luật pháp của bất kì nước nào hỗ trợ cho điều đó. Không hiến pháp nào trên thế giới hỗ trợ cho điều đó. Nhưng điều này đã là thái độ của các tu sĩ suốt lịch sử.

Ayatollah thứ hai - Ayatollah đơn giản có nghĩa người lãnh đạo tôn giáo - không phải Khomeini, như là một ayatollah khác, và có hai nghìn ayatollahs ở Iran, đã tới gần với sự hỗ trợ tốt hơn cho luận cứ của tôi. Bây giờ ông ấy đã tuyên bố rằng nếu đầu của Salman Rushdie được trình cho ông ta, ông ta sẽ cho người trình nó hai phẩy sáu triệu đô la nếu người đó là người Iran. Nếu người đó không là người Iran, thì một triệu đô la.

Từ mọi nước Mô ha mét giáo, kể cả Pakistan, các tổ giết người đã đi vào England để giết bốn người đó - và nếu không bốn, ít nhất giết Salman Rushdie vì viết tác phẩm này - và đem đầu ông ấy về Iran.

Bây giờ điều này sẽ chỉ cho bạn tại sao tôi đã từng kết án mọi tôn giáo hướng Thượng đế, vì chung cuộc tôn giáo hướng Thượng đế là ở trong tay các tu sĩ. Thượng đế không tồn tại, tu sĩ tồn tại. Và tu sĩ không biết bất kì văn minh nào, bất kì văn hoá nào. Giết người không phải là luận cứ, nó thực sự đang chấp nhận thất bại. Xã hội có văn hoá cần đối thoại. Nếu bạn có cái gì đó chống lại Rushdie, bạn có mọi quyền nói điều đó và phê bình ông ấy - đó là nhân văn. Nếu bạn cảm thấy ông ấy sai, bạn có mọi tự do để phê bình ông ấy.

Nhưng các tôn giáo không tin vào đối thoại, họ tin vào giết người, tin vào kiếm - đó là luận cứ của họ. Với tôi, đó là thất bại của họ.

Những người này đã từng giữ thế giới trì trệ. Vài người từ Ấn Độ, và từ các nước khác đã kết án Ayatollah Khomeini và các ayatollah khác, đã từng nhận những cú điện thoại nặc danh, rằng họ cũng sẽ bị giết nữa.

Ở đây ở Ấn Độ, một trong những người bạn của tôi, Madhu Mehta, đã làm một phát biểu kết án Ayatollah Khomeini. Ông ấy là một người rất thông minh, có văn hoá, có giáo dục. Ông ấy lãnh đạo phong trào nào đó có tên Hindustani Andolan, phong trào cho ngôn ngữ mới mà sẽ không là Hindi, ngôn ngữ của người Hindus, và nó sẽ không là Urdu, ngôn ngữ của người Mô ha mét giáo, nhưng là tổ hợp của cả hai, Hindustani. Tất nhiên, ông ấy không có hỗ trợ. Cả người Mô ha mét giáo không sẵn sàng hỗ trợ ông ấy, lẫn người Hindus không sẵn sàng hỗ trợ ông ấy, nhưng ông ấy cứ tiếp tục. Trong nhiều năm ông ấy đã làm việc trên nó.

Điều đó dường như là giải pháp đơn giản nhất - để Ấn Độ có ngôn ngữ dân tộc, bằng không nước này sẽ không có ngôn ngữ dân tộc bao giờ. Trong bốn mươi năm - hơn bốn mươi năm - hiến pháp đã tuyên bố Hindi là ngôn ngữ dân tộc. Nhưng chính phủ đã không có khả năng thực hiện nó vì người Mô ha mét giáo chống lại nó và nghĩ Urdu phải là ngôn ngữ dân tộc. Và có ba mươi hai ngôn ngữ được hiến pháp chấp nhận là ngôn ngữ bang. Tất cả chúng đều tuyên bố rằng chúng phải có quyền là ngôn ngữ dân tộc. Bây giờ ba mươi hai ngôn ngữ này đang đánh lẫn nhau... dường như không có cách nào.

Madhu Mehta đã nhận được cú điện thoại nặc danh rằng ông ấy cũng sẽ bị giết và rằng bất kì người nào nói bất kì cái gì chống lại Ayatollah Khomeini sẽ bị giết chết.

Chúng ta đang sống trong thế kỉ hai mươi, hay vài nghìn năm trước nơi việc giết người và sát hại là luận cứ? - bất kì ai giết, bất kì ai thắng trong việc giết là người đúng.

Rất dễ giết một Phật Gautam. Bất kì kẻ ngốc nào có thể làm điều đó, thực ra, chỉ kẻ ngốc có thể làm điều đó. Nhưng điều đó không chứng tỏ rằng ý tưởng của kẻ ngốc về tính tôn giáo là đúng, mà cái chết của Phật Gautam cũng không chứng tỏ rằng triết lí của ông ấy là sai. Thực ra, nó chỉ làm điều đối lập. Nó chứng tỏ rằng nhân loại vô ý thức và trì trệ, vì điều mà mọi tôn giáo chịu trách nhiệm, có nghèo nàn vô cùng về triết lí, về luận cứ, về đối thoại văn hoá và văn minh. Và nó đi trở lại, lùi lại xa như bạn có thể thấy.

Socrates bị đầu độc - điều đó không phải là luận cứ chống lại triết lí của ông ấy - bị đầu độc bởi đám đông. Lí do sao? Lí do đã là: "Ông ấy đang phá huỷ tôn giáo của chúng ta và đạo đức của chúng ta, và làm biến chất thanh niên." Socrates đã là một trong những người thông minh nhất, người đã từng bước đi trên trái đất này. Và bất kì người nào có thông minh sẽ không hỗ trợ cho tôn giáo hướng Thượng đế, hay đạo đức do Thượng đế ra lệnh, vì nó đang tới từ các tu sĩ, không từ Thượng đế. Tu sĩ quan tâm tới việc giữ toàn thể nhân loại là trì trệ nhất có thể được. Đó là điều làm cho ông ta thành có quyền lực, linh thiêng hơn, cao hơn và cao siêu hơn.

Có hai cách trở thành cao siêu: một là làm tiến hoá tâm thức của bạn và trở thành phật; cách khác là giữ toàn thể nhân loại trì trệ để cho bạn có vẻ cao hơn họ.

Tôi nhớ tới một giai thoại nhỏ về một trong những hoàng đế có ý nghĩa nhất của Ấn Độ, Akbar. Ông ấy là người Mô ha mét giáo nhưng không cuồng tín, và ông ấy đã tập hợp mọi loại người tôn giáo, từ các nguồn tôn giáo khác nhau, vào trong triều đình của ông ấy. Ông ấy có trong triều đình của mình mọi người thông minh của đất nước mà không có bất kì phân biệt tôn giáo hay đẳng cấp nào.

Một hôm ông ấy tới triều đình và hỏi mọi người khôn ngoan của triều đình, "Ta đang định giải quyết một vấn đề và ta cần sự giúp đỡ của các ông." Và thế rồi ông ấy vẽ ra một đường trên tường và hỏi những người đó, "Các ông có thể làm nó nhỏ hơn mà không chạm vào nó được không?"

Hiển nhiên, bạn không thể làm một đường thành nhỏ hơn mà không chạm vào nó, cho nên tất cả họ đâm lúng túng. Nhưng mọi triều đình trong quá khứ thường có một người có năng lực khôi hài vô cùng, để cho triều đình có thể giữ cân bằng, nó không trở thành nghiêm chỉnh, căng thẳng, dồn nén.

Birbal đã là con người có năng lực khôi hài của Akbar. Cuối cùng ông ấy đứng dậy, và ông ấy đi tới bức tường và vẽ ra một đường lớn hơn bên dưới đường mà Akbar đã vẽ, và làm cho nó thành nhỏ đi mà không chạm vào nó.

Các tu sĩ đã từng cố theo đủ mọi cách để giữ cho nhân loại ở thông minh thấp nhất. Đây là cách của họ để giữ cho bản thân họ linh thiêng hơn và cao hơn.

Nếu mọi người bắt đầu trưởng thành trong tâm thức, thông minh, nhận biết, điều đó sẽ phá huỷ mọi hư cấu về Thượng đế, cõi trời và địa ngục, và điều đó sẽ phá huỷ mọi kinh doanh mà các tu sĩ đang làm trên khắp thế giới. Hàng triệu và hàng triệu tu sĩ chỉ là kẻ ăn bám. Chừng nào chúng ta chưa gạt bỏ các tu sĩ, sẽ rất khó gạt bỏ Thượng đế - họ cả hai được kết nối rất sâu. Dễ gạt bỏ Thượng đế nếu không có tu sĩ, vì Thượng đế không tồn tại, và tu sĩ tồn tại.

Chính các tu sĩ đã lập trình tâm trí bạn là người Ki tô giáo, là người Hindu, là người Mô ha mét giáo, nhân danh Thượng đế. Và điều đó đã diễn ra trong nhiều thế kỉ.

Khi có liên quan tới tôi, tôi nghĩ nhân loại có tuổi tâm trí không quá bẩy tuổi.

Ở Mĩ, nơi tâm xã của chúng ta bị phá huỷ bởi những người Ki tô giáo chính thống - bản thân Ronald Reagan là người Ki tô giáo chính thống, người cuồng tín. Và lí do duy nhất để phá huỷ tâm xã đã là ở chỗ họ không thể dung thứ được một tâm xã không Thượng đế sống hạnh phúc thế, vui vẻ thế, hát bài ca và nhảy múa và mở hội mà không sợ gì, không cấm đoán gì, không mặc cảm gì.

Tổng chưởng lí, Ed Meese, đã thú nhận điều đó trước cuộc họp báo. Khi họ đã trục xuất tôi rồi, ông ấy đã chấp nhận rằng tôi đã không phạm bất kì tội gì, nhưng tôi phải bị trục xuất. Ông ấy nói, "Ưu tiên của chúng tôi là phá huỷ tâm xã, nhưng không trục xuất Rajneesh chúng tôi sẽ không có khả năng phá huỷ tâm xã này."

Tại sao với họ điều ưu tiên là phá huỷ tâm xã và đề nghị ba mươi tư tội tuyệt đối tưởng tượng chống lại tôi?

Thực ra, họ đã phạm tội chống lại năm nghìn người, những người đã đơn giản thoát khỏi nô lệ cổ hàng thế kì và đã tuyên bố chân giá trị và tự do của họ. Điều này là không thể dung thứ được. Những người tuyên bố độc lập và tự do của họ sao? Chân giá trị của họ và danh tiếng của họ và sự tự hào của họ. Tính cá nhân của họ sao? Điều này không thể được dung thứ bởi bất kì cái gọi là người tôn giáo cuồng tín.

Tôi đã nói trong cuộc họp báo rằng ở Oregon, nơi tâm xã đặt ở đó, mọi người là trì trệ. Mọi chính khách đều giận; toàn thể Oregon giận. Và chung cuộc, Đại học Oregon quyết định làm cuộc điều tra - vì đó là cách văn minh nhất để chứng minh tôi hoặc đúng hoặc sai. Và kết luận của họ là có giá trị vô cùng.

Họ đã điều tra chéo các phần của xã hội ở Oregon, và họ đã điều tra tâm xã. Họ bị phân vân. Họ đã thấy rằng tuổi tâm trí trung bình của người Oregon là bẩy tuổi, và tuổi trung bình của các sannyasin là mười bốn tuổi - gấp đôi tuổi của bất kì người Oregon nào. Và tôi nghĩ rằng nếu chúng ta tính tới toàn thể nhân loại, tuổi tâm trí sẽ không hơn bẩy. Nó sẽ bé hơn bẩy tuổi, vì hàng triệu người trì trệ hơn nhiều so với người Oregon. Khi số trung bình được lấy, nó có thể tới ba rưỡi là nhiều nhất.

Mọi người đã bị giữ trong sự nô lệ chỉ vì vài người tận hưởng sự cao siêu. Hiển nhiên những người đã tận hưởng sự cao siêu - người brahmins, tu sĩ, ayatollahs, imams, giáo sĩ, giáo hoàng - sẽ không dễ dàng cho phép con người tuyên bố độc lập của họ.

Bạn phải hiểu sâu. Toàn thể công việc của tôi ở đây là để làm cho bạn tuyên bố tự do và độc lập toàn bộ khỏi mọi nhà tù - tôn giáo, quốc gia, giống nòi. Chỉ điều đó sẽ cho bạn cuộc sống của mở hội. Tự do của bạn sẽ cho bạn không gian để múa, để hát, để mở hội. Cái nhìn của tôi về tính tôn giáo là cái nhìn của mở hội vô cùng, niềm vui vô cùng trong sự sống, trong yêu, trong hành động sáng tạo. Đây là cương lĩnh của tôi, Cương lĩnh Thiền.

Chừng nào nhân loại còn chưa được đưa ra khỏi các xà lim nhà tù của họ - chúng ta đang sống trong thời đại tăm tối - mọi quyền lợi được đầu tư sẽ chống lại tôi, nó sẽ chống lại bạn. Mọi cương lĩnh tự do sẽ bị nghiền nát.

Không phải ngẫu nhiên mà Socrates bị đầu độc, mà al-Hillaj Mansoor bị sát hại, mà Jesus bị đóng đinh, mà Sarmad bị giết, mà nhiều nỗ lực đã được thực hiện trong cuộc sống của Mahavira, mà nhiều nỗ lực đã được thực hiện trong cuộc sống của Phật Gautam, và chung cuộc, ông ấy đã chết do bị đầu độc thức ăn. Có mọi nghi ngờ rằng đó đã là việc đầu độc có chủ ý. Phật Gautam chắc chắn là người tôn giáo. Khi ông ấy sắp chết ông ấy đã bảo các đệ tử, nói riêng Ananda - ông ấy đã gọi ông này tới gần và thì thào với ông này, "Không thành vấn đề ta sắp chết. Ta quan tâm về người đã cho ta thức ăn người đó đã đầu độc ta. Ông phải bảo vệ ông ta, bằng không những người yêu ta sẽ giết ông ta.

"Cho nên lan truyền ý tưởng này trong các đệ tử của ta, và người yêu của ta, và những người thông cảm của ta, rằng hai người được phúc lành nhất: người lần đầu tiên cho nuôi dưỡng cho người chứng ngộ - tất nhiên, đó là người mẹ - và người thứ hai là người cho người đó thức ăn cuối cùng. Hai người này là người rất được phúc lành. Tạo ra tin đồn này, để cho người đã đầu độc ta sẽ không khổ một cách không cần thiết."

Đây là cách thức của người tôn giáo - quan tâm lớn ngay cả với kẻ sát hại. Chừng nào chúng ta chưa rót đầy trái đất này bằng những người như vậy, nhân loại sẽ không có mọi kinh nghiệm lớn mà mọi con người đều có quyền tập ấm để đạt tới.

Mọi người bị cấm làm cho trái đất này thành thiên đường hoa sen, và bị cấm từ việc trải nghiệm trong thân thể riêng của người đó, chính tâm thức của Phật Gautam. Mọi tôn giáo đều chống lại bạn vì họ chống lại tự do, và họ chống lại văn hoá con người, văn minh. Họ chống lại bất kì đối thoại nào. Sát hại là luận cứ của họ.

Điều này đơn giản chỉ ra sự nghèo nàn của mọi tôn giáo, và điều này cũng chỉ ra rằng nhân loại phải nổi dậy chống lại những tôn giáo này, những nhà thờ này, những đền chùa này, những nhà thờ hồi giáo này. Sự nổi dậy lớn, việc nổi dậy chỉ có thể cho bạn cơ hội để trưởng thành, bằng không bạn đơn giản trở nên già đi, bạn không trưởng thành. Và nhớ khác biệt giữa hai điều này.

Trở nên già không có bất kì giá trị nào, mọi con vật đều làm điều đó, nó không cần thông minh. Trưởng thành là kinh nghiệm khác toàn bộ. Trở nên già đi là chiều ngang; trưởng thành là chiều đứng, nó dẫn bạn tới những chiều cao, nó dẫn bạn tới các chiều sâu.

Và khá kì lạ, bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng thời gian là chiều ngang. Một khoảnh khắc trôi qua, khoảnh khắc khác tới, khoảnh khắc khác nữa, khoảnh khắc khác nữa... theo một hàng, hàng ngang. Thời gian là chiều ngang, và tâm trí cũng chiều ngang. Ý nghĩ này được theo sau bởi ý nghĩ khác, và bởi ý nghĩ khác nữa, và bởi ý nghĩ khác nữa, nhưng theo một đường, theo một hàng, đám diễu hành, hay chỉ là lưu thông - nhưng nó đi theo chiều ngang.

Thiền là chiều đứng, nó sẽ đi ra ngoài tâm trí và ngoài thời gian. Và có lẽ, chung cuộc bạn sẽ thấy rằng thời gian và tâm trí là tương đương, hai cái tên của cùng một hiện tượng - quá trình chiều ngang của các ý nghĩ, các khoảnh khắc. Thiền là dừng cả hai thời gian và tâm trí, và đột nhiên bạn bắt đầu vươn lên trong vĩnh hằng. Vĩnh hằng không phải là một phần của thời gian, và vĩnh hằng không là ý nghĩ; nó là kinh nghiệm.

Nhiệm vụ khó khăn là gạt bỏ Thượng đế và các tôn giáo hướng theo Thượng đế, và các tu sĩ người hỗ trợ cho dối trá này bằng việc đe doạ mọi người qua sát hại. Những kẻ sát hại này phải bị lột trần, và họ phải bị truất ngôi. Nhu cầu cơ bản là hiểu biết sâu sắc về tính thiêng liêng riêng của bạn. Thế thì không có nhu cầu về Thượng đế bên ngoài, và thế thì không có nhu cầu về bất kì người trung gian nào giữa bạn và Thượng đế.

Thiền là nổi dậy, có lẽ là nổi dậy nền tảng nhất chống lại mọi hư cấu, chống lại mọi dối trá, và chống lại tất cả những người đang sống trên các hư cấu và dối trá đó.

Tôi dạy bạn nổi dậy, tôi dạy bạn đứng dậy.

Tôi dạy bạn tự do của tính cá nhân. Phá huỷ mọi loại nhà tù, phá huỷ mọi loại dối trá - và bạn có thể phá huỷ chúng chỉ bằng thiền. Vươn ra ngoài thời gian và tâm trí, và bạn sẽ thấy không chỉ rằng bạn là thiêng liêng, mà toàn thể sự tồn tại là thiêng liêng, sự sống là thiêng liêng. Và bạn đi vào trong một chiều mới toàn bộ mà đã hoàn toàn bị chắn lại bởi kinh sách, bởi tu sĩ, bởi Thượng đế, bởi cõi trời và địa ngục, bởi mọi loại sợ, bởi mọi loại tham.

Đó là hiện tượng rất phi tự nhiên rằng người ta liên tục lớn lên về mặt thể chất nhưng tâm trí của người đó bị mắc kẹt ở đâu đó bên dưới bẩy tuổi. Điều đó không thể là tự nhiên! Tâm trí bị giữ trì trệ, bằng không cũng như thân thể lớn lên, sinh lí của bạn lớn lên, tuổi tâm trí của bạn sẽ đi theo đồng thời. Khi bạn bẩy mươi tuổi, tuổi tâm trí của bạn phải bẩy mươi. Nhưng nó là bẩy tuổi thôi...

Theo tôi, nếu điều này là có thể, thế thì điều đối lập cũng là có thể. Nếu một người có thân thể ở tuổi bẩy mươi mà chỉ có tuổi tâm trí của đứa trẻ bẩy tuổi, thế thì điều đảo lại cũng là có thể. Người bẩy mươi tuổi có thể có tuổi tâm trí bẩy trăm năm.

Một lần Emerson được hỏi, "Ông bao nhiêu tuổi?"

Và ông ấy nói, "Ba trăm sáu mươi tuổi."

Người đã hỏi không thể nào tin được điều đó. Ba trăm sáu mươi năm sao...? Ông ta nói, "Tôi không nghe được, xin nhắc lại điều ông đã nói."

Emerson nói, "Ông đã nghe nó rồi: ba trăm sáu mươi tuổi."

Người này nói, "Tôi không thể tin được điều đó. Ông chắc phải đùa... ông có vẻ không quá sáu mươi tuổi."

Emerson nói, "Vâng, thân thể tôi chỉ sáu mươi thôi, nhưng tâm thức của tôi sáu lần lớn hơn sáu mươi. Tôi đếm tuổi tôi theo thông minh của tôi, không theo thân thể tôi, vì tôi không là thân thể, tôi là thông minh."

Tôn giáo đã giữ bạn bị xiềng xích, vì con người thông minh sẽ không tin vào bất kì dối trá nào. Cho nên thông minh phải bị làm què quặt, và mọi tôn giáo đã từng tham gia vào quá trình làm què quặt này.

Ở Nhật Bản, có một phương pháp nào đó, là xấu với tôi, nhưng lại được đánh giá rất cao bởi người Nhật Bản. Có những cây bốn trăm tuổi mà chỉ cao mét tám. Chúng có vẻ rất cổ đại, nhưng chiều cao của chúng chỉ gần mét tám. Và chiến lược đã được dùng chính là chiến lược đã được dùng để chống lại mọi con người bởi các tôn giáo của bạn, Thượng đế của bạn và các thượng đế học hướng theo Thượng đế.

Thủ đoạn là rất đơn giản. Trong bốn trăm năm một gia đình, hết thế hệ nọ tới thế hệ kia, nuôi một cây. Nó được nuôi trong một chậu không có đáy, cho nên họ có thể liên tục cắt rễ từ rễ chính. Nếu bạn không cho phép rễ phát triển, cây không thể vươn lên cao. Họ không động tới phần còn lại của cây; nó đơn giản trở nên già hơn và già hơn và già hơn. Nhưng cây không đạt tới chiều cao mà là tiềm năng của nó, vì rễ liên tục bị cắt đi.

Thông minh là rễ của bạn.

Họ trưng bày những cây đó dường như đó là nghệ thuật.

Với tôi, điều đó là chống lại tự nhiên, chống lại những cây đáng thương đó. Bạn đã không cho phép chúng phát triển. Và có lẽ nếu những cây đó có loại tâm trí nào đó, loại thông minh nào đó, chúng sẽ nghĩ, "Đây là cách chúng ta hiện hữu: cao mét tám." Chúng sẽ không có khả năng khám phá chút nào rằng chúng đã bị giữ cầm tù bằng việc bị cắt rễ của chúng - vì chúng không thấy rễ.

Bạn không thấy rễ của bạn trong sự tồn tại.

Chỉ thiền nhân đi tới thấy rễ của mình trong sự tồn tại. Những rễ đó đã bị cắt đi hoàn toàn, liên tục, hết thế kỉ nọ tới thế kỉ kia, thế hệ nọ sau thế hệ kia, bởi tu sĩ. Bạn đã bị giữ trì trệ không thông minh.

Mọi người hỏi tôi tại sao đám đông không tới tôi. Họ không thể hiểu được tôi. Chỉ những người rất thông minh, người có tính cá nhân nào đó và có cảm nhận tự do nào đó, có thể hiểu được tôi. Đám đông chỉ có thể giết tôi. Chỉ người thông minh, người ưu tú...

Để hiểu tôi bạn sẽ phải trải qua biến đổi, bạn sẽ phải nhìn vào trong rễ của bạn: Ai đã cắt rễ của bạn? Ai là những con chuột này người đã từng cắt các rễ của bạn? Mọi giáo sĩ của bạn, mọi giám mục của bạn, mọi ayatollahs, mọi shankaracharyas... họ là chuột kẻ cắt rễ bạn. Và họ không cho bạn cơ hội có cuộc sống đầy đủ hơn. Bằng không mọi người sẽ có cuộc sống phong phú của việc hoàn thành lớn tới mức ai quan tâm cái gì xảy ra sau chết? Người ta đã sống một cách toàn bộ, đã yêu một cách toàn bộ tới mức ai quan tâm về cái gì xảy ra sau chết?

Chỉ có hai khả năng: hoặc bạn chết, thế thì không có vấn đề gì, hoặc bạn tiếp tục sống. Và bạn biết cách sống, bạn biết cách là toàn bộ, cho nên bạn sẽ sống toàn bộ hơn mà không có thân thể. Bạn sẽ có toàn thể bầu trời sẵn có cho bạn. Cho nên dù bạn là người vô thần hay người hữu thần không thành vấn đề. Điều thành vấn đề là sống cuộc sống toàn bộ tới mức chết có thể là tuyệt đối không quan trọng, vì chỉ hai phương án còn lại: hoặc bạn sẽ chết... cho nên vấn đề là gì?

Bạn nghĩ bạn có bất kì vấn đề gì trước khi bạn được sinh ra không? Cứ nghĩ về điều đó đi. Bạn không có vấn đề nào, bạn đã không có đó. Cho nên làm sao vấn đề có thể tồn tại mà không có bạn? Bạn có nhớ bất kì vấn đề nào trước khi bạn được sinh ra không?

Tôi nói với bạn, đó là một phía; phía bên kia là chết. Bạn sẽ không có bất kì vấn đề nào nếu bạn thực sự chết. Nếu bạn không chết, bạn sẽ có mọi cơ hội, nhiều hơn bạn có bây giờ. Nhưng bạn phải tạo kỉ luật cho bản thân bạn để sống một cách thừa thãi tới mức bạn sống cái chết, bạn sẽ có khả năng sống thừa thãi hơn vì bạn sẽ có nhiều không gian hơn để nhảy múa, nhiều không gian hơn để mở hội.

Khi có liên quan tới tôi, tôi biết không có chết. Nhưng tôi không muốn bạn tin điều đó, tôi muốn bạn trải nghiệm điều đó.

Các tôn giáo đã từng tạo ra mọi loại phương cách để giữ bạn mù và ở trong tối.

Câu ngạn ngữ cổ mô tả một triết gia nói: Triết gia là người mù, trong nhà tối nơi không có ánh sáng, và ông ấy đang đi tìm con mèo đen mà không có đó.

Đây không phải là mô tả hay định nghĩa chỉ về triết gia. Đây đích xác là mô tả và định nghĩa về mọi con người. Tôn giáo đã giữ cho họ mù, trong tối hoàn toàn, nói cho họ những điều dối trá, và bảo họ tìm nó: con mèo đen mà không có đó! Mọi tôn giáo đều đang bảo bạn tìm Thượng đế, và bạn không có mắt, và bạn không có ánh sáng nào, và Thượng đế không tồn tại. Thượng đế là con mèo!

Và bạn liên tục dò dẫm và loạng choạng. Bạn càng dò dẫm, bạn càng loạng choạng; bạn càng bị gãy xương, càng thất vọng và lo âu và phiền não rằng có lẽ người khác đã bắt được con mèo và bạn đã không hoàn thành lời hứa. Tay bạn trống rỗng và chết đang tới mọi khoảnh khắc càng gần hơn. Một cách tự nhiên toàn thể nhân loại đã mất khả năng khôi hài. Mọi người mỉm cười chỉ nụ cười bôi son. Nó không đi ra ngoài son bôi môi. Và son làm cho đàn bà xấu thế - bất kì cái gì giả đều làm cho mọi người thành xấu.

Ngay cả các sannyasin của tôi, khi họ quay về phương tây, bắt đầu vẽ lên môi. Khi họ quay lại, phải mất vài ngày để lau sạch cái bẩn đó mà họ đã đặt lên môi của họ. Tôi không thể quan niệm được rằng bất kì đàn ông thông minh nào có thể hôn người đàn bà có bôi son môi! Son đó gần như bức Trường thành Trung Quốc - bạn không thể đạt tới người đàn bà này chút nào. Ít nhất tôi chắc chắn về tôi. Khoảnh khắc tôi thấy son bôi trên môi, tôi biết rằng người đàn bà này là rởm. Tránh nó ra; nó không có hồn, nó chỉ là mặt nạ.

Mới vài ngày trước, một bà trẻ Ấn Độ rất giầu - vì đàn bà Ấn Độ không dùng son bôi môi trừ phi họ rất giầu và được giáo dục trong nữ tu viện – đã tới vì cô ấy là người chủ của một tạp chí và tờ báo. Cô ấy muốn viết một câu chuyện về tôi, và cô ấy muốn chụp ảnh cùng tôi.

Và Anando đã bảo tôi - Anando là thư kí pháp lí của tôi - cô ấy bảo tôi rằng cô kia là một đàn bà rất đẹp. Khi tôi thấy cô ta, tôi chỉ thấy son môi đỏ và không gì khác. Tôi cố tránh mặt cô ấy, và tôi bảo Anando, "Bạn đã bảo tôi người đàn bà này đẹp sao? Bạn không thấy son môi của cô ấy à?"

Không cái giả nào có thể là đẹp, chỉ đích thực, chân thành mới đẹp. Như bạn vậy, trong sự trần trụi hoàn toàn của bạn, bạn có cái đẹp, bạn có tính cá nhân.

Nhưng mọi tôn giáo đang tạo ra đạo đức giả. Không chỉ Thượng đế của họ là dối trá, mà họ đã làm cho toàn thể nhân loại ở trong đạo đức giả sâu. Giả vờ - đó là thuyết giảng của họ. Trưng ra rằng bạn là người đạo đức, rằng bạn là người khắt khe đạo đức, rằng bạn là thánh nhân. Họ đã không cho phép bạn có bất kì biến đổi nào. Họ chỉ cho bạn các mặt nạ, nhân cách, và họ đã tước đi từ bạn tính cá nhân điều là quyền vĩnh hằng của bạn.

Tuyên bố quyền vĩnh hằng của bạn đi, và quyền đó sẽ phá huỷ các Thượng đế và các tu sĩ, vì họ đang thông đồng với nhau chống lại toàn thể nhân loại.

Thượng đế của bạn không phải là người sáng tạo ra sự sống, ông ta là kẻ thù của sự sống, vì sự sống là chân lí và Thượng đế là dối trá! Nhưng ông ta liên tục sống vì giới giáo sĩ. Đó là lí do tại sao giới giáo sĩ không có bằng chứng, không có luận cứ về Thượng đế, chỉ sát hại!

Bây giờ điều vô nghĩa này rằng một người đã không làm bất kì điều hại nào cho bất kì người nào, nhưng đã đơn giản phát biểu một sự kiện mà bản thân Mohammed đã chấp nhận... rằng quỉ đã gây hứng khởi cho ông ấy viết vài câu thơ mô tả ba nữ thiên thần. Nếu ngay cả các nhà tiên tri của Thượng đế cũng không thể hiểu được ai đang gây hứng khởi cho họ - dù đó là Thượng đế hay quỉ - thế thì họ không đáng gọi là nhà tiên tri của Thượng đế. Và có chắc chắn gì về các phát biểu khác của những nhà tiên tri này? Có lẽ chúng cũng được quỉ đọc ra!

Và đó là chiến lược, cùng điều mà tôi đã nói với bạn về nhà thuyết giảng trên ti vi Mĩ Bakker này, người đã là một trong những nhà thuyết giảng ti vi nổi tiếng nhất. Đây là loại tăng lữ mới nảy sinh ở Mĩ. Hàng triệu người thường nghe ông ấy mọi chủ nhật. Ông ấy nói về vô dục, và ông ấy bị bắt quả tang trong mối quan hệ dục với đàn bà. Và thế rồi điều được phát hiện ra là ông ấy cũng có quan hệ đồng dục với trợ lí của ông ấy. Và vì ông ấy bị bắt quả tang - rất dễ dàng đổ lỗi vào quỉ - ông ấy lập tức nói, "Tôi đã bị ép buộc bởi quỉ!"

Điều đó là lạ. Ông ấy đã có những chuyện tình này cả đời ông ấy, và ông ấy đã không nói cho bất kì ai trong mọi buổi giảng này - mọi chủ nhật trong nhiều năm - "Tôi đang bị ép buộc bởi quỉ..." Đột nhiên bây giờ ông ấy bị bắt... nếu như ông ấy đã không bị bắt, ông ấy chắc vẫn còn là đại diện của Thượng đế.

Nhưng kì lạ, khi tôi thấy điều này, rằng người này bây giờ đổ lỗi cho quỉ...! Rằng quỉ đã ép buộc ông ấy làm tình với thư kí của ông ấy, làm tình với người trợ lí của ông ấy, người là đàn ông, làm tình với các đàn bà khác người đã là một phần của giáo đoàn của ông ấy... nó là quỉ đấy! Nhưng làm sao bạn biết nó đã là quỉ và không là Thượng đế? Nếu bạn không bị bắt - và nó là phương cách dễ dàng thế...

Thế thì mọi tội phạm có thể nói trước toà, "Tôi bị hứng khởi bởi quỉ. Tôi đã không giết người, đó là quỉ đã áp buộc tôi giết người. Tôi đã không cưỡng hiếp, đó là quỉ!" Thế thì không tội phạm nào có thể bị trừng phạt - "Nếu ông muốn trừng phạt, trừng phạt quỉ đi."

Và cái ông Bakker đó, sau khi ăn năn trong một năm, trở lại trên ti vi - lại là đại diện của Thượng đế!

Theo dõi toàn thể chiến lược của ông ấy, tôi nhớ tới một người đàn bà đã thú tội cho một linh mục Cơ đốc giáo...

Cô ấy nói, "Con đã bị cưỡng hiếp."

Linh mục nói, "Con đã bị cưỡng hiếp liên tục trong sáu tuần rồi. Mọi chủ nhật con tới... con xoay xở điều đó thế nào?"

Cô ấy nói, "Đó là cùng một người. Và đó không phải là một lần trong đêm, đôi khi hai lần anh ấy cưỡng hiếp con."

Linh mục nói, "Con có hiểu nghĩa của cưỡng hiếp không?"

Cô ấy nói, "Con hiểu."

"Cùng một người liên tục cưỡng hiếp con trong sáu tuần sao? Đôi khi thậm chí hai lần một đêm... và con cứ thú tội? Và lại cưỡng hiếp tiếp tục. Tại sao con thú tội?"

Cô ấy nói, "Con thích thú tội. Nó cho con niềm vui thế, gần đích xác như cùng niềm vui khi con bị cưỡng hiếp. Toàn thể cảnh tượng đó..."

Và cô ấy thường mô tả nó tuyệt đối chi tiết, chi tiết tỉ mỉ.

Bây giờ bạn có thể quan niệm được sự mù của mọi người không? Bakker quay lại...

Mohammed, trong phần lớn đời ông ấy đã thay đổi các vần thơ đó, và lí do không phải là quỉ. Lí do là ý tưởng hống hách nam. Thế thì tại sao ông ấy đã viết ra ba vần thơ kia? Lí do là vợ ông ấy.

Ông ấy đã lấy một quả phụ rất giầu đã bốn mươi tuổi và ông ấy chỉ hai mươi sáu. Lí do lấy người đàn bà đó đơn giản là giầu có của cô ấy, danh tiếng của cô ấy, quyền lực của cô ấy. Cô ấy là người đàn bà quyền lực, Khadija. Cô ấy là người Mô ha mét giáo đầu tiên.

Bản thân Mohammed là bị động kinh. Ông ấy thường có các cơn ngất, và một hôm ông ấy về nhà run bắn và sốt. Khadija hỏi, "Cái gì xảy ra thế?" Ông ấy đã là người chăn cừu. Ông ấy thường đưa dê và cừu lên núi, và trên núi điều đó đã xảy ra. Có lẽ nhất đó lại là cơn ngất động kinh, vì không có Thượng đế nào để nói bất kì cái gì cho bất kì ai.

Ông ấy nói, "Tôi đã trở nên gần như vô ý thức. Tôi đã sùi bọt mép - khi tôi trở lại có ý thức tôi thấy bọt ở mồm, và Thượng đế đã nói cho tôi. Và từ khoảnh khắc đó tôi đã run và cảm thấy sốt lắm."

Thế là Khadija đắp nhiều chăn nhất có thể lên ông ấy, nhưng ông ấy vẫn run. Và cô ấy thuyết phục anh ta, "Đó là Thượng đế! Đừng lo nghĩ! Và em là đệ tử đầu tiên của anh."

Vì người đàn bà này, và vì giầu có của cô ấy, Mohammed đã có khả năng lan toàn Mô ha mét giáo quanh Saudi Arabia. Hiểu biết của tôi là vì người đàn bà này ông ấy đã đưa ba vần thơ đó rằng có ba nữ thần. Khi Khadija chết, chẳng có lí do gì để giữ những vần thơ đó trong Koran. Bây giờ tâm trí hống hách nam của ông ấy - mà đã có đó trên khắp thế giới trong mọi người sáng lập mọi tôn giáo...

Jaina giáo, là một trong những tôn giáo có học thức nhất trên thế giới, tuyên bố rằng không đàn bà nào có thể trở nên chứng ngộ. Nhưng một người đàn bà đã xoay xở trở nên chứng ngộ. Và toàn thể lí do mà đàn bà không thể là vô dục là vì hành kinh hàng tháng của cô ấy. Đàn ông có thể giả vờ là vô dục, có thể xoay xở, nhưng làm sao đàn bà có thể giả vờ rằng cô ấy không có hành kinh? Và đặc biệt trong tôn giáo của người Jaina, vì bạn không thể trở nên chứng ngộ chừng nào bạn chưa trở thành trần truồng.

Cho nên có năm giai đoạn... dần dần, dần dần bạn bỏ các thứ sở hữu của bạn, và giai đoạn cuối cùng là của muni - muni trở thành trần truồng. Bây giờ đàn bà trần truồng - làm sao cô ấy sẽ lừa được mọi người khi kinh tới? Điều này là rắc rối.

Mọi người kết án tôi rằng tôi quan tâm tới điều tầm thường, và Mahavira và hai mươi bốn tirthankara của người Jaina đã quan tâm về hành kinh của đàn bà! Và vì hành kinh - vì bạn không thể che giấu nó, và đặc biệt khi bạn trần truồng - đàn bà không thể trở nên chứng ngộ, cô ấy không thể vô dục. Cô ấy không thể thay đổi được sinh học của cô ấy, mà bất kì đàn ông nào cũng không thể bao giờ thay đổi được sinh học của anh ta. Nó ở bên ngoài kiểm soát của tâm trí. Không đàn ông nào đã bao giờ vô dục... toàn kẻ giả vờ, toàn kẻ đạo đức giả.

Nhưng một người đàn bà đã rất dũng cảm, Mallibai - vì đàn bà là dũng cảm, đặc biệt trong xã hội như Ấn Độ nơi đàn bà phải che giấu bản thân cô ấy trong bộ sari... Sari là rất đẹp trong việc che giấu đàn bà, sự cân đối của cô ấy, những đường cong của thân thể. Sari là phương cách đẹp. Bạn chỉ thấy mặt đàn bà, bạn không thấy bất kì cái gì khác. Và trong một nước như vậy, trong văn hoá như vậy, đàn bà sẽ xấu hổ mà trần truồng.

Nhưng Mallibai phải đã là người đàn bà cực kì táo bạo. Tôi có kính trọng mênh mông với người đàn bà đó người đứng trần truồng. Và một cách không sẵn lòng họ đã phải chấp nhận rằng bà ấy đã chứng ngộ. Bạn không thể phủ nhận được chứng ngộ, nhưng họ đã xoay xở khi bà ấy chết. Họ đã đổi tên bà ấy tờ Mallibai thành Mallinath. Bây giờ Mallinath là tên đàn ông. Nath làm thay đổi mọi thứ. Bai nghĩa là đàn bà, và mallibai họ đã đổi thành mallinath.

Và không chỉ điều đó... Trong các đền Jaina bạn sẽ thấy hai mươi bốn bức tượng các tirthankaras, nhưng bạn sẽ không tìm thấy bất kì tượng đàn bà nào - họ tất cả đều trần truồng, cho nên bạn không thể tìm ra được.

Tôi thường làm phiền bố tôi mọi lúc tôi đi cùng ông ấy tới đền, "Mallibai ở đâu trong hai mươi bốn bức tượng này?"

Và ông ấy thường nói, "Bố không biết chút nào, và con liên tục hỏi đi hỏi lại. Bất kì khi nào con đi cùng bố, điều đầu tiên con hỏi là về Mallibai. Và làm sao bố được cho là biết điều đó? Hai mươi bốn người này toàn là nam, không ai là nữ."

Tôi nói, "Cái gì đã xảy ra cho Mallibai?" Họ đã đổi ngay cả tượng. Nó không phải là đàn bà, tượng là của đàn ông. Cái tên đã bị đổi, tượng đã bị đổi - vì họ phải cứu ý tưởng hống hách nam này rằng chỉ đàn ông có thể trở nên chứng ngộ.

Mọi tôn giáo bằng cách này khác, đã kết án đàn bà. Cho nên Mohammed phải đã cảm thấy rằng khi Khadija chết, đó đã là lúc thay đổi những vần thơ đó. Bây giờ, khiển trách dồn vào quỉ.

Koran là một trong những sách kì lạ nhất, vì nó đã không được viết trong sự liên tục - vấn thơ này hôm nay, vần thơ khác mười ngày sau... vì Mohammed đã là vô giáo dục. Bản thân ông ấy đã không viết nó. Ông ấy thường đọc bất kì khi nào ông ấy thấy cái gì đó xứng đáng đọc để ghi. Cái gọi là kinh sách linh thiêng được viết bởi các nhà tiên tri và đấng cứu tinh tự xưng - và chúng được gọi là "linh thiêng"! Tôi không thấy bất kì cái gì linh thiêng trong chúng.

Nhiều bạn bè người Mô ha mét giáo đã hỏi tôi, "Thầy đã nói về nhiều tôn giáo, tại sao thầy không nói về Koran?"

Tôi nói, "Bạn có muốn tôi bị sát hại không?" Trong khi đó tôi có cái gì đó khác để làm. Chung cuộc, khi tôi nghĩ rằng đây là lúc cho tôi rời khỏi thân thể, tôi sẽ nói về Koran. Và tôi sẽ xoay xở để một trong các sannyasin giết tôi và được 2.6 triệu đô la cho công việc của tôi! Trong khi công việc của tôi chưa hoàn thành, tôi sẽ không nói về các kinh sách linh thiêng, vì chúng là loại văn học nguyên sơ nhất.

Cái gọi là những nhà tiên tri bị khổ từ mọi loại ốm tinh thần; họ bị động kinh, thần kinh, loạn thần kinh chức năng và tinh thần phân liệt. Họ không đáng thảo luận tới chút nào. Nhưng tu sĩ này trên khắp thế giới đang giữ toàn thể nhân loại trong nanh vuốt của họ. Họ là chim kền kền, không là con người.

Đây là công việc của bạn: lan toả thông điệp của tự do, của tính cá nhân về tính tôn giáo, cái là phẩm chất, không là thành viên của bất kì tôn giáo có tổ chức nào. Nó thuần tuý là chuyện cá nhân, cũng như yêu là vậy. Nó là yêu vĩ đại nhất và cao nhất và thuần khiết nhất với sự tồn tại.

Bạn đã rơi vào yêu người đàn bà, đây là chuyện nhỏ. Bạn đã rơi vào yêu người đàn ông, đây là chuyện nhỏ. Một khi bạn rơi vào yêu bản thân sự tồn tại, bản thân sự sống, thế thì nó là chuyện lớn. Các Thiền sư gọi nó là Chuyện Lớn.

Nhưng nó là cá nhân, nó không liên quan gì tới bất kì thể chế nào. Trong thể chế, chỉ người điên sống. Khi mọi người gọi hôn nhân là thể chế, tôi đồng ý. Nó là thể chế, vì trong thể chế chỉ người điên sống.

Tôn giáo chẳng liên quan gì với tổ chức.

Khoảnh khắc bạn tổ chức chân lí, bạn giết nó.

Con chim tung cánh là một điều. Bạn có thể bắt giữ cùng con chim đó và cho nó vào lồng vàng. Bên ngoài nó vẫn là cùng con chim, nhưng bên trong nó đã mất tự do của nó. Nó đã mất niềm vui của nó trong mặt trời, trong mưa, khi đi ra ngoài mây. Nó đã mất bầu trời của nó, không gian của nó; nó không là cùng con chim đó. Chỉ trong dáng vẻ nó là cùng một, nhưng đúng là nó là nô lệ.

Con chim tung cánh đã là tự do toàn bộ, nhảy múa trên mây, bay ngang qua mặt trời hướng tới cái không biết mà không có bất kì sợ gì. Nhưng bây giờ, không có đâu mà đi - mặc dầu lồng bằng vàng. Mọi trách nhiệm bị người chủ lấy đi. Con chim sẽ có thức ăn, chất nuôi dưỡng... mọi thứ, nhưng điều đó là bán hồn bạn rẻ thế.

Đừng bị nhốt lại trong bất kì tôn giáo nào.

Có tính tôn giáo.

Tạo ra sự bao la của bầu trời mà đã có đó rồi. Bạn chỉ phải khám phá ra nó bên trong bạn. Và bạn sẽ tự do khỏi mọi nhà tù, khỏi mọi tôn giáo, và mọi Kinh Thánh linh thiêng, Koran linh thiêng, Gita linh thiêng... chẳng cái nào trong chúng là linh thiêng. Chỗ linh thiêng duy nhất là bên trong bạn. Và một khi bạn đã biết điều đó, thế thì bạn biết rằng nó ở bên trong mọi người. Bất kì chỗ nào có sự sống, khắp nơi có sự linh thiêng, thiêng liêng.

Bạn không chỉ bị ngăn cản khỏi trưởng thành trong thông minh của bạn, bạn đang bị ngăn cản khỏi biết tính thiêng liêng đích thực của sự tồn tại, tính linh thiêng đích thực của sự sống.

Những tu sĩ này là những kẻ sát hại - không chỉ câu từ - về thực tại. Họ đã sát hại nhiều người hơn các chính khách. Và họ vẫn ở đó; họ vẫn tuyên bố và hỗ trợ công khai cho kẻ giết người. Và bất kì người nào đối lập với điều đó cũng phải bị giết. Họ chỉ biết một ngôn ngữ - ngôn ngữ của sát hại. Họ đã không học bất kì cái gì mà có thể gọi là nhân văn; họ là những con vật. Nhưng ngay cả con vật còn văn hoá hơn.

Câu hỏi thứ nhất:

Thượng đế là hư cấu của tâm trí, bịa đặt của các chính khách tôn giáo. Nhưng tâm trí tôi muốn các hư cấu, hi vọng, tương lai. Điều này có là tự nhiên không?

Không, không chút nào. Bạn đã bị lập trình, bạn không biết bản tính của nó là gì. Mọi hi vọng này mà bạn nghĩ tâm trí bạn cần, đều được bịa ra.

Các nhà kinh tế cổ thường nói rằng bất kì chỗ nào có cầu sẽ có cung. Bây giờ mọi sự đã thay đổi hoàn toàn. Các nhà chế tạo làm ra đủ loại hàng hoá đầu tiên bắt đầu việc quảng cáo, họ còn chưa chế tạo ra vật đó. Họ đổ nhiều tiền vào việc quảng cáo hơn vào việc sản xuất sản phẩm, vì quảng cáo đó tạo ra nhu cầu giả trong tâm trí mọi người rằng họ cần nó. Một khi nhu cầu có đó... Nó là nhu cầu giả, vì họ đã không bao giờ cần nó.

Chỉ quảng cáo này nhất quán, thường xuyên gõ búa lên đầu bạn từ mọi máy thu hình, từ mọi radio, từ mọi góc phố, từ mọi tạp chí, từ mọi báo chí - bạn có thể tránh được bao lâu? Bạn bị bao quanh liên tục bởi cùng một quảng cáo, và bạn sớm bắt đầu cảm thấy rằng bạn cần nó, bạn không thể sống mà không có nó. Nó thậm chí không được sản xuất ra. Khi nhà chế tạo thấy rằng mọi người đã bắt đầu cảm thấy cần, thế thì họ chế tạo nó. Cho nên bây giờ nó là nhu cầu được tạo ra mà bạn coi đương nhiên là nó đã nhu cầu tự nhiên của bạn.

Những tu sĩ này, những chính khách tôn giáo, đã từng làm cùng loại quảng cáo trong hàng nghìn năm. Họ cho bạn ý tưởng, và họ thuyết giảng liên tục. Kinh sách của họ liên tục thuyết giảng mọi phương pháp cũ. Và họ bây giờ cũng dùng các phương tiện mới: truyền hình, radio, vệ tinh... để tuyên truyền các lời dối trá.

Bạn nghĩ bạn cần - tâm trí bạn muốn các hư cấu. Không, những hư cấu này được bịa ra.

Cứ không nói cho đứa trẻ là có Thượng đế, và nó sẽ không bao giờ cảm thấy ham muốn tìm ra Thượng đế. Điều đó dễ hiểu thế. Ở Liên Xô không ai tìm Thượng đế, vì họ có việc lập trình khác toàn bộ, lập trình cộng sản, lập trình vô thần. Từ chính thời thơ ấu đứa trẻ được bảo cho không có Thượng đế. Nhưng trong quá khứ, mọi người ngu xuẩn thế họ thường tôn thờ dối trá, hư cấu.

Một trong những người bạn của tôi, Rahul Sanskritayana, một học giả tiếng Phạn, Pali và Prakrit, đã là một sư Phật giáo. Nhưng ông ấy cũng trở nên quan tâm tới chủ nghĩa cộng sản nữa vì sự tương tự đơn giản rằng Phật không có Thượng đế và Marx cũng không có Thượng đế. Cho nên ông ấy bắt đầu trở nên quan tâm tới chủ nghĩa Marx, và cuối cùng ông ấy đã trở thành người cộng sản. Và Liên Xô đề nghị ông ấy tới Đại học Moscow để dạy tiếng Phạn ở đó. Thế là ông ấy đi tới Moscow.

Ngoài Ấn Độ, ở Moscow, mọi thứ là khác. Ở đây ông ấy không thể vẫn còn là sư Phật giáo và vậy mà rơi vào yêu. Ở Liên Xô đã không có khó khăn. Ông ấy rơi vào yêu một người đàn bà đẹp, Lola - cô ấy cũng là giáo sư trong cùng đại học, và cô ấy đã có hai con.

Nhưng chính phủ Xô viết không cho phép ông ấy đem vợ hay con ra khỏi Liên Xô. Ông ấy có thể sống ở đó, nhưng ông ấy muốn quay về đất nước riêng của ông ấy. Và ông ấy cũng sợ. Theo một cách nào đó chính phủ đã đáp ứng ham muốn bên trong nhất của ông ấy - làm sao ông ấy có thể đi Ấn Độ cùng vợ và hai con? Ông ấy sẽ bị kết án bởi mọi người, đặc biệt các Phật tử: "Ông là sư!" Cho nên ông ấy hạnh phúc theo một cách nào đó, rằng bản thân chính phủ đã không cho phép điều đó, cho nên không có vấn đề.

Ông ấy đã quay về. Ông ấy bảo tôi, "Khi lần đầu tiên tôi sang Liên Xô, tôi đã hỏi một cậu bé, 'Cháu có tin vào Thượng đế không?' Nó nói, 'Thượng đế à? Mọi người thường tin điều đó trong thời đen tối. Nếu bác muốn thấy tượng của Thượng đế, bác có thể vào bảo tàng.'"

Nhưng điều này cũng là lập trình. Không phải là những cậu bé này biết không có Thượng đế, hay rằng ngay cả Karl Marx đã biết không có Thượng đế. Duy nhất con người của thiền bao la có thể biết liệu Thượng đế là có hay không có.

Cho nên bạn đã bị lập trình, và được bắt rễ sâu thế là chương trình mà bạn nghĩ nó là bản tính của bạn. Hư cấu của bạn, hi vọng của bạn, tương lai của bạn... không cái gì là tự nhiên.

Tự nhiên không biết cái gì ngoại trừ khoảnh khắc này. Tự nhiên không biết cái gì về hi vọng và ham muốn và muốn. Tự nhiên đơn giản tận hưởng bất kì cái gì sẵn có trong khoảnh khắc này, bây giờ và ở đây.

Bạn đang hỏi:

Hay đó là việc bóp méo, sự phản xạ của văn hoá ốm yếu?

Vâng, tuyệt đối và dứt khoát, vâng. Nó là bóp méo, là phản xạ của văn hoá ốm yếu.

Và bạn hỏi:

Có trạng thái duyên dáng mà tôi tìm kiếm đang ẩn kín khỏi tôi bởi tự nhiên vì chủ định nào đó không?

Không có chủ định. Chủ định mang toàn thể dối trá vào lại. Sự tồn tại đơn giản hiện hữu.

Chỉ nhìn vào nó từ góc độ này. Khi bạn ốm bạn đi tới bác sĩ và hỏi, "Ốm của tôi do nguyên nhân gì?" Bạn hỏi để chẩn đoán. Nhưng khi bạn cảm thấy mạnh khoẻ, bạn có đi tới bác sĩ và hỏi, "Bác sĩ chẩn đoán hộ đi! Cái gì là nguyên nhân cho mạnh khoẻ của tôi?" Bạn không đi tới bác sĩ, hay tới nhà tâm thần, hay tới nhà phân tâm. Và nếu bạn đi, điều đó có nghĩa là bạn điên. Nếu bạn hỏi, "Tại sao tôi cảm thấy hạnh phúc thế...?"

Không, hạnh phúc không cần nguyên nhân. Nó là bản tính đơn giản của bạn, bạn hạnh phúc về bản chất. Không nguyên nhân, không chủ định, không mục đích nào được cần. Sự sống là đủ trong bản thân nó. Nó không cần cái gì khác để làm đầy đủ nó. Nó là đầy đủ! Nó là toàn bộ! Nó đã là cái nó phải là. Cho nên không có chủ định trong sự tồn tại và không có mục đích trong sự tồn tại.

Sự tồn tại là điệu múa vô cùng.

Picasso thường xuyên bị làm phiền bởi mọi người vì tranh của ông ấy dường như vô chủ định, vô nghĩa. Có lần một người phê bình đã ở cùng ông ấy và ông ấy đang vẽ. Ông này theo dõi và theo dõi, và ông này nói với Picasso, "Sao ông làm phí thời gian của ông? Cái này chẳng là gì cả. Không có chủ định trong bức tranh của ông."

Ông ấy nói, "Điều này thực lạ. Ít nhất tôi đang vẽ. Và tại sao ông ngồi đằng sau tôi. Trong ba giờ ông làm phí thời gian của ông và ông đang bảo tôi rằng tôi làm phí thời gian của tôi. Tôi đang tận hưởng mênh mông. Không có nhu cầu cho bất kì chủ định nào. Chỉ vẽ, chỉ chơi với những mầu này là hay thế. Ai quan tâm về chủ định và nghĩa và mục đích?

"Tại sao ông không đi ra vườn và hỏi hoa hồng, 'Chủ định của sự hiện hữu của mày là gì? Tại sao mày nhảy múa mà không có chủ định? Tại sao mày có vẻ hạnh phúc thế và mỉm cười? Câm đi! Mày không có bất kì chủ định nào, và mày đang múa trong gió và dưới mặt trời. Ý tưởng lớn lao là gì? Tại sao mày lan toả hương thơm của mày?

"Tại sao ông không đi ra vườn? Và nếu hoa hồng không cần có chủ định nào, tại sao tranh của tôi phải có chủ định? Chúng có tính tồn tại." Và người này đã hoàn toàn đúng, chỉ ở chỗ sai.

Những người này như Picasso cần môi trường của Thiền, nhưng họ đã sống ở phương Tây nơi mọi thứ phải có chủ định, bằng không bạn là điên. Tại sao bạn làm nó? Họ không thể hiểu được rằng ngay việc làm nó có thể là từ niềm vui vô cùng. Chơi với mầu sắc là niềm vui vô cùng trong bản thân nó. Cố tìm ra nghĩa trong nó chỉ là việc lập trình của bạn: mọi thứ phải có nghĩa.

Tôi đã là sinh viên trong đại học, và tôi đã thắng mọi loại tranh cãi, các cuộc thi hùng biện, trên khắp nước. Tôi đã làm đầy văn phòng ông trưởng khoa của tôi bằng mọi loại thành tích và cúp - vàng và bạc. Và ông ấy bắt đầu bảo tôi, "Nếu anh liên tục thắng theo cách này, tôi nghĩ tôi sẽ phải chuyển văn phòng của tôi ra. Không chỗ nào còn lại."

Tôi nói, "Thầy không phải chuyển ra, em sẽ chuyển mọi thành tích và mọi cúp này đi."

Ông ấy nói, "Không, điều đó là khen ngợi cho khoa."

Tôi nói, "Thế thì thầy phải quyết định liệu thầy muốn ở trong văn phòng hay không." Và cuối cùng ông ấy đã phải chuyển ra khỏi văn phòng. Ông ấy đã tạo ra văn phòng nhỏ khác trên hành lang nơi ông ấy thường ngồi, vì toàn thể văn phòng của ông ấy đã trở thành chỗ trưng bầy cho bất kì khách nào.

Một hôm ông ấy đã hỏi tôi - vì trong đại học riêng của tôi đã có cuộc thi đại học quốc gia - "Tại sao em liên tục du hành không cần thiết qua những khoảng cách dài? Chủ định của em là gì?"

Tôi nói, "Em không có bất kì chủ định nào. Em thích điều đó - đó là cách chơi của em. Đó là cách em kể chuyện mà không có chủ định chút nào. Chỉ là vui vô cùng, tràn ngập cuộc sống. Em không đủ già để nghĩ về chủ định."

Ông ấy nói, "Cái gì?"

Tôi nói, "Vâng, em không đủ già, và em sẽ không bao giờ đủ già để nghĩ về chủ định và nghĩa. Em hân hoan trong bất kì cái gì em làm. Không có chủ định."

Bạn nghĩ việc nói với bạn có bất kì chủ định nào không? Tôi chỉ tận hưởng nó. Bạn tận hưởng việc nghe, tôi tận hưởng việc nói, nó là đầy đủ. Không có nhu cầu bên ngoài nó. Nếu cái gì đó xảy ra bên trong nó, điều đó không phải là trách nhiệm của tôi.

Nếu bạn trở nên chứng ngộ, đó là việc của bạn.

Cho nên cẩn thận!

Tôi chỉ tận hưởng việc nói, bạn đang tận hưởng việc nghe. Ở giữa hai điều này bất kì cái gì là có thể. Bạn có thể trở nên chứng ngộ, nhưng nhớ, đừng bao giờ kết án tôi vì chứng ngộ của bạn. Nó chỉ là vấn đề của bạn, không phải của tôi. Tôi có vấn đề của tôi - bạn không lo nghĩ về nó.

Cho nên tôi nói với ông trưởng khoa của tôi, "Không có chủ định. Em thích thú việc nói. Em yêu việc nói từ tim qua tim."

Và hôm đó cuộc thi đã được tổ chức... Thường có hai người từ từng đại học - một người phản đối chủ đề và một người ủng hộ chủ đề. Tôi là người phản đối chủ đề, nhưng đối tác của tôi bồn chồn thế... đó là lần đầu tiên anh lên sân khấu.

Người sinh viên thường tới cùng tôi đi khắp nước đã chết trong một tai nạn, cho nên tôi phải tìm một đối tác mới, và đó là lần đầu tiên của anh ta. Tôi đã cố gắng vất vả để chuẩn bị cho anh ta... nhắc lại bài nói của anh ta nhiều lần, nhưng cuối cùng khi thời gian tới anh ta biến mất.

Thế là thầy phó hiệu trưởng hỏi tôi phải làm sao? Tôi nói, "Em có thể xoay xở được. Đầu tiên em sẽ nói ủng hộ - vì đối tác của em bị thiếu, và em không muốn mất giải thưởng đó - và thế rồi em sẽ nói điều phản đối."

Ông ấy nói, "Trời! Em sẽ làm cả hai việc sao?"

Tôi nói, "Chỉ thử thôi. Đó sẽ là thích thú lớn."

Thế là tôi nói ủng hộ nó, và tôi nói phản đối nó, và tôi được cả hai giải thưởng, thứ nhất và thứ nhì.

Và khi tôi đi ra, thầy hiệu phó kéo tôi ra góc nhà và nói, "Đó đã là phép màu. Khi em nói ủng hộ nó, tôi đã nghĩ em sẽ làm gì? Em cho luận cứ lớn ủng hộ, tôi không nghĩ em sẽ có khả năng phản đối nó. Nhưng khi em bắt đầu phản đối, tôi nghĩ, Trời! - luận cứ của em rõ ràng thế. Cái gì đã xảy ra cho các luận cứ khác...?"

Ông ấy nói, "Nhưng tôi muốn đề nghị em một điều, đó là lí do tại sao tôi đã kéo em ra khỏi đám đông. Em có bất kì tin chắc nào của riêng em không?"

Tôi nói, "Em chỉ thích nói. Thầy đã nghe chỉ hai phía - có nhiều phía. Và nếu thầy muốn một ngày nào đó em có thể nói từ nhiều quan điểm. Chỉ có hai đối lập cực, nhưng có các lập trường ở giữa và có ít nhất bẩy lập trường cho từng chủ đề."

Ông ấy nói "Điều đó chắc làm thầy phát điên. Chỉ hai lập trường đã lái thầy ra khỏi tâm trí hoàn toàn. Thầy nghĩ thầy sẽ phải đi ngủ, vì thầy tự hỏi cái gì là đúng."

Tôi nói, "Đó là vấn đề của thầy. Em thích toàn thể trò chơi này, và em có cả hai giải thưởng. Và điều này là tốt hơn nhiều. Nếu thầy có thể thuyết phục được các thầy hiệu phó khác mà chỉ một người tới và ông ấy đại diện cho cả hai bên, điều đó sẽ dễ hơn nhiều cho em vì em sẽ không phải chuẩn bị người kia. Điều đó là tốt hơn và dễ hơn. Em không có bất kì niềm tin nào, em không có bất kì định kiến nào. Em hoàn toàn mở. Và bởi vì em yêu thích, nó là trò chơi."

Cuộc sống của bạn phải là chơi đùa, không là chủ định.

Cuộc sống của bạn phải là vui đùa, không hướng đích.

Nó phải không là kinh doanh, nó phải là yêu thuần khiết. Chủ định của yêu là gì? Nếu không có chủ định trong yêu, tại sao phải có chủ định trong thiền? Tại sao phải có bất kì chủ định nào trong tự nhiên và sự tồn tại?

Chủ định bao giờ cũng là mục đích ở đâu đó trong tương lai xa xôi mà bạn phải đạt được. Chủ định là thành tựu của mục đích xa, nó không bao giờ là ở đây bây giờ, và sự sống là ở đây bây giờ. Nó sẽ không đi bất kì đâu, nó không có chủ định nào.

Và bạn không hiểu ngụ ý của từ 'chủ định'. Nếu một khi chủ định được hoàn thành, sự sống sẽ là chết. Thế thì sẽ không có nhu cầu cho tồn tại - chủ định được hoàn thành, trò chơi được kết thúc. Vì nó là trò chơi tiếp diễn, vĩnh hằng tới vĩnh hằng, nó không thể đảm đương được việc có mục đích, nó không thể đảm đương việc có cái chết, nó không thể đảm đương được có chủ định.

Chừng nào bạn chưa hiểu cách sống một cách vô chủ định, bạn đã không hiểu nghĩa này, ý nghĩa của sự sống.

Sự sống có mọi thứ mà nó cần trong bản thân nó; nó là bản chất thực bên trong, không bên ngoài. Nó là việc mở ra ngày càng nhiều niềm vui hơn, ngày càng nhiều phúc lạc hơn, ngày càng nhiều cực lạc hơn. Nhưng việc mở ra là trong hiện tại. Khi bạn đi mỗi lúc một sâu hơn, và mỗi lúc một cao hơn, bạn trở thành mỗi lúc một chơi đùa hơn. Và là vui đùa sẽ lấy đi mọi nghiêm chỉnh.

Chủ định làm cho mọi người nghiêm chỉnh, và tôi coi nghiêm chỉnh là ốm của hồn. Tiếng cười là mạnh khoẻ, nhưng tiếng cười không có chủ định. Nó là đẹp thế trong bản thân nó, nó không cần có chủ định. Nó không phải là phương tiện cho bất kì mục đích nào. Nó là phương tiện và mục đích đồng thời cả hai.

Và cuối cùng bạn hỏi:

Sự đồng nhất của tôi với bản ngã có phải là giai đoạn cần thiết trong quá trình tự nhiên không?

Không, nó lại là hiện tượng được tạo ra bởi các tu sĩ, bởi các chính khách, bởi bố mẹ bạn.

Đứa trẻ được sinh ra không có bản ngã nào. Bạn đã bao giờ quan sát đứa trẻ nhỏ nói - nếu tên nó là Johnny - "Johnny cảm thấy khát"? Nó không bao giờ nói, "Tôi cảm thấy khát," tôi sẽ tới sau khi việc lập trình đã xảy ra. Lúc ban đầu đứa trẻ nói, "Johnny cảm thấy buồn ngủ."

Một nhà huyền bí Hindu, Ramateertha, không bao giờ nói "tôi" trong cả đời ông ấy. Ông ấy bao giờ cũng nói, "Rama mệt. Rama đói..."

Ông ấy đi sang Mĩ. Ở đây, những người bao quanh ông ấy, đã hiểu ông ấy, nhưng ở Mĩ điều dường như là một kiểu ngôn ngữ rất kì lạ mà ông ấy đã dùng. "Rama cảm thấy khát" - và mọi người sẽ nhìn quanh tự hỏi "Rama là ai?" Và họ hỏi ông ấy, "Sao ông không đơn giản nói rằng 'Tôi cảm thấy đói'?"

Ông ấy nói, "Cái tôi đó không thể nói được, vì không có 'tôi'. Cho nên tôi chỉ dùng cái tên này, cái là thứ giả, hình như giả, vì nó đã được trao cho. Nó là cái nhãn được dán lên tôi, nhưng không có 'tôi' trong tôi. Và không gian bên trong nhất của tôi không khát không đói. Nó là thân thể, và cái nhãn của thân thể là Ramateertha. Nó không phải là tên của tôi. Tôi là vô danh và vô hình tướng; tên và hình tướng thuộc về thân thể. Cho nên tôi không thể dùng từ 'tôi', vì không có thực tại tương ứng với nó bên trong tôi."

Và ông ấy là tuyệt đối đúng.

Bản ngã được tạo ra bởi tham vọng, bởi ham muốn, bởi tham. Mọi người đang bảo bạn: "Trở thành ai đó đặc biệt. Có quyền lực, danh tiếng, kính trọng, tiền bạc, mọi thứ thành vấn đề trong thế giới." Mọi thứ này dần dần, dần dần tạo ra ý tưởng về bản ngã, về tính cao siêu, về linh thiêng hơn ngươi, cao hơn ngươi. Bản ngã này tạo ra các thánh nhân của bạn, bản ngã này tạo ra cái gọi là tu sĩ, chính khách, tổng thống, thủ tướng. Đây toàn là phóng chiếu của bản ngã.

Nhưng bản ngã không có sự tồn tại tự nhiên. Nó là sản phẩm phụ của việc lập trình nào đó mà xã hội xoay xở để lừa bạn.

Một khi bạn thấy rằng bản ngã là giả, được trao cho bạn bởi người khác, toàn thể ngôi nhà của sự giả dối đơn giản biến mất, như bóng tối khi bạn mang ánh sáng vào.

Thiền sẽ mang ánh sáng từ chính trung tâm của bạn, lửa mát mẻ. Và khi bên trong của bạn trở nên chói sáng, bạn sẽ không tìm thấy bất kì bản ngã nào, bất kì cái tôi nào. Bạn sẽ đơn giản thấy toàn thể sự tồn tại đang rót vào trong bạn.

Bản ngã cũng là việc cầm tù.

Là vô ngã bạn lại ra khỏi lồng vàng.

Bố mẹ tôi thường nói với tôi, "Cách con đang trở thành, con sẽ kết thúc là không ai cả." Và ai đó khác sẽ nói, "Con sẽ kết thúc trong việc là tốt cho chẳng cái gì." Tôi đã kết thúc là không ai cả, tốt chẳng cho cái gì. Nhưng tôi đang tận hưởng việc tốt chẳng vì cái gì, cái không ai cả này nhiều tới mức từng khoảnh khắc đã trở thành huy hoàng, phép thần, phép màu.

Từ hư không này nảy sinh tự do của tôi, tính toàn thể của tôi. Từ hư không này tôi đã gặp sự tồn tại bằng tim thoải mái, được thảnh thơi, trong buông bỏ sâu sắc. Không có bản ngã, không có ai đó ngăn cản tôi. Tôi không có bất kì biên giới nào, không có bất kì giới hạn nào. Trong tính hư không này tôi đã đi tới chính cội nguồn của sự tồn tại.

Tôi muốn bạn cũng là tốt chẳng vì cái gì, là không ai cả. Và thế thì bạn sẽ thấy chân giá trị vô cùng - chẳng vì lí do gì, nhưng chỉ vì toàn thể sự tồn tại đang tuôn tràn, và khắp xung quanh bạn hoa đang nở, sao đang múa. Lần đầu tiên khi bạn là không ai cả, bạn cảm thấy nhịp tim của bạn và nhịp tim của vũ trụ là trong đồng bộ sâu sắc. Việc cảm đó là kinh nghiệm lớn lao nhất trong sự tồn tại, thiêng liêng nhất, có tính Thượng đế nhất.

Bây giờ là lời kinh:

Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,

Linh Mặc sau khi trở thành sư dưới Mã Tổ, đã tới Thạch Đầu và nói, "Nếu ông giải được điều này bằng một từ, tôi sẽ ở lại đây. Nếu không, tôi sẽ đi."

Yêu cầu của anh ta chắc chắn chỉ ra anh ta đang tới từ Mã Tổ.

Mã Tổ là một thầy kì lạ nhất đã từng xảy ra. Anh ta phải đã nghe phát biểu này từ Mã Tổ, hay trong bầu không khí của Mã Tổ nơi đã có nhiều người trở nên bắt lửa, đi về nhà thực của họ.

Anh ta đang hỏi Thạch Đầu, "Nếu ông giải được điều này" - nhớ từ "này." Toàn thể nhấn mạnh là vào "này" - "Nếu ông giải được điều này bằng một lời..." Anh ta đang nói, "Bằng một lời nếu ông có thể nói cái này là gì, tôi sẽ ở lại đây. Nếu không, tôi sẽ đi."

Thạch Đầu, biết rằng người này có hứa hẹn - chính câu hỏi của anh ta đã chỉ ra khao khát mãnh liệt để hiểu cái này. Nhưng anh ta không muốn đi vào chi tiết, anh ta không muốn bất kì bình luận không cần thiết nào. Anh ta đơn giản muốn một lời: "Giải được nó và tôi sẽ ở lại đây; bằng không tôi sẽ đi."

Một người đủ dữ dội, đủ can đảm, đủ bạo dạn, thách thức một người như Thạch Đầu.

Thạch Đầu, biết rằng người này có hứa hẹn - ông ấy có thể thấy hứa hẹn từ mắt người này, trong chính khí sắc của người này, trong chính cách tiếp cận của người này - đã ra dấu một cử chỉ, một cử chỉ im lặng. Ngay cả một lời là quá nhiều. Đó là nhấn mạnh của Thạch Đầu, "Tại sao ông hỏi thậm chí một lời? Lời này dẫn tới lời khác, và thế thì toàn thể thượng đế học và toàn thể triết lí, và toàn thể tôn giáo liên tục phát triển. Lời và lời... và ông quên mọi thứ về cái này.

"Cho nên ta thậm chí sẽ không dùng lấy một lời - điều đó là quá nhiều. Ông đã đi rồi, ông đã đi qua điều này. Ông đã đi vào trong ngôn ngữ từ sự tồn tại. Và đó là khoảng cách lớn nhất trên thế giới: kinh nghiệm về cái này, và làm ra phát biểu về cái này. Đó là khoảnh cách lớn nhất có thể. Ngay cả sao cũng không xa xôi thế. Chúng có thể xa hàng triệu năm ánh sáng - điều đó không thành vấn đề. Khoảng cách giữa cái này và phát biểu về cái này là khoảng cách lớn nhất giữa hai điểm."

Thạch Đầu đã tránh ngay cả một lời.

Bao giờ cũng nhớ, thứ này dẫn tới thứ khác và tới thứ khác, và thế thì không có kết thúc. Bạn bị lạc trong rừng lời. Cho nên ông ấy thậm chí sẽ không nói một lời, ông ấy đơn giản ra dấu một cử chỉ. Và cử chỉ của ông ấy là sâu sắc mênh mông, nhưng nó hoàn toàn im lặng.

Linh Mặc đã không nhận thấy điều đó. Anh ta muốn một lời. Anh ta đã tìm lời, đó là lí do tại sao anh ta bỏ lỡ cử chỉ này. Bất kì khi nào bạn đang tìm cái gì đó, bạn sẽ bỏ lỡ chân lí. Đừng tìm cái gì đó! Chỉ đi với tay trống rỗng, không có bất kì phóng chiếu nào, không có bất kì định kiến nào, không có bất kì niềm tin nào. Có lẽ anh ta đã tới từ Mã Tổ khi nghe lời này, và anh ta đã muốn Thạch Đầu nói cái gì đó lớn lao hơn, trong một lời, được cô đọng. Nhưng một lời hay nghìn lời... điều đó không tạo ra khác biệt gì.

Thạch Đầu hoàn toàn chân thực, tuyệt đối thật thà. Không thốt ra một lời, ông ấy đơn giản ra dấu một cử chỉ. Và trong cử chỉ của ông ấy đã có cái này. Trong cử chỉ của ông ấy đã là cái như vậy. Trong cử chỉ của ông ấy đã là toàn thể sự tồn tại. Trong sự hiện diện của ông ấy và cử chỉ này, mọi thứ được hàm chứa; không cái gì bị bỏ ra. Không cái gì được nói, nhưng mọi thứ được chỉ dẫn - một dấu hiệu lờ mờ, chân lí trần trụi không quần áo.

Mọi lời là quần áo. Càng nhiều lời, càng nhiều quần áo. Cuối cùng, bạn có hết tầng nọ tới tầng kia của ngôn ngữ, và chân lí bị mất trong rừng rậm.

Nhưng Linh Mặc đã bỏ lỡ điều đó vì anh ta đã chờ đợi một lời. Hội tụ của anh ta đã là vào lời, bằng không anh ta chắc đã không bỏ lỡ nó. Anh ta đã tỉnh táo và chờ đợi lời, và lời đã không tới. Vì tâm trí hạn hẹp của anh ta dựa trên lời, anh ta đã bỏ lỡ cái bao la của cái này mà Thạch Đầu đã chỉ dẫn bằng cử chỉ.

Đừng bao giờ tìm bất kì cái gì. Cái đang hiện hữu sẽ tuyên bố bản thân nó cho bạn, bạn đơn giản im lặng và đợi. Vâng, việc đợi là cách tiếp cận đúng tới chân lí.

Đợi, là nhân chứng, kiên nhẫn.

Giữ cửa của bạn mở cho khách, vì người ta không bao giờ biết khi nào khách tới và gõ cửa nhà bạn.

Bạn có nhớ bài thơ nhỏ của Rabindranath Tagore, "Dạ Đế"?

Đã có một ngôi đền cổ đại, rất cổ đại. Ngôi đền thật bao la. Nó có hàng nghìn tượng và một nghìn sư. Tu sĩ cấp cao nhất một đêm mơ thấy rằng Thượng đế đã nói với ông ấy, "Ngày mai lúc nào đó ta tới thăm đền. Dọn sạch sẽ nó, chuẩn bị nó đi. Ta tới thăm đền của ông lần đầu tiên. Ông đã đợi lâu rồi, bây giờ thời điểm đã tới."

Ông ấy tỉnh dậy lúc nửa đêm. Ông ấy gọi mọi tu sĩ từ phòng ngủ của họ. Họ ngạc nhiên: "Có chuyện gì vậy?" - vì điều đó chưa bao giờ xảy ra trước đây.

Tu sĩ cao nhất nói với họ, "Tôi có giấc mơ. Mặc dầu đó là mơ, ai biết được? Nó có thể là đúng, nó có thể chỉ là chỉ dẫn rằng ngài sắp tới."

Họ cười, họ khúc khích. Họ nói, "Ông già rồi, ông bắt đầu lão suy. Mơ là mơ, và ông quấy rối giấc ngủ của chúng tôi."

Tu sĩ cao nhất nói, "Tôi lấy làm tiếc, nhưng tôi phải nói cho các ông đừng ứng xử liều lĩnh. Không có gì sai trong lau dọn đền và chuẩn bị thức ăn phong phú nhất, phòng tốt nhất cho ngài nghỉ. Dẫu sao đi chăng nữa điều này sẽ cho đền việc dọn dẹp nhà cửa mùa xuân tốt. Nó đã không được lau dọn hàng trăm năm rồi, cho nên đây là dịp tốt. Nếu ngài tới, tốt; nếu ngài không tới, chẳng có hại gì."

Họ có thể thấy lí lẽ này.

Và ông ấy nói, "Nếu chúng ta không làm bất kì cái gì và ngài quay lưng đi, thế thì đừng trách ta. Ta sẽ không chịu trách nhiệm. Ta đã bảo các ông."

Tất cả họ cảm thấy rằng có phần chân lí nào đó, luận cứ, rất thuyết phục trong nó. Cho nên họ dọn sạch toàn thể ngôi đền ngày hôm say. Nó đã là ngôi đền bao la. Dọn sạch nó - và nó đã không được dọn sạch từ hàng trăm năm - đã là việc khổng lồ. Họ đã gọi nhiều người khác - một nghìn tu sĩ và hàng trăm người khác từ các làng lân cận, người thường tới thờ phụng. Thế là họ tới, và tất cả các tượng đều được lau sạch - hương thơm, hoa, vòng hoa, bánh kẹo và đồ ăn ngon được chuẩn bị. Lần đầu tiên Thượng đế đã tới. Nhưng tất cả họ đều biết sâu bên dưới, "Đấy chỉ là mơ, và chúng ta bị làm phiền không cần thiết, nhưng phải làm gì?"

Và họ đợi và họ đợi và họ đợi. Lúc đó mặt trời đã lặn và ngài vẫn chưa hiện ra. Và họ trở nên giận vì các tu sĩ không thể ăn chừng nào Thượng đế còn chưa ăn thức ăn. Mọi ngày họ đã cúng dường thức ăn cho các tượng, và tượng không ăn - đó là điều tốt về các tượng. Cho nên họ sẽ cúng dường thức ăn, và họ sẽ lấy lại thức ăn này. Bây giờ nó đã trở thành linh thiêng, Thượng đế đã cho nó như món quà. Nó đã trở thành prasad, nó đã trở thành linh thiêng, thiêng liêng. Thế rồi họ sẽ ăn nó.

Nhưng hôm nay là khác. Đích thân Thượng đế tới, và nếu ngài thấy họ ăn trước khi ngài tới, sẽ có rắc rối. Nhưng đến tối họ trở nên rất giận với tu sĩ cao nhất. Họ nói, "Mơ của ông đã quấy rối cả đêm của chúng tôi, đã quấy rối cả ngày của chúng tôi. Chúng tôi đã lao động cả ngày và chúng tôi đói, và chúng tôi không thể ăn, chúng tôi không thể uống. Và bây giờ mặt trời lặn rồi, ngày hết rồi. Cho nên tốt hơn cả là chúng ta cúng dường thức ăn cho các tượng, nhận lại nó, ăn nó và đi ngủ."

Tu sĩ cao nhất không thể nói được gì thêm. Ông ấy cũng cảm thấy, "Họ là đúng." Nhưng sâu bên dưới giấc mơ của ông ấy vẫn sống động và mầu sắc tới mức chỉ với sự ngần ngại ông ấy đã cho phép họ.

Nhưng ông ấy có thể thấy luận cứ của họ: "Chúng ta phải đợi bao lâu? Ngày qua rồi, chúng ta đợi đủ rồi."

Thế là họ ăn. Họ mệt, cho nên họ đi ngủ sớm...

Và đến nửa đêm một chiếc xe của Thượng đế tới, gây ra tiếng ồn lớn... bánh xe lăn trên đường bụi. Ai đó nghe thấy tiếng ồn và nửa ngủ nửa thức người đó nói, "Nhìn kìa! Dường như ngài đã tới. Tôi đã nghe thấy tiếng bánh xe."

Ai đó kêu lên, "Câm đi! Bây giờ đừng mang chủ để đó lại nữa. Ông muốn quấy rồi giấc ngủ của chúng tôi nữa sao? Nó không phải là xe đâu! Đó chỉ là mây mang sấm trên trời! Đi ngủ đi!"

Và thế rồi chiếc xe dừng lại trước đền, nhưng cửa bị khoá. Dầu vậy, ngài đã đi lên các bậc - có nhiều bậc lên tới đền.

Có những đền ở Ấn Độ với một trăm bậc, hai trăm bậc, ba trăm bậc... thế rồi bạn tìm thấy cửa chính.

Dạ Đế gõ lên cửa. và lần nữa, tu sĩ khác nghe thấy tiếng gõ cửa. Ông ấy nói, "Nghe này, ai đó đang gõ cửa. Có lẽ ngài đã tới."

Lần nữa ai đó kêu lên, "Ông không dừng lại sao? Ông không thể cho phép chúng tôi nghỉ sao? Không có người nào gõ cửa cả! Đấy chỉ là gió thôi!" Cho nên họ lại đi vào giấc ngủ.

Dạ Đế đợi ngoài cửa. Không có dấu hiệu của bất kì người nào ra mở cửa, cho nên ông ấy quay về xe.

Đến sáng, họ thấy rằng chiếc xe đã đi tới cửa trên con đường bụi cát. Họ có thể thấy các dấu hiệu của bánh xe, và họ có thể thấy bụi đã tụ lại trên các bước chân, rằng ai đó đã bước tới cửa. Nhưng bây giờ quá trễ rồi - không cái gì có thể được làm. Họ đã bỏ lỡ nó.

Đây là bài thơ nhỏ của Rabindranath Tagore, nhấn mạnh vào một điểm: đợi. Nó không bao giờ đủ. Đợi một cách có ý thức, tỉnh táo, chứng kiến bất kì cái gì đang xảy ra nhưng không đòi hỏi giả thuyết nào đó được hoàn thành, vì tâm trí có năng lực tạo ra bất kì ảo giác nào bạn đòi hỏi. Bạn có thể thấy Christ, bạn có thể thấy Krishna, bạn có thể thấy bất kì người nào bạn muốn thấy.

Tâm trí có năng lực mơ, và nó có năng lực để mơ với mắt mở - điều đó được gọi là ảo giác. Nếu bạn liên tục đòi hỏi cái gì đó, nó sẽ xuất hiện dường như nó là thực. Tâm trí có thể cho thực tại cho mọi loại dối trá.

Cho nên bạn phải gạt sang bên mọi định kiến của bạn, mọi quan niệm của bạn, mọi phóng chiếu của bạn... mọi Thượng đế. Bạn phải đi vào trong con người riêng của bạn chỉ bằng quan sát, chờ đợi, tin cậy sự tồn tại rằng bất kì khi nào thời gian chín muồi và mùa xuân của bạn tới, cỏ sẽ tự nó mọc lên.

Mọi cây tin cậy vào sự tồn tại - xuân tới, hoa nở, quả tới. Tại sao bạn không thể đợi tới thời điểm đúng? Tại sao bạn phải làm các yêu cầu với tự nhiên? Tâm trí đòi hỏi không phải là tâm trí của người tìm kiếm. Người tìm kiếm đơn giản đợi và cho phép sự tồn tại vào thời điểm riêng của nó, theo trí huệ riêng của nó. Bất kì khi nào bạn chín, bất kì khi nào bạn thực sự sẵn sàng, cửa sẽ mở cho bạn. Bạn không phải gõ.

Jesus nói với bạn, "Gõ và cửa sẽ được mở." Tôi nói với bạn, "Không gõ, đợi! Khi thời gian chín, cửa sẽ được mở cho bạn." Việc gõ là việc đòi hỏi, việc gõ là việc can thiệp. Việc gõ không phải là tin cậy. Việc gõ là ép buộc sự tồn tại xuất hiện theo cách nào đó tương ứng với giả thiết của bạn, tương ứng với hệ thống niềm tin của bạn. Không, không gõ! Chỉ đợi và quan sát.

Jesus nói, "Hỏi, và nó sẽ được trả lời." Không, đừng bao giờ hỏi, bằng không nó sẽ không bao giờ được trả lời. Chỉ đợi. Vào khoảnh khắc đúng bạn sẽ thấy câu trả lời.

Jesus nói, "Tìm, và ông sẽ thấy nó." Tôi nói với bạn, "Không tìm, bằng không bạn sẽ không bao giờ thấy nó," vì việc tìm nghĩa là bạn đã biết điều bạn đang tìm. Tìm nghĩa là bạn đã tin vào một giả thuyết nào đó. Tìm nghĩa là bạn đã có một ý tưởng về chân lí. Điều này là nguy hiểm. Không tìm, chỉ đợi... trong im lặng hoàn toàn, trong tin cậy vô cùng. Và khi im lặng của bạn sâu sắc, bạn sẽ thấy mọi sự đang xảy ra theo cách riêng của nó. Và khi mọi sự bắt đầu xảy ra theo cách riêng của nó, tin cậy của bạn sâu sắc lên. Điều này là gần như tự phát.

Chỉ đợi, và Linh Mặc chắc đã hiểu cử chỉ của Thạch Đầu. Nhưng anh ta đã hỏi, đòi hỏi. Nhìn vào câu hỏi của anh ta: "Nếu ông giải được điều này bằng một từ, tôi sẽ ở lại đây." Dường như Thạch Đầu cần việc ở lại đó của anh ta. Anh ta đang làm mặc cả: "Tôi sẽ ở lại đây nếu thầy giải thích điều này trong một lời" - bây giờ đây là tâm trí đòi hỏi. "Nếu không, tôi sẽ đi." Anh ta đang doạ ai? Nhưng vì điều này anh ta đầy chuyện phiếm và bỏ lỡ.

Nhưng cho dù anh ta đã bỏ lỡ, Thạch Đầu biết rằng bên ngoài chuyện phiếm này có ai đó rất có triển vọng, một bồ tát. Một khi điều vô nghĩa này bị bỏ đi, bồ tát đó sẽ nổi lên bề mặt như vị phật, như hồn đã thức tỉnh.

Thạch Đầu, biết rằng người này có hứa hẹn, đã ra dấu một cử chỉ, nhưng Linh Mặc không hiểu nó. Thế là Linh Mặc xin phép ra đi và mở cửa thì Thạch Đầu gọi ông ta, "Thầy giáo!"

Bạn phải hiểu khác biệt giữa thầy và thầy giáo. Thầy là người biết, thầy giáo là người không biết nhưng là am tường. Anh ta đã thu thập nhiều thông tin, nhưng anh ta đã không trải qua biến đổi. Cho nên khi Thạch Đầu gọi anh ta, Thạch Đầu dùng từ 'thầy giáo', chứ không 'thầy'.

Anh ta đầy tri thức; câu hỏi của anh ta chỉ ra điều đó. Anh ta đã nghe nhiều, đọc nhiều. Anh ta là học sĩ, người am tường, thông thái; do đó Thạch Đầu gọi anh ta là thầy giáo.

Linh Mặc quay lại, và Thạch Đầu nói, "Từ sinh tới tuổi già, chỉ một anh chàng có đó và không cái gì khác - đừng nhìn bất kì chỗ nào thêm nữa."

Ông ấy đang nói gì? Ông ấy nói, "Ông đang yêu cầu cái gì? Nó đã có đó bên trong ông từ sinh tới tử, từ vĩnh hằng tới vĩnh hằng. Và chỉ bằng việc quay lại, ông có bản thân ông được cho câu trả lời. Cứ nhìn đó, không đi bất kì đâu khác, quay lại đi. Quay vào bên trong - đó là việc quay lại hoàn toàn. Không đi xa nữa, chỉ quay vào trong, quay lại, và ông sẽ thấy cái này - cái như vậy của sự tồn tại, tathata. Nó bao giờ cũng đã ở đó.

Việc xoay ngược lại này... "Từ sinh tới tuổi già, chỉ một anh chàng có đó..." Ai đã xoay? Ai đã nghe lời 'thầy giáo'? Và ai đã đi theo lời và xoay ngược lại? Đây là nó! Anh chàng bên trong ông..."anh chàng có đó và không cái gì khác - đừng nhìn bất kì chỗ nào thêm nữa."

Với điều này, Linh Mặc được đại ngộ. Anh ta dẫm gẫy gậy và ở lại đó.

Mọi người đi lên núi cầm theo chiếc gậy làm cái hỗ trợ... núi dốc. Cho nên ông ta đã tới với chiếc gậy để lên núi nơi Thạch Đầu đã ngồi trên tảng đá.

Bạn biết rằng Mã Tổ đã nói cho người khác, người sắp đi tới Thạch Đầu, "Ông sắp đi. Điều đó là hoàn toàn tốt, nhưng ông có nhớ con đường tới Thạch Đầu là rất trơn không?" Ông ấy ngồi trên tảng đá và con đường là rất trơn, cho nên bất kì ai phải đi tới đó đều phải mang theo chiếc gậy cùng mình.

Hành động này của Linh Mặc, dẫm gẫy gậy, chỉ ra rằng bây giờ anh ta đã tìm thấy thầy của mình và không có nhu cầu đi bất kì đâu. Anh ta đã không đi xuống núi dốc đó lần nữa. Được kết thúc! Anh ta đã nghe thấy nó, anh ta đã tìm thấy nó. Cử chỉ này về phần anh ta chỉ ra rằng bây giờ anh ta sẽ ở lại mãi mãi. Mọi chiếc cầu đã bị gẫy. Với chiếc gậy đó bị gẫy, mọi chiếc cầu dẫn lui về quá khứ đã bị kết thúc. Anh ta đã tìm thầy người này, anh ta đã rơi vào yêu. Anh ta biết: "Ông chính là thầy."

Anh ta đã trở nên được chứng ngộ lớn bởi hành động đơn giản này của Thạch Đầu gọi anh ta - "Thầy giáo!" - và việc xoay lại của anh ta và Thạch Đầu nói với anh ta: "Anh chàng này bao giờ và bao giờ cũng có đó. Đừng đi thêm nữa."

Một phát biểu rất mênh mông, nhưng nó cần một tâm trí rất tỉnh táo. Thứ nhất, anh ta đã hỏi câu hỏi này, anh ta đã đầy câu hỏi của mình và muốn một lời. Đã có việc muốn, ham muốn, và đủ mọi thứ. Bây giờ, khi anh ta định đi ra khỏi am - anh ta đã bỏ ý tưởng tìm ra bất kì cái gì từ Thạch Đầu - đột nhiên Anh ta nghe thấy, "Thầy giáo!" Và anh ta quay lại. Anh ta phải đã trống rỗng hoàn toàn vì không có câu hỏi. Anh ta đã không hỏi bất kì cái gì. Trong im lặng đó Anh ta nghe thấy điều hoàn hảo đó, câu nói sâu sắc đó: "Anh chàng này người đã xoay ngược lại, bao giờ và bao giờ cũng ở đó."

Riêng một phát biểu từ thầy đôi khi làm lẩy cò một phản ứng dây chuyền và đưa con người im lặng vào trong chứng ngộ. Đây là một trong những món quà quan trọng nhất từ Thiền cho nhân loại.

Một lần, Thạch Đầu nói với hội chúng các sư, "Cho dù ngôn ngữ được dùng, nó là không liên quan."

Mọi ngôn ngữ là không liên quan khi có liên quan tới chân lí.

Nghe thấy điều này, một thầy khác, Dược Sơn đã nói, "Cho dù ngôn ngữ không được dùng, nó là không liên quan."

Ngôn ngữ chắc chắn là không liên quan. Bạn có thể không dùng ngôn ngữ, bạn có thể giữ mồm bạn khép, nhưng ngôn ngữ đang chạy loanh quanh trong đầu bạn. Cho nên chỉ không dùng ngôn ngữ là không đủ - điều đó nữa là không liên quan. Ngôn ngữ hay không ngôn ngữ, cả hai là không liên quan.

Thạch Đầu nói, "Ở đây, ngay cả chiếc kim không thể chui qua.." Ông ấy đang nói, "Ở đây, ngay cả chiếc kim không thể chui qua - khi có liên quan tới chân lí, con đường này hẹp thế, chỉ việc chứng kiến, việc chứng kiến im lặng có thể đi qua. Nó là tinh tế hơn nhiều so với ngay cả chiếc kim. Ngay cả chiếc kim là quá cứng, quá hữu hình, quá vật chất, nó không thể đi vào trong không gian phi vật chất của con người bạn."

Dược Sơn nói, "Ở đây, nó như trồng hoa trên đá."

Cả hai thầy đang tận hưởng kéo chân nhau. Điều đó có thể xảy ra chỉ trong thế giới của Thiền; bằng không, Ayatollah Khomeini...! Những loại đối thoại chơi đùa này giữa các thầy là hay vô cùng.

Điều Thạch Đầu đã nói là tuyệt đối đúng, và điều Dược Sơn đã nói cũng tuyệt đối đúng - những cách diễn đạt khác nhau.

"Ở đây, nó như trồng hoa trên đá."

Bạn không thể trồng hoa trên đá được. Đặt ngôn ngữ vào việc phục vụ chân lí cũng giống như trồng hoa trên đá nơi nó không thể mọc được. Nó sẽ đơn giản chết. Khoảnh khắc bạn mang chân lí tới ngôn ngữ, nó chết trên đường.

Nhưng chỉ không dùng ngôn ngữ cũng là không đủ. Bạn phải dùng im lặng. Không dùng ngôn ngữ là phủ định; dùng ngôn ngữ là phía khẳng định - nhưng cả hai thuộc vào ngôn ngữ. Việc nói là khẳng định; việc không nói là phủ định - nhưng cả hai là không liên quan. Bạn phải chỉ ra mà không dùng ngôn ngữ, hay không có việc không dùng ngôn ngữ. Bạn phải tạo ra phương cách, cử chỉ - có thể chỉ nhìn vào trong mắt của đệ tử, hay như Thạch Đầu gọi anh ta, "Thầy giáo!" và anh ta xoay ngược lại hoàn toàn trống rỗng. Ông ấy gọi anh ta vào khoảnh khắc đúng.

Khi anh ta lần đầu tiên tới anh ta đã quá đầy tri thức. Bây giờ anh ta đã bỏ ý tưởng ở cùng Thạch Đầu, cho nên anh ta bị bắt bất thần. Và khi bạn bị bắt bất thần, tâm trí bạn không thể vận hành. Tâm trí cần thời gian trước khi nó có thể hình dung ra vấn đề là gì. Chỉ một không gian nhỏ của vô trí và vô thời gian, và đột nhiên anh ta nhận ra Thạch Đầu đang nói, "Anh chàng này người đã xoay ngược lại, anh chàng này là câu trả lời. Và việc xoay ngược lại này là đủ. Không đi thêm nữa!"

Thạch Đầu ra dấu chấp thuận điều Dược Sơn đã nói.

Ông ấy đã không nói bất kì cái gì, nhưng chỉ ra dấu việc chấp thuận của ông ấy. Chúng ta không biết ông ấy đã ra dấu thế nào. Có thể ông ấy chỉ cầm tay của Dược Sơn trong tay ông ấy và bóp nó, hay chỉ nhìn vào trong mắt Dược Sơn và bầy tỏ tình yêu của ông ấy, hay chỉ vẫn còn im lặng và nhắm mắt lại, toả ra rung động của người biết tới hư không của mình.

Cách ông ấy ra dấu đã không được nói, nhưng có cả triệu cách - tương ứng với từng cách, thầy dùng cách nào đó để ra dấu. Nhưng ông ấy đã chấp thuận điều Dược Sơn đã nói. Cả hai đã nói những phát biểu rất có ý nghĩa.

Thiền không là biện luận, đó là điều Martin Buber chắc đã yêu mến, nó là đối thoại, đối thoại trong đó hai người không áp đặt ý tưởng của họ lên người kia, nơi hai người cùng nhau đang cố tìm ra cái gì đó có tính tồn tại. Đó không phải là vấn đề đánh bại người kia hay là thắng lợi. Đối thoại thực là khi hai người đang thảo luận chỉ để tìm ra chân lí. Và chân lí không là độc quyền của ai - không ai là người thắng, không ai bị đánh bại. Chân lí là thắng lợi, và cả hai được buông xuôi theo chân lí. Bạn phải nhớ trong mọi đối thoại này phẩm chất khác biệt này.

Đối thoại kiểu Socrates là biện luận, chúng là logic. Đối thoại Thiền là tuyệt đối bên ngoài logic, bên ngoài tâm trí. Chúng là rất huyền bí, nhưng sâu sắc hơn nhiều so với bất kì đối thoại kiểu Socrates nào. Ngay cả việc hiểu về đối thoại của Martin Buber vẫn không là hiểu biết tối thượng, vì ông ấy tiếp tục đối thoại bằng hai lời này: Ta và Ông. Nhưng trong đối thoại Thiền không có Ta, không có Ông.

Hai Thiền sư, cả hai là trống rỗng, và chơi như trẻ con chơi trên bãi biển - chạy quanh, tìm đá mầu và vỏ sò... Hai Thiền sư là giống như trẻ con - hò reo, la hét, cười ngặt nghẽo, chẳng vì lí do nào cả.

Bạn biết cái cười ngặt nghẽo của Avirbhava... Đó là cái cười ngặt nghẽo của Thiền - chẳng vì lí do nào cả. Vì tôi chẳng làm bất kì cái gì cho cô ấy...! Nhưng tôi thiếu cô ấy khi cô ấy không ở đây tại cửa. Cô ấy gần giống như việc tuyên bố của cái cồng: "Thầy đã tới!" Khi cô ấy không có đó, tôi thiếu cô ấy. Việc cười ngặt nghẽo của cô ấy cũng giống như đứa trẻ nhỏ, hồn nhiên thế, không có bất kì chủ định nào. Nhưng cô ấy là toàn bộ khi cô ấy cười ngặt nghẽo, nó không từ tâm trí của cô ấy, nó tới từ không gian sâu hơn. Cho nên ngay cả đôi khi tôi vào phòng, cô ấy liên tục cười ngặt nghẽo. Xe của tôi đi rồi và thế thì cô ấy ngã lên sàn với niềm vui mênh mông.

Đối thoại của Thiền có khác biệt với đối thoại kiểu Socrates, hay với ý tưởng của Martin Buber về đối thoại.

Martin Buber không thể bỏ được ý tưởng về Ta và Ông; do đó ông ấy vẫn còn trong tâm trí, đã không thể đi vào cõi bên kia. Và bầu trời Thiền là của cõi bên kia.

Boncho đã viết:

Sơn ca hót.

Bông tuyết mảnh.

Bạn có thấy bất kì kết nối nào không? Bạn có thấy logic nào không?

"Sơn ca hót" - đó là một điều.

"Bông tuyết mảnh" - đó là cái khác hoàn toàn.

Nhưng trong tâm trí thiền không cái gì tách rời. Mọi thứ được nối với nhau. Sơn ca hót và bông tuyết mảnh - cả hai là một phần của một kinh nghiệm, chúng không thể bị tách rời. Chỉ tâm trí tách rời chúng: cái này là thứ này; cái kia là thứ khác. Và làm sao bạn đặt chúng cùng nhau? Nhưng chúng là cùng nhau, và không phải chỉ là hai điều này. Thế rồi tre kêu ken két, và gió thổi qua rặng thông, và mây tới với sét lớn - mọi thứ được kết nối.

Trong hai câu nhỏ này ông ấy đã nói rằng mọi thứ là được kết nối với nhau tới mức người ta không thể tạo ra tách rời.

Sơn ca hót.

Bông tuyết mảnh.

Tôi đã nghe nói rằng các nhà khoa học nói rằng nếu - và một ngày nào đó nó sẽ xảy ra - mặt trời mất mọi năng lượng của nó... Nó đang mất mọi khoảnh khắc; nó đang đốt cháy hết. Một ngày nào đó nó sẽ đơn giản là hố đen, không ánh sáng nào sẽ tới trái đất. Phải mất mười phút cho ánh sáng tới bạn, cho nên nếu mặt trời chết... và nó nhất định chết. Mọi thứ được sinh ra cần một ngày nào đó để nghỉ ngơi. Mọi thứ phát mệt mỏi, mọi người phát mệt mỏi. Ngay cả mặt trời sẽ chết, và mặt trời mới được sinh ra.

Sẽ mất bốn tỉ năm, họ nói vậy, để chết. Nhưng trong vĩnh hằng, bốn tỉ năm chỉ giống như bốn giây, hay có thể thậm chí không được chừng nấy. Nhưng họ nói nếu mặt trời chết, thế thì chỉ trong mười phút bạn sẽ vẫn nhận được ánh sáng. Cho nên chỉ trong mười phút thôi, sự sống sẽ tồn tại sau khi mặt trời chết. Và thế rồi sẽ không có sự sống mà không có mặt trời, không hơi ấm, không sự sống.

Nhưng họ đã không nhìn vào điều đó từ phía kia, vì họ không biết rằng có phía kia nữa. Điều đúng là mặt trời cho chúng ta sự sống, nhưng đó là một phía. Nếu trên trái đất sự sống biến mất, tôi nói với bạn mặt trời sẽ chết ngay lập tức. Thậm chí không cần đến mười phút, vì sự sống là việc trao đổi liên tục, nó là đối thoại.

Nếu chúng ta cần mặt trời, mặt trời cần chúng ta! Không có chúng ta bạn có nghĩ mặt trời sẽ có việc mọc lên không?

Tôi tuyệt đối chắc chắn rằng không có sự sống trên trái đất, mặt trời sẽ không mọc lần nữa. Cho ai? Vì cái gì? Không hoa, không chim sơn ca, không người, không chim. Trên trái đất chết ngay cả mặt trời sẽ xấu hổ mà mọc lên vì mọi thứ là được kết nối sâu sắc thế - từ nhành cỏ nhỏ nhất tới mặt trời lớn nhất trên trời.

Mặt trời của chúng ta là mặt trời rất bình thường, nó là lớp trung. Có những mặt trời lớn hơn nó nhiều, nhưng ngay cả nhành cỏ nhỏ nhất trên trái đất là được kết nối với ngôi sao xa nhất. Chúng toàn là anh chị em họ, một phần của cùng sự tồn tại.

Nhưng Martin Buber đã không thể hiểu được rằng giữa Ta và Ông có thể có thảo luận nhưng không có đối thoại. Đối thoại không cần Ta, không cần Ông.

Khi tôi đọc cuốn sách của ông ấy, Ta và Ông, tôi đã lập tức viết một bức thư cho ông ấy - ông ấy vẫn còn sống - đề nghị ông ấy vui lòng cố hiểu, "Không Ta, Không Ông." Và tôi đã nói, "Điều đó là tuyệt đối cần thiết cho đối thoại. Điều ông đang nói tới không phải là đối thoại, nó chỉ là thảo luận."

Tôi đã nhận được bức thư ngắn từ ông ấy nói, "Tôi sẽ suy nghĩ về nó." Tôi đáp lại ngay, "Suy nghĩ sẽ không giải quyết được nó. Suy nghĩ là rào chắn. Chính suy nghĩ làm cho ông đề nghị rằng có đối thoại giữa Ta và Ông. Tôi đang nói từ trạng thái của vô suy nghĩ. Không Ta, không Ông, thế thì có đối thoại, và đối thoại rất chơi đùa."

Ông ấy đã không trả lời lần nữa, khi thấy tình huống này rằng bất kì cái gì ông ấy sẽ nói sẽ là một phần của suy nghĩ. Ông ấy đã là nhà tư tưởng lớn, không hoài nghi gì, nhưng ngay cả nhà tư tưởng lớn nhất cũng chẳng có gì để nói về chân lí. Chỉ không gian, cái ở bên ngoài ý nghĩ, đem bạn lại gần sự sống và sự tồn tại hơn. Và khi hai người được lắng đọng và thoải mái với sự tồn tại, không có Ta, không có Ông, chỉ việc chơi đùa. Chơi đùa đó có thể được gọi là đối thoại. Duy nhất Thiền sư biết đối thoại là gì.

Câu hỏi của Maneesha:

Thưa thầy kính yêu của chúng tôi,

Hubert Benoit gợi ý rằng ngay cả những người đã tiến hoá đủ về mặt trí tuệ đã không tin vào Thượng đế nhân tính, vẫn giữ lại quan niệm này, mặc đầu dưới dạng khác.

Ông ấy nói, "Họ tưởng tượng satori của họ và bản thân họ sau satori, và đó là Thượng đế nhân tính của họ - một thần tượng ép buộc, băn khoăn, không nguôi. Họ phải nhận ra bản thân họ, họ phải giải thoát bản thân họ. Họ bị kinh hãi với ý nghĩ về không có khả năng tới đó, và họ phấn chấn bởi bất kì hiện tượng bên trong nào cho họ hi vọng.

Thưa thầy kính yêu, thầy có đồng ý rằng có nguy hiểm về điều này xảy ra cho thiền nhân không?

Maneesha, Hubert Benoit đã viết một cuốn sách rất uyên thâm về Thiền, Học thuyết tối thượng, nhưng nó chỉ là hiểu biết trí tuệ. Mặc dầu ông ấy đã tới Nhật Bản, và ông ấy đã sống trong các Thiền viện và quan sát các thiền nhân, và ông ấy nghĩ rằng ông ấy đã biết câu chuyện bên trong - điều đó là sai.

Chỉ ở trong Thiền viện không có nghĩa bạn đã trở thành người bên trong. Bạn vẫn là khán giả - bạn quan sát người khác thiền. Bạn không thiền, và chừng nào bạn không thiền nhất định có các câu hỏi như vậy nảy sinh trong bạn.

Cho nên Hubert Benoit đã viết một cuốn sách hay cho các nhà trí thức. Ông ấy là người khổng lồ, và tôi nghĩ không có bất kì cuốn sách nào khác từ bất kì triết gia hay nhà tư tưởng phương Tây nào mà truyền đạt được cái gì đó về Thiền theo cách tốt hơn cuốn Học thuyết tối thượng của Hubert Benoit.

Nhưng dầu vậy nó vẫn là trí tuệ, được đáng bóng kĩ hơn, được tinh luyện hơn. Luận cứ của ông ấy là hay, nhưng không dựa trên kinh nghiệm; chúng không có tính tồn tại. Đó là lí do tại sao ông ấy có thể nói rằng ngay cả những người trong satori của họ vẫn nghĩ họ hiện hữu. Nhưng nếu họ nghĩ họ hiện hữu, thế thì đó là Thượng đế nhân tính riêng của họ - lần nữa nó khẳng định. Họ đã phủ nhận Thượng đế, nhưng bây giờ bản thân họ trở thành Thượng đế. Nhưng đây là quan điểm của người bên ngoài. Ông ấy không biết satori là gì.

Trong satori, hay trong samadhi - satori là từ Nhật bản dành cho samadhi - người ta không hiện hữu. Cho nên ai có đó để nghĩ về bản thân người ta rằng người ta là Thượng đế? Phật Gautam dùng từ anatta. Trong tiếng Pali, chính là ngôn ngữ Phật đã dùng, atta nghĩa là cái ngã, và anatta nghĩa là vô ngã. Trong samadhi, trong satori, bạn đi tới điểm mà bạn đột nhiên nhớ ra bạn không hiện hữu - chỉ là không gian thuần khiết, đập rộn ràng cùng sự sống, nhảy múa cùng niềm vui, nhưng bạn không còn nữa. Bạn bị tan tiến hệt như băng tan và trở thành đại dương.

Ông ấy quan tâm vì ông ấy không biết kinh nghiệm thực về satori. Ông ấy nói, "Họ phải nhận ra..." Không có vấn đề về nhận ra. Không có người nào để nhận ra, và không có vấn đề về phải. Trong từ vựng của Thiền không có phải.

Tôi đã đọc một cuốn sách được một tác giả Mĩ nổi tiếng viết, Napoleon Hill, Bạn phải thảnh thơi. Bây giờ nếu có phải, làm sao bạn có thể thảnh thơi?

Bây giờ Hubert Benoit nói, "Họ phải nhận ra." Không có người để nhận ra. Ông ấy đang nói về ai? "Họ phải nhận ra bản thân họ, họ phải giải thoát bản thân họ." Từ ai? Không có người nào. Đây là giải thoát: khi bạn không hiện hữu. Nó không phải là vấn đề giải thoát bản thân bạn, vì nếu bạn giải thoát bản thân bạn, bạn sẽ có đó.

Nhưng đó là vấn đề với mọi người trí thức. Họ không thể nhìn ra ngoài lời, ra ngoài logic và ngôn ngữ. "Bạn phải nhận ra," và "Họ phải giải thoát" - nhưng giải thoát sao? Không có người mà không được giải thoát, cũng không có người đang ép buộc họ vẫn còn không được giải thoát. Chỉ có việc giải thoát!

Thiền nhân đi tới thấy rằng người đó được giải thoát khỏi bản thân người đó. Người đó không còn nữa - đó là giải thoát của người đó. Nhưng nhìn từ bên ngoài, ngay cả một người có tâm trí văn hoá và tinh luyện thế, Hubert Benoit, bỏ lỡ vấn đề hoàn toàn.

Một khi bạn ở trong thiền sâu, bạn không hiện hữu - đây là giải thoát, và không có giải thoát khác.

Nghiêm chỉnh thế đã đủ lâu rồi. Giờ là lúc dành cho Sardar Gurudayal Singh. Bật đèn lên! Điều tốt là bạn có thể nghiêm chỉnh khi trong tối, nhưng khi sáng tới, tiếng cười đi theo.

Một buổi chiều trong văn phòng của bác sĩ Feelgood, Buster Chubbs loạng choạng bước vào. Anh ta là bệnh nhân có vẻ hốc hác nhất mà bác sĩ Feelgood đã thấy trong một thời gian dài.

"Tôi không thể ngủ được, bác sĩ ơi," Buster rền rĩ, vừa kéo tóc mỏng của mình. "Tôi có chó ở bên trái tôi, chó ở bên phải tôi, và chó chạy khắp quanh tôi! Chúng sủa cả đêm - và tôi đang bảo ông, chúng làm tôi hoá rồ!"

"Đừng lo nghĩ," Feelgood nói một cách thông cảm. "Có thuốc ngủ mới trên thị trường tên là Đánh gục. Tôi đã có nhiều thành công với nó. Thử nó đi!"

Buster Chubbs đặt hàng qua điện thoại tại hiệu thuốc, mua một hộp thuốc viên, và loạng choạng về nhà. Một tuần sau, anh ta quay lại văn phòng của Feelgood. Anh ta có vẻ thậm chí còn kém hơn trước.

"Nó không tốt, bác sĩ," Buster lầm bầm. "Tôi đã không ngủ cả tuần. Tôi thức mọi đêm đuổi theo những con chó chết tiệt đó. Và ngay cả khi tôi bắt được chúng, chùng không chịu nuốt các viên thuốc này!"

Duncan MacPherson trẻ nhón chân đi vào phòng nơi Hamish MacTavish đang ngồi cạnh lò sưởi, đọc báo.

"Ông MacTavish," Duncan trẻ nói một cách bồn chồn. "Cháu tới để hỏi xin phép chấp thuận của bác. Cháu muốn hỏi liệu cháu có thể lấy con gái bác, Tillie, được không."

"Này, này, chàng trai!" Hamish nói, vừa nhìn lên. "Trước khi ta nói một lời về vấn đề này, cậu trai, cậu đã thấy vợ ta chưa, bà MacTavish?"

"Dạ có, thưa bác," Duncan đáp. "Nhưng cháu vẫn ưa thích con gái bác!"

Khung cảnh là ở bên ngoài Moscow trong ngày tuyết rơi mạnh giữa đông. Colossus G. Magnus, đạo diễn phim truyện Hollywood lớn nhất mọi thời đại - được biết tới là "Big G." Magnus - sẵn sàng để hoàn thành thiên anh hùng ca táo bạo nhất của mình, bộ phim nhiều triệu đô la: "Napoleon ăn nước Nga!"

Ngang qua cánh đồng tuyết bao la, "Big G." Magnus đã xây dựng bốn tháp khổng lồ, mỗi tháp có đầy đủ máy quay, ánh sáng và nhóm âm thanh.

Máy tạo tuyết khổng lồ đang đứng sẵn sàng để quất mạnh trận bão tuyết tức khắc. Nhóm làm phim đã sẵn sàng, và việc phân vai cho năm nghìn lính, với ngựa, với đại bác, kiếm, và mọi thứ ở tư thế sẵn sàng để làm việc.

Quạt tuyết lớn bắt đầu thổi, và đột nhiên, đạo diễn Magnus, ngồi trên tháp số bốn kêu to, "Diễn!"

Cơn mưa tuyết không thể tin được của trận chiến đi theo với thời tiết dữ dội và đích thực. Trong bốn mươi phút quân đội Nga và Pháp kịch chiến, tái tạo lại lịch sử giữa tiếng đại bác âm vang, và tiếng người ngựa la hét.

Cuối cùng, "Big G." Magnus hô to qua microphone, "Cắt!"

Lập tức, mọi diễn viên, kĩ thuật viên, và nhóm nhân viên buột thành tiếng hò reo và tán thưởng.

"Big G." tự mỉm cười thoả mãn, và cầm lấy điện thoại. Ông ấy quay số tháp phim số một.

"Các anh được mọi thứ chứ, Paddy?" đạo diễn hỏi.

"Thưa ông Magnus," Paddy nấc, "hôm nay là thứ năm - mất điện! Chúng tôi không có được một bức ảnh!"

Dường như Poona cũng thuộc vào Nga - mọi thứ năm đều mất điện!

"Cái gì?" Magnus la lên, dập điện thoại và quay số sang tháp số hai.

"Seamus," đạo diễn quát lên, "công việc thế nào?"

"Thưa ông Magnus," Seamus đáp, "xin đừng phát điên, nhưng người quay phim của tôi quên lắp phim vào máy."

"Lũ ngốc! Thất bại rồi!" "Big G." quát lên "Tất cả các anh bị đuổi!"

Điên tiết, Magnus quay số tháp số ba.

"Về anh thì sao, Sean?" ông ta kêu lên, vã mồ hôi. "Mọi việc diễn ra thế nào?"

"A! Thưa ông Magnus," Sean đáp. "Chưa bao giờ có cảnh như vậy! Nó sẽ làm ra lịch sử phim ảnh! Ông là thiên tài...!"

"Cắt trò nhảm nhí đi, Sean!" "Big G." quát lên "Anh có mọi thứ vào trong phim chưa?"

"Lên phim á?" Sean hỏi. "Ông muốn tôi chụp ảnh nó à? Tôi nghĩ nó là diễn tập!"

"Ông là đồ khờ dại!" Magnus gầm lên. "Ông là đồ khờ! Ông sẽ không bao giờ làm việc cho tôi lần nữa!" Và ông ấy ném phịch điện thoại xuống.

"Big G." Magnus chùi trán bằng khăn tay và rồi quay sang người quay phim riêng của mình, Thạch Đầu Niskriya.

"Lạy Chúa!" Magnus kêu lên. "Ơn Trời ông ở đây, Thạch Đầu! Tôi chắc mọi thứ ở đây là ổn!"

"Tuyệt đối!" Thạch Đầu Niskriya xác nhận. "Hạng nhất - số một!"

"Đủ phim trong máy quay chứ?" "Big G." hỏi

"Đầy, thưa ông Magnus," Thạch Đầu đáp.

"Âm thanh được chứ?" Magnus hỏi.

"Ông có thể coi cái đó là chắc chắn!" Thạch Đầu đáp. "Âm thanh hoàn hảo."

"Những cái đèn mới kia từ Berlin làm việc ổn chứ?" Magnus hỏi.

"Chỉ có tuyệt!" Niskriya tán tụng.

"Ơn Trời!" Magnus kêu lên.

"Ấy a!" Niskriya nói. "Tôi sẵn sàng bắt đầu khi ông sẵn sàng!"

Nivedano...

(Tiếng trống)

(Nói lắp bắp)

Nivedano...

(Tiếng trống)

Dừng lại. Nhắm mắt lại...

Im lặng... và cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông cứng.

Đây là khoảnh khắc đúng để nhìn vào trong.

Thu lấy năng lượng của bạn, toàn bộ tâm thức của bạn, và xô về trung tâm con người bạn. Nó ở ngay dưới rốn - sáu cm dưới rốn, bên trong. Người Nhật Bản gọi nó là hara - đan điền. Nó là trung tâm của sự sống. Bạn phải đi nhanh hơn, với sự khẩn thiết dường như đây là khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời bạn. Bây giờ hay không bao giờ.

Mỗi lúc một nhanh hơn...

Mỗi lúc một sâu hơn...

Khi bạn tới gần trung tâm hơn, im lặng lớn giáng lên bạn, hệt như mưa rơi, mưa rất nhẹ. Bạn có thể cảm thấy cái mát mẻ của nó.

Gần thêm chút nữa tới trung tâm, và an bình lớn bao quanh bạn. Toàn thể con người bên trong của bạn trở thành đầy ánh sáng, sự chói sáng bạn chưa bao giờ biết trước đây, khoảnh khắc phúc lạc, cực lạc hoàn toàn.

Đây là thời điểm đúng để bước vào chính cội nguồn sự sống của bạn. Bạn sẽ cảm thấy say sưa với điều thiêng liêng. Bạn sẽ thấy mặt nguyên bản. Về biểu tượng, mặt của Phật Gautam đã được chấp nhận ở phương Đông là mặt nguyên bản của mọi người.

Chỉ nhớ một điều: phật chỉ có một phẩm chất, phẩm chất của việc chứng kiến.

Chứng kiến rằng bạn không là thân thể...

Chứng kiến rằng bạn không là tâm trí...

Chứng kiến rằng bạn chỉ là nhân chứng và không gì khác. Điều này sẽ đem bạn mỗi lúc một sâu hơn vào trong cội nguồn của con người bạn. Nó sẽ mở cánh cửa vào vĩnh hằng.

Để làm việc chứng kiến này mỗi lúc một sâu hơn,

Nivedano...

(Tiếng trống)

Thảnh thơi... nhưng nhớ bạn chỉ là nhân chứng. Bạn không là thân thể, không là tâm trí, chỉ là nhân chứng thuần khiết. Và ngay lập tức, Thính phòng Phật Gautam bắt đầu trở thành đại dương tâm thức. Mười nghìn chư phật biến mất như những con người tách rời trong một tâm thức đại dương.

Khoảnh khắc này bạn là người được hạnh phúc nhất trên trái đất.

Mọi người quan tâm tới cái tầm thường, không ai chăm nom nhìn vào bên trong. Mắt của mọi người bị hội tụ vào các vật mà sẽ không giúp bạn, mà sẽ không ở cùng với bạn.

Chết sẽ lấy đi mọi thứ khỏi bạn - tiền, quyền, danh. Chết sẽ để lại chỉ một thứ: đó là việc chứng kiến. Nếu bạn có nó, không có chết. Nếu bạn không có nó, chỉ có chết và không gì khác.

Có ba bước mà có thể được nhớ tại khoảnh khắc im lặng này. Thứ nhất, vị phật đi theo bạn ở đằng sau như cái bóng. Thứ hai, thay vì phật là cái bóng của bạn, bạn trở thành cái bóng của phật. Và thứ ba, bạn biến mất ngay cả như cái bóng, chỉ phật còn lại.

Duy nhất tâm thứ thuần khiết chứng kiến còn lại - không Ta không Ông, không Thượng đế không hồn, chỉ hư không bao la. Vũ trụ mênh mông mở mọi cánh cửa của nó cho bạn, nó rót vào trong bạn nhiều huy hoàng, phép màu. Cuộc sống của bạn bắt đầu trở thành phép thần, duyên dáng, cái đẹp, chân lí.

Thu lấy mọi kinh nghiệm này mà bạn có bây giờ. Bạn phải mang chúng từ trung tâm lên bề mặt, tới cuộc sống hàng ngày bình thường của bạn.

Và thuyết phục vị phật tới cùng với bạn. Ông ấy là Pháp của bạn, ông ấy là bản tính của bạn, ông ấy là Đạo của bạn. Ông ấy nhất định tới. Ông ấy đã từng đợi và đợi, nhưng bạn không bao giờ mời ông ấy. Bạn thậm chí không bao giờ bận tâm về ông ấy.

Đã từ lâu rồi, hàng nghìn năm ông ấy đã từng ngồi đó chỉ như hạt mầm. Cho phép ông ấy có chỗ đi. Mời ông ấy để cho ông ấy có thể lên bề mặt như hoa sen tới từ bùn bẩn và đi ra ngoài nước và mở các cánh của nó cho mặt trời và mặt trăng và các vì sao.

Nivedano...

(Tiếng trống)

Quay lại... nhưng quay lại như vị phật. Tới với duyên dáng, im lặng, an bình. Lắng đọng chỉ vài khoảnh khắc để nhắc nhở bản thân bạn về con đường vàng bạn đã đi qua, và im lặng lớn, an bình, cực lạc mà bạn đã trải nghiệm. Bạn vẫn còn say sưa với điều thiêng liêng.

Bạn có thể cảm thấy vị phật ngay sau bạn, hơi ấm của ông ấy, yêu của ông ấy, sự hiện diện của ông ấy. Ông ấy chỉ là sự hiện diện, ông ấy không là người.

Tôi hi vọng bước đầu tiên sẽ được đi theo bởi bước thứ hai, bước thứ hai sẽ được đi theo bởi bước thứ ba, và sẽ không lâu trước ngày bạn sẽ thấy bản thân bạn không còn nữa và chỉ sự tồn tại hiện hữu. Đó sẽ là ngày vinh quang nhất của đời bạn. Không chỉ bạn sẽ mở hội, toàn thể sự tồn tại sẽ mở hội cùng bạn.

Mở hội là cương lĩnh của tôi.

Để nó là cương lĩnh của bạn nữa.

Được chứ, Maneesha?

Vâng, thưa Thầy kính yêu.

Xem tiếp Chương 6 - Quay về Mục lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post