Chương 14. Không ai

Chương 14. Không ai

Price:

Read more

Thế này, Thế này, Nghìn lần Thế này – Osho

Bản chất của Thiền

Chương 14. Không ai



Powered by RedCircle


Osho kính yêu,

Vân Cư Đạo Ưng là đại đệ tử của Động Sơn. Khi lần đầu tiên ông ấy gặp Động Sơn, ông ấy được hỏi, "Tên ông là gì?"

Ông ấy trả lời, "Đạo Ưng."

Động Sơn nói, "Nói cho ta theo cách siêu việt!"

Vân Cư đáp, "Nói theo cách siêu việt, tên tôi là Đạo Ưng."

Động Sơn nói, "Khi ta gặp thầy ta, câu trả lời của ta không khác."

Vân Cư ở lại với Động Sơn trong nhiều. Động Sơn không bao giờ có ít hơn một nghìn năm trăm đệ tử, trong số đó hai mươi tám người đã chứng ngộ.

Sau khi Vân Cư đã nhận ra chứng ngộ riêng của mình và trở thành thầy, một sư hỏi ông ấy một câu hỏi.

Vân Cư nói, "Ông ngu!"

Sư nói, "Thầy cũng thế!"

"Nghĩa của 'ngu' là gì?" Vân Cư hỏi.

Sư nhảy múa.

Khi ông ấy đi, và Vân Cư ca ngợi ông ấy, khi không có mặt ông ấy, nói, "Sau rốt, mọi người đều ở ngoài để được cái gì đó, tất nhiên được thiền là không được gì."

Một dịp khác, một quan phủ nói với Vân Cư: "Người được thế giới kính trọng có một thông điệp bí mật; Ma ha ca diếp đã không giữ nó là bí mật. Lời bí mật này của Phật là gì?"

Vân Cư gọi ông ta, "Thưa ngài!"

Ông ấy trả lời, "Gì cơ ạ?"

Vân Cư nói, "Ông hiểu chứ?"

"Không," ông ta đáp.

Vân Cư nói, "Nếu ông không hiểu, đó là lời bí mật của Phật; nếu ông hiểu, đó là lời của Ma ha ca diếp không giữ nó là bí mật."

Maneesha, sẽ rất khó hiểu giai thoại nhỏ này nếu không quay lại hai mươi nhăm thế kỉ tới Phật Gautam và Ma ha ca diếp.

Nó phải đã là một hội chúng như thế này - hoàn toàn im lặng và đợi Phật Gautam tới. Ông ấy định cho bài thuyết giảng buổi sáng, như thường lệ - nhưng ông ấy tới muộn hôm nay. Việc chờ đợi trở thành mãnh liệt; cũng có nỗi sợ nào đó: "Tai nạn nào đó đã xảy ra? Tại sao ông ấy không tới đúng giờ? Trong bốn mươi hai năm thuyết giảng ông ấy không bao giờ bỏ lỡ cho dù một cơ hội. Sao ông ấy chậm vậy?"

Nhưng đó không phải là việc tụ tập bình thường của các khán giả. Đây là những người tìm kiếm và truy hỏi về con người riêng của họ. Và có lẽ họ nghĩ, "Đây là một trong các phương cách của Phật Gautam... để học cách chờ đợi im lặng, không hỏi." Và rất bất ngờ, Phật Gautam đã xuất hiện cùng với một đoá hồng trong tay ông ấy. Đó đã là một biến cố phi thường thế vì Phật không bao giờ tới theo cách ông ấy đã tới hôm nay. Ông ấy bao giờ cũng tới với tay trống rỗng. Cầm một đoá hồng đẹp, mọi người phải đã nghĩ - nếu như bạn đã hiện diện bạn chắc đã nghĩ - "Có lẽ ông ấy sẽ nói cái gì đó về hoa hồng."

Nhưng ông ấy không phải là nhà thơ. Ông ấy không phải là hoạ sĩ. Ông ấy có thể nói gì về hoa hồng? Và ông ấy lại chẳng nói cái gì cả. Ông ấy đơn giản ngồi vào chỗ của ông ấy và cứ nhìn mãi vào đoá hồng, làm cho mọi người gần như phát rồ. Cái gì đã xảy ra cho ông ấy? Đây là lúc nói cho tâm xã và ông ấy đang nhìn vào đoá hồng mà thậm chí không thốt ra một lời. Có một điểm của chờ đợi... mọi người trở nên rất nôn nóng. Người ta có thể cảm thấy sự nôn nóng khắp xung quanh.

Tại khoảnh khắc này, Ma ha ca diếp, người không bao giờ nói một lời trước đây lẫn sau này, đã cười to. Ông ấy đã là đệ tử của Phật Gautam trong hai mươi năm. Ông ấy không bao giờ hỏi câu hỏi. Ông ấy thường ngồi dưới một cây đặc biệt; nó gần như đã trở thành độc quyền của ông ấy. Không ai đã bao giờ ngồi dưới cây đó. Mọi người biết Ma ha ca diếp sẽ tới; chỗ của ông ấy phải được bỏ lại.

Nhưng chỗ của ông ấy rất kì lạ. Ông ấy là hoàng tử trước khi ông ấy từ bỏ vương quốc của mình - cũng giống Phật Gautam - được giáo dục tốt và có văn hoá theo mọi cách về tôn giáo và triết học. Nhưng điều kì lạ là trong hai mươi năm ông ấy đã chỉ ngồi ở đó, không hỏi ngay cả một câu hỏi đơn giản.

Và đột nhiên hôm nay, khi mọi người nôn nóng chờ đợi Phật nói... anh chàng kì lạ này Ma ha ca diếp bắt đầu cười. Ông ấy đã không cười trong hai mươi năm.

Sự vụ này là bắt đầu của một nhánh rất đặc biệt các nhà huyền bí có tên là Thiền.

Ma ha ca diếp được Phật Gautam gọi tới gần Phật - Phật đưa cho ông ấy đoá hồng, và buổi thuyết giảng kết thúc. Không một lời được thốt ra, cái gì đó đã được truyền; cái gì đó đẹp như đoá hồng có thể đại diện, vô hình, có lẽ như hương thơm của hoa hồng. Ma ha ca diếp cúi lạy, chạm chân Phật, nhận hoa hồng trên đầu mình và trở lại cây của mình. Và toàn thể hội chúng mười nghìn sư đơn giản quan sát vở kịch này.

Phật rời khỏi chỗ của ông ấy. Ananda, người thường công bố việc tới của Phật, hay chủ đề mà ông ấy sẽ nói, đã công bố rằng buổi thuyết giảng đã kết thúc.

Kể từ ngày đó, trong hai mươi nhăm thế kỉ những người đã quan tâm tới Phật Gautam và giáo huấn của ông ấy đã từng hỏi đi hỏi lại mãi, "Cái gì đã được truyền? Cái gì là cái Phật đã trao cho Ma ha ca diếp? Và tại sao Ma ha ca diếp cười?"

Ma ha ca diếp được chấp nhận là Thiền sư đầu tiên. Phật Gautam đã mở ra một chiều hướng mới của việc tìm kiếm nơi lời không được cần tới, mà chỉ cần im lặng. Nơi bạn có thể nói chỉ bằng việc không nói, nơi nói bất kì cái gì là bỏ lỡ. Vâng, bạn có thể cười, bạn có thể múa; vì trong khi bạn cười với tính toàn bộ, tâm trí dừng lại, thời gian dừng lại và toàn thể con người bạn tan chảy trong một sự thống nhất, trong một cơ quan. Bằng không bạn là đám đông: một tay đi về phương nam, tay kia đi về phương bắc và đầu bạn rải rác trong hàng nghìn mảnh.

Nhưng với tiếng cười bụng thoải mái mọi thứ quay lại và đột nhiên bạn được thống nhất. Tiếng cười là việc bắt đầu của Thiền; và Ma ha ca diếp đã cười vào sự nôn nóng của mọi người, vì Phật Gautam chưa bao giờ cho nhiều thế như ông ấy đã cho hôm nay trong im lặng của ông ấy. Ông ấy đã đơn giản nói, "Quan sát đi, là nhân chứng đi, đừng nói lời nào. Chỉ hiện hữu, và chính khoảnh khắc này ông được chứng ngộ."

Sau bối cảnh này, sẽ dễ dàng cho bạn hiểu giai thoại mà Maneesha đã đặt ở đây.

Vân Cư Đạo Ưng là đại đệ tử của Động Sơn. Khi lần đầu tiên ông ấy gặp Động Sơn, ông ấy được hỏi, "Tên ông là gì?"

Nhớ rằng trong Thiền, ngôn ngữ được dùng theo cách khác toàn bộ so với nó được dùng thông thường. "Tên ông là gì?" không ngụ ý rằng tên của bạn đang được hỏi. "Tên ông là gì?" ngụ ý, "Ông là ai? Ông có ở đây không?" Nó là một câu hỏi không phải về cái tên tuỳ tiện, nó là câu hỏi về tâm thức vĩnh hằng bên trong bạn... "Ông đã tìm thấy nó chưa?"

Ông ấy trả lời, "Đạo Ưng."

Động Sơn nói, "Nói cho ta theo cách siêu việt!"

Đừng dùng bất kì lời nào!

Bạn phải hiểu điều được ngụ ý bởi 'một cách siêu việt'.

Bạn có thể thấy rằng ngón tay tôi, không nói bất kì cái gì, đang trỏ không? Bạn có thể nhìn vào mắt tôi và thấy im lặng của chúng không?

Tôi cũng đang ôm giữ toàn thể sự tồn tại trong tay tôi; không chỉ một đoá hồng, mà tất cả các đoá hồng đã từng nở hay sẽ nở. Bạn có thấy chúng không? Bạn có thể thấy trong một đoá hồng mọi đoá hồng của quá khứ và mọi đoá hồng của tương lai không?

Thấy một cách siêu việt ngụ ý thấy không bằng tâm trí của bạn mà bằng con người bạn. Nói cách khác: khi ngôn ngữ dừng lại, khi tâm trí dừng lại và bạn chỉ là im lặng, không gian thuần khiết... thế thì bạn có thể làm bất kì hành động nào một cách tự phát, và điều đó sẽ nói một cách siêu việt.

Vân Cư đáp, "Nói theo cách siêu việt, tên tôi là Đạo Ưng."

Động Sơn nói, "Khi ta gặp thầy ta, câu trả lời của ta không khác."

Vân Cư ở lại với Động Sơn trong nhiều năm. Động Sơn không bao giờ có ít hơn một nghìn năm trăm đệ tử, trong số đó hai mươi tám người đã chứng ngộ.

Trong phần này của giai thoại này ông ấy đang nói, "Thầy không khác tôi. Như thầy được chứng ngộ hôm nay, tôi cũng đã không được chứng ngộ khi tôi tới thầy của tôi. Câu trả lời của tôi là không khác câu trả lời của thầy. Nó đã là dốt nát như của thầy, nó đã là vô ý thức như của thầy. Thầy vẫn dùng lời."

Sau khi Vân Cư đã nhận ra chứng ngộ riêng của mình và trở thành thầy, một sư hỏi ông ấy một câu hỏi.

Vân Cư nói, "Ông ngu!"

Sư nói, "Thầy cũng thế!"

"Nghĩa của 'ngu' là gì?" Vân Cư hỏi.

Sư nhảy múa.

Sự tồn tại phải được trải nghiệm mà không có việc nói thành lời theo trí tuệ. Điệu vũ sẽ có tác dụng vì trong điệu vũ, bạn là toàn bộ. Vũ công thực quên bản thân mình, chỉ điệu vũ còn lại và vũ công biến mất. Đây là siêu việt.

Điều đó có thể xảy ra theo nhiều cách. Ca sĩ có thể hát một cách mãnh liệt và toàn bộ tới mức người đó không còn đó nữa, chỉ còn bài ca... Và sự siêu việt đã xảy ra.

Nhà thơ, hoạ sĩ, nhạc sĩ, thợ mộc - không thành vấn đề bạn đang làm gì. Nhưng nếu bạn đang làm nó mà không có tâm trí bạn can thiệp vào...

Tôi đã kể cho bạn về một trong những vũ công vĩ đại nhất của thế kỉ này, Nijinsky. Ông ấy là vấn đề, đặc biệt cho các nhà vật lí và các ngành khoa học khác. Khi ông ấy nhảy múa, có những khoảnh khắc ông ấy sẽ nhảy lên cao tới mức điều đó là không thể được theo các tính toán vật lí; sức hút sẽ không cho phép tới ngần đấy. Không chỉ ông ấy đã đi ra ngoài sức hút khi ông ấy nhảy, nhưng khi ông ấy trở lại, ông ấy đã không tuân theo cách mọi thứ rơi trở lại đất. Ông ấy xuống như chiếc lông, rất chậm, không vội vàng.

Dường như ông ấy đã quay lại theo cách riêng của ông ấy, đã không bị kéo về mặt từ trường bởi lực hấp dẫn. Ông ấy đã được hỏi đi hỏi lại, "Ông làm điều đó thế nào?"

Ông ấy nói, "Đừng hỏi tôi làm sao tôi làm điều đó, vì bản thân tôi cũng phân vân. Bất kì khi nào tôi thử làm điều đó, tôi đã không có khả năng làm điều đó. Khi tôi quên mất bản thân tôi - khi không có Nijinsky và điệu vũ tiếp quản, vũ công tan chảy trong điệu vũ - có lẽ lực hấp dẫn mất sức hút của nó. Nhưng tôi chỉ có thể nói ngần này: rằng bất kì khi nào nó xảy ra, tôi không có. Và bấy kì khi nào tôi cố thử, nó không bao giờ xảy ra."

Đây là điều được ngụ ý bởi siêu việt. Sự thiếu vắng của bạn là siêu việt. Vô ngã của bạn là siêu việt.

Câu trả lời của Đạo Ưng đã có tính sự kiện: Nó đã là tên của ông ấy. Nhưng tên chỉ là cái nhãn, bạn có thể đổi chúng. Bạn được sinh ra không có tên, mà bạn cũng sẽ chết đi không có tên. Bạn tới vô danh, như làn gió thoảng, và bạn biến mất vô danh vào trong cái không biết. Mọi cái tên là tuỳ tiện - chúng là tốt cho bưu điện, chúng là tốt cho bãi chợ. Chúng là sự cần thiết, nhưng sự cần thiết là tiện dụng, nó không là siêu việt.

Nếu bạn muốn, bạn có thể bỏ tên bạn và bạn có thể nói, "Tôi không có bất kì cái tên nào." Không có vấn đề gì trong việc bỏ tên. Nó chỉ là hư cấu, được làm từ cùng chất liệu như mơ được làm.

Động Sơn nói, "Nói cho ta theo cách siêu việt!"

Nhưng để nói bất kì cái gì theo cách siêu việt trước hết người ta cần hiểu siêu việt như kinh nghiệm.

Vân Cư nói, "Nói một cách siêu việt, tên tôi vẫn là Đạo Ưng."

Động Sơn nói, "Khi ta gặp thầy của ta, câu trả lời của ta không khác. Ta đã dốt nát như ông, vô ý thức như ông, ngủ say như ông."

Sau khi Vân Cư đã nhận ra chứng ngộ riêng của mình và trở thành thầy, một sư hỏi ông ấy một câu hỏi.

Vân Cư nói, "Ông ngu!"

Sư này phải đã là một người có hiểu biết lớn, vì ông ấy đáp, "Thầy cũng ngu!"

Hồn nhiên không phải là thông thái. Người ngu ở gần với kinh nghiệm về hồn nhiên hơn người có tri thức. Con người của tri thức đầy những rác, thứ vay mượn. Người ngu ít nhất là tự do khỏi bất kì tri thức vay mượn nào; người đó là bản thân người đó.

Đây là tính duy nhất của Thiền, rằng nó muốn bạn thà là ngu còn hơn là học sĩ lớn, am tường, giáo sĩ, bác học. Vì những người này đang cai trị toàn thể nhân loại và quá khứ của nó, họ đã phá huỷ mọi sự hồn nhiên trong con người.

Thiền sẽ yêu ngay cả người ngu, nếu người đó hồn nhiên, nếu người đó có thể nói, "Tôi không biết" - đó là điều xảy ra trong đối thoại này.

Vân Cư nói, "Ông ngu!"

Bình thường, bất kì người nào chắc đã bị xúc phạm khi bị gọi là ngu. Nhưng Thiền nói một ngôn ngữ khác toàn bộ. Rung động của nó là khác, lời của nó là khác. Thay vì bị xúc phạm, ông ấy đơn giản nói, "Thầy cũng thế!" Tôi không biết thầy cũng không biết.

Không biết, chỉ hiện hữu, là kết luận của Thiền. Việc biết là của tâm trí, không biết là của tim. Và khi việc không biết của bạn đi sâu hơn, nó đạt tới chính con người bạn.

Socrates, trong những khoảnh khắc cuối cùng của đời ông ấy, đã nói cho đệ tử của ông ấy rằng, "Khi ta còn trẻ ta nghĩ ta biết nhiều thế. Khi ta trở nên trưởng thành hơn chút ít, ta trở nên nhận biết rằng tri thức của bạn là nhỏ bé thế và khu vực dốt nát là mênh mông. Nhưng bây giờ, trước khi chết, ta có thể nói với ông rằng ta không biết bất kì cái gì chút nào. Ta đang chết chỉ như đứa trẻ, không trầy xước gì."

Đó là nghĩa của phát biểu của Kabir:

Jyun Ki Tyun Dhari Dinhin Chadariya.

"Cách ngài đã cho tôi sự sống, tôi đang trả lại nó cho ngài, không trầy xước, không hư hỏng." Cùng sự hồn nhiên thuộc vào ngày đầu tiên, sẽ vẫn còn đập rộn ràng bên trong bạn trong cả đời bạn.

Thế thì bạn sẽ biết thơ ca của sự tồn tại, thế thì bạn sẽ biết thẩm mĩ, cái đẹp bao quanh bạn.

Thế thì bạn sẽ biết cái không thể được biết, cái không thể được nói, nhưng dầu vậy vẫn có thể được cảm, vẫn có thể được sống.

Vân Cư hỏi, "Nghĩa của 'ngu' là gì?"

Sư nhảy múa.

Câu trả lời rất thẩm mĩ: Dừng bận tâm với lời đi, giờ đi tới thực tại. Điệu múa của ông ấy là câu trả lời của hồn nhiên của ông ấy. Chính điều không may là ngay cả các nhà thơ cũng trở thành các bản ngã. Chính điều không may là các nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhà điêu khắc trở thành các bản ngã. Đây là những người đáng phải là nhà huyền bí. Nhưng thay vì đi vào trong hồn nhiên của thơ ca của họ, âm nhạc của họ, điệu múa của họ, họ cũng đi vào vào trong cuộc đua chính trị, là ai đó đặc biệt.

Thiền dành cho những người sẵn sàng là không ai cả, người sẵn sàng chỉ là im lặng. Nhưng im lặng đó mở ra cánh cửa tới mọi điều huy hoàng ẩn kín bên trong bạn. Từ im lặng đó điệu múa của bạn sẽ có phẩm chất khác toàn bộ, thơ ca của bạn sẽ có sắc thái khác toàn bộ, âm nhạc của bạn sẽ không là âm nhạc của bạn. Bạn sẽ trở thành giống như tre hổng và vũ trụ sẽ hát qua bạn.

Chừng nào bạn chưa giống như tre hổng và vũ trụ có thể hát qua bạn, bạn chỉ là tầm thường. Bạn chỉ là người soạn lời, bạn không ở trong tay của sự tồn tại, bạn sợ. Bạn đang phòng thủ bản thân bạn, bạn đang trên hành trình bản ngã... Mọi người là vậy.

Ai đó đang leo lên những chiếc thang để đạt tới quyền lực, ai đó đang tích luỹ tiền, ai đó khác đang chọn chiều hướng khác. Nhưng mục đích là như nhau: rằng "Tôi phải được nhận ra."

Bạn không cần được nhận ra. Bạn phải nhận ra bản thân bạn - không được nhận ra. Nếu việc nhận ra tới theo cách riêng của nó, đó là chuyện khác; cái đó chỉ là cái bóng. Nó không là mục đích của bạn, nó đi theo bạn. Bạn không chạy theo nó.

Sư nhảy múa.

Khi ông ấy đi, và Vân Cư ca ngợi ông ấy, khi không có mặt ông ấy, nói, "Sau rốt, mọi người đều ở ngoài để được cái gì đó, tất nhiên được thiền là không được gì."

Một dịp khác, một quan phủ nói với Vân Cư: "Người được thế giới kính trọng có một thông điệp bí mật; Ma ha ca diếp đã không giữ nó là bí mật. Từ bí mật này của Phật là gì?"

Tôi đã kể cho bạn câu chuyện về Ma ha ca diếp.

Một sự vụ khác trong đời Phật sẽ giải thích điều này cho bạn.

Ông ấy đi qua khu rừng, Ananda đi cùng ông ấy... Lúc đó là mùa lá rụng. Cả khu rừng đầy lá, xào xạc, múa trong gió dưới mặt trời. Cây đang đứng trần trụi.

Ananda hỏi Phật, "Tôi đã không có thời gian để hỏi vì ai đó khác bao giờ cũng có đó, và tôi không muốn làm ngắt quãng. Vào lúc này chúng ta có một mình, tôi muốn hỏi một điều. Thầy đã nói mọi thứ mà thầy biết cho chúng tôi chưa? Thầy có giữ lại bí mật nào đó không?"

Buddha cúi xuống, nhặt lấy vài lá khô trong tay và nói với Ananda, "Điều ta đã nói là tương đương với vài lá này, và điều ta đã không nói là tương đương với mọi lá khô của khu rừng bao la này. Nhưng ta không giữ bí mật - nó không thể được nói ra. Những người sẽ hiểu điều ta đã nói, có lẽ bản thân họ có thể tìm ra nó; họ nhất định tìm ra. Ta chỉ chỉ ra con đường. ta đã không nói một lời về mục đích."

Cơ hội này tới lần nữa khi Vân Cư được một quan phủ hỏi, "Người được thế giới kính trọng, Phật Gautam, có một thông điệp bí mật; Ma ha ca diếp đã không giữ nó là bí mật." Vì Ma ha ca diếp đã cười, đã chia sẻ kinh nghiệm này. Phật đã im lặng, mọi người khác đã im lặng. Ma ha ca diếp không thể cưỡng lại được việc chia sẻ cái đẹp của im lặng, niềm vui của im lặng, và đã cười to.

Do đó trong truyền thống Thiền điều được nói là: Phật có nhiều bí mật, nhưng Ma ha ca diếp đã mở chúng cho thế giới.

Vân Cư gọi ông ta, "Thưa ngài!"

Ông ta là quan của triều đình.

Ông ta trả lời, "Gì cơ ạ?"

Vân Cư nói, "Ông hiểu chứ?"

"Không," ông ta đáp.

Vân Cư nói, "Nếu ông không hiểu, đó là từ bí mật của Phật; nếu ông hiểu, đó là lời của Ma ha ca diếp không giữ nó là bí mật."

Đó là một giai thoại hay cho bất kì người nào thực sự khao khát biết bí mật bên trong nhất của con người riêng của người ta và và sự tồn tại mà chúng ta thuộc vào. Khi có liên quan tới bình luận của tôi về giai thoại này, tôi muốn bạn biết:

Không có bí mật.

Mọi thứ là mở như bầu trời, đó chỉ là việc bạn bị đóng.

Người mù có thể nói, "Mặt trời giữ ánh sáng là bí mật." Người điếc có thể nói, "Mọi nhà thơ này đã tụ tập ở đây không trích đọc thơ ca của họ." Điếc của bạn, mù của bạn, vô nhận biết của bạn, không làm cho sự tồn tại là bí mật. Nó đang kêu lên từ mọi ngôi sao, từ mọi đỉnh núi, từ mọi hoa, theo cả nghìn cách.

Nó không là bí mật - bạn không phải tìm kiếm nó. Bạn chỉ phải là im lặng bên trong bản thân bạn và nó có đó, đập rộn ràng trong nhịp tim đập của bạn. Nhớ, nhịp tim đập của bạn là nhịp tim đập của toàn thể hệ thống sự sống. Chúng là nhịp tim đập của bản thân sự tồn tại.

Đó là toàn thể công việc của tôi ở đây.

Tôi không có bất kì triết lí nào để dạy và tôi không có bất kì giáo điều nào, bất kì tín điều nào, bất kì thượng đế học nào, bất kì tôn giáo nào. Tôi không là người thuyết giảng. Tôi đơn giản cố chỉ ra rằng bạn là nó.

Maneesha đã hỏi vài câu hỏi. Thứ nhất:

Osho kính yêu,

Được bảo rằng chân lí là bí mật, làm cho tôi cảm thấy rằng chân lí là câu lạc bộ dành riêng chỉ cho những người thu được lối vào bằng việc có phẩm chất không thể giải thích được nào đó.

Nhưng tôi không cảm thấy rằng thầy có bí mật nào đó thầy đang giữ với chúng tôi; nếu bất kì cái gì có tính bí mật riêng của tôi là điều là ở trong con đường này.

Liệu có bất kì cái gì thầy có thể nói rằng tôi có thể hiểu được không?

Mọi khoảnh khắc tôi đang cho bạn đoá hồng mà Phật Gautam đã trao cho Ma ha ca diếp; với toàn thể hiện hữu của tôi, với sự hiện diện của tôi. Không có bí mật chút nào, cả hai tay tôi đều mở. Tôi không giữ nắm đấm đóng lại. Nhưng có những đầu tư mà sẽ muốn điều bạn gọi là 'câu lạc bộ dành riêng'.

Bác học Hindu nghĩ rằng chân lí chỉ có trong kinh sách tiếng Phạn. Một người rất trẻ và tỉnh táo, Swami Ramateertha, người đã đi sang phương Tây và đi khắp thế giới, được yêu mến bởi hàng nghìn người. Ông ấy là con người có phẩm chất hiếm hoi. Ông ấy đã nghĩ rằng, khi quay về nhà, điều chắc là đúng cho ông ấy là trước hết đi tới Kashi, thủ phủ của Hindu giáo. Nhưng ông ấy đã không nhận biết rằng thảm hoạ lớn đang đợi ông ấy.

Ở Kashi, họ có một hội đồng bí mật những học giả Hindu. Ông ấy được yêu cầu trình bày bản thân ông ấy trước hội đồng này, và câu hỏi thứ nhất đã được ông chủ tịch hỏi là, "Ông có hiểu tiếng Phạn không?"

Tất nhiên ông ấy không hiểu. Ông ấy được sinh ra gần Peshawar. Toàn thể giáo dục của ông ấy là trong tiếng Persian, Arabic, Urdu; tiếng Phạn đã không được ông ấy biết tới chút nào. Nhưng để biết chân lí, tiếng Phạn không được cần tới. Bằng không, Socrates chắc đã không biết nó, Pythagoras chắc đã không thể biết được nó.

Nhưng đây là thái độ của mọi tôn giáo. Jesus bị đóng đinh bởi nhiều lí do. Một trong chúng đã là ở chỗ ông ấy đã không là giáo sĩ, ông ấy đã không là người Do Thái có học thức. Ông ấy chỉ là con trai thợ mộc nghèo, và đã tuyên bố là nhà tiên tri. Những người uyên bác có quyền lợi được đầu tư vào trong việc giữ các bí mật. Và trong kinh sách, chẳng có gì cả. Vì cứ nhìn vào những học giả đó mà xem: trong đời họ, chẳng có gì - không bài ca, không cái đẹp, không điệu múa, không tiếng cười. Họ chỉ giống như khúc gỗ khô.

Bạn đã bao giờ thấy một bác học nhảy múa một cách hồn nhiên chưa? Một giáo sĩ hay giáo hoàng? Họ biết nhiều nhưng họ không biết không gian bên trong của hồn nhiên.

Nó không phải là bí mật, Maneesha. Nó trở thành bí mật nếu bạn ngủ. Nếu bạn không đi vào trong con người riêng của bạn nó trở thành bí mật. Không ai có thể ngăn cản được bạn ngoại trừ bản thân bạn, và không ai có thể trao nó cho bạn ngoại trừ bản thân bạn.

Câu hỏi thứ hai của cô ấy là:

Osho kính yêu,

Bài nói đêm qua đã giống như ở trên boong con thuyền của Noah. Giọng thầy là cái neo khi chúng tôi ngồi tĩnh lặng và im lặng thế, đúng là ở trung tâm của cơn xoáy lốc. Nó đã là một ví dụ đáng ngạc nhiên về cách sự tồn tại là đúng với chúng ta - mặc dầu tôi đã nghe nói rằng một tre được cấu thành bởi nhiều đốt.

Maneesha, tre đó, và một cây khác đã được mang tới bởi các sannyasin từ Brazil... cả hai đã là những người rất tự hào. Chúng cần, chúng xứng đáng với nhiều đốt. Bằng không, có hàng trăm tre quanh bạn và chúng đã im lặng cùng bạn trong mưa và mây sấm chớp và gió. Không cái gì đã xảy ra cho chúng.

Bạn nên quan sát cẩn thận tre có nhiều đốt. Và tre từ Brazil... nó đã là một cây uy nghi. Nhưng uy nghi không phải là cái tên của trò chơi chúng ta đang chơi ở đây. Điều đó hoàn toàn tốt, chúng ta sẽ chăm nom cho tre.

Và tôi hi vọng nó đã biết được tại sao nó có nhiều đốt. Khi gió tới và mây giông sấm sét và mưa nhiều thế... nếu tre không chuyển động và nhảy múa cùng gió và mưa, nó sẽ bị gẫy. Tre đó phải đã đứng để đọ lại với mưa, với gió; và bất kì ai đứng chống tự nhiên sẽ thấy bản thân người đó bị đập vỡ toàn bộ, sẽ thấy bản thân người đó, sớm hay muộn, trong bệnh viện.

Bao giờ cũng chính bản ngã bị gẫy xương. Con người của bạn là không chạm tới được, không cái gì có thể làm hại con người bạn. Ngay cả chết cũng không chạm tới được.

Trước khi chúng ta đi vào trong thiền hàng ngày, tre đang đợi vài tiếng cười. Chúng có thể không hiểu ngôn ngữ nhưng chúng hiểu tiếng cười của bạn.

Moishe Finkelstein đang ngủ lơ mơ trong ghế bành ở Nhà tang lễ Finkelstein một buổi chiều. Điện thoại reo và Moishe vớ chiếc đồng hồ và đặt nó vào tai.

"A lô," Moishe nói với giọng ngái ngủ.

Thế rồi điện thoại lại reo lần nữa và Moishe đặt đồng hồ xuống và thay vào đó nói vào điện thoại. Hoá ra là Đảng chính trị dân chủ Dodo đã đặt toàn thể khách sạn trong thành phố cho cuộc hội nghị của họ, và rằng trong phòng 213, một trong các đại biểu của họ đã chết.

Moishe ném một quan tài vào phía sau xe tang và lái vào trung tâm thành phố.

Nửa giờ sau, Moishe gọi văn phòng của người quản lí để xác nhận rằng việc này được làm xong, và rằng người ở phòng 312 đã được loại bỏ.

"Ông ngốc vừa vừa chứ!" người quản lí quát lên, "Tôi nói phòng 213! Người ở 312 cũng chết sao?"

"Ông ấy nói ông ấy không chết," Moishe bình thản đáp, "nhưng ông biết những chính khách này là kẻ nói dối thế nào."

Rajiv Gandhi, thủ tướng Ấn Độ, Francois Mitterand, tổng thống Pháp, và Ronald Reagan từ Mĩ, đang ngồi một mình cùng nhau sau cuộc hội nghị.

"Tôi có vấn đề," Gandhi nói, "và tôi cần sự giúp đỡ của các ông. Tôi có hai mươi vệ sĩ cá nhân, và tôi biết chắc rằng một trong họ là gián điệp Trung Quốc. Nhưng người nào?"

Mitterand và Reagan gật đầu thông cảm và thế rồi người Pháp nói, "Tôi có vấn đề tương tự. Tôi có hai mươi tình nhân và tôi biết chắc rằng một trong số họ là không chung thuỷ. Nhưng người nào?"

"Điều đó chẳng là gì," Ronald Reagan nói, "Tôi có hai mươi người trong văn phòng của tôi. Một trong số họ, tôi biết, là thông minh... Nhưng người nào?"

Ông già Finkelstein và bạn ông ấy Ông Funkenburger có vài chầu rượu trong bữa tối của họ. "Ông biết đấy," Fink nói, "khi tôi ba mươi, việc cương cứng của tôi là mạnh thế, tôi không thể uốn cong nó chút nào, ngay cả dùng cả hai tay tôi."

Funk gật đầu tán thưởng.

"Khi tôi tới bốn mươi," Fink tiếp tục, "Tôi có thể uốn cong nó chỉ chút ít, nhưng chỉ với nỗ lực lớn. Đến năm mươi, tôi có thể uốn cong nó thêm chút nữa. Và bây giờ tôi sáu mươi, tôi có thể dễ dàng uốn cong nó một nửa."

Hai người bạn vẫn nhấp nháp đồ uống.

"Điều đó là đáng ngạc nhiên, Funk," Fink tiếp tục, "tôi tự hỏi tay tôi sẽ còn mạnh bao nhiêu nữa?"

Rubin và Klopman, hai người bạn già, một hôm gặp nhau trên phố. "Mọi việc thế nào?" Rubin hỏi.

"Nó có thể là tồi tệ," Klopman đáp, "nhà tôi cháy cùng mọi thứ trong nó."

"Ồ!" Rubin nói, "điều đó thật kinh khủng."

"Này, không kinh khủng đâu," Klopman đáp, "bảo hiểm trả cho tôi gấp đôi cái đã đáng giá."

"Sao vậy, điều đó thật tuyệt," Rubin kêu lên.

"Không tuyệt đâu," Klopman đáp, "vợ tôi chết trong đám cháy."

"Điều đó thật kinh khủng," Rubin nói.

"Không kinh khủng đâu," Klopman đáp, "ông thấy đấy, tôi đã lại cưới vợ và vợ mới tốt hơn nhiều so với vợ cũ của tôi."

"Điều đó thật tuyệt," Rubin nói.

"Không tuyệt đầu," Klopman đáp, "vì vợ tôi sang thăm hàng xóm của tôi, người là anh chàng rất đẹp trai và cô ấy dành cả đêm ở đó rất thường xuyên."

"Điều đó thật kinh khủng," Rubin nói.

"Không kinh khủng đâu," Klopman đáp, "vì hàng xóm của tôi có cô vợ thực sự đẹp mà lại tới ở với tôi!"

"Vậy mọi sự với ông là tuyệt rồi," Rubin nói.

"Không tuyệt, không kinh khủng," Klopman đáp, "nó có thể là tồi tệ."

Bây giờ, Nivedano, cho tiếng trống thứ nhất và mọi người đi vào trong nói lắp bắp một cách toàn bộ có thể được.

Đánh trống...

(Tiếng trống)

(Nói lắp bắp)

Nivedano, đánh trống...

(Tiếng trống)

Bây giờ, mọi người đi vào trong im lặng tuyệt đối. Nhắm mắt lại, không chuyển động, chỉ hiện hữu ở trong.

Thế này.

Thế này.

Nghìn lần Thế này, là chính bản chất của Thiền.

Bắt giữ thế này và Thượng đế là trong tay bạn.

Trong khoảnh khắc này, tất cả các bạn đã trở thành những ngôi đền của Thượng đế.

Nivedano...

(Tiếng trống)

Bây giờ, ngã chết.

Chỉ để thân thể thở và bạn đơn giản là bây giờ và ở đây.

Đi mỗi lúc một sâu hơn.

Đừng là tre có nhiều đốt.

Đi sâu hơn, tới chính rễ của con người bạn.

Bây giờ, Nivedano...

(Tiếng trống)

Quay lại sống.

Tươi tắn và trẻ trung.

Lắng nghe... ngay cả tre cũng đang hạnh phúc, mở hội im lặng của bạn.

Những tre được phúc lành này chờ mọi ngày cho tới khoảnh khắc này, hiện hữu cùng tôi.

Trong im lặng, toàn thể sự tồn tại là một đại dương.

Được chứ, Maneesha?

Vâng, thưa Osho.

Xem tiếp Chương 15 - Quay về Mục lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post