Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Tâm Lí Của Bí Truyền - Osho
Cuộc cách mạng bên trong
Không câu hỏi...!
Đừng hỏi câu hỏi lí
thuyết. Các lí thuyết giải quyết ít mà gây rối trí nhiều. Nếu như không có lí
thuyết, chắc đã ít vấn đề hơn. Không phải là lí thuyết giải quyết các câu hỏi
hay vấn đề. Ngược lại, vấn đề nảy sinh từ các lí thuyết.
Và đừng hỏi câu hỏi
triết lí. Câu hỏi triết lí chỉ dường như là câu hỏi, nhưng chúng không phải vậy.
Đó là lí do tại sao không câu trả lời nào đã là có thể. Nếu câu hỏi thực sự là
câu hỏi thế thì nó là trả lời được, nhưng nếu nó là giả, chỉ là mơ hồ ngôn ngữ,
thế thì nó không thể được trả lời. Triết lí đã liên tục trả lời trong hết thế kỉ
nọ tới thế kỉ kia, nhưng các câu hỏi vẫn còn như nó vậy. Tuy nhiên bạn trả lời
một câu hỏi triết lí bạn không bao giờ trả lời nó, vì bản thân câu hỏi này là
giả. Nó không được ngụ ý để được trả lời chút nào. Câu hỏi là tới mức, về bản
chất, không câu trả lời nào là có thể.
Và đừng hỏi câu hỏi
siêu hình. Chẳng hạn, nếu bạn hỏi ai đã tạo ra thế giới, nó là không thể trả lời
được. Nó là ngớ ngẩn. Không phải là các câu hỏi siêu hình không là câu hỏi thực,
nhưng chúng không thể được trả lời. Chúng có thể được giải, nhưng chúng không
thể được trả lời.
Hỏi câu hỏi mà có
tính cá nhân, thân thiết, có tính tồn tại đi. Người ta phải nhận biết về điều
người ta thực sự hỏi. Nó có phải là cái gì đó thực sự có nghĩa cái gì đó cho bạn
không? Nếu nó được trả lời, chiều hướng mới có mở ra cho bạn không? Cái gì đó
có được thêm vào cho sự tồn tại của bạn không, con người bạn có được biến đổi
theo bất kì cách nào qua nó không? Chỉ những câu hỏi như vậy là có tính tôn
giáo.
Tôn giáo quan tâm tới
vấn đề, không quan tâm tới câu hỏi. Câu hỏi có thể chỉ tới từ tò mò, nhưng vấn
đề là thân thiết và cá nhân. Bạn được tham gia vào trong nó; nó là bạn. Câu hỏi
là tách rời khỏi bạn; vấn đề là bạn. Cho nên trước khi hỏi bất kì cái gì, đào
sâu vào bên trong và hỏi cái gì đó mà là thân thiết và cá nhân, cái gì đó mà bạn
bị mơ hồ trong nó, cái mà bạn được tham gia vào. Chỉ thế thì bạn có thể được
giúp đỡ.
Các kiếp sống của chúng ta có được tiền định
hay không?
Đây không phải là vấn
đề cá nhân, nó là câu hỏi triết lí.
Các kiếp sống của
chúng ta là cả tiền định và không tiền định. Cả có và không. Và cả hai câu trả
lời này là đúng cho mọi câu hỏi về sự sống.
Theo một cách nào đó,
mọi thứ là được tiền định. Bất kì cái gì là vật lí trong chúng ta, vật chất, bất
kì cái gì là tâm trí, đều được tiền định. Nhưng cái gì đó trong bạn thường
xuyên vẫn còn không được xác định, không dự đoán được. Cái gì đó đó là tâm thức
của bạn.
Nếu bạn bị đồng nhất
với thân thể của bạn và sự tồn tại vật chất, theo cùng tỉ lệ bạn bị xác định bởi
luật nhân quả. Thế thì bạn là cái máy. Nhưng nếu bạn không bị đồng nhất với sự
tồn tại vật chất của bạn, với cả thân thể và tâm trí - nếu bạn có thể cảm thấy
bản thân bạn là cái gì đó tách rời, khác biệt, ở trên và siêu việt trên
thân-tâm - thế thì tâm thức siêu việt đó không bị tiền định. Nó là tự phát, tự
do. Tâm thức ngụ ý tự do; vật chất ngụ ý nô lệ. Cho nên tuỳ vào cách bạn xác định
bản thân bạn. Nếu bạn nói, "Tôi chỉ là thân thể," thế thì mọi thứ về
bạn hoàn toàn được xác định.
Người nói rằng con
người chỉ là thân thể không thể nói rằng con người không bị tiền định. Bình thường,
người không tin vào những điều như tâm thức cũng không tin vào tiền định. Người
có tính tôn giáo và tin vào tâm thức bình thường tin vào tiền định. Cho nên điều
tôi đang nói có thể có vẻ rất mâu thuẫn. Nhưng dầu vậy, nó là hoàn cảnh.
Người đã biết tâm thức
đã biết tự do. Cho nên chỉ người tâm linh có thể nói rằng không có việc xác định
chút nào. Việc nhận ra đó chỉ tới khi bạn hoàn toàn không bị đồng nhất với thân
thể. Nếu bạn cảm thấy rằng bạn chỉ là sự tồn tại vật chất, thế thì không tự do
nào là có thể. Với vật chất, không tự do nào là có thể. Vật chất ngụ ý cái
không thể là tự do. Nó phải chảy trong chuỗi nhân quả.
Một khi ai đó đã đạt
tới tâm thức, chứng ngộ, người đó hoàn toàn ở ngoài cõi nhân quả. Người đó trở
nên tuyệt đối không thể dự đoán được. Bạn không thể nói được bất kì cái gì về
người đó. Người đó bắt đầu sống từng khoảnh khắc; sự tồn tại của người đó trở
thành có tính nguyên tử.
Sự tồn tại của bạn là
một chuỗi tựa dòng sông trong đó mọi bước đều bị xác định bởi quá khứ. Tương
lai của bạn không là tương lai thực sự; nó chỉ là sản phẩm phụ của quá khứ. Nó
chỉ là quá khứ xác định, hình thành và ước định tương lai của bạn. Đó là lí do
tại sao tương lai của bạn là dự đoán được.
Skinner nói rằng con
người là dự đoán được như bất kì cái gì khác. Khó khăn duy nhất là ở chỗ chúng
ta còn chưa phát minh ra phương tiện để biết toàn bộ quá khứ của con người. Khoảnh
khắc chúng ta có thể biết quá khứ của người đó, chúng ta có thể dự đoán mọi thứ
về người đó. Dựa trên những người mà ông ấy đã cùng làm việc với, Skinner là
đúng, vì họ toàn là những người dự đoán được chung cuộc. Ông ấy đã thực nghiệm
với hàng trăm người và ông ấy đã thấy rằng tất cả họ đều là những người máy
móc, rằng không cái gì tồn tại bên trong họ mà có thể được gọi là tự do.
Nhưng khảo cứu của
ông ấy bị giới hạn. Không Phật nào đã tới phòng thí nghiệm của ông ấy để được
làm thực nghiệm. Nếu cho dù một người là tự do, nếu cho dù một người là không
máy móc, không thể dự đoán được, toàn thể lí thuyết của Skinner sụp đổ. Nếu một
người trong toàn thể lịch sử nhân loại là tự do và không thể dự đoán được, thế
thì con người có tiềm năng tự do và không thể dự đoán được.
Toàn thể khả năng của
tự do tuỳ thuộc vào liệu bạn nhấn mạnh vào thân thể của bạn hay tâm thức của bạn.
Nếu bạn chỉ là dòng chảy hướng ra ngoài của sự sống, thế thì mọi thứ được xác định.
Hay bạn cũng là cái gì đó bên trong? Đừng cho bất kì câu trả lời công thức làm
sẵn. Đừng nói, "Tôi là hồn." Nếu bạn cảm thấy không có gì khác bên
trong bạn, thế thì cứ thành thực về điều đó đi. Thành thực này sẽ là bước đầu tiên
hướng tới tự do bên trong của tâm thức.
Nếu bạn đi sâu vào
bên trong, bạn sẽ cảm thấy rằng mọi thứ chỉ là một phần của phía bên ngoài.
Thân thể bạn đã tới từ bên ngoài, ý nghĩ của bạn đã tới từ bên ngoài,ngay cả
cái ngã của bạn đã được người khác trao cho bạn. Đó là lí do tại sao bạn sợ ý
kiến của người khác thế - vì họ hoàn toàn kiểm soát cái ngã của bạn. Họ có thể
thay đổi ý kiến của họ về bạn vào bất kì khoảnh khắc nào. Cái ngã của bạn, thân
thể bạn, ý nghĩ của bạn được trao cho bạn bởi người khác, vậy cái gì ở bên
trong? Bạn là sự tích luỹ các tầng và các tầng của bên ngoài. Nếu bạn bị đồng
nhất với nhân cách này của bạn, cái tới từ người khác, thế thì mọi thứ được xác
định.
Trở nên nhận biết về
mọi thứ tới từ bên ngoài và trở thành không bị đồng nhất với nó. Thế thì một
khoảnh khắc sẽ tới khi cái bên ngoài sụp đổ hoàn toàn. Bạn sẽ ở trong chân
không. Chân không này là lối chuyển giữa cái bên ngoài và cái bên trong, cánh cửa.
Chúng ta sợ chân không thế, sợ là trống rỗng tới mức chúng ta bám lấy việc tích
luỹ bên ngoài. Người ta phải đủ dũng cảm để không đồng nhất với việc tích luỹ
và vẫn còn trong chân không. Nếu bạn không đủ dũng cảm, bạn sẽ đi ra và bám lấy
cái gì đó, và được rót đầy với nó. Nhưng khoảnh khắc này của việc ở trong chân
không là thiền. Nếu bạn đủ dũng cảm, nếu bạn có thể vẫn còn trong khoảnh khắc
này, toàn thể con người bạn sẽ sớm tự động quay vào trong.
Khi không có gì để bị
gắn vào từ bên ngoài, con người bạn quay vào trong. Thế thì lần đầu tiên bạn biết
rằng bạn là cái gì đó siêu việt trên mọi thứ bạn đã từng nghĩ bản thân bạn là vậy.
Bây giờ bạn là cái gì đó khác với trở thành, bạn là hiện hữu. Hiện hữu này là tự
do; không cái gì có thể xác định nó. Nó là tuyệt đối tự do. Không chuỗi nhân quả
nào là có thể.
Hành động của bạn có
quan hệ với các hành động quá khứ. A đã tạo ra tình huống cho B để trở thành có
thể; B tạo ra tình huống trong đó C nở hoa. Hành động của bạn được kết nối với
hành động quá khứ và điều này quay trở lại sự bắt đầu vô thuỷ và đi tới kết
thúc vô chung. Không chỉ các hành động riêng của bạn xác định ra bạn, mà hành động
của bố bạn và mẹ bạn cũng có sự liên tục với hành động của bạn. Xã hội của bạn,
lịch sử của bạn, mọi điều đã xảy ra trước đây, bằng cách nào đó có liên quan tới
hành động hiện tại của bạn. Toàn thể lịch sử đã đi tới nở hoa trong bạn.
Mọi thứ mà bao giờ
cũng đã xảy ra được kết nối với hành động của bạn, cho nên hành động của bạn hiển
nhiên được xác định. Nó là phần nhỏ thế của toàn thể bức tranh. Lịch sử là lực
sống động thế và hành động cá nhân của bạn là phần nhỏ thế của nó.
Marx đã nói,
"Không phải tâm thức xác định ra các điều kiện của xã hội. Chính xã hội và
các điều kiện của nó xác định ra tâm thức. Không phải là những người vĩ đại tạo
ra các xã hội vĩ đại. Chính các xã hội vĩ đạo tạo ra con người vĩ đại." Và
ông ấy đúng theo cách nào đó, vì bạn không phải là người khởi đầu các hành động
của bạn. Toàn thể lịch sử đã xác định chúng. Bạn chỉ tiến hành chúng.
Toàn thể quá trình tiến
hoá đã đi vào việc làm ra các tế bào sinh học của bạn. Thế rồi những tế bào này
trong bạn trở thành một phần của người khác. Bạn có thể nghĩ rằng bạn là người
bố, nhưng bạn chỉ là sân khấu trên đó toàn thể tiến hoá sinh học đã hành động
và đã buộc bạn hành động. Hành động sinh sản là ép buộc thế vì nó ở bên ngoài bạn;
nó là toàn thể quá trình tiến hoá làm việc qua bạn.
Đây là một cách trong
đó hành động xảy ra trong quan hệ với các hành động quá khứ khác. Nhưng khi một
người trở nên chứng ngộ, một hiện tượng mới bắt đầu xảy ra. Các hành động không
còn được kết nối với các hành động quá khứ. Bất kì hành động nào, bây giờ, chỉ
được kết nối với tâm thức của người đó. Nó tới từ tâm thức của người đó chứ
không từ quá khứ. Đó là lí do tại sao người chứng ngộ không thể được dự đoán.
Skinner nói rằng
chúng ta có thể xác định bạn sẽ làm gì nếu các hành động quá khứ của bạn được
biết. Ông ấy nói rằng câu ngạn ngữ cổ, "Bạn có thể dẫn ngựa tới chỗ có nước
nhưng bạn không thể làm cho nó uống nước," là sai. Bạn có thể ép nó uống.
Bạn có thể tạo ra bầu không khí để cho ngựa sẽ phải uống. Ngựa có thể bị ép buộc,
và bạn cũng có thể bị ép buộc, vì hành động của bạn được tạo ra bởi tình huống,
bởi hoàn cảnh. Nhưng cho dù bạn có thể mang vị Phật tới song, bạn không thể ép
ông ấy uống được. Bạn càng ép ông ấy, điều đó sẽ càng không thể được. Không
nóng nào sẽ làm cho ông ấy uống. Cho dù hàng nghìn mặt trời chiếu lên ông ấy
cũng sẽ không giúp gì. Phật có nguồn gốc hành động khác. Nó không liên quan tới
các hành động khác; nó được nối với tâm thức.
Đó là lí do tại sao
tôi nhấn mạnh rằng bạn hành động có ý thức. Thế thì, mọi khoảnh khắc bạn hành động,
vấn đề không phải là sự tiếp tục của các hành động khác. Bạn là tự do. Bây giờ
bạn bắt đầu hành động, và không ai có thể nói bạn sẽ hành động thế nào.
Thói quen có tính máy
móc; chúng lặp lại bản thân chúng. Bạn càng lặp lại cái gì đó, bạn càng trở nên
hiệu quả hơn. Hiệu quả ngụ ý rằng bây giờ ý thức không được cần. Nếu người ta
là người gõ máy hiệu quả điều đó có nghĩa rằng không nỗ lực nào được cần; việc
gõ máy có thể được làm một cách vô thức. Cho dù người đó đang nghĩ về cái gì đó
khác việc gõ máy vẫn tiếp tục. Thân thể đang gõ; người này không được cần. Tính
hiệu quả ngụ ý rằng sự việc là chắc chắn tới mức không nỗ lực nào là có thể. Với
tự do, nỗ lực bao giờ cũng là có thể. Máy không thể phạm lỗi . Để phạm lỗi, người
ta phải có ý thức.
Cho nên hành động của
bạn có mối quan hệ với chuỗi các hành động trước của bạn. Chúng được xác định.
Thời thơ ấu của bạn xác định thời thanh niên của bạn; thời thanh niên của bạn
xác định tuổi già của bạn. Sinh của bạn xác định chết của bạn; mọi thứ đều được
xác định. Phật thường nói, "Cung cấp nguyên nhân, và hậu quả sẽ có
đó." Đây là thế giới nhân quả trong đó mọi thứ được xác định.
Nếu bạn hành động với
toàn bộ ý thức, một tình huống hoàn toàn khác tồn tại. Thế thì mọi thứ là từ
khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Tâm thức là một luồng; nó không tĩnh tại. Nó là bản
thân sự sống, cho nên nó thay đổi. Nó sống động. Nó liên tục mở rộng; nó liên tục
trở thành mới, tươi tắn, trẻ trung. Thế thì, hành động của bạn sẽ là tự phát.
Tôi nhớ tới một chuyện
Thiền...
Một Thiền sư hỏi đệ tử
của ông ấy một câu hỏi đặc biệt. Câu hỏi này đã được trả lời đích xác như nó
đáng phải được trả lời. Ngày hôm sau thầy hỏi đích xác cùng câu hỏi này. Đệ tử
nói, "Nhưng tôi đã trả lời câu hỏi này hôm qua rồi."
Thầy nói, "Giờ
ta đang hỏi lại ông đấy." Đệ tử này lặp lại cùng câu trả lời. Thầy nói,
"Ông không biết!"
Đệ tử này nói,
"Nhưng hôm qua tôi đã trả lời theo cùng cách và thầy đã gật đầu rồi. Cho
nên tôi diễn giải rằng câu trả lời đó đã là đúng. Sao thầy đã đổi ý bây giờ?"
Thầy nói, "Bất
kì cái gì có thể được lặp lại đều không tới từ ông. Câu trả lời đã tới từ kí ức
của ông, không từ tâm thức của ông. Nếu như ông đã thực sự biết, câu trả lời chắc
sẽ khác vì nhiều thứ thế đã thay đổi. Ta không là cùng người đã hỏi ông câu hỏi
này hôm qua. Toàn thể tình huống là khác. Ông cũng là khác, nhưng câu trả lời
là cùng một thứ. Ta phải hỏi lại câu hỏi này chỉ để xem liệu ông có lặp lại câu
trả lời không. Không cái gì có thể được lặp lại."
Bạn càng sống động,
càng ít lặp lại. Chỉ người chết có thể nhất quán. Việc sống là bất nhất thế; sống
là tự do. Tự do không thể là nhất quán. Nhất quán với cái gì? Bạn có thể nhất
quán chỉ với quá khứ.
Người chứng ngộ là nhất
quán chỉ trong tâm thức của người đó; người đó không bao giờ nhất quán với quá
khứ của mình. Người đó là toàn bộ trong hành động. Không cái gì bị bỏ lại đằng
sau; không cái gì bị bỏ ra. Khoảnh khắc tiếp hành động này được kết thúc và tâm
thức người đó lại tươi tắn. Tâm thức sẽ có đó bất kì khi nào tình huống nảy
sinh, nhưng từng hành động sẽ được thực hiện trong tự do hoàn toàn, dường như
đó là lần đầu tiên mà người này đã từng ở trong tình huống đặc biệt này.
Đó là lí do tại sao
tôi đã trả lời cả có và không cho câu hỏi của bạn. Điều đó tuỳ vào bạn, liệu bạn
là tâm thức, hay liệu bạn là việc tích luỹ, sự tồn tại thân thể.
Tôn giáo cho tự do vì
tôn giáo cho tâm thức. Khoa học càng biết về vật chất, thế giới sẽ càng bị làm
thành nô lệ. Toàn thể hiện tượng vật chất này là của nhân quả: nếu bạn biết rằng
cái này được cho, cái kia xảy ra - thế thì mọi thứ có thể được xác định.
Trước khi thế kỉ này
kết thúc, chúng ta sẽ thấy toàn thể tiến trình của nhân loại được xác định theo
nhiều cách. Thảm hoạ lớn nhất mà có thể có không phải là xung đột hạt nhân. Nó chỉ
có thể tàn phá. Thảm hoạ thực sẽ tới từ khoa học tâm lí. Họ sẽ biết cách con
người có thể bị kiểm soát hoàn toàn. Vì chúng ta không ý thức, chúng ta có thể
bị làm cho cư xử theo cách tiền định.
Như chúng ta vậy, mọi
thứ về chúng ta đều được xác định. Ai đó là người Hindu; ai đó khác là người Mô
ha mét giáo. Đây là tiền định, không tự do. Bố mẹ đã quyết định; xã hội đang
quyết định. Ai đó là bác sĩ và ai đó khác là kĩ sư. Bây giờ hành vi của người
đó được xác định.
Chúng ta đã bị kiểm soát thường xuyên, và
phương pháp của chúng ta vẫn rất nguyên thuỷ. Những kĩ thuật mới hơn sẽ có khả
năng xác định ra hành vi của chúng ta tới mức mà không ai sẽ có khả năng nói rằng
có hồn. Nếu mọi đáp ứng của bạn đều được xác định, thế thì nghĩa của hồn là gì?
Đáp ứng của bạn có thể
được xác định qua hoá chất thân thể. Nếu rượu được cho bạn, bạn hành xử khác
đi. Hoá chất thân thể của bạn là khác cho nên bạn hành xử khác. Vào một thời,
kĩ thuật Tantra tối thượng đã cho uống chất độc và vẫn còn ý thức. Nếu một người
vẫn còn ý thức khi mọi thứ đã chỉ ra rằng người đó đáng phải là vô thức, chỉ thế
Tantra sẽ nói người này đã chứng ngộ, bằng không thì không đâu.
Nếu hoá chất thân thể
có thể thay đổi tâm thức của bạn, thế thì nghĩa của tâm thức là gì? Nếu việc
tiêm có thể làm cho bạn vô thức, thế thì nghĩa là gì? Thế thì thuốc hoá chất
trong việc tiêm là mạnh hơn tâm thức riêng của bạn. Tantra nói có thể siêu việt
trên mọi chất độc và vẫn còn ý thức. Chất kích thích đã được cho, nhưng đáp ứng
không có đó.
Dục là hiện tượng hoá
chất. Một lượng hooc môn đặc biệt tạo ra ham muốn dục. Bạn trở thành ham muốn
này. Bạn có thể hối hận khi hoá chất thân thể bạn đã trở lại mức bình thường của
nó, nhưng hối hận là vô nghĩa. Khi hooc môn lại có đó, bạn sẽ hành động theo
cùng cách. Cho nên Tantra cũng đã thực nghiệm với dục. Nếu bạn cảm thấy không
ham muốn dục trong một tình huống mà là dục toàn bộ, thế thì bạn là tự do. Hoá
chất thân thể bạn đã bị bỏ lại xa đằng sau. Thân thể có đó, nhưng bạn không
trong thân thể.
Giận cũng chỉ là hoá
chất. Các nhà sinh hoá sẽ sớm có khả năng làm cho bạn thành không giận, hay
không dục. Nhưng bạn sẽ không có khả năng là Phật. Phật đã không có năng lực giận.
Ông ấy đã có khả năng của nó, nhưng tác dụng của việc cảm thấy giận không có
đó.
Nếu hoá chất thân thể
bạn bị kiểm soát, bạn sẽ không có năng lực là giận. Điều kiện hoá chất làm cho
bạn cảm thấy giận không có đó, cho nên tác dụng của giận không có đó. Hay nếu
hooc môn dục của bạn bị loại bỏ khỏi thân thể của bạn, bạn sẽ không có tính dục.
Nhưng điều thực không phải là liệu bạn có tính dục hay không, giận hay không.
Điều thực là cách là nhận biết trong tình huống yêu cầu vô thức của bạn, điều
chỉ xảy ra trong vô thức.
Bất kì khi nào một
tình huống như vậy có đó, suy ngẫm về nó đi. Bạn đã được cho một cơ hội lớn. Nếu
bạn cảm thấy ghen, suy ngẫm về nó đi. Đây là khoảnh khắc đúng. Hoá chất thân thể
của bạn đang làm việc bên trong bạn. Nó sẽ làm cho bạn thành vô thức; nó sẽ làm
cho bạn hành xử dường như bạn điên. Bây giờ, có ý thức đi. Để ghen có đó, đừng
kìm nén nó, nhưng có ý thức; là nhân chứng cho nó.
Nếu có giận, là nhân
chứng cho nó; nếu có dục, là nhân chứng cho nó. Để bất kì cái gì đang xảy ra
bên trong bạn xảy ra, và bắt đầu suy ngẫm về toàn thể tình huống. Dần dần, nhận
biết của bạn càng sâu sắc hơn, càng ít có khả năng hành vi của bạn bị xác định
cho bạn. Bạn trở thành tự do. Moksha, tự do, không ngụ ý bất kì cái gì khác. Nó
chỉ ngụ ý tâm thức là tự do tới mức không cái gì có thể xác định được nó.
Yêu thiêng liêng là gì? Làm sao người chứng
ngộ trải nghiệm yêu?
Trước hết chúng ta
hãy nhìn vào bản thân câu hỏi này. Bạn phải đã từng chờ đợi để hỏi nó. Nó có thể
đã không tới với bạn ngay bây giờ; bạn phải đã quyết định về nó từ trước. Nó đã
chờ đợi để được hỏi; nó đã ép buộc bạn hỏi nó. Kí ức của bạn đã xác định việc hỏi
này, không phải tâm thức của bạn. Nếu như bạn có ý thức ngay bây giờ, nếu như bạn
ở trong khoảnh khắc này, câu hỏi này chắc đã không tới. Nếu bạn đã từng nghe điều
tôi đã từng nói, câu hỏi này chắc đã là không thể được.
Nếu câu hỏi này đã từng
hiện diện trong bạn, điều không thể được với bạn là đã nghe bất kì cái gì tôi
đã từng nói. Câu hỏi mà thường xuyên hiện diện trong tâm trí tạo ra căng thẳng
và vì căng thẳng này bạn không thể ở đây được. Đó là lí do tại sao tâm thức bạn
không thể hành động với tự do. Nếu bạn hiểu điều này, thế thì chúng ta có thể
bàn đến câu hỏi của bạn.
Bản thân câu hỏi này
là tốt, nhưng tâm trí đã từng nghĩ về nó là ốm. Nhận biết phải có từ khoảnh khắc
sang khoảnh khắc, không chỉ trong các hành động mà cả trong các câu hỏi, trong
mọi cử chỉ. Nếu tôi giơ ngón tay lên, nó có thể chỉ là thói quen. Thế thì tôi
không là người chủ của thân thể của tôi. Nhưng nếu nó là cách diễn đạt tự phát
của cái gì đó mà đang hiện diện trong tâm thức của tôi ngay bây giờ, nó là hoàn
toàn khác.
Mọi cử chỉ của người
thuyết giảng Ki tô giáo là được tiền định. Ông ta đã được dạy điều đó. Một lần
tôi đã ở tại trường đại học Thượng đế học Ki tô giáo. Sau năm năm tại trường
này, người ta trở thành tiến sĩ thần học. Ngớ ngẩn! Tiến sĩ thần học là ngu si
vô cùng! Họ đã được huấn luyện trong mọi thứ: cách đứng trên bục giảng kinh,
cách bắt đầu buổi lễ, cách hát bài thánh ca, cách nhìn vào khán giả, chỗ nào dừng
lại và chỗ nào để kẽ hở hay khoảng hở. Mọi thứ! Việc chuẩn bị ngu xuẩn này phải
không xảy ra. Đó là điều không may lớn.
Cho nên ở trong khoảnh
khắc đi. Đừng quyết định trước bất kì cái gì. Nhận biết rằng câu hỏi đang hiện
diện bên trong, rằng nó đang gõ cửa của tâm trí liên tục. Bạn đã không nghe tôi
chút nào - chỉ bởi vì câu hỏi này! Và khi tôi bắt đầu nói về câu hỏi của bạn,
tâm trí bạn sẽ tạo ra câu hỏi khác. Lần nữa bạn sẽ lỡ. Điều tôi đang nói không
là riêng cho bạn. Nó là đúng cho mọi người.
Bây giờ tới câu hỏi
này.
Bất kì khi nào yêu tồn
tại nó đều là thiêng liêng, cho nên nói “yêu thiêng liêng” là vô nghĩa. Yêu bao
giờ cũng thiêng liêng. Nhưng tâm trí là tinh ranh. Nó nói: "Chúng tôi biết
yêu là gì. Vấn đề chỉ là chúng tôi không biết yêu thiêng liêng là gì
thôi." Nhưng chúng ta thậm chí không biết yêu. Nó là một trong những điều
không được biết nhất. Có quá nhiều việc nói về nó; nó chưa bao giờ được sống.
Đây là thủ đoạn của tâm trí. Chúng ta nói về cái mà chúng ta không thể sống.
Văn học, âm nhạc, thơ
ca, múa - mọi thứ xoay quanh yêu. Nếu yêu mà thực sự có đó, chúng ta chắc đã
không nói về nó nhiều thế. Việc nói thái quá của chúng ta về yêu chỉ ra rằng yêu
là vô tồn tại. Nói về những thứ không có đó là việc thay thế. Bằng việc nói, bằng
ngôn ngữ, bằng biểu tượng, bằng nghệ thuật, chúng ta tạo ra ảo tưởng rằng thứ
này có đó. Người chưa bao giờ biết yêu có thể viết bài thơ về nó hay hơn người
đã biết yêu, vì chân không nhiều phần sâu hơn. Nó phải được lấp đầy. Cái gì đó
phải được thay thế vào chỗ của yêu.
Tốt hơn cả trước hết
phải hiểu yêu là gì, vì khi bạn hỏi về yêu thiêng liêng, điều được hiểu là yêu
được biết rồi. Nhưng yêu không được biết. Điều được biết là yêu là cái gì đó
khác. Cái giả phải được biết trước khi các bước có thể được lấy hướng tới cái
thực, cái đúng.
Điều được biết như
yêu chỉ là mê đắm. Bạn bắt đầu yêu ai đó. Nếu ai đó đó trở thành của bạn một cách
toàn bộ, yêu sẽ sớm chết; nhưng nếu có rào chắn, nếu bạn không thể có người bạn
yêu, yêu sẽ trở nên mãnh liệt. Càng nhiều rào chắn, yêu sẽ càng được cảm thấy
mãnh liệt hơn. Nếu người được yêu là không thể nào lấy được, yêu trở thành vĩnh
hằng; nhưng nếu bạn có thể chiếm được người yêu của bạn dễ dàng, thế thì yêu chết
yểu.
Khi bạn cố có được
cái gì đó và bạn không thể có được nó, bạn trở nên mãnh liệt về việc có được
nó. Cản trở càng có đó, bản ngã của bạn càng cảm thấy cần phải làm cái gì đó.
Nó trở thành vấn đề bản ngã. Bạn càng bị từ chối, bạn càng trở nên căng thẳng
hơn - và càng mê đắm hơn. Căng thẳng này bạn gọi là yêu. Đó là lí do tại sao, một
khi tuần trăng mật qua rồi, yêu già đi. Thậm chí trước cả điều đó. Điều bạn biết
là yêu đã không phải là yêu. Nó chỉ là mê đắm của bản ngã, căng thẳng của bản
ngã: cuộc vật lộn, xung đột.
Xã hội con người cổ đại
đã rất tinh ranh. Họ đã nghĩ ra phương pháp làm cho yêu kéo dài. Nến đàn ông
không thể gặp vợ mình trong thời gian dài, mê đắm sẽ được tạo ra; căng thẳng sẽ
được tạo ra. Thế thì đàn ông có thể vẫn còn với một vợ cả đời mình.
Nhưng ở phương Tây
bây giờ, hôn nhân không thể tồn tại thêm nữa. Không phải là tâm trí phương Tây
nhiều tính dục hơn. Chính mê đắm đó không được phép tích luỹ. Dục là sẵn có dễ
dàng tới mức hôn nhân không thể tồn tại. Yêu nữa cũng không thể tồn tại với loại
tự do này. Nếu xã hội hoàn toàn tự do về dục, thế thì chỉ dục có thể tồn tại.
Chán là mặt kia của
mê đắm. Nếu bạn yêu ai đó và không chiếm được người yêu, mê đắm đi sâu, nhưng nếu
bạn chiếm được anh ấy hay cô ấy, bạn bắt đầu cảm thấy chán, ngán. Có nhiều nhị
nguyên: mê đắm/chán, yêu/ghét, hút vào/đẩy ra. Với mê đắm bạn cảm thấy hút vào,
yêu, và với chán bạn cảm thấy đẩy ra, ghét.
Không hút vào nào có
thể thực sự là yêu vì đẩy ra nhất định tới. Chính bản chất của mọi sự là mặt
kia sẽ tới. Nếu bạn không muốn cái đối lập tới, bạn phải tạo ra rào chắn để cho
mê đắm không bao giờ kết thúc; bạn phải tạo ra căng thẳng hàng ngày. Thế thì mê
đắm tiếp tục. Đây là lí do cho toàn thể hệ thống cổ đại tạo ra rào chắn cho
yêu.
Nhưng điều đó sẽ sớm
không còn có thể có. Thế thì hôn nhân sẽ chết, và yêu cũng sẽ chết. Nó sẽ đi
sâu vào trong bối cảnh. Chỉ dục sẽ còn lại. Nhưng dục tự nó không thể trụ được;
nó trở thành quá máy móc. Nietzsche đã tuyên bố rằng Thượng đế chết. Điều thực
mà sẽ chết trong thế kỉ này là dục. Tôi không ngụ ý rằng mọi người sẽ vô dục. Họ
sẽ vẫn có dục, nhưng việc nhấn mạnh thái quá vào dục sẽ diễn ra. Dục sẽ trở
thành hành động bình thường như bất kì cái gì khác - như đi đái hay ăn hay bất
kì cái gì. Nó sẽ không có nghĩa. Nó đã trở thành có nghĩa chỉ vì các rào chắn
mà đã được tạo ra quanh nó.
Điều bạn đã gọi là
yêu thì không phải là yêu. Nó chỉ là dục bị làm chậm lại. Thế thì yêu là gì?
Yêu không có quan hệ với dục chút nào. Dục có thể tới trong nó hoặc có thể
không tới, nhưng nó không thực sự có quan hệ với dục chút nào. Nó là thứ khác
hoàn toàn.
Với tôi, yêu là sản
phẩm phụ của tâm trí có tính thiền. Nó không có quan hệ với dục; nó có quan hệ
với dhyana, thiền. Bạn càng trở nên im lặng, bạn sẽ càng thoải mái hơn với bản
thân bạn, bạn sẽ càng cảm thấy được hoàn thành nhiều hơn, và càng nhiều cách diễn
đạt mới của con người bạn sẽ có đó. Bạn sẽ bắt đầu yêu. Không yêu bất kì người
nào nói riêng. Nó có thể xảy ra với ai đó nói riêng, nhưng điều đó là chuyện
khác. Bạn bắt đầu yêu. Việc yêu này trở thành cách tồn tại của bạn. Nó không
bao giờ có thể biến thành việc đẩy ra vì nó không phải là việc hút vào.
Bạn phải hiểu phân biệt
này thật rõ ràng. Bình thường khi bạn rơi vào yêu ai đó, việc cảm thực là làm
sao có được yêu từ người đó. Không phải là yêu đang đi từ bạn tới người đó.
Thay vì thế nó là mong đợi rằng yêu sẽ tới bạn từ người đó. Đó là lí do tại sao
yêu trở thành sở hữu. Bạn sở hữu ai đó để cho bạn có thể có được cái gì đó từ người
đó. Nhưng yêu tôi đang nói tới không là sở hữu mà nó cũng không là bất kì mong
đợi nào. Nó chỉ là cách bạn hành xử. Bạn đã trở thành im lặng, đáng yêu tới mức
im lặng của bạn đi tới người khác bây giờ.
Khi bạn giận, giận của
bạn đi tới người khác. Khi bạn ghét, ghét của bạn đi tới người khác. Khi các bạn
đang trong yêu, các bạn cảm thấy rằng yêu của các bạn đang đi tới người kia,
nhưng các bạn là không thể phụ thuộc được. Khoảnh khắc này có yêu, và khoảnh khắc
tiếp sẽ có ghét. Ghét là không đối lập yêu; nó là một phần của yêu, sự liên tục.
Nếu bạn đã yêu người
nào đó, thế thì bạn sẽ ghét người đó. Bạn có thể không đủ dũng cảm để thừa nhận
điều đó, nhưng bạn sẽ ghét người đó. Những người yêu bao giờ cũng trong xung đột
khi họ ở cùng nhau. Khi họ không ở cùng nhau họ có thể hát những bài hát về yêu
cho nhau, nhưng khi họ ở cùng nhau họ bao giờ cũng tranh đấu. Họ không thể sống
một mình, và họ không thể sống cùng nhau. Khi người kia không có đó, mê đắm được
tạo ra; hai người lại cảm thấy yêu lẫn nhau. Nhưng khi người kia hiện diện, mê
đắm ra đi và hận thù lại được cảm thấy.
Yêu tôi đang nói tới
ngụ ý rằng bạn đã trở thành im lặng tới mức bây giờ không có giận, không có hút
vào không có đẩy ra. Thực sự, bây giờ không yêu và ghét. Bạn không có việc hướng
tới người kia chút nào. Người kia đã biến mất; bạn một mình với bản thân bạn.
Trong việc cảm này về tính một mình, yêu tới với bạn như hương thơm.
Hỏi xin yêu từ người
kia bao giờ cũng là xấu. Phụ thuộc vào người kia, hỏi xin cái gì đó từ người
kia, bao giờ cũng tạo ra lệ thuộc, đau khổ, xung đột. Người ta phải là đủ lên bản
thân mình. Điều tôi ngụ ý bởi thiền là trạng thái hiện hữu nơi người ta là đủ
lên bản thân mình. Bạn đã trở thành vòng tròn, một mình. Hình tròn tượng trưng
tôn giáo - mandala là đầy đủ.
Bạn đang cố làm cho
mandala thành đầy đủ bằng người khác: đàn ông với đàn bà, đàn bà với đàn ông. Tại
những khoảnh khắc nào đó những đường thẳng gặp gỡ, nhưng gần như trước khi họ gặp
gỡ, phân tách bắt đầu. Chỉ nếu bạn trở thành vòng tròn hoàn hảo - toàn thể, đủ
lên bản thân bạn – yêu bắt đầu nở hoa trong bạn. Thế thì bất kì cái gì tới gần
bạn, bạn yêu. Nó không phải là hành động chút nào; nó không phải là cái gì đó bạn
làm. Chính con người bạn, chính sự hiện diện của bạn, là yêu. Yêu chảy qua bạn.
Nếu bạn hỏi một người
đã đạt tới trạng thái này, "Bạn có yêu tôi không?" sẽ khó cho người
đó trả lời. Người đó không thể nói, "Tôi yêu bạn," vì yêu không phải
là hành động về phần người đó; nó không là việc làm. Và người đó không thể nói,
"Tôi không yêu bạn," vì người đó yêu. Thực sự, người đó là yêu.
Yêu này chỉ tới với tự
do mà tôi đã nói tới. Tự do là việc cảm mà bạn có, và yêu là việc cảm mà người
khác có về bạn. Khi thiền xảy ra bên trong, bạn cảm thấy hoàn toàn tự do. Tự do
này là việc cảm bên trong; nó không thể được người khác cảm thấy.
Đôi khi hành vi của bạn
có thể tạo ra khó khăn cho người khác, vì họ không thể quan niệm được cái gì đã
xảy ra trong bạn. Theo một cách nào đó bạn sẽ là phiền hà cho họ, sự bất tiện,
vì bạn không thể được dự đoán. Bây giờ không cái gì sẽ được biết về bạn. Bạn sẽ
làm gì tiếp? Bạn sẽ nói gì? Không ai có thể biết. Mọi người quanh bạn cảm thấy
sự bất tiện nào đó. Họ không bao giờ có thể thoải mái cùng bạn vì bây giờ bạn
có thể làm bất kì cái gì; bạn không chết.
Họ không thể cảm thấy
tự do của bạn vì họ đã không biết bất kì cái gì như điều đó. Họ thậm chí đã
không tìm điều đó; họ đã không thăm dò điều đó. Họ bị lệ thuộc nhiều tới mức họ
thậm chí không thể quan niệm được tự do là gì. Họ đã ở trong nhà giam, họ đã
không biết bầu trời mở, cho nên cho dù bạn nói với họ về bầu trời mở, điều đó
không thể được trao đổi cho họ. Nhưng họ có thể cảm thấy yêu của bạn, vì họ đã
từng đòi hỏi về yêu. Ngay cả trong nhà giam của họ, trong sự lệ thuộc của họ, họ
đã từng tìm kiếm yêu. Họ đã tạo ra toàn thể sự lệ thuộc - lệ thuộc với con người,
với đồ vật - chỉ bởi vì việc tìm yêu của họ.
Cho nên bất kì khi
nào một người ngẫu nhiên là tự do, yêu của người đó được cảm thấy. Nhưng bạn sẽ
cảm thấy yêu đó như từ bi chứ không như yêu, vì sẽ không có háo hức trong nó.
Nó sẽ rất lan toả - không nóng, thậm chí không ấm. Không có háo hức trong nó.
Nó có đó, có vậy thôi. Háo hức tới và đi, nó không thể là thường hằng, cho nên
nếu có háo hức trong yêu của Phật thế thì Phật sẽ phải đi vào trong ghét lần nữa.
Cho nên háo hức sẽ không có đó. Các đỉnh núi sẽ không có đó, và thung lũng sẽ
không có đó. Yên này chỉ có đó. Bạn sẽ cảm thấy nó như karuna, từ bi.
Tự do không thể được
cảm thấy từ bên ngoài; chỉ yêu có thể được cảm thấy. Và cái đó nữa cũng chỉ như
từ bi. Điều này đã là một trong những hiện tượng khó nhất trong lịch sử con người.
Tự do của người chứng ngộ tạo ra bất tiện, và yêu của họ là từ bi. Đó là lí do
tại sao xã hội bao giờ cũng bị phân chia về những người này.
Có những người đã cảm
thấy chỉ mỗi bất tiện mà một Christ tạo ra. Đây là những người đã có vị thế vững
chắc. Họ không cần từ bi. Họ nghĩ rằng họ có yêu, có mạnh khoẻ, của cải, kính
trọng, mọi thứ. Christ xảy ra và những người “có” sẽ chống lại ông ấy vì ông ấy
sẽ tạo ra bất tiện cho họ, trong khi những người “không có” sẽ ủng hộ ông ấy vì
họ sẽ cảm thấy từ bi của ông ấy. Họ đang cần yêu. Không ai đã yêu họ, nhưng người
này yêu họ. Họ sẽ không cảm thấy bất tiện về một Christ vì họ chẳng có gì để sợ,
chẳng có gì để mất.
Khi một Christ chết mọi
người sẽ cảm thấy từ bi của ông ấy, vì bây giờ không có bất tiện. Ngay cả những
người đã có vị thế vững chắcc sẽ cảm thấy thoải mái; họ sẽ tôn thờ ông ấy.
Nhưng khi ông ấy đang sống, ông ấy là người nổi dậy. Và ông ấy là người nổi dậy
vì ông ấy là tự do.
Ông ấy không phải là
người nổi dậy vì cái gì đó sai với xã hội. Tính nổi dậy như vậy chỉ là chính trị.
Nếu xã hội thay đổi, chính những người đã nổi dậy sẽ trở thành người chính thống.
Điều này đã xảy ra năm 1917. Chính những người cách mạng trở thành một trong những
bè lũ phản cách mạng nhất trên thế giới. Những người có tầm quan trọng lớn như
Stalin hay Mao Trạch Đông đang trong quyền lực, họ trở thành những người lãnh đạo
phản cách mạng nhất có thể có vì họ không phải là người nổi dậy thực sự. Họ chỉ
nổi dậy chống lại một tình huống đặc biệt. Một khi tình huống đó bị lật đổ, họ
trở thành cùng người như họ đã tranh đấu để lật đổ.
Nhưng một Christ bao
giờ cũng mang tính nổi dậy. Mọi tình huống sẽ không dập tắt được việc nổi dậy của
ông ấy, vì việc nổi dậy của ông ấy không chống lại bất kì người nào. Chính vì
tâm thức của ông ấy là tự do. Ở bất kì chỗ nào ông ấy cảm thấy rào chắn, ông ấy
sẽ cảm thấy tính nổi dậy. Việc nổi dậy là tâm linh của ông ấy. Cho nên nếu
Jesus tới ngày nay, người Ki tô giáo sẽ không thoải mái với ông ấy. Bây giờ họ
là một phần của thể chế; họ đã trở nên được lắng đọng. Nếu Jesus tới trong bãi
chợ lần nữa ông ấy sẽ phá huỷ mọi thứ họ có. Vatican, Nhà thờ, là không thể có
với Jesus. Chỉ không có Jesus điều đó mới là có thể.
Mọi thầy giáo đã đạt
tới chứng ngộ đều có tính nổi dậy, nhưng truyền thống có liên quan tới ông ấy
không bao giờ có tính nổi dậy. Nó không bao giờ quan tâm tới việc nổi dậy của
ông ấy, với tự do của ông áy, nhưng chỉ quan tâm tới từ bi của ông ấy, yêu của
ông ấy. Nhưng thế thì yêu trở thành bất lực. Yêu không thể tồn tại mà không có
tự do, không có nổi dậy.
Bạn không thể là yêu
như Phật chừng nào bạn chưa tự do như ông ấy. Sư Phật giáo chỉ cố là từ bi. Từ
bi là bất lực vì tự do không có đó. Tự do là nguồn cội. Mahavira là từ bi,
nhưng sư Jaina không từ bi chút nào. Ông ta chỉ diễn bất bạo hành và từ bi; ông
ta không thực sự từ bi. Ông ta tinh ranh. Ngay cả trong từ bi của mình, và việc
trưng bày nó ra của ông ta, ông ta đang tinh ranh. Không có từ bi, vì tự do
không có đó.
Bất kì khi nào tự do
xảy ra trong tâm thức con người, tự do được cảm thấy từ bên trong và yêu được cảm
thấy từ bên ngoài. Yêu này, từ bi này, là việc thiếu vắng của cả yêu và ghét.
Nhị nguyên đầy đủ là thiếu vắng; không có hút vào lẫn đẩy ra.
Cho nên với người là
tự do và đang yêu, sự việc tuỳ ở bạn liệu bạn có thể nhận yêu của người đó hay
không. Điều đó không tuỳ ở tôi là tôi có thể cho bạn bao nhiêu yêu; nó tuỳ thuộc
bạn có thể nhận được bao nhiêu yêu. Bình thường yêu phụ thuộc vào người đang
cho. Người đó có thể cho yêu; người đó có thể không cho. Nhưng yêu tôi đang nói
tới là không phụ thuộc vào người cho. Người đó hoàn toàn mở và cho mọi khoảnh
khắc. Ngay cả khi không ai hiện diện, yêu vẫn đang tuôn chảy ra.
Nó giống như hoa
trong sa mạc. Không ai có thể biết rằng nó đã nở hoa và đang cho ra hương thơm
của nó, nhưng nó sẽ cho hương thơm. Hương thơm này không được cho bất kì người
nào; nó chỉ là được cho. Hoa đã nở, cho nên hương thơm có đó. Liệu ai đó có đi
qua hay không là không liên quan. Nếu ai đó đi qua và có cảm nhận, người đó có
thể nhận nó. Nhưng nếu người đó hoàn toàn chết, không nhạy cảm, người đó thậm
chí có thể không nhận biết rằng có hoa ở đó.
Khi yêu có đó, vấn đề
là tuỳ ở bạn, liệu bạn có thể nhận nó hay không. Chỉ khi yêu không có đó mới có
thể có người khác trao nó cho bạn hay giữ nó không cho bạn. Với yêu, với từ bi,
không có phân chia giữa điều thiêng liêng và điều không thiêng liêng. Yêu là
thiêng liêng. Thượng đế là yêu.
0 Đánh giá