Chương 11. Việc hỏi đúng

Chương 11. Việc hỏi đúng

Price:

Read more

Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã

Tâm Lí Của Bí Truyền - Osho

Cuộc cách mạng bên trong

Chương 11. Việc hỏi đúng

Không câu hỏi...!

Đừng hỏi câu hỏi lí thuyết. Các lí thuyết giải quyết ít mà gây rối trí nhiều. Nếu như không có lí thuyết, chắc đã ít vấn đề hơn. Không phải là lí thuyết giải quyết các câu hỏi hay vấn đề. Ngược lại, vấn đề nảy sinh từ các lí thuyết.

Và đừng hỏi câu hỏi triết lí. Câu hỏi triết lí chỉ dường như là câu hỏi, nhưng chúng không phải vậy. Đó là lí do tại sao không câu trả lời nào đã là có thể. Nếu câu hỏi thực sự là câu hỏi thế thì nó là trả lời được, nhưng nếu nó là giả, chỉ là mơ hồ ngôn ngữ, thế thì nó không thể được trả lời. Triết lí đã liên tục trả lời trong hết thế kỉ nọ tới thế kỉ kia, nhưng các câu hỏi vẫn còn như nó vậy. Tuy nhiên bạn trả lời một câu hỏi triết lí bạn không bao giờ trả lời nó, vì bản thân câu hỏi này là giả. Nó không được ngụ ý để được trả lời chút nào. Câu hỏi là tới mức, về bản chất, không câu trả lời nào là có thể.

Và đừng hỏi câu hỏi siêu hình. Chẳng hạn, nếu bạn hỏi ai đã tạo ra thế giới, nó là không thể trả lời được. Nó là ngớ ngẩn. Không phải là các câu hỏi siêu hình không là câu hỏi thực, nhưng chúng không thể được trả lời. Chúng có thể được giải, nhưng chúng không thể được trả lời.

Hỏi câu hỏi mà có tính cá nhân, thân thiết, có tính tồn tại đi. Người ta phải nhận biết về điều người ta thực sự hỏi. Nó có phải là cái gì đó thực sự có nghĩa cái gì đó cho bạn không? Nếu nó được trả lời, chiều hướng mới có mở ra cho bạn không? Cái gì đó có được thêm vào cho sự tồn tại của bạn không, con người bạn có được biến đổi theo bất kì cách nào qua nó không? Chỉ những câu hỏi như vậy là có tính tôn giáo.

Tôn giáo quan tâm tới vấn đề, không quan tâm tới câu hỏi. Câu hỏi có thể chỉ tới từ tò mò, nhưng vấn đề là thân thiết và cá nhân. Bạn được tham gia vào trong nó; nó là bạn. Câu hỏi là tách rời khỏi bạn; vấn đề là bạn. Cho nên trước khi hỏi bất kì cái gì, đào sâu vào bên trong và hỏi cái gì đó mà là thân thiết và cá nhân, cái gì đó mà bạn bị mơ hồ trong nó, cái mà bạn được tham gia vào. Chỉ thế thì bạn có thể được giúp đỡ.

Các kiếp sống của chúng ta có được tiền định hay không?

Đây không phải là vấn đề cá nhân, nó là câu hỏi triết lí.

Các kiếp sống của chúng ta là cả tiền định và không tiền định. Cả có và không. Và cả hai câu trả lời này là đúng cho mọi câu hỏi về sự sống.

Theo một cách nào đó, mọi thứ là được tiền định. Bất kì cái gì là vật lí trong chúng ta, vật chất, bất kì cái gì là tâm trí, đều được tiền định. Nhưng cái gì đó trong bạn thường xuyên vẫn còn không được xác định, không dự đoán được. Cái gì đó đó là tâm thức của bạn.

Nếu bạn bị đồng nhất với thân thể của bạn và sự tồn tại vật chất, theo cùng tỉ lệ bạn bị xác định bởi luật nhân quả. Thế thì bạn là cái máy. Nhưng nếu bạn không bị đồng nhất với sự tồn tại vật chất của bạn, với cả thân thể và tâm trí - nếu bạn có thể cảm thấy bản thân bạn là cái gì đó tách rời, khác biệt, ở trên và siêu việt trên thân-tâm - thế thì tâm thức siêu việt đó không bị tiền định. Nó là tự phát, tự do. Tâm thức ngụ ý tự do; vật chất ngụ ý nô lệ. Cho nên tuỳ vào cách bạn xác định bản thân bạn. Nếu bạn nói, "Tôi chỉ là thân thể," thế thì mọi thứ về bạn hoàn toàn được xác định.

Người nói rằng con người chỉ là thân thể không thể nói rằng con người không bị tiền định. Bình thường, người không tin vào những điều như tâm thức cũng không tin vào tiền định. Người có tính tôn giáo và tin vào tâm thức bình thường tin vào tiền định. Cho nên điều tôi đang nói có thể có vẻ rất mâu thuẫn. Nhưng dầu vậy, nó là hoàn cảnh.

Người đã biết tâm thức đã biết tự do. Cho nên chỉ người tâm linh có thể nói rằng không có việc xác định chút nào. Việc nhận ra đó chỉ tới khi bạn hoàn toàn không bị đồng nhất với thân thể. Nếu bạn cảm thấy rằng bạn chỉ là sự tồn tại vật chất, thế thì không tự do nào là có thể. Với vật chất, không tự do nào là có thể. Vật chất ngụ ý cái không thể là tự do. Nó phải chảy trong chuỗi nhân quả.

Một khi ai đó đã đạt tới tâm thức, chứng ngộ, người đó hoàn toàn ở ngoài cõi nhân quả. Người đó trở nên tuyệt đối không thể dự đoán được. Bạn không thể nói được bất kì cái gì về người đó. Người đó bắt đầu sống từng khoảnh khắc; sự tồn tại của người đó trở thành có tính nguyên tử.

Sự tồn tại của bạn là một chuỗi tựa dòng sông trong đó mọi bước đều bị xác định bởi quá khứ. Tương lai của bạn không là tương lai thực sự; nó chỉ là sản phẩm phụ của quá khứ. Nó chỉ là quá khứ xác định, hình thành và ước định tương lai của bạn. Đó là lí do tại sao tương lai của bạn là dự đoán được.

Skinner nói rằng con người là dự đoán được như bất kì cái gì khác. Khó khăn duy nhất là ở chỗ chúng ta còn chưa phát minh ra phương tiện để biết toàn bộ quá khứ của con người. Khoảnh khắc chúng ta có thể biết quá khứ của người đó, chúng ta có thể dự đoán mọi thứ về người đó. Dựa trên những người mà ông ấy đã cùng làm việc với, Skinner là đúng, vì họ toàn là những người dự đoán được chung cuộc. Ông ấy đã thực nghiệm với hàng trăm người và ông ấy đã thấy rằng tất cả họ đều là những người máy móc, rằng không cái gì tồn tại bên trong họ mà có thể được gọi là tự do.

Nhưng khảo cứu của ông ấy bị giới hạn. Không Phật nào đã tới phòng thí nghiệm của ông ấy để được làm thực nghiệm. Nếu cho dù một người là tự do, nếu cho dù một người là không máy móc, không thể dự đoán được, toàn thể lí thuyết của Skinner sụp đổ. Nếu một người trong toàn thể lịch sử nhân loại là tự do và không thể dự đoán được, thế thì con người có tiềm năng tự do và không thể dự đoán được.

Toàn thể khả năng của tự do tuỳ thuộc vào liệu bạn nhấn mạnh vào thân thể của bạn hay tâm thức của bạn. Nếu bạn chỉ là dòng chảy hướng ra ngoài của sự sống, thế thì mọi thứ được xác định. Hay bạn cũng là cái gì đó bên trong? Đừng cho bất kì câu trả lời công thức làm sẵn. Đừng nói, "Tôi là hồn." Nếu bạn cảm thấy không có gì khác bên trong bạn, thế thì cứ thành thực về điều đó đi. Thành thực này sẽ là bước đầu tiên hướng tới tự do bên trong của tâm thức.

Nếu bạn đi sâu vào bên trong, bạn sẽ cảm thấy rằng mọi thứ chỉ là một phần của phía bên ngoài. Thân thể bạn đã tới từ bên ngoài, ý nghĩ của bạn đã tới từ bên ngoài,ngay cả cái ngã của bạn đã được người khác trao cho bạn. Đó là lí do tại sao bạn sợ ý kiến của người khác thế - vì họ hoàn toàn kiểm soát cái ngã của bạn. Họ có thể thay đổi ý kiến của họ về bạn vào bất kì khoảnh khắc nào. Cái ngã của bạn, thân thể bạn, ý nghĩ của bạn được trao cho bạn bởi người khác, vậy cái gì ở bên trong? Bạn là sự tích luỹ các tầng và các tầng của bên ngoài. Nếu bạn bị đồng nhất với nhân cách này của bạn, cái tới từ người khác, thế thì mọi thứ được xác định.

Trở nên nhận biết về mọi thứ tới từ bên ngoài và trở thành không bị đồng nhất với nó. Thế thì một khoảnh khắc sẽ tới khi cái bên ngoài sụp đổ hoàn toàn. Bạn sẽ ở trong chân không. Chân không này là lối chuyển giữa cái bên ngoài và cái bên trong, cánh cửa. Chúng ta sợ chân không thế, sợ là trống rỗng tới mức chúng ta bám lấy việc tích luỹ bên ngoài. Người ta phải đủ dũng cảm để không đồng nhất với việc tích luỹ và vẫn còn trong chân không. Nếu bạn không đủ dũng cảm, bạn sẽ đi ra và bám lấy cái gì đó, và được rót đầy với nó. Nhưng khoảnh khắc này của việc ở trong chân không là thiền. Nếu bạn đủ dũng cảm, nếu bạn có thể vẫn còn trong khoảnh khắc này, toàn thể con người bạn sẽ sớm tự động quay vào trong.

Khi không có gì để bị gắn vào từ bên ngoài, con người bạn quay vào trong. Thế thì lần đầu tiên bạn biết rằng bạn là cái gì đó siêu việt trên mọi thứ bạn đã từng nghĩ bản thân bạn là vậy. Bây giờ bạn là cái gì đó khác với trở thành, bạn là hiện hữu. Hiện hữu này là tự do; không cái gì có thể xác định nó. Nó là tuyệt đối tự do. Không chuỗi nhân quả nào là có thể.

Hành động của bạn có quan hệ với các hành động quá khứ. A đã tạo ra tình huống cho B để trở thành có thể; B tạo ra tình huống trong đó C nở hoa. Hành động của bạn được kết nối với hành động quá khứ và điều này quay trở lại sự bắt đầu vô thuỷ và đi tới kết thúc vô chung. Không chỉ các hành động riêng của bạn xác định ra bạn, mà hành động của bố bạn và mẹ bạn cũng có sự liên tục với hành động của bạn. Xã hội của bạn, lịch sử của bạn, mọi điều đã xảy ra trước đây, bằng cách nào đó có liên quan tới hành động hiện tại của bạn. Toàn thể lịch sử đã đi tới nở hoa trong bạn.

Mọi thứ mà bao giờ cũng đã xảy ra được kết nối với hành động của bạn, cho nên hành động của bạn hiển nhiên được xác định. Nó là phần nhỏ thế của toàn thể bức tranh. Lịch sử là lực sống động thế và hành động cá nhân của bạn là phần nhỏ thế của nó.

Marx đã nói, "Không phải tâm thức xác định ra các điều kiện của xã hội. Chính xã hội và các điều kiện của nó xác định ra tâm thức. Không phải là những người vĩ đại tạo ra các xã hội vĩ đại. Chính các xã hội vĩ đạo tạo ra con người vĩ đại." Và ông ấy đúng theo cách nào đó, vì bạn không phải là người khởi đầu các hành động của bạn. Toàn thể lịch sử đã xác định chúng. Bạn chỉ tiến hành chúng.

Toàn thể quá trình tiến hoá đã đi vào việc làm ra các tế bào sinh học của bạn. Thế rồi những tế bào này trong bạn trở thành một phần của người khác. Bạn có thể nghĩ rằng bạn là người bố, nhưng bạn chỉ là sân khấu trên đó toàn thể tiến hoá sinh học đã hành động và đã buộc bạn hành động. Hành động sinh sản là ép buộc thế vì nó ở bên ngoài bạn; nó là toàn thể quá trình tiến hoá làm việc qua bạn.

Đây là một cách trong đó hành động xảy ra trong quan hệ với các hành động quá khứ khác. Nhưng khi một người trở nên chứng ngộ, một hiện tượng mới bắt đầu xảy ra. Các hành động không còn được kết nối với các hành động quá khứ. Bất kì hành động nào, bây giờ, chỉ được kết nối với tâm thức của người đó. Nó tới từ tâm thức của người đó chứ không từ quá khứ. Đó là lí do tại sao người chứng ngộ không thể được dự đoán.

Skinner nói rằng chúng ta có thể xác định bạn sẽ làm gì nếu các hành động quá khứ của bạn được biết. Ông ấy nói rằng câu ngạn ngữ cổ, "Bạn có thể dẫn ngựa tới chỗ có nước nhưng bạn không thể làm cho nó uống nước," là sai. Bạn có thể ép nó uống. Bạn có thể tạo ra bầu không khí để cho ngựa sẽ phải uống. Ngựa có thể bị ép buộc, và bạn cũng có thể bị ép buộc, vì hành động của bạn được tạo ra bởi tình huống, bởi hoàn cảnh. Nhưng cho dù bạn có thể mang vị Phật tới song, bạn không thể ép ông ấy uống được. Bạn càng ép ông ấy, điều đó sẽ càng không thể được. Không nóng nào sẽ làm cho ông ấy uống. Cho dù hàng nghìn mặt trời chiếu lên ông ấy cũng sẽ không giúp gì. Phật có nguồn gốc hành động khác. Nó không liên quan tới các hành động khác; nó được nối với tâm thức.

Đó là lí do tại sao tôi nhấn mạnh rằng bạn hành động có ý thức. Thế thì, mọi khoảnh khắc bạn hành động, vấn đề không phải là sự tiếp tục của các hành động khác. Bạn là tự do. Bây giờ bạn bắt đầu hành động, và không ai có thể nói bạn sẽ hành động thế nào.

Thói quen có tính máy móc; chúng lặp lại bản thân chúng. Bạn càng lặp lại cái gì đó, bạn càng trở nên hiệu quả hơn. Hiệu quả ngụ ý rằng bây giờ ý thức không được cần. Nếu người ta là người gõ máy hiệu quả điều đó có nghĩa rằng không nỗ lực nào được cần; việc gõ máy có thể được làm một cách vô thức. Cho dù người đó đang nghĩ về cái gì đó khác việc gõ máy vẫn tiếp tục. Thân thể đang gõ; người này không được cần. Tính hiệu quả ngụ ý rằng sự việc là chắc chắn tới mức không nỗ lực nào là có thể. Với tự do, nỗ lực bao giờ cũng là có thể. Máy không thể phạm lỗi . Để phạm lỗi, người ta phải có ý thức.

Cho nên hành động của bạn có mối quan hệ với chuỗi các hành động trước của bạn. Chúng được xác định. Thời thơ ấu của bạn xác định thời thanh niên của bạn; thời thanh niên của bạn xác định tuổi già của bạn. Sinh của bạn xác định chết của bạn; mọi thứ đều được xác định. Phật thường nói, "Cung cấp nguyên nhân, và hậu quả sẽ có đó." Đây là thế giới nhân quả trong đó mọi thứ được xác định.

Nếu bạn hành động với toàn bộ ý thức, một tình huống hoàn toàn khác tồn tại. Thế thì mọi thứ là từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Tâm thức là một luồng; nó không tĩnh tại. Nó là bản thân sự sống, cho nên nó thay đổi. Nó sống động. Nó liên tục mở rộng; nó liên tục trở thành mới, tươi tắn, trẻ trung. Thế thì, hành động của bạn sẽ là tự phát.

Tôi nhớ tới một chuyện Thiền...

Một Thiền sư hỏi đệ tử của ông ấy một câu hỏi đặc biệt. Câu hỏi này đã được trả lời đích xác như nó đáng phải được trả lời. Ngày hôm sau thầy hỏi đích xác cùng câu hỏi này. Đệ tử nói, "Nhưng tôi đã trả lời câu hỏi này hôm qua rồi."

Thầy nói, "Giờ ta đang hỏi lại ông đấy." Đệ tử này lặp lại cùng câu trả lời. Thầy nói, "Ông không biết!"

Đệ tử này nói, "Nhưng hôm qua tôi đã trả lời theo cùng cách và thầy đã gật đầu rồi. Cho nên tôi diễn giải rằng câu trả lời đó đã là đúng. Sao thầy đã đổi ý bây giờ?"

Thầy nói, "Bất kì cái gì có thể được lặp lại đều không tới từ ông. Câu trả lời đã tới từ kí ức của ông, không từ tâm thức của ông. Nếu như ông đã thực sự biết, câu trả lời chắc sẽ khác vì nhiều thứ thế đã thay đổi. Ta không là cùng người đã hỏi ông câu hỏi này hôm qua. Toàn thể tình huống là khác. Ông cũng là khác, nhưng câu trả lời là cùng một thứ. Ta phải hỏi lại câu hỏi này chỉ để xem liệu ông có lặp lại câu trả lời không. Không cái gì có thể được lặp lại."

Bạn càng sống động, càng ít lặp lại. Chỉ người chết có thể nhất quán. Việc sống là bất nhất thế; sống là tự do. Tự do không thể là nhất quán. Nhất quán với cái gì? Bạn có thể nhất quán chỉ với quá khứ.

Người chứng ngộ là nhất quán chỉ trong tâm thức của người đó; người đó không bao giờ nhất quán với quá khứ của mình. Người đó là toàn bộ trong hành động. Không cái gì bị bỏ lại đằng sau; không cái gì bị bỏ ra. Khoảnh khắc tiếp hành động này được kết thúc và tâm thức người đó lại tươi tắn. Tâm thức sẽ có đó bất kì khi nào tình huống nảy sinh, nhưng từng hành động sẽ được thực hiện trong tự do hoàn toàn, dường như đó là lần đầu tiên mà người này đã từng ở trong tình huống đặc biệt này.

Đó là lí do tại sao tôi đã trả lời cả có và không cho câu hỏi của bạn. Điều đó tuỳ vào bạn, liệu bạn là tâm thức, hay liệu bạn là việc tích luỹ, sự tồn tại thân thể.

Tôn giáo cho tự do vì tôn giáo cho tâm thức. Khoa học càng biết về vật chất, thế giới sẽ càng bị làm thành nô lệ. Toàn thể hiện tượng vật chất này là của nhân quả: nếu bạn biết rằng cái này được cho, cái kia xảy ra - thế thì mọi thứ có thể được xác định.

Trước khi thế kỉ này kết thúc, chúng ta sẽ thấy toàn thể tiến trình của nhân loại được xác định theo nhiều cách. Thảm hoạ lớn nhất mà có thể có không phải là xung đột hạt nhân. Nó chỉ có thể tàn phá. Thảm hoạ thực sẽ tới từ khoa học tâm lí. Họ sẽ biết cách con người có thể bị kiểm soát hoàn toàn. Vì chúng ta không ý thức, chúng ta có thể bị làm cho cư xử theo cách tiền định.

Như chúng ta vậy, mọi thứ về chúng ta đều được xác định. Ai đó là người Hindu; ai đó khác là người Mô ha mét giáo. Đây là tiền định, không tự do. Bố mẹ đã quyết định; xã hội đang quyết định. Ai đó là bác sĩ và ai đó khác là kĩ sư. Bây giờ hành vi của người đó được xác định.

Chúng ta đã bị kiểm soát thường xuyên, và phương pháp của chúng ta vẫn rất nguyên thuỷ. Những kĩ thuật mới hơn sẽ có khả năng xác định ra hành vi của chúng ta tới mức mà không ai sẽ có khả năng nói rằng có hồn. Nếu mọi đáp ứng của bạn đều được xác định, thế thì nghĩa của hồn là gì?

Đáp ứng của bạn có thể được xác định qua hoá chất thân thể. Nếu rượu được cho bạn, bạn hành xử khác đi. Hoá chất thân thể của bạn là khác cho nên bạn hành xử khác. Vào một thời, kĩ thuật Tantra tối thượng đã cho uống chất độc và vẫn còn ý thức. Nếu một người vẫn còn ý thức khi mọi thứ đã chỉ ra rằng người đó đáng phải là vô thức, chỉ thế Tantra sẽ nói người này đã chứng ngộ, bằng không thì không đâu.

Nếu hoá chất thân thể có thể thay đổi tâm thức của bạn, thế thì nghĩa của tâm thức là gì? Nếu việc tiêm có thể làm cho bạn vô thức, thế thì nghĩa là gì? Thế thì thuốc hoá chất trong việc tiêm là mạnh hơn tâm thức riêng của bạn. Tantra nói có thể siêu việt trên mọi chất độc và vẫn còn ý thức. Chất kích thích đã được cho, nhưng đáp ứng không có đó.

Dục là hiện tượng hoá chất. Một lượng hooc môn đặc biệt tạo ra ham muốn dục. Bạn trở thành ham muốn này. Bạn có thể hối hận khi hoá chất thân thể bạn đã trở lại mức bình thường của nó, nhưng hối hận là vô nghĩa. Khi hooc môn lại có đó, bạn sẽ hành động theo cùng cách. Cho nên Tantra cũng đã thực nghiệm với dục. Nếu bạn cảm thấy không ham muốn dục trong một tình huống mà là dục toàn bộ, thế thì bạn là tự do. Hoá chất thân thể bạn đã bị bỏ lại xa đằng sau. Thân thể có đó, nhưng bạn không trong thân thể.

Giận cũng chỉ là hoá chất. Các nhà sinh hoá sẽ sớm có khả năng làm cho bạn thành không giận, hay không dục. Nhưng bạn sẽ không có khả năng là Phật. Phật đã không có năng lực giận. Ông ấy đã có khả năng của nó, nhưng tác dụng của việc cảm thấy giận không có đó.

Nếu hoá chất thân thể bạn bị kiểm soát, bạn sẽ không có năng lực là giận. Điều kiện hoá chất làm cho bạn cảm thấy giận không có đó, cho nên tác dụng của giận không có đó. Hay nếu hooc môn dục của bạn bị loại bỏ khỏi thân thể của bạn, bạn sẽ không có tính dục. Nhưng điều thực không phải là liệu bạn có tính dục hay không, giận hay không. Điều thực là cách là nhận biết trong tình huống yêu cầu vô thức của bạn, điều chỉ xảy ra trong vô thức.

Bất kì khi nào một tình huống như vậy có đó, suy ngẫm về nó đi. Bạn đã được cho một cơ hội lớn. Nếu bạn cảm thấy ghen, suy ngẫm về nó đi. Đây là khoảnh khắc đúng. Hoá chất thân thể của bạn đang làm việc bên trong bạn. Nó sẽ làm cho bạn thành vô thức; nó sẽ làm cho bạn hành xử dường như bạn điên. Bây giờ, có ý thức đi. Để ghen có đó, đừng kìm nén nó, nhưng có ý thức; là nhân chứng cho nó.

Nếu có giận, là nhân chứng cho nó; nếu có dục, là nhân chứng cho nó. Để bất kì cái gì đang xảy ra bên trong bạn xảy ra, và bắt đầu suy ngẫm về toàn thể tình huống. Dần dần, nhận biết của bạn càng sâu sắc hơn, càng ít có khả năng hành vi của bạn bị xác định cho bạn. Bạn trở thành tự do. Moksha, tự do, không ngụ ý bất kì cái gì khác. Nó chỉ ngụ ý tâm thức là tự do tới mức không cái gì có thể xác định được nó.

Yêu thiêng liêng là gì? Làm sao người chứng ngộ trải nghiệm yêu?

Trước hết chúng ta hãy nhìn vào bản thân câu hỏi này. Bạn phải đã từng chờ đợi để hỏi nó. Nó có thể đã không tới với bạn ngay bây giờ; bạn phải đã quyết định về nó từ trước. Nó đã chờ đợi để được hỏi; nó đã ép buộc bạn hỏi nó. Kí ức của bạn đã xác định việc hỏi này, không phải tâm thức của bạn. Nếu như bạn có ý thức ngay bây giờ, nếu như bạn ở trong khoảnh khắc này, câu hỏi này chắc đã không tới. Nếu bạn đã từng nghe điều tôi đã từng nói, câu hỏi này chắc đã là không thể được.

Nếu câu hỏi này đã từng hiện diện trong bạn, điều không thể được với bạn là đã nghe bất kì cái gì tôi đã từng nói. Câu hỏi mà thường xuyên hiện diện trong tâm trí tạo ra căng thẳng và vì căng thẳng này bạn không thể ở đây được. Đó là lí do tại sao tâm thức bạn không thể hành động với tự do. Nếu bạn hiểu điều này, thế thì chúng ta có thể bàn đến câu hỏi của bạn.

Bản thân câu hỏi này là tốt, nhưng tâm trí đã từng nghĩ về nó là ốm. Nhận biết phải có từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, không chỉ trong các hành động mà cả trong các câu hỏi, trong mọi cử chỉ. Nếu tôi giơ ngón tay lên, nó có thể chỉ là thói quen. Thế thì tôi không là người chủ của thân thể của tôi. Nhưng nếu nó là cách diễn đạt tự phát của cái gì đó mà đang hiện diện trong tâm thức của tôi ngay bây giờ, nó là hoàn toàn khác.

Mọi cử chỉ của người thuyết giảng Ki tô giáo là được tiền định. Ông ta đã được dạy điều đó. Một lần tôi đã ở tại trường đại học Thượng đế học Ki tô giáo. Sau năm năm tại trường này, người ta trở thành tiến sĩ thần học. Ngớ ngẩn! Tiến sĩ thần học là ngu si vô cùng! Họ đã được huấn luyện trong mọi thứ: cách đứng trên bục giảng kinh, cách bắt đầu buổi lễ, cách hát bài thánh ca, cách nhìn vào khán giả, chỗ nào dừng lại và chỗ nào để kẽ hở hay khoảng hở. Mọi thứ! Việc chuẩn bị ngu xuẩn này phải không xảy ra. Đó là điều không may lớn.

Cho nên ở trong khoảnh khắc đi. Đừng quyết định trước bất kì cái gì. Nhận biết rằng câu hỏi đang hiện diện bên trong, rằng nó đang gõ cửa của tâm trí liên tục. Bạn đã không nghe tôi chút nào - chỉ bởi vì câu hỏi này! Và khi tôi bắt đầu nói về câu hỏi của bạn, tâm trí bạn sẽ tạo ra câu hỏi khác. Lần nữa bạn sẽ lỡ. Điều tôi đang nói không là riêng cho bạn. Nó là đúng cho mọi người.

Bây giờ tới câu hỏi này.

Bất kì khi nào yêu tồn tại nó đều là thiêng liêng, cho nên nói “yêu thiêng liêng” là vô nghĩa. Yêu bao giờ cũng thiêng liêng. Nhưng tâm trí là tinh ranh. Nó nói: "Chúng tôi biết yêu là gì. Vấn đề chỉ là chúng tôi không biết yêu thiêng liêng là gì thôi." Nhưng chúng ta thậm chí không biết yêu. Nó là một trong những điều không được biết nhất. Có quá nhiều việc nói về nó; nó chưa bao giờ được sống. Đây là thủ đoạn của tâm trí. Chúng ta nói về cái mà chúng ta không thể sống.

Văn học, âm nhạc, thơ ca, múa - mọi thứ xoay quanh yêu. Nếu yêu mà thực sự có đó, chúng ta chắc đã không nói về nó nhiều thế. Việc nói thái quá của chúng ta về yêu chỉ ra rằng yêu là vô tồn tại. Nói về những thứ không có đó là việc thay thế. Bằng việc nói, bằng ngôn ngữ, bằng biểu tượng, bằng nghệ thuật, chúng ta tạo ra ảo tưởng rằng thứ này có đó. Người chưa bao giờ biết yêu có thể viết bài thơ về nó hay hơn người đã biết yêu, vì chân không nhiều phần sâu hơn. Nó phải được lấp đầy. Cái gì đó phải được thay thế vào chỗ của yêu.

Tốt hơn cả trước hết phải hiểu yêu là gì, vì khi bạn hỏi về yêu thiêng liêng, điều được hiểu là yêu được biết rồi. Nhưng yêu không được biết. Điều được biết là yêu là cái gì đó khác. Cái giả phải được biết trước khi các bước có thể được lấy hướng tới cái thực, cái đúng.

Điều được biết như yêu chỉ là mê đắm. Bạn bắt đầu yêu ai đó. Nếu ai đó đó trở thành của bạn một cách toàn bộ, yêu sẽ sớm chết; nhưng nếu có rào chắn, nếu bạn không thể có người bạn yêu, yêu sẽ trở nên mãnh liệt. Càng nhiều rào chắn, yêu sẽ càng được cảm thấy mãnh liệt hơn. Nếu người được yêu là không thể nào lấy được, yêu trở thành vĩnh hằng; nhưng nếu bạn có thể chiếm được người yêu của bạn dễ dàng, thế thì yêu chết yểu.

Khi bạn cố có được cái gì đó và bạn không thể có được nó, bạn trở nên mãnh liệt về việc có được nó. Cản trở càng có đó, bản ngã của bạn càng cảm thấy cần phải làm cái gì đó. Nó trở thành vấn đề bản ngã. Bạn càng bị từ chối, bạn càng trở nên căng thẳng hơn - và càng mê đắm hơn. Căng thẳng này bạn gọi là yêu. Đó là lí do tại sao, một khi tuần trăng mật qua rồi, yêu già đi. Thậm chí trước cả điều đó. Điều bạn biết là yêu đã không phải là yêu. Nó chỉ là mê đắm của bản ngã, căng thẳng của bản ngã: cuộc vật lộn, xung đột.

Xã hội con người cổ đại đã rất tinh ranh. Họ đã nghĩ ra phương pháp làm cho yêu kéo dài. Nến đàn ông không thể gặp vợ mình trong thời gian dài, mê đắm sẽ được tạo ra; căng thẳng sẽ được tạo ra. Thế thì đàn ông có thể vẫn còn với một vợ cả đời mình.

Nhưng ở phương Tây bây giờ, hôn nhân không thể tồn tại thêm nữa. Không phải là tâm trí phương Tây nhiều tính dục hơn. Chính mê đắm đó không được phép tích luỹ. Dục là sẵn có dễ dàng tới mức hôn nhân không thể tồn tại. Yêu nữa cũng không thể tồn tại với loại tự do này. Nếu xã hội hoàn toàn tự do về dục, thế thì chỉ dục có thể tồn tại.

Chán là mặt kia của mê đắm. Nếu bạn yêu ai đó và không chiếm được người yêu, mê đắm đi sâu, nhưng nếu bạn chiếm được anh ấy hay cô ấy, bạn bắt đầu cảm thấy chán, ngán. Có nhiều nhị nguyên: mê đắm/chán, yêu/ghét, hút vào/đẩy ra. Với mê đắm bạn cảm thấy hút vào, yêu, và với chán bạn cảm thấy đẩy ra, ghét.

Không hút vào nào có thể thực sự là yêu vì đẩy ra nhất định tới. Chính bản chất của mọi sự là mặt kia sẽ tới. Nếu bạn không muốn cái đối lập tới, bạn phải tạo ra rào chắn để cho mê đắm không bao giờ kết thúc; bạn phải tạo ra căng thẳng hàng ngày. Thế thì mê đắm tiếp tục. Đây là lí do cho toàn thể hệ thống cổ đại tạo ra rào chắn cho yêu.

Nhưng điều đó sẽ sớm không còn có thể có. Thế thì hôn nhân sẽ chết, và yêu cũng sẽ chết. Nó sẽ đi sâu vào trong bối cảnh. Chỉ dục sẽ còn lại. Nhưng dục tự nó không thể trụ được; nó trở thành quá máy móc. Nietzsche đã tuyên bố rằng Thượng đế chết. Điều thực mà sẽ chết trong thế kỉ này là dục. Tôi không ngụ ý rằng mọi người sẽ vô dục. Họ sẽ vẫn có dục, nhưng việc nhấn mạnh thái quá vào dục sẽ diễn ra. Dục sẽ trở thành hành động bình thường như bất kì cái gì khác - như đi đái hay ăn hay bất kì cái gì. Nó sẽ không có nghĩa. Nó đã trở thành có nghĩa chỉ vì các rào chắn mà đã được tạo ra quanh nó.

Điều bạn đã gọi là yêu thì không phải là yêu. Nó chỉ là dục bị làm chậm lại. Thế thì yêu là gì? Yêu không có quan hệ với dục chút nào. Dục có thể tới trong nó hoặc có thể không tới, nhưng nó không thực sự có quan hệ với dục chút nào. Nó là thứ khác hoàn toàn.

Với tôi, yêu là sản phẩm phụ của tâm trí có tính thiền. Nó không có quan hệ với dục; nó có quan hệ với dhyana, thiền. Bạn càng trở nên im lặng, bạn sẽ càng thoải mái hơn với bản thân bạn, bạn sẽ càng cảm thấy được hoàn thành nhiều hơn, và càng nhiều cách diễn đạt mới của con người bạn sẽ có đó. Bạn sẽ bắt đầu yêu. Không yêu bất kì người nào nói riêng. Nó có thể xảy ra với ai đó nói riêng, nhưng điều đó là chuyện khác. Bạn bắt đầu yêu. Việc yêu này trở thành cách tồn tại của bạn. Nó không bao giờ có thể biến thành việc đẩy ra vì nó không phải là việc hút vào.

Bạn phải hiểu phân biệt này thật rõ ràng. Bình thường khi bạn rơi vào yêu ai đó, việc cảm thực là làm sao có được yêu từ người đó. Không phải là yêu đang đi từ bạn tới người đó. Thay vì thế nó là mong đợi rằng yêu sẽ tới bạn từ người đó. Đó là lí do tại sao yêu trở thành sở hữu. Bạn sở hữu ai đó để cho bạn có thể có được cái gì đó từ người đó. Nhưng yêu tôi đang nói tới không là sở hữu mà nó cũng không là bất kì mong đợi nào. Nó chỉ là cách bạn hành xử. Bạn đã trở thành im lặng, đáng yêu tới mức im lặng của bạn đi tới người khác bây giờ.

Khi bạn giận, giận của bạn đi tới người khác. Khi bạn ghét, ghét của bạn đi tới người khác. Khi các bạn đang trong yêu, các bạn cảm thấy rằng yêu của các bạn đang đi tới người kia, nhưng các bạn là không thể phụ thuộc được. Khoảnh khắc này có yêu, và khoảnh khắc tiếp sẽ có ghét. Ghét là không đối lập yêu; nó là một phần của yêu, sự liên tục.

Nếu bạn đã yêu người nào đó, thế thì bạn sẽ ghét người đó. Bạn có thể không đủ dũng cảm để thừa nhận điều đó, nhưng bạn sẽ ghét người đó. Những người yêu bao giờ cũng trong xung đột khi họ ở cùng nhau. Khi họ không ở cùng nhau họ có thể hát những bài hát về yêu cho nhau, nhưng khi họ ở cùng nhau họ bao giờ cũng tranh đấu. Họ không thể sống một mình, và họ không thể sống cùng nhau. Khi người kia không có đó, mê đắm được tạo ra; hai người lại cảm thấy yêu lẫn nhau. Nhưng khi người kia hiện diện, mê đắm ra đi và hận thù lại được cảm thấy.

Yêu tôi đang nói tới ngụ ý rằng bạn đã trở thành im lặng tới mức bây giờ không có giận, không có hút vào không có đẩy ra. Thực sự, bây giờ không yêu và ghét. Bạn không có việc hướng tới người kia chút nào. Người kia đã biến mất; bạn một mình với bản thân bạn. Trong việc cảm này về tính một mình, yêu tới với bạn như hương thơm.

Hỏi xin yêu từ người kia bao giờ cũng là xấu. Phụ thuộc vào người kia, hỏi xin cái gì đó từ người kia, bao giờ cũng tạo ra lệ thuộc, đau khổ, xung đột. Người ta phải là đủ lên bản thân mình. Điều tôi ngụ ý bởi thiền là trạng thái hiện hữu nơi người ta là đủ lên bản thân mình. Bạn đã trở thành vòng tròn, một mình. Hình tròn tượng trưng tôn giáo - mandala là đầy đủ.

Bạn đang cố làm cho mandala thành đầy đủ bằng người khác: đàn ông với đàn bà, đàn bà với đàn ông. Tại những khoảnh khắc nào đó những đường thẳng gặp gỡ, nhưng gần như trước khi họ gặp gỡ, phân tách bắt đầu. Chỉ nếu bạn trở thành vòng tròn hoàn hảo - toàn thể, đủ lên bản thân bạn – yêu bắt đầu nở hoa trong bạn. Thế thì bất kì cái gì tới gần bạn, bạn yêu. Nó không phải là hành động chút nào; nó không phải là cái gì đó bạn làm. Chính con người bạn, chính sự hiện diện của bạn, là yêu. Yêu chảy qua bạn.

Nếu bạn hỏi một người đã đạt tới trạng thái này, "Bạn có yêu tôi không?" sẽ khó cho người đó trả lời. Người đó không thể nói, "Tôi yêu bạn," vì yêu không phải là hành động về phần người đó; nó không là việc làm. Và người đó không thể nói, "Tôi không yêu bạn," vì người đó yêu. Thực sự, người đó là yêu.

Yêu này chỉ tới với tự do mà tôi đã nói tới. Tự do là việc cảm mà bạn có, và yêu là việc cảm mà người khác có về bạn. Khi thiền xảy ra bên trong, bạn cảm thấy hoàn toàn tự do. Tự do này là việc cảm bên trong; nó không thể được người khác cảm thấy.

Đôi khi hành vi của bạn có thể tạo ra khó khăn cho người khác, vì họ không thể quan niệm được cái gì đã xảy ra trong bạn. Theo một cách nào đó bạn sẽ là phiền hà cho họ, sự bất tiện, vì bạn không thể được dự đoán. Bây giờ không cái gì sẽ được biết về bạn. Bạn sẽ làm gì tiếp? Bạn sẽ nói gì? Không ai có thể biết. Mọi người quanh bạn cảm thấy sự bất tiện nào đó. Họ không bao giờ có thể thoải mái cùng bạn vì bây giờ bạn có thể làm bất kì cái gì; bạn không chết.

Họ không thể cảm thấy tự do của bạn vì họ đã không biết bất kì cái gì như điều đó. Họ thậm chí đã không tìm điều đó; họ đã không thăm dò điều đó. Họ bị lệ thuộc nhiều tới mức họ thậm chí không thể quan niệm được tự do là gì. Họ đã ở trong nhà giam, họ đã không biết bầu trời mở, cho nên cho dù bạn nói với họ về bầu trời mở, điều đó không thể được trao đổi cho họ. Nhưng họ có thể cảm thấy yêu của bạn, vì họ đã từng đòi hỏi về yêu. Ngay cả trong nhà giam của họ, trong sự lệ thuộc của họ, họ đã từng tìm kiếm yêu. Họ đã tạo ra toàn thể sự lệ thuộc - lệ thuộc với con người, với đồ vật - chỉ bởi vì việc tìm yêu của họ.

Cho nên bất kì khi nào một người ngẫu nhiên là tự do, yêu của người đó được cảm thấy. Nhưng bạn sẽ cảm thấy yêu đó như từ bi chứ không như yêu, vì sẽ không có háo hức trong nó. Nó sẽ rất lan toả - không nóng, thậm chí không ấm. Không có háo hức trong nó. Nó có đó, có vậy thôi. Háo hức tới và đi, nó không thể là thường hằng, cho nên nếu có háo hức trong yêu của Phật thế thì Phật sẽ phải đi vào trong ghét lần nữa. Cho nên háo hức sẽ không có đó. Các đỉnh núi sẽ không có đó, và thung lũng sẽ không có đó. Yên này chỉ có đó. Bạn sẽ cảm thấy nó như karuna, từ bi.

Tự do không thể được cảm thấy từ bên ngoài; chỉ yêu có thể được cảm thấy. Và cái đó nữa cũng chỉ như từ bi. Điều này đã là một trong những hiện tượng khó nhất trong lịch sử con người. Tự do của người chứng ngộ tạo ra bất tiện, và yêu của họ là từ bi. Đó là lí do tại sao xã hội bao giờ cũng bị phân chia về những người này.

Có những người đã cảm thấy chỉ mỗi bất tiện mà một Christ tạo ra. Đây là những người đã có vị thế vững chắc. Họ không cần từ bi. Họ nghĩ rằng họ có yêu, có mạnh khoẻ, của cải, kính trọng, mọi thứ. Christ xảy ra và những người “có” sẽ chống lại ông ấy vì ông ấy sẽ tạo ra bất tiện cho họ, trong khi những người “không có” sẽ ủng hộ ông ấy vì họ sẽ cảm thấy từ bi của ông ấy. Họ đang cần yêu. Không ai đã yêu họ, nhưng người này yêu họ. Họ sẽ không cảm thấy bất tiện về một Christ vì họ chẳng có gì để sợ, chẳng có gì để mất.

Khi một Christ chết mọi người sẽ cảm thấy từ bi của ông ấy, vì bây giờ không có bất tiện. Ngay cả những người đã có vị thế vững chắcc sẽ cảm thấy thoải mái; họ sẽ tôn thờ ông ấy. Nhưng khi ông ấy đang sống, ông ấy là người nổi dậy. Và ông ấy là người nổi dậy vì ông ấy là tự do.

Ông ấy không phải là người nổi dậy vì cái gì đó sai với xã hội. Tính nổi dậy như vậy chỉ là chính trị. Nếu xã hội thay đổi, chính những người đã nổi dậy sẽ trở thành người chính thống. Điều này đã xảy ra năm 1917. Chính những người cách mạng trở thành một trong những bè lũ phản cách mạng nhất trên thế giới. Những người có tầm quan trọng lớn như Stalin hay Mao Trạch Đông đang trong quyền lực, họ trở thành những người lãnh đạo phản cách mạng nhất có thể có vì họ không phải là người nổi dậy thực sự. Họ chỉ nổi dậy chống lại một tình huống đặc biệt. Một khi tình huống đó bị lật đổ, họ trở thành cùng người như họ đã tranh đấu để lật đổ.

Nhưng một Christ bao giờ cũng mang tính nổi dậy. Mọi tình huống sẽ không dập tắt được việc nổi dậy của ông ấy, vì việc nổi dậy của ông ấy không chống lại bất kì người nào. Chính vì tâm thức của ông ấy là tự do. Ở bất kì chỗ nào ông ấy cảm thấy rào chắn, ông ấy sẽ cảm thấy tính nổi dậy. Việc nổi dậy là tâm linh của ông ấy. Cho nên nếu Jesus tới ngày nay, người Ki tô giáo sẽ không thoải mái với ông ấy. Bây giờ họ là một phần của thể chế; họ đã trở nên được lắng đọng. Nếu Jesus tới trong bãi chợ lần nữa ông ấy sẽ phá huỷ mọi thứ họ có. Vatican, Nhà thờ, là không thể có với Jesus. Chỉ không có Jesus điều đó mới là có thể.

Mọi thầy giáo đã đạt tới chứng ngộ đều có tính nổi dậy, nhưng truyền thống có liên quan tới ông ấy không bao giờ có tính nổi dậy. Nó không bao giờ quan tâm tới việc nổi dậy của ông ấy, với tự do của ông áy, nhưng chỉ quan tâm tới từ bi của ông ấy, yêu của ông ấy. Nhưng thế thì yêu trở thành bất lực. Yêu không thể tồn tại mà không có tự do, không có nổi dậy.

Bạn không thể là yêu như Phật chừng nào bạn chưa tự do như ông ấy. Sư Phật giáo chỉ cố là từ bi. Từ bi là bất lực vì tự do không có đó. Tự do là nguồn cội. Mahavira là từ bi, nhưng sư Jaina không từ bi chút nào. Ông ta chỉ diễn bất bạo hành và từ bi; ông ta không thực sự từ bi. Ông ta tinh ranh. Ngay cả trong từ bi của mình, và việc trưng bày nó ra của ông ta, ông ta đang tinh ranh. Không có từ bi, vì tự do không có đó.

Bất kì khi nào tự do xảy ra trong tâm thức con người, tự do được cảm thấy từ bên trong và yêu được cảm thấy từ bên ngoài. Yêu này, từ bi này, là việc thiếu vắng của cả yêu và ghét. Nhị nguyên đầy đủ là thiếu vắng; không có hút vào lẫn đẩy ra.

Cho nên với người là tự do và đang yêu, sự việc tuỳ ở bạn liệu bạn có thể nhận yêu của người đó hay không. Điều đó không tuỳ ở tôi là tôi có thể cho bạn bao nhiêu yêu; nó tuỳ thuộc bạn có thể nhận được bao nhiêu yêu. Bình thường yêu phụ thuộc vào người đang cho. Người đó có thể cho yêu; người đó có thể không cho. Nhưng yêu tôi đang nói tới là không phụ thuộc vào người cho. Người đó hoàn toàn mở và cho mọi khoảnh khắc. Ngay cả khi không ai hiện diện, yêu vẫn đang tuôn chảy ra.

Nó giống như hoa trong sa mạc. Không ai có thể biết rằng nó đã nở hoa và đang cho ra hương thơm của nó, nhưng nó sẽ cho hương thơm. Hương thơm này không được cho bất kì người nào; nó chỉ là được cho. Hoa đã nở, cho nên hương thơm có đó. Liệu ai đó có đi qua hay không là không liên quan. Nếu ai đó đi qua và có cảm nhận, người đó có thể nhận nó. Nhưng nếu người đó hoàn toàn chết, không nhạy cảm, người đó thậm chí có thể không nhận biết rằng có hoa ở đó.

Khi yêu có đó, vấn đề là tuỳ ở bạn, liệu bạn có thể nhận nó hay không. Chỉ khi yêu không có đó mới có thể có người khác trao nó cho bạn hay giữ nó không cho bạn. Với yêu, với từ bi, không có phân chia giữa điều thiêng liêng và điều không thiêng liêng. Yêu là thiêng liêng. Thượng đế là yêu.

Xem Chương 12Quay về Mục Lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post