Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Tâm Lí Của Bí Truyền - Osho
Cuộc cách mạng bên trong
Thầy đã nói chúng ta có bẩy thể: thể ê te,
thể tâm trí và vân vân. Đôi khi khó điều chỉnh ngôn ngữ Ấn Độ theo các thuật ngữ
tâm lí phương Tây. Chúng tôi không có lí thuyết cho điều này ở phương Tây, cho
nên làm sao chúng tôi có thể dịch những thể khác nhau này sang ngôn ngữ của
chúng tôi? Tâm linh không là vấn đề, nhưng ê te thì sao? Vi diệu thì sao?
Lời có thể được dịch,
trừ lời từ các nguồn nơi bạn đã không tìm chúng. Jung là khá hơn Freud khi có
liên quan tới việc tìm kiếm bên ngoài ý thức nông cạn, nhưng Jung cũng chỉ là bắt
đầu. Bạn có thể có được thoáng nhìn nhiều hơn về điều được ngụ ý bởi những điều
này từ tác phẩm Nhân trí học của Steiner hay từ các bài viết của Thông thiên học:
Học thuyết bí mật, Isis được tiết lộ của bà Blavatsky và các công trình khác,
hay công trình của Annie Besant, Leadbeater, Colonel Alcott. Bạn có thể có
thoáng nhìn từ học thuyết của người theo Rosicruci. Cũng có truyền thống Hermet
lớn ở phương Tây, cũng như các bài viết bí mật của người Essenes, hội Hermetic
những người mà Christ đã khai tâm. Và gần đây hơn, Gurdjieff và Ouspensky có thể
là sự giúp đỡ. Cho nên cái gì đó có thể được tìm thấy trong các mảnh mẩu, và những
mảnh mẩu đó có thể được gắn lại với nhau.
Và điều tôi đã nói,
tôi đã nói theo thuật ngữ của bạn. Tôi đã dùng chỉ một lời không phải là một phần
của thuật ngữ phương Tây: tính niết bàn. Sáu thuật ngữ khác - vật lí, ê te, vi
diệu, tâm trí, tâm linh và càn khôn - không phải là thuật ngữ Ấn Độ. Chúng cũng
thuộc về phương Tây. Ở phương Tây thể thứ bẩy chưa bao giờ được nói tới, không
phải bởi vì đã không có người nào biết về nó, nhưng bởi vì thể thứ bẩy là không
thể trao đổi nói được.
Nếu bạn thấy các thuật
ngữ này là khó, thế thì bạn có thể đơn giản dùng "thứ nhất," "thứ
hai," "thứ ba" vân vân. Đừng dùng bất kì thuật ngữ nào để mô tả
chúng; chỉ mô tả chúng thôi. Việc mô tả sẽ là đủ; thuật ngữ không quan trọng.
Bẩy thể này có thể được
tiếp cận tới từ nhiều chiều hướng. Khi có liên quan tới mơ, các thuật ngữ của
Freud, Jung và Adler có thể được dùng. Điều họ biết như ý thức là thể thứ nhất.
Vô thức là thể thứ hai - không đích xác là cùng một thứ, nhưng đủ gần nó. Điều
họ gọi là vô thức tập thể là thể thứ ba - lần nữa, không đích xác là một nhưng
cái gì đó xấp xỉ nó.
Và nếu không có thuật
ngữ chung để dùng, thuật ngữ mới có thể được tạo ra. Điều đó bao giờ cũng tốt
hơn, thực ra, vì thuật ngữ mới không có hàm ý cũ. Khi thuật ngữ mới được dùng,
vì bạn không có liên kết trước với nó, nó trở nên có ý nghĩa hơn và được hiểu
sâu hơn. Cho nên bạn có thể làm ra từ mới.
Ê te ngụ ý cái có
liên quan tới bầu trời và với không gian. Vi diệu ngụ ý cái nhỏ bé nhất,
sukshma, cái cuối cùng, nguyên tử, cái mà vật chất dừng tồn tại. Với tâm trí
không có khó khăn. Với tâm linh không có khó khăn. Với càn khôn nữa cũng không
có khó khăn.
Thế rồi bạn đi tới thể
thứ bẩy, thể niết bàn. Niết bàn ngụ ý việc dừng toàn bộ, trống rỗng tuyệt đối.
Thậm chí không hạt mầm nào tồn tại bây giờ; mọi thứ đã dừng lại. Về mặt ngôn ngữ
từ này ngụ ý việc tắt ngóm ngọn lửa. Ngọn lửa đã mất đi; ánh sáng bị tắt đi. Thế
thì bạn không thể hỏi nó đã đi đâu. Nó đã chỉ dừng hiện hữu.
Niết bàn ngụ ý ngọn lửa
đã mất đi. Bây giờ nó không ở đâu cả, hay ở mọi nơi. Nó không có điểm tồn tại đặc
biệt hay không có thời gian hay khoảnh khắc tồn tại đặc biệt. Bây giờ nó là bản
thân không gian, bản thân thời gian. Nó là sự tồn tại hoặc vô tồn tại; điều đó
không tạo ra khác biệt. Vì nó ở mọi nơi, bạn có thể dùng thuật ngữ nào cũng được.
Nếu nó ở đâu đó nó không thể ở mọi nơi, và nếu nó ở mọi nơi nó không thể ở đâu
đó, cho nên ở đây bây giờ và mọi nơi ngụ ý cùng một điều. Cho nên với thể thứ bẩy
bạn sẽ phải dùng ‘niết bàn’, vì không có từ tốt hơn cho nó.
Từ trong bản thân
chúng không có nghĩa chút nào. Chỉ kinh nghiệm có nghĩa. Chỉ nếu bạn đã trải
nghiệm cái gì đó của bẩy thể này, điều đó sẽ có nghĩa cho bạn. Để giúp bạn, có
những phương pháp khác nhau được dùng ở từng bình diện.
Bắt đầu từ vật lí. Thế
thì mọi bước khác mở ra cho bạn. Khoảnh khắc bạn làm việc trên thể thứ nhất, bạn
có thoáng nhìn về thể thứ hai. Cho nên bắt đầu từ vật lí đi. Nhận biết về nó từ
khoảnh khắc sang khoảnh khắc đi. Và không chỉ nhận biết ra bên ngoài. Bạn có thể
trở nên nhận biết về thân thể của bạn từ bên trong nữa. Tôi có thể trở nên nhận
biết về tay tôi như tôi đã nhìn nó từ bên ngoài, nhưng có việc cảm bên trong về
nó nữa. Khi tôi nhắm mắt lại tay không được nhìn thấy, nhưng vẫn có việc cảm
bên trong về cái gì đó đang có đó. Cho nên không nhận biết về thân thể bạn như
được thấy từ bên ngoài. Điều này không thể dẫn bạn vào bên trong. Việc cảm bên
trong là hoàn toàn khác.
Khi bạn cảm thân thể
từ bên trong, lần đầu tiên bạn sẽ biết cái gì có đó ở bên trong thân thể. Khi bạn
nhìn nó chỉ từ bên ngoài bạn không thể biết được các bí mật của nó. Bạn chỉ biết
các biên giới bên ngoài, cách nó được nhìn từ người khác. Nếu tôi nhìn thân thể
tôi từ bên ngoài, tôi thấy nó như cách nó được nhìn từ người khác, nhưng tôi đã
không biết nó như nó dành cho tôi. Bạn có thể thấy tay tôi từ bên ngoài và tôi
có thể thấy nó. Nó là cái gì đó mang tính đối thể. Bạn có thể chia sẻ tri thức
về nó với tôi. Nhưng tay tôi, được nhìn theo cách đó, không phải là được biết từ
bên trong. Nó đã trở thành thuộc tính công khai. Bạn có thể biết nó như tôi biết
vậy.
Duy nhất khoảnh khắc
tôi thấy nó từ bên trong thì nó mới trở thành là của tôi theo cách không thể
chia sẻ được. Bạn không thể biết được nó; bạn không thể biết được cách tôi cảm
thấy nó từ bên trong. Duy nhất tôi có thể biết nó. Thân thể được biết với chúng
ta không phải là thân thể của chúng ta. Nó là thân thể được biết một cách đối
thể cho mọi người, thân thể mà bác sĩ trị liệu có thể biết trong phòng thí nghiệm.
Nó không phải là thân thể đang hiện hữu. Duy nhất việc biết cá nhân, riêng tư
có thể dẫn bạn vào bên trong; tri thức công khai không thể dẫn được. Đó là lí
do tại sao sinh lí học hay tâm lí học, cái là những quan sát từ bên ngoài, đã
không dẫn tới tri thức về các thể bên trong của chúng ta. Họ biết chỉ mỗi thể vật
lí.
Cho nên nhiều điều
khó xử đã được tạo ra bởi điều này. Một người có thể cảm thấy đẹp từ bên trong,
nhưng chúng ta có thể ép buộc người đó tin rằng người đó là xấu. Nếu chúng ta đồng
ý tập thể về điều đó, người đó có thể cũng đi tới đồng ý. Nhưng không người nào
cảm thấy xấu bên trong. Việc cảm bên trong bao giờ cũng là về đẹp.
Việc cảm bên ngoài
này không thực là việc cảm chút nào. Nó chỉ là phong cách thời thượng, tiêu chí
bị áp đặt từ bên ngoài. Một người là đẹp trong xã hội này có thể là xấu trong
xã hội khác; một người là đẹp trong thời kì lịch sử này có thể không là đẹp
trong thời kì lịch sử khác. Nhưng việc cảm bên trong nhất bao giờ cũng là về đẹp,
cho nên nếu như không có tiêu chí bên ngoài chắc đã không có xấu. Chúng ta có
hình ảnh cố định về đẹp mà mọi người có chung. Đó là lí do tại sao có cái xấu
và cái đẹp, bằng không thì không có. Nếu tất cả chúng ta đều trở nên mù, không
ai sẽ là xấu. Mọi người sẽ là đẹp.
Cho nên việc cảm về
thân thể từ bên trong là bước đầu tiên. Trong những tình huống khác nhau thân
thể sẽ cảm thấy khác từ bên trong. Khi bạn đang trong yêu, bạn có việc cảm bên
trong đặc biệt; khi bạn trải nghiệm ghét, việc cảm bên trong là khác. Nếu bạn hỏi
Phật ông ấy sẽ nói, "Yêu là đẹp," vì trong việc cảm bên trong của ông
ấy, ông ấy biết rằng khi ông ấy yêu, ông ấy là đẹp. Khi có hận, giận, ghen, cái
gì đó xảy ra bên trong làm cho bạn bắt đầu cảm thấy xấu. Cho nên bạn sẽ cảm thấy
bản thân bạn là khác trong những tình huống khác nhau, trong những khoảnh khắc
khác nhau, trong những trạng thái tâm trí khác nhau.
Khi bạn đang cảm thấy
lười nhác, có khác biệt với khi bạn đang cảm thấy hoạt động. Khi bạn buồn ngủ,
có khác biệt. Những khác biệt này phải được biết một cách phân biệt. Chỉ thế
thì bạn mới trở nên quen thuộc với sự sống bên trong của thân thể bạn. Thế thì
bạn biết lịch sử bên trong, địa lí bên trong của bản thân bạn trong thời thơ ấu,
thời thanh niên, trong tuổi già.
Khoảnh khắc người ta
trở nên nhận biết về thân thể của mình từ bên trong, thể thứ hai tự động lọt
vào cái nhìn. Thể thứ hai này sẽ được biết từ bên bên ngoài bây giờ. Nếu bạn biết
thể thứ nhất từ bên trong, thế thì bạn sẽ trở nên nhận biết về thể thứ hai từ
bên ngoài.
Từ bên ngoài thể thứ
nhất bạn không bao giờ có thể biết được thể thứ hai, nhưng từ bên trong nó bạn
có thể thấy cái bên ngoài của thể thứ hai. Mọi thể đều có hai chiều: cái bên
ngoài và cái bên trong. Cũng như tường có hai phía - một phía nhìn ra ngoài và
phía kia nhìn vào trong - mọi thể đều có biên giới, tường. Khi bạn đi tới biết
thể thứ nhất từ bên trong, bạn trở nên nhận biết về thể thứ hai từ bên ngoài.
Bây giờ bạn ở giữa:
bên trong thể thứ nhất và bên ngoài thể thứ hai. Thế thứ hai này, thể ê te, giống
như khói dầy đặc. Bạn có thể đi qua nó mà không có bất kì cản trở nào, nhưng nó
không trong suốt; bạn không thể nhìn vào trong nó từ bên ngoài. Thế thứ nhất là
rắn chắc. Thế thứ hai cũng giống như thể thứ nhất khi có liên quan tới hình
dáng, nhưng nó không rắn chắc.
Khi thể thứ nhất chết,
thể thứ hai vẫn còn sống trong mười ba ngày. Nó du hành cùng bạn. Thế rồi, sau
mười ba ngày, nó nữa cũng chết. Nó tan tác, bay hơi. Nếu bạn đi tới biết thể thứ
hai trong khi thể thứ nhất còn sống, bạn có thể nhận biết về việc xảy ra này.
Thể thứ hai có thể đi
ra khỏi thân thể bạn. Đôi khi trong thiền thể thứ hai này đi lên hay xuống, và
bạn có cảm giác rằng sức hút không còn kéo bạn xuống; bạn đã rời khỏi đất.
Nhưng khi bạn mở mắt ra, bạn vẫn đang trên đất, và bạn biết rằng bạn đã ở đó mọi
lúc. Việc cảm này tới với bạn, rằng bạn đã vươn lên, vì thể thứ hai, không vì
thế thứ nhất. Trong thể thứ hai không có sức hút, cho nên khoảnh khắc bạn biết
thể thứ hai bạn cảm thấy tự do nào đó, cái không được biết tới cho thể vật lí.
Bây giờ bạn có thể đi ra ngoài thân thể bạn và quay lại.
Đây là bước thứ hai nếu
bạn muốn biết các kinh nghiệm của thể thứ hai của bạn. Và phương pháp là không
khó. Chỉ ao ước ở bên ngoài thân thể bạn và bạn ở bên ngoài nó. Bản thân ước muốn
là việc hoàn thành. Với thể thứ hai không nỗ lực nào phải được làm vì không có
sức hút hấp dẫn. Khó khăn cho thể thứ nhất là vì lực hấp dẫn. Nếu tôi muốn tới
nhà bạn, tôi sẽ phải tranh đấu với lực hấp dẫn. Nhưng nếu không có sức hấp dẫn,
thế thì ham muốn đơn giản sẽ là đủ. Sự việc sẽ xảy ra.
Thể ê te là thể được
đưa vào làm việc trong thôi miên. Thể thứ nhất không được tham gia vào trong
thôi miên; đó là thể thứ hai. Đó là lí do tại sao người với cái nhìn hoàn hảo
có thể thành mù. Nếu người thôi miên nói rằng bạn đã bị mù, bạn trở thành mù chỉ
bởi việc tin vào điều đó. Chính thể ê te đã bị ảnh hưởng; việc gợi ý đi tới thể
ê te. Nếu bạn ở trong thôi miên sâu, thể thứ hai của bạn có thể bị ảnh hưởng.
Người mạnh khoẻ có thể bị liệt bởi việc gợi ý cho người đó rằng "anh bị liệt."
Người thôi miên phải không dùng bất kì ngôn ngữ nào tạo ra hoài nghi. Nếu ông
ta nói, "Dường như là anh đã bị mù," nó sẽ không có tác dụng. Ông ta
phải tuyệt đối chắc chắn về điều đó. Chỉ thế thì lời gợi ý sẽ có tác dụng.
Cho nên trong thể thứ
hai chỉ nói: "Tôi ở ngoài thân thể." Chỉ ao ước ở ngoài nó, và bạn sẽ
ở ngoài nó. Giấc ngủ bình thường thuộc vào thể thứ nhất. Chính thể thứ nhất - bị
kiệt sức bởi lao động, làm việc, căng thẳng trong ngày - trở nên thảnh thơi.
Trong thôi miên, chính thể thứ hai được đặt vào ngủ. Nếu nó được đặt vào ngủ, bạn
có thể làm việc với nó.
Khi bạn bị bất kì bệnh
nào, bẩy mươi nhăm phần trăm bệnh tới từ thể thứ hai và lan sang thể thứ nhất.
Thể thứ hai là dễ bị gợi ý tới mức sinh viên y năm thứ nhất bao giờ cũng bị
cùng bệnh mà được cho học. Họ bắt đầu có các triệu chứng. Nếu đau đầu được thảo
luận, một cách không chủ ý mọi người đi vào bên trong và bắt đầu hỏi,
"Mình có bị đau đầu không? Mình có những triệu chứng này không?" Vì
việc đi vào trong ảnh hưởng tới thân thể, lời gợi ý bị bắt lại và đau đầu bị
phóng chiếu, được tạo ra.
Đau của việc sinh con
không phải là của thể thứ nhất; nó là của thể thứ hai. Cho nên qua thôi miên,
việc sinh con có thể được làm thành tuyệt đối không đau - chỉ bằng gợi ý. Có những
xã hội nguyên thuỷ trong đó đàn bà không cảm thấy đau khi sinh vì khả năng này
chưa bao giờ đi vào tâm trí họ. Nhưng mọi kiểu văn minh đều tạo ra những gợi ý
chung mà rồi trở thành một phần trong trông đợi của mọi người.
Dưới thôi miên không
có đau. Ngay cả cuộc giải phẫu cũng có thể được tiến hành dưới thôi miên mà
không có đau gì vì nếu thể thứ hai nhận gợi ý rằng sẽ không có đau thế thì
không có đau. Khi có liên quan tới tôi, mọi kiểu đau, và mọi kiểu vui thú nữa,
đều tới từ thể thứ hai và lan sang thể thứ nhất. Cho nên nếu gợi ý thay đổi,
cùng điều đã từng là đau có thể trở thành vui thích, và ngược lại.
Thay đổi gợi ý, thay
đổi tâm trí ê te, và mọi thứ sẽ được thay đổi. Chỉ ao ước một cách toàn bộ và
nó sẽ xảy ra. Tính toàn bộ là khác biệt duy nhất giữa ao ước và ý chí. Khi bạn
đã ao ước cái gì đó một cách toàn bộ, hoàn toàn, với toàn thể tâm trí của bạn,
nó trở thành sức mạnh ý chí.
Nếu bạn ao ước một
cách toàn bộ đi ra ngoài thân thể sinh lí của bạn, bạn có thể đi ra ngoài nó.
Thế thì có khả năng biết thể thứ hai từ bên trong, bằng không thì không biết được.
Khi bạn đi ra ngoài thể vật lí của bạn, bạn không còn ở giữa: bên trong thể thứ
nhất và bên ngoài thể thứ hai. Bây giờ bạn ở bên trong thể thứ hai. Thể thứ nhất
không hiện hữu.
Bây giờ bạn có thể trở
nên nhận biết về thể thứ hai của bạn từ bên trong, cũng như bạn đã trở nên nhận
biết về thể thứ nhất của bạn từ bên trong. Nhận biết về cách làm việc bên trong
của nó đi, cơ chế bên trong của nó, sự sống bên trong. Lần đầu tiên bạn thử nó
là khó, nhưng sau đó bạn bao giờ cũng sẽ ở bên trong hai thể: thể thứ nhất và
thể thứ hai. Điểm chú ý của bạn bây giờ sẽ là ở hai cõi, hai chiều.
Khoảnh khắc bạn ở bên
trong thể thứ hai bạn sẽ ở bên ngoài thể thứ ba, thể vi diệu. Khi có liên quan
tới thể vi diệu, thậm chí không có nhu cầu về bất kì ý chí nào. Chỉ ao ước ở
bên trong là đủ. Không có vấn đề về tính toàn bộ bây giờ. Nếu bạn muốn đi vào
trong, bạn có thể đi vào trong. Thể vi diệu là kiểu hơi như thể thứ hai, nhưng
nó trong suốt. Cho nên khoảnh khắc bạn ở bên ngoài, bạn sẽ ở bên trong. Bạn thậm
chí sẽ không biết liệu bạn ở bên trong hay bên ngoài vì biên giới là trong suốt.
Thể vi diệu là cùng
kích cỡ như hai thể đầu. Mãi cho tới thể thứ năm, kích cỡ là như nhau. Nội dung
sẽ thay đổi, nhưng kích cỡ sẽ là như nhau cho tới thể thứ năm. Với thể thứ sáu
kích cỡ sẽ là càn khôn. Và với thể thứ bẩy, sẽ không có kích cỡ chút nào thậm
chí không có càn khôn.
Thể thứ tư là tuyệt đối
không có tường. Từ bên trong thể thứ ba, thậm chí không có tường trong suốt. Nó
chỉ là biên giới, không tường, cho nên không có khó khăn đi vào và không cần bất
kì phương pháp nào. Cho nên người đã đạt tới thể thứ ba có thể đạt tới thể thứ
tư rất dễ dàng.
Nhưng đi ra ngoài thể
thứ tư, có nhiều khó khăn như đã có trong việc đi ra ngoài thể thứ nhất, vì bây
giờ trí tuệ dừng lại. Thể thứ năm là thể tâm linh. Trước khi nó có thể được đạt
tới lại có tường, nhưng không theo cùng nghĩa như đã có tường giữa thể thứ nhất
và thể thứ hai. Tường là giữa các chiều khác nhau bây giờ. Nó là của bình diện
khác.
Bốn thể thấp hơn tất
cả được liên quan tới cùng một bình diện. Việc phân chia là theo chiều ngang.
Bây giờ, phân chia là chiều đứng. Cho nên tường giữa thể thứ tư và thể thứ năm
là lớn hơn giữa bất kì hai thể thấp hơn nào - vì cách nhìn thông thường của
chúng ta là theo chiều ngang, không theo chiều đứng. Chúng ta nhìn từ bên nọ
sang bên kia, không nhìn lên và xuống. Nhưng chuyển từ thể thứ tư sang thứ năm
là từ bình diện thấp hơn lên bình diện cao hơn. Khác biệt không phải là giữa
bên ngoài và bên trong mà là giữa lên và xuống. Chừng nào bạn chưa nhìn lên
trên bạn không thể chuyển vào thể thứ năm.
Tâm trí bao giờ cũng
nhìn xuống. Đó là lí do tại sao yoga là ngược lại tâm trí. Tâm trí chảy xuống
như nước. Nước chưa bao giờ được lấy làm biểu tượng cho bất kì hệ thống tâm
linh nào vì bản tính cố hữu của nó là chảy xuống. Lửa đã từng là biểu tượng của
nhiều hệ thống thế. Lửa bốc lên; nó không bao giờ đi xuống. Cho nên trong việc
chuyển từ thể thứ tư sang thể thứ năm, lửa là biểu tượng. Người ta phải nhìn
lên; người ta phải dừng nhìn xuống.
Nhìn lên thế nào?
Cách thức là gì? Bạn phải đã nghe nói rằng trong thiền mắt phải nhìn lên tới
luân xa ajna. Mắt phải được hội tụ lên trên dường như bạn sẽ nhìn vào trong sọ
của bạn. Mắt chỉ là biểu tượng. Vấn đề thực là cái nhìn. Cái nhìn của chúng ta,
khả năng của chúng ta về nhìn, được liên kết với mắt, cho nên mắt trở thành
phương tiện qua đó ngay cả cái nhìn vào trong xảy ra. Nếu bạn quay mắt bạn lên
trên, thế thì cái nhìn của bạn nữa cũng nhìn lên trên.
Raja yoga bắt đầu với
thể thứ tư. Duy nhất hatha yoga bắt đầu với thể thứ nhất; các yoga khác bắt đầu
từ đâu đó khác. Thượng đế học bắt đầu từ thể thứ hai, và các hệ thống khác bắt
đầu từ thể thứ ba. Khi nền văn minh tiếp tục tiến tới thể thứ tư, nhiều người sẽ
có khả năng bắt đầu từ đó. Nhưng chỉ nếu họ đã làm việc qua ba thể thấp hơn
trong các kiếp sống quá khứ, thể thứ tư có thể thể được dùng. Những người học
raja yoga từ kinh sách hay từ các swami và guru mà không biết liệu họ đã làm việc
qua ba thể thấp hơn của họ hay không nhất định bị ảo tưởng vì người ta không thể
bắt đầu từ thể thứ tư. Ba thể này phải được đi qua trước hết. Chỉ thế thì thể
thứ tư tới.
Thể thứ tư là thể cuối
cùng mà có thể bắt đầu từ đó. Có bốn yoga: hatha yoga dành cho thể thứ nhất,
mantra yoga cho thể thứ hai, bhakti yoga cho thể thứ ba, và raja yoga cho thể
thứ tư. Vào thời cổ đại, mọi người phải bắt đầu với thể thứ nhất, nhưng bây giờ
có nhiều kiểu người thế: người này đã làm việc tới thể thứ hai trong kiếp trước,
người kia lên tới thể thứ ba, vân vân. Nhưng khi có liên quan tới việc mơ, người
ta phải bắt đầu từ thể thứ nhất. Chỉ thế thì bạn có thể biết toàn thể miền của
nó, toàn thể phổ của nó.
Cho nên trong thể thứ
tư, tâm thức của bạn phải giống như lửa - đi lên trên. Có nhiều cách để kiểm điều
này. Chẳng hạn, nếu tâm trí chảy xuống dục, điều đó giống như nước chảy xuống,
vì trung tâm dục là xuống dưới. Trong thể thứ tư người ta phải bắt đầu hướng mắt
lên trên, không xuống dưới.
Nếu tâm thức đi lên
trên, nó phải bắt đầu từ trung tâm mà ở trên mắt, từ đó chuyển động có thể đi
lên: luân xa ajna. Bây giờ hai mắt phải nhìn lên hướng tới con mắt thứ ba.
Con mắt thứ ba đã được
nhớ tới theo nhiều cách thế. Ở Ấn Độ, phân biệt giữa cô gái đồng trinh và cô
gái đã lấy chồng được thực hiện bởi một dấu hiệu mầu trên con mắt thứ ba của người
đã lấy chồng. Người đồng trinh nhất định nhìn xuống tới trung tâm dục, nhưng
khoảnh khắc cô ấy lấy chồng cô ấy phải bắt đầu nhìn lên. Dục phải thay đổi từ
tính dục sang bên ngoài tính dục. Để giúp cô ấy nhớ nhìn lên, một dấu hiệu mầu
sắc, tilak, được đặt trên mắt thứ ba.
Dấu hiệu tilak đã được
đặt trên trán của nhiều kiểu người thế: sannyasin, người tôn thờ - nhiều kiểu dấu
hiệu mầu thế. Hay, có thể dùng chandan - miến dán gỗ đàn hương. Khoảng khắc hai
mắt của bạn nhìn lên trên hướng tới con mắt thứ ba, lửa lớn được tạo ra tại
trung tâm này; cảm giác bùng cháy có đó. Con mắt thứ ba bắt đầu mở ra và nó phải
được giữ mát. Cho nên ở Ấn Độ, miếng dán gỗ đàn hương được dùng. Nó không chỉ
là mát; nó cũng có hương thơm đặc biệt có liên quan tới thể thứ ba và việc siêu
việt trên nó. Tính mát của hương thơm, và điểm đặc biệt nơi nó được đặt vào, trở
thành việc thu hút đi lên, việc nhớ tới con mắt thứ ba.
Nếu bạn nhắm mắt lại
và tôi đặt ngón tay của tôi vào chỗ con mắt thứ ba của bạn, tôi không thực sự
chạm vào bản thân con mắt thứ ba, nhưng bạn sẽ vẫn bắt đầu cảm thấy nó. Thậm
chí việc tựa chừng nấy là đủ. Hầu như không chạm, chỉ sờ nhẹ. Cho nên hương
thơm, cái chạm tinh tế vào nó và cái mát mẻ của nó, là đủ. Thế thì sự chú ý của
bạn bao giờ cũng chảy từ đôi mắt bạn sang mắt thứ ba.
Cho nên để đi qua thể
thứ tư chỉ có một kĩ thuật, một phương pháp, và đó là nhìn lên. Shirshasan, đứng
trên đầu, vị trí lộn ngược của thân thể, đã được dùng như phương pháp để làm điều
này vì đôi mắt của chúng ta thông thường nhìn xuống. Nếu bạn đứng trên đầu, bạn
sẽ vẫn nhìn xuống, nhưng bây giờ xuống là lên. Dòng chảy của năng lượng đi xuống
của bạn sẽ được đổi thành dòng chảy đi lên.
Đó là lí do tại sao
trong thiền, ngay cả không biết nó, một số người sẽ đi vào các tư thế lộn ngược.
Họ sẽ bắt đầu làm shirshasan vì dòng năng lượng đã thay đổi. Tâm trí của họ được
ước định theo dòng chảy xuống tới mức khi năng lượng thay đổi hướng, họ sẽ cảm
thấy không thoải mái. Khi họ bắt đầu đứng trên đầu, họ sẽ lại cảm thấy thoải
mái, vì dòng năng lượng sẽ lại chuyển xuống. Nhưng nó sẽ không thực sự chuyển
xuống. Trong quan hệ với các trung tâm của bạn, các luân xa của bạn, năng lượng
sẽ vẫn chuyển lên.
Cho nên shirshasan đã
được dùng làm phương pháp để đưa bạn từ thể thứ tư sang thể thứ năm. Điều chính
cần được nhớ là nhìn lên. Điều này có thể được làm qua tratak - nhìn chăm chăm
vào một đối thể cố định, qua việc tập trung vào mặt trời, qua nhiều đối thể thế.
Nhưng tốt hơn cả là làm nó ở bên trong. Chỉ nhắm mắt lại!
Nhưng đầu tiên, bốn
thể đầu phải được đi qua. Chỉ thế thì nó sẽ giúp đỡ, bằng không thì không giúp
được. Bằng không nó có thể bị làm rối, nó có thể tạo ra mọi loại bệnh tinh thần,
vì toàn thể việc điều chỉnh hệ thống sẽ bị tan vỡ. Thể thứ tư đang nhìn xuống,
và với tâm trí bên trong của bạn, bạn đang nhìn lên. Thế thì, có mọi khả năng
là tinh thần phân liệt sẽ nảy sinh.
Với tôi, tinh thần
phân liệt là kết quả của điều như vậy. Đó là lí do tại sao tâm lí học thông thường
không thể đi sâu vào trong tinh thần phân liệt. Tâm trí tinh thần phân liệt
đang làm việc đồng thời theo các hướng đối lập: đứng bên ngoài và nhìn bên
trong; đứng bên ngoài và nhìn lên. Toàn thể hệ thống của bạn phải trong hài
hoà. Nếu bạn mà không biết thể vật lí của bạn từ bên trong, thế thì tâm thức của
bạn phải đang đối diện với phía dưới. Điều đó sẽ là mạnh khoẻ; việc điều chỉnh
là đúng. Bạn phải không bao giờ cố quay ra ngoài khi chuyển tâm trí lên trên nếu
không tinh thần phân liệt, phân chia sẽ là kết quả.
Những nền văn minh của
chúng ta, các tôn giáo của chúng ta, đã là nguyên nhân cơ bản cho nhân cách
chia chẻ của nhân loại. Họ đã không quan tâm tới sự hài hoà toàn bộ. Có những
thầy giáo dạy các phương pháp để chuyển lên trên cho những người thậm chí không
ở bên trong thể vật lí riêng của họ. Phương pháp này bắt đầu có tác dụng và một
phần của người này vẫn còn bên ngoài thân thể người đó trong khi phần thứ hai
chuyển lên trên. Thế thì sẽ có chia chẻ giữa hai phần này. Người đó sẽ trở
thành hai người: lúc thì người này, lúc thì người kia; kiểu người vừa thiện vừa
ác, Jekyll và Hyde.
Có mọi khả năng rằng
một người có thể trở thành bẩy người đồng thời. Thế thì việc chia chẻ là đầy đủ.
Người đó trở thành bẩy năng lượng khác nhau. Một phần của người đó chuyển xuống,
bám lấy thể thứ nhất; phần khác đang bám lấy thể thứ hai; phần khác bám lấy thể
thứ ba. Một phần đi lên; phần khác đi đâu đó khác. Người đó không có trung tâm
trong mình chút nào.
Gurdjieff thường nói
rằng người như vậy giống như ngôi nhà mà người chủ vắng mặt, và mọi người hầu đều
tuyên bố mình là người chủ. Và không ai có thể phủ nhận điều đó, vì bản thân
người chủ vắng mặt. Khi bất kì người nào tới ngôi nhà này và gõ cửa, người hầu
gần cửa trở thành người chủ. Ngày hôm sau, người hầu khác trả lời cho cánh cửa
và tuyên bố mình là người chủ.
Người tinh thần phân
liệt không có bất kì trung tâm nào. Và tất cả chúng ta giống điều đó! Chúng ta
đã điều chỉnh bản thân mình theo xã hội, có vậy thôi. Khác biệt chỉ ở mức độ.
Người chủ vắng nhà hay ngủ, và mọi phần của chúng ta tuyên bố quyền sở hữu. Khi
thôi thúc dục có đó, dục trở thành chủ nhân. Sự chết của bạn, gia đình bạn, tôn
giáo của bạn - mọi thứ sẽ bị phủ nhận. Dục trở thành chủ nhân toàn bộ ngôi nhà.
Và thế rồi, khi dục đã qua, thất vọng theo sau. Lí trí của bạn nhận trách nhiệm
và nói, "Tôi là người chủ." Bây giờ lí trí sẽ đòi toàn thể ngôi nhà
và sẽ phủ nhận dục là nhà.
Mọi người đều đòi
ngôi nhà một cách toàn bộ. Khi giận có đó, nó trở thành người chủ. Bây giờ
không có lí trí, không có ý thức. Không cái gì khác có thể can thiệp vào giận.
Vì điều này, chúng ta không thể hiểu được người khác. Người đã yêu trở nên giận
và đột nhiên không có yêu. Bây giờ chúng ta đâm ra lúng túng để hiểu liệu người
đó đang yêu hay không yêu. Yêu chỉ là người hầu, và giận nữa cũng chỉ là người
hầu. Người chủ vắng mặt. Đó là lí do tại sao bạn bình thường không thể tin cậy
vào bất kì người nào khác. Người đó không là người chủ của bản thân mình; bất
kì người hầu nào có thể tiếp quản. Người đó không là một; người đó không là đơn
vị thống nhất.
Điều tôi đang nói là
người ta phải không thực nghiệm với những kĩ thuật về việc nhìn lên trước khi
đi qua bốn thể đầu. Bằng không sự chia chẻ sẽ được tạo ra mà sẽ không thể nào bắc
cầu qua được, và người ta sẽ phải đợi kiếp sau của mình để bắt đầu lại. Tốt hơn
cả là thực hành các kĩ thuật mà bắt đầu từ đầu. Nếu bạn đã đi qua ba thể đầu của
bạn trong các lần sinh quá khứ, thế thì bạn lại sẽ đi qua chúng trong một khoảnh
khắc. Sẽ không có khó khăn. Bạn biết lãnh thổ này; bạn biết con đường. Trong một
khoảnh khắc, chúng tới trước bạn. Bạn nhận ra chúng - và bạn đã đi qua chúng!
Thế thì bạn có thể đi xa hơn. Cho nên nhấn mạnh của tôi bao giờ cũng là bắt đầu
từ thể thứ nhất. Với mọi người đấy!
Chuyển từ thế thứ tư
là điều có ý nghĩa nhất. Mãi cho tới thể thứ tư bạn là con người. Bây giờ bạn
trở thành siêu nhân. Trong thể thứ nhất bạn chỉ là con vật. Chỉ với thể thứ hai
nhân loại đi vào hiện hữu. Và chỉ trong thể thứ tư nó mới nở hoa đầy đủ. Văn
minh chưa bao giờ đi ra ngoài thể thứ tư. Bên ngoài thể thứ tư là bên ngoài con
người. Chúng ta không thể phân lớp Christ là con người được. Một Phật, một
Mahavira, một Krishna, là ở bên ngoài con người. Họ là siêu nhân.
Nhìn lên là cú nhảy từ
thể thứ tư. Khi tôi nhìn vào thể thứ nhất của tôi từ bên ngoài nó, tôi chỉ là
con vật với khả năng là con người. Khác biệt duy nhất là ở chỗ tôi có thể trở
thành con người còn con vật thì không thể. Khi có liên quan tới tình huống hiện
thời, chúng ta là cả hai ở dưới nhân loại, hạ nhân. Nhưng tôi có khả năng đi ra
ngoài. Và từ thể thứ hai trở đi, việc nở hoa thành con người xảy ra.
Ngay cả ai đó ở thể
thứ tư có vẻ siêu nhân với chúng ta. Họ không phải vậy đâu. Một Einstein hay một
Voltaire có vẻ siêu nhân, nhưng họ không phải vậy. Họ là việc nở hoa đầy đủ của
con người và chúng ta là dưới con người, cho nên họ là ở trên chúng ta. Nhưng họ
không ở trên con người. Duy nhất một Phật, một Christ hay một Zarathustra là
nhiều hơn con người. Bằng việc nhìn lên, bằng việc nâng tâm thức của họ lên từ
thể thứ tư, họ đã đi qua biên giới của tâm trí; họ đã siêu việt trên thể tâm
trí.
Có những chuyện ngụ
ngôn xứng đáng cho việc hiểu của chúng ta. Mohammed, nhìn lên trên, nói rằng
cái gì đó đã tới với ông ấy từ bên trên. Chúng ta diễn giải bên trên này về mặt
địa lí, cho nên trời trở thành chỗ cư ngụ của các thần. Với chúng ta, bên trên
ngụ ý trời; bên dưới ngụ ý tầng bên dưới của trái đất. Nhưng nếu chúng ta diễn
giải nó theo cách này, biểu tượng này đã không được hiểu. Khi Mohammed nhìn lên
ông ấy không nhìn hướng tới trời; ông ấy đang nhìn hướng tới luân xa ajna. Khi
ông ấy nói rằng cái gì đó đã tới với ông ấy từ bên trên, việc cảm của ông ấy là
đúng. Nhưng, ‘trên' có nghĩa khác cho chúng ta.
Trong mọi bức tranh,
Zarathustra đều nhìn lên trên. Mắt ông ấy không bao giờ nhìn xuống. Ông ấy đã
nhìn lên khi ông ấy lần đầu tiên thấy điều thiêng liêng. Điều thiêng liêng tới
với ông ấy như lửa. Đó là lí do tại sao người Persian đã là những người tôn thờ
lửa. Việc cảm này về lửa tới từ luân xa ajna. Khi bạn nhìn lên, chỗ này cảm thấy
bốc lửa, dường như mọi thứ đang bùng cháy. Vì việc bùng cháy đó, bạn được biến
đổi. Con người thấp hơn bị thiêu cháy, nó dừng hiện hữu, và con người cao hơn
được sinh ra. Đó là nghĩa của "trải qua lửa."
Sau thể thứ năm bạn
chuyển vào trong miền tĩnh lặng khác, chiều hướng khác. Từ thể thứ nhất tới thể
thứ tư việc chuyển là từ bên ngoài vào bên trong; từ thể thứ tư tới thể thứ năm
nó là từ xuống dưới sang lên trên; từ thể thứ năm nó là từ bản ngã sang vô bản
ngã. Bây giờ chiều hướng là khác. Không có vấn đề bên ngoài, bên trong, lên
trên hay xuống dưới. Vấn đề là của "tôi" và "vô-tôi." Vấn đề
bây giờ có liên quan tới liệu có trung tâm hay không.
Người không có bất kì
trung tâm nào mãi tới thể thứ năm - chia chẻ theo các phần khác nhau. Chỉ với
thể thứ năm có trung tâm: sự thống nhất, tính một. Nhưng trung tâm trở thành bản
ngã. Bây giờ trung tâm này sẽ là cản trở cho tiến bộ thêm. Mọi bước đã là sự
giúp đỡ trở thành cản trở cho tiến bộ thêm. Bạn phải bỏ mọi chiếc cầu bạn đi
qua. Nó đã giúp đỡ trong việc đi qua, nhưng nó sẽ trở thành cản trở nếu bạn bám
lấy nó.
Mãi cho tới thể thứ
năm, trung tâm phải được tạo ra. Gurdjieff nói trung tâm thứ năm này là việc kết
tinh. Bây giờ không có người hầu; người chủ đã đảm đương. Bây giờ người chủ là
người chủ. Người đó được thức tỉnh; người đó đã quay lại. Khi người chủ hiện diện,
người hầu lui lại; họ trở nên im lặng.
Cho nên khi bạn đi
vào thể thứ năm, việc kết tinh của bản ngã xảy ra. Nhưng bây giờ, để tiến bộ
thêm nữa, việc kết tinh này lại phải bị mất đi. Mất vào trong trống rỗng, vào
trong càn khôn. Duy nhất người có mới có thể mất, cho nên nói về vô ngã trước
thể thứ năm là vô nghĩa, ngớ ngẩn. Bạn không có bản ngã, vậy làm sao bạn có thể
làm mất nó được? Hay bạn có thể nói rằng bạn có nhiều bản ngã, mọi người hầu đều
có bản ngã. Bạn là đa bản ngã, đa nhân cách, đa linh hồn, nhưng không là một bản
ngã thống nhất.
Bạn không thể làm mất
bản ngã được vì bạn không có nó. Người giầu có thể từ bỏ giầu có của mình,
nhưng người nghèo thì không. Người đó chẳng có gì để từ bỏ, chẳng có gì để mất.
Nhưng có những người nghèo nghĩ về từ bỏ. Người giầu sợ từ bỏ vì người đó có
cái gì đó để mất, nhưng người nghèo bao giờ cũng sẵn sàng từ bỏ. Người đó sẵn
sàng, nhưng người đó chẳng có gì để từ bỏ.
Thể thứ năm là giầu
nhất. Nó là cực đỉnh của mọi điều là có thể cho một người. Thể thứ năm là đỉnh
của tính cá nhân, đỉnh của yêu, của từ bi, của mọi thứ là xứng đáng. Gai đã mất
đi. Giờ hoa nữa cũng phải mất đi. Thế thì đơn giản sẽ có hương thơm, không có
hoa.
Thể thứ sáu là cõi của
hương thơm, hương thơm càn khôn. Không hoa, không trung tâm. Chu vi, nhưng
không trung tâm. Bạn có thể nói rằng mọi thứ đã trở thành trung tâm, hay rằng
bây giờ không có trung tâm. Chỉ việc cảm được khuếch tán có đó. Không có chia
chẻ, không có phân chia - thậm chí không có phân chia của cá nhân thành cái
“tôi” và “không tôi," cái "tôi" và "người khác." Không
có phân chia chút nào.
Cho nên cá nhân có thể
bị mất theo một trong hai cách: một, tinh thần phân liệt, chia chẻ thành nhiều
hạ nhân; và cách kia, càn khôn - mất trong cái tối thượng; mất trong cái lớn
hơn, cái lớn nhất, Brahma; mất trong sự mở rộng. Bây giờ hoa không có, nhưng
hương thơm có.
Hoa nữa cũng là làm mất
yên tĩnh, nhưng khi chỉ hương thơm có đó, nó là hoàn hảo. Bây giờ không có nguồn,
cho nên nó không thể chết. Nó là không chết. Mọi thứ có nguồn sẽ phải chết,
nhưng bây giờ hoa không có, cho nên không có nguồn. Hương thơm là không được tạo
ra, cho nên không có chết và không có biên giới cho nó. Hoa có giới hạn; hương
thơm là vô giới hạn. Không có rào chắn cho nó. Nó lan toả mãi, và lan toả ra
bên ngoài.
Cho nên từ thể thứ
năm vấn đề không là lên trên, xuống dưới, các bên, bên trong, bên ngoài. Vấn đề
là liệu hiện hữu cùng bản ngã hay không bản ngã. Và bản ngã là thứ khó làm mất
nhất trong tất cả mọi thứ. Bản ngã không phải là vấn đề cho tới thể thứ năm vì
tiến bộ là việc đáp ứng bản ngã. Không ai muốn là tinh thần phân liệt; mọi người
đều ưa thích có nhân cách kết tinh. Cho nên mọi sadhaka, mọi người tìm kiếm, có
thể tiến bộ tới thể thứ năm.
Không có phương pháp
để chuyển ra ngoài thể thứ năm vì mọi kiểu phương pháp nhất định là cùng với bản
ngã. Khoảnh khắc bạn dùng phương pháp, bản ngã được làm mạnh lên. Cho nên những
người quan tâm tới việc đi ra ngoài thể thứ năm, nói về vô phương pháp. Họ nói
về vô phương pháp, về vô kĩ thuật. Bây giờ không có làm sao. Từ thể thứ năm,
không phương pháp nào là có thể.
Bạn có thể dùng
phương pháp cho tới thể thứ năm, nhưng thế rồi không phương pháp nào sẽ hữu dụng
vì người dùng sẽ bị mất. Nếu bạn dùng bất kì cái gì, người dùng sẽ trở nên mạnh
hơn. Bản ngã của người đó sẽ liên tục kết tinh; nó sẽ trở thành hạt nhân của việc
kết tinh. Đó là lí do tại sao những người vẫn còn trong thể thứ năm nói có những
hồn vô hạn, những linh hồn vô hạn. Họ nghĩ về từng linh hồn dường như nó đã là
nguyên tử. Hai nguyên tử không thể gặp gỡ. Chúng là vô cửa sổ, vô cửa vào; bị
đóng với mọi thứ bên ngoài bản thân chúng.
Bản ngã là vô cửa sổ.
Bạn có thể dùng từ của Leibnitz: ‘đơn tử'. Những người vẫn còn trong thể thứ
năm trở thành đơn tử: nguyên tử vô cửa sổ. Bây giờ bạn là một mình, và một
mình, và một mình.
Nhưng bản ngã được kết
tinh này phải bị mất đi. Làm sao làm mất nó khi không có phương pháp? Làm sao
đi ra ngoài nó khi không có đường? Làm sao thoát khỏi nó? Không có cửa ra vào.
Thiền sư nói về cổng vô môn. Bây giờ không có cổng, và dầu vậy người ta phải đi
ra ngoài nó.
Vậy làm gì? Điều đầu
tiên: không bị đồng nhất với việc kết tinh này. Chỉ nhận biết về ngôi nhà bị
đóng này của cái “tôi." Chỉ nhận biết về nó - không làm bất kì cái gì - và
có bùng nổ! Bạn sẽ ở bên ngoài nó.
Họ có chuyện ngụ ngôn
trong Thiền...
Một trứng ngỗng được
để vào trong một cái lọ. Ngỗng con chui ra từ trứng và bắt đầu lớn lên, nhưng
miệng lọ nhỏ tới mức ngỗng không thể ra được khỏi lọ. Nó lớn lên mỗi ngày một
to hơn, và cái lọ trở thành quá nhỏ để sống được bên trong. Bây giờ, hoặc cái lọ
sẽ phải bị đập ra để cứu ngỗng, hoặc ngỗng sẽ chết. Người tìm kiếm được hỏi:
"Phải làm gì? Chúng ta không muốn mất cái nào. Con ngỗng phải được cứu và
cái lọ cũng phải được giữ. Vậy phải làm gì?" Đây là câu hỏi của thể thứ
năm. Khi không có cách nào chui ra và con ngỗng đang lớn lên, khi việc kết tinh
đã trở nên vững chắc, phải làm gì bây giờ?
Người tìm kiếm đi vào
bên trong phòng, đóng cửa lại và bắt đầu phân vân về điều đó. Phải làm gì? Chỉ
hai điều dường như là có thể: hoặc đập lọ và cứu ngỗng, hoặc để ngỗng chết và
giữ lọ. Thiền nhân liên tục suy nghĩ và suy nghĩ. Anh ta nghĩ về cái gì đó,
nhưng thế rồi nó sẽ bị xoá bỏ vì không có cách nào làm điều đó. Thầy giáo cho
anh ta trở về để nghĩ thêm nữa.
Trong nhiều đêm và
nhiều ngày người tìm kiếm liên tục suy nghĩ, nhưng không có cách nào làm điều
đó. Chung cuộc một khoảnh khắc tới khi việc suy nghĩ dừng lại. Anh ta chạy ra
kêu to, "Ra rồi! Ngỗng ở ngoài!" Thầy không bao giờ hỏi làm sao, vì
toàn thể sự việc chỉ là vô nghĩa.
Cho nên chuyển từ thể
thứ năm, vấn đề trở thành công án Thiền. Người ta phải chỉ nhận biết về việc kết
tinh - và con ngỗng ở ngoài! Một khoảnh khắc tới khi bạn ở ngoài; không có
"tôi." Việc kết tinh đã được thu lấy và bị mất. Với thể thứ năm, việc
kết tinh - trung tâm, bản ngã - đã là bản chất. Như một bước chuyển, như chiếc
cầu, nó đã là sự cần thiết; bằng không thể thứ năm không thể bị đi qua. Nhưng
bây giờ nó không còn được cần nữa.
Có những người đã đạt
tới thể thứ năm mà không đi qua thể thứ tư. Người có nhiều của cải đã đạt tới
thể thứ năm; người đó đã kết tinh theo cách nào đó. Người đã trở thành tổng thống
của một nước đã kết tinh theo cách nào đó. Một Hitler, một Mussolini, được kết
tinh theo cách nào đó. Nhưng việc kết tinh là trong thể thứ năm. Nếu bốn thể thấp
hơn không tương ứng với nó, thế thì việc kết tinh trở thành bệnh. Mahavira và
Phật được kết tinh nữa, nhưng việc kết tinh của họ là khác.
Chúng ta khao khát
đáp ứng bản ngã vì nhu cầu bên trong nhất để đạt tới thể thứ năm. Nhưng nếu
chúng ta chọn lối tắt, thế thì đến cuối cùng chúng ta sẽ bị lạc. Đường ngắn nhất
là qua của cải, quyền lực, chính trị. Bản ngã có thể được đạt tới, nhưng nó là
việc kết tinh giả; nó không tương xứng với nhân cách toàn bộ của bạn. Nó giống
như cục chai chân, miếng da hình thành trên chân bạn và trở nên dầy ra. Nó là
việc kết tinh giả, sự trưởng thành bất thường, bệnh.
Nếu con ngỗng ở ngoài
trong thể thứ năm, bạn ở trong thể thứ sáu. Từ thể thứ năm tới thể thứ sáu là
cõi của điều huyền bí. Mãi cho tới thể thứ năm, các phương pháp khoa học có thể
được dùng, cho nên yoga là có ích. Nhưng sau đó nó là vô nghĩa, vì yoga là
phương pháp luận, kĩ thuật khoa học.
Ở thể thứ năm, Thiền
là rất có ích. Nó là phương pháp đi từ thể thứ năm sang thể thứ sáu. Thiền đã nở
hoa ở Nhật Bản nhưng nó đã bắt đầu ở Ấn Độ. Rễ của nó bắt nguồn từ Yoga. Yoga
đã nở hoa trong Thiền.
Thiền đã có nhiều hấp
dẫn ở phương Tây vì bản ngã phương Tây, theo một nghĩa nào đó, được kết tinh. Ở
phương Tây, họ là người chủ thế giới; họ có mọi thứ. Nhưng bản ngã đã trở nên
được kết tinh qua quá trình sai. Nó đã không phát triển qua siêu việt của bốn
thể đầu. Cho nên Thiền đã trở nên hấp dẫn với phương Tây nhưng nó sẽ không giúp
đỡ vì việc kết tinh là sai. Gurdjieff giúp đỡ nhiều hơn nhiều cho phương Tây vì
ông ấy làm việc từ thể thứ nhất tới thể thứ năm. Ông ấy không giúp đỡ bên ngoài
thể thứ năm. Chỉ tới thể thứ năm, tới việc kết tinh. Qua các kĩ thuật của ông ấy,
bạn có thể đạt tới việc kết tinh đúng.
Thiền đã chỉ là mốt
nhất thời ở phương Tây vì nó không có rễ ở đó. Nó đã phát triển qua một quá
trình rất lâu dài ở phương Đông, bắt đầu với hatha yoga và đỉnh điểm ở Phật.
Hàng nghìn và hàng nghìn năm khiêm tốn: không của bản ngã mà của tính thụ động;
không của hành động khẳng định mà của tính cảm nhận - qua thời gian dài của tâm
trí nữ tính, tâm trí cảm nhận. Phương Đông bao giờ cũng mang nữ tính, trong khi
phương Tây mang nam tính: năng nổ, khẳng định. Phương Đông đã là tính mở, việc
cảm nhận. Thiền có thể là sự giúp đỡ ở phương Đông vì các phương pháp khác, các
hệ thống khác, đã làm việc trên bốn thể thấp hơn. Bốn thể này trở thành rễ, và
Thiền có thể nở hoa.
Ngày nay, Thiền đã trở
thành gần như vô nghĩa ở Nhật Bản. Lí do là ở chỗ Nhật Bản đã trở thành tuyệt đối
phương Tây. Có thời người Nhật Bản đã là người khiêm tốn nhất, nhưng bây giờ
khiêm tốn của họ chỉ là hình thức. Nó không còn là một phần của cốt lõi bên
trong nhất của họ. Cho nên Thiền đã bị bật rễ ở Nhật Bản và bây giờ là phổ biến
ở phương Tây. Nhưng sự phổ biến này chỉ là vì việc kết tinh giả của bản ngã.
Từ thể thứ năm tới thể
thứ sáu, Thiền là rất có ích. Nhưng chỉ thế thôi, không trước cũng không ra bên
ngoài. Nó là tuyệt đối vô dụng cho các thể khác, thậm chí có hại. Dạy các môn học
mức đại học trong trường tiểu học không chỉ không giúp ích; nó có thể có hại.
Nếu Thiền được dùng
trước thể thứ năm, bạn có thể trải nghiệm tỏ ngộ, nhưng đó không phải là
samadhi. Tỏ ngộ là samadhi giả. Nó là thoáng nhìn về samadhi, nhưng nó chỉ là
thoáng nhìn. Khi có liên quan tới thể thứ tư - thể tâm trí - tỏ ngộ sẽ làm cho
bạn nghệ sĩ hơn, thẩm mĩ hơn. Nó sẽ tạo ra cảm giác về cái đẹp trong bạn; nó sẽ
tạo ra cảm giác về mạnh khoẻ hạnh phúc. Nhưng nó sẽ không là sự giúp đỡ trong
việc kết tinh. Nó sẽ không giúp bạn chuyển từ thể thứ tư sang thể thứ năm.
Chỉ bên ngoài việc kết
tinh Thiền mới có ích. Ngỗng ở ngoài lọ, không có bất kì làm sao. Nhưng chỉ ở
điểm này nó có thể được thực hành, sau khi nhiều phương pháp khác đã được dùng.
Hoạ sĩ có thể vẽ bằng mắt nhắm; người đó có thể vẽ dường như nó là trò chơi.
Nghệ sĩ có thể diễn dường như người đó không diễn. Thực ra, việc diễn trở thành
hoàn hảo chỉ khi nó không có vẻ giống như diễn. Nhưng nhiều năm lao động đã đi
vào trong nó, nhiều năm thực hành. Giờ nghệ sĩ hoàn toàn thoải mái, nhưng cái
thoải mái đó không được đạt tới trong một ngày. Nó có phương pháp riêng của nó.
Chúng ta bước đi,
nhưng chúng ta không bao giờ biết cách chúng ta làm điều đó. Nếu ai đó hỏi bạn
cách bạn bước, bạn nói, "Tôi chỉ bước thôi. Không có làm sao cho điều
đó." Nhưng cái làm sao này xảy ra khi đứa trẻ bắt đầu đi. Nó học. Nếu như
bạn bảo đứa trẻ rằng việc bước đi không cần phương pháp - "Con cứ bước
đi!" - điều đó sẽ là vô nghĩa. Đứa trẻ sẽ không hiểu điều đó. Krishnamurti
đã từng nói theo cách này, nói với người lớn, người có tâm trí trẻ con, nói là,
"Các ông có thể bước. Các ông chỉ bước thôi!" Mọi người nghe. Họ bị
mê hoặc. Dễ! Bước mà không có bất kì phương pháp nào. Thế rồi, mọi người có thể
bước.
Krishnamurti nữa đã
trở nên hấp dẫn ở phương Tây, và chỉ vì điều này. Nếu bạn nhìn vào hatha yoga
hay mantra yoga hay bhakti yoga hay raja yoga hay Tantra, nó có vẻ lâu thế,
gian nan thế, khó thế. Nhiều thế kỉ lao động được cần tới, hết lần sinh này tới
lần sinh khác. Họ không thể đợi được. Lối tắt nào đó, cái gì đó tức khắc phải có
đó. Cho nên Krishnamurti hấp dẫn họ. Ông ấy nói, "Các ông cứ bước đi. Các
ông bước trong Thượng đế. Không có phương pháp." Nhưng vô phương pháp là
thứ gian nan nhất để đạt tới. Diễn dường như người ta không diễn, nói dường như
người ta không nói, bước vô nỗ lực dường như người ta không bước, được dựa trên
nỗ lực lâu dài.
Lao động và nỗ lực là
cần thiết; chúng được cần. Nhưng chúng có giới hạn. Chúng được cần cho tới thể
thứ năm, nhưng chúng là vô dụng từ thể thứ năm tới thể thứ sáu. Bạn sẽ phải
không đi đâu cả; ngỗng sẽ không bao giờ ở ngoài.
Đó là vấn đề với những
người yogi Ấn Độ. Họ thấy khó đi qua thể thứ năm vì họ bị mê hoặc theo phương
pháp, bị thôi miên theo phương pháp. Họ bao giờ cũng làm việc với phương pháp.
Đã từng có một khoa học rõ ràng mãi cho tới thể thứ năm và họ đã tiến bộ dễ
dàng. Nó đã là nỗ lực - và họ có thể làm nó! Không thành vấn đề sự mãnh liệt
nhiều đến đâu được cần, điều đó không phải là vấn đề với họ. Không thành vấn đề
nỗ lực nhiều đến đâu, họ có thể cung cấp điều đó. Nhưng bây giờ trong thể thứ
năm, họ phải đi qua từ miền phương pháp sang vô phương pháp. Bây giờ họ đâm ra
lúng túng. Họ ngồi xuống, họ dừng lại. Và với nhiều người tìm kiếm thế, thể thứ
năm trở thành chỗ kết thúc.
Đó là lí do tại sao
có việc nói về năm thể, không bẩy thể. Những người đã đi chỉ tới thể thứ năm
nghĩ rằng nó là chỗ kết thúc. Nó không là chỗ kết thúc; nó là bắt đầu mới. Bây
giờ người ta phải chuyển từ cá nhân sang phi cá nhân. Thiền, hay phương pháp
như Thiền, được làm một cách vô nỗ lực, có thể giúp đỡ.
Toạ thiền ngụ ý chỉ
ngồi, không làm gì. Người đã làm nhiều không thể quan niệm được điều này. Chỉ
ngồi và không làm gì! Điều đó là không thể quan niệm được. Một Gandhi không thể
quan niệm được điều đó. Ông ấy nói, "Tôi sẽ quay bánh xe. Cái gì đó phải
được làm. Đây là lời cầu nguyện của tôi, thiền của tôi." Vô làm với ông ấy
ngụ ý không làm gì cả. Vô làm có miền riêng của nó, phúc lạc riêng của nó, điều
chỉnh riêng của nó, nhưng điều đó là từ thể thứ năm tới thể thứ sáu. Nó không
thể được hiểu trước điều đó.
Từ thể thứ sáu tới thể
thứ bẩy, thậm chí không có vô phương pháp. Phương pháp bị mất trong thể thứ
năm, và vô phương pháp bị mất trong thể thứ sáu. Một ngày nào đó bạn đơn giản
thấy rằng bạn ở trong thể thứ bẩy. Ngay cả càn khôn đã mất đi; chỉ hư không hiện
hữu. Nó chỉ xảy ra. Nó là việc xảy ra từ thể thứ sáu tới thể thứ bẩy. Không được
gây ra, không biết.
Chỉ khi nó không được
gây ra nó mới trở thành gián đoạn với cái đã trôi qua trước. Nếu nó được gây ra
thế thì có sự lien tục và hiện hữu không thể bị mất, ngay cả trong thể thứ bẩy.
Thể thứ bẩy là vô hiện hữu toàn bộ: niết bàn, trống rỗng, vô tồn tại.
Không có khả năng nào
của bất kì sự liên tục nào trong việc chuyển từ tồn tại sang vô tồn tại. Nó chỉ
là cú nhảy, không được gây ra. Nếu nó được gây ra chắc sẽ có sự liên tục, và nó
chắc sẽ chỉ như thể thứ sáu. Cho nên chuyển từ thể thứ sáu sang thể thứ bẩy thậm
chí không thể được nói tới. Nó là sự gián đoạn, kẽ hở. Cái gì đó đã có, và cái
gì đó bây giờ có - và không có kết nối giữa hai điều này.
Cái gì đó đã dừng lại,
và cái gì đó đã bước vào. Không có quan hệ giữa chúng. Dường như khách đã rời
đi từ cửa này và khách khác đã bước vào từ phía bên kia. Không có mối quan hệ
giữa việc đi của người này và việc tới của người khác. Chúng là không có quan hệ.
Thể thứ bẩy là tối
thượng, vì bây giờ bạn đã đi qua ngay cả thế giới nhân quả. Bạn đã đi tới cội
nguồn nguyên thuỷ, tới cái đã có trước sáng tạo và cái sẽ có sau triệt tiêu.
Cho nên từ thể thứ sáu tới thể thứ bẩy thậm chí không có vô phương pháp. Không
cái gì có bất kì giúp đỡ nào; mọi thứ có thể là cản trở. Từ càn khôn tới hư
không chỉ có việc xảy ra: không được gây ra, không được chuẩn bị, không được
yêu cầu.
Điều đó xảy ra đồng
thời. Chỉ một điều là được nhớ: bạn phải không bám vào thể thứ sáu. Việc bám
víu sẽ ngăn cản bạn khỏi đi tới thể thứ bẩy. Không có cách thức khẳng định để
chuyển tới thể thứ bẩy, nhưng có thể có cản trở phủ định. Bạn có thể bám lấy
Brahma, càn khôn. Bạn có thể nói, "Tôi đã đạt tới!" Những người nói họ
đã đạt tới không thể đi tới thể thứ bẩy.
Những người nói,
"Tôi đã biết," vẫn còn ở thể thứ sáu. Cho nên những người đã viết
Vedas vẫn còn trong thể thứ sáu. Duy nhất Phật đi qua thể thứ sáu vì ông ấy
nói, "Ta không biết." Ông ấy từ chối cho câu trả lời cho những câu hỏi
tối thượng. Ông ấy nói, "Không ai biết. Không ai đã biết." Phật đã
không thể được hiểu. Những người đã nghe ông ấy nói, "Không, thầy giáo của
chúng tôi đã biết. Họ nói có Brahma." Nhưng Phật đang nói về thể thứ bẩy.
Không thầy giáo nào có thể nói ông ấy đã biết về thể thứ bẩy vì khoảnh khắc bạn
nói điều đó bạn mất cái chạm với điều đó. Một khi bạn đã biết điều đó, bạn
không thể nói được. Mãi tới thể thứ sáu các biểu tượng có thể có tính diễn đạt,
nhưng không có biểu tượng cho thể thứ bẩy. Nó chỉ là trống rỗng.
Có một ngôi đền ở
Trung Quốc mà trống rỗng toàn bộ. Không có gì trong nó: không ảnh, không kinh
sách, không cái gì. Nó chỉ là những bức tường trần trụi, trống trơn. Ngay cả tu
sĩ cũng sống ở bên ngoài. Ông ấy nói, "Tu sĩ chỉ có thể ở bên ngoài đền;
ông ấy không thể ở bên trong được." Nếu bạn hỏi tu sĩ này thần đền ở đâu,
ông ấy sẽ nói, "Nhìn nó đi!" - và có trống rỗng; không có người nào.
Ông ấy sẽ nói, "Nhìn đi! Đây! Bây giờ!" và chỉ có ngôi đền trống rỗng,
trần trụi, trống trơn.
Nếu bạn tìm các vật
thế thì bạn không thể đi qua được thể thứ sáu tới thể thứ bẩy. Cho nên có việc
chuẩn bị phủ định. Tâm trí phủ định được cần, tâm trí mà không khao khát về bất
kì cái gì - thậm chí không khao khát moksha, thậm chí không khao khát giải
thoát, thậm chí không khao khát niết bàn, thậm chí không khao khát chân lí; tâm
trí không chờ đợi bất kì cái gì - thậm chí không chờ Thượng đế, không chờ
Brahma. Nó chỉ hiện hữu, không có bất kì khao khát nào, không có bất kì ham muốn
nào, không có bất kì ao ước nào. Chỉ đây này. Thế thì, nó xảy ra... và ngay cả
càn khôn cũng mất.
Cho nên dần dần bạn
có thể đi qua vào thể thứ bẩy. Bắt đầu từ thể vật lí và làm việc qua thể ê te.
Thế rồi thể vi diệu, thể tâm trí, thể tâm linh. Mãi cho tới thể thứ năm bạn có
thể làm việc và thế rồi, từ thể thứ năm trở đi, chỉ là nhận biết. Thế thì việc
làm là không quan trọng; tâm thức là quan trọng. Và chung cuộc, từ thể thứ sáu
tới thể thứ bẩy, ngay cả tâm thức là không quan trọng. Chỉ đây này, hiện hữu.
Đây là tiềm năng của các hạt mầm của chúng ta. Đây là khả năng của chúng ta.
0 Đánh giá