Chương 7. Hài hoà của yêu và từ bỏ

Chương 7. Hài hoà của yêu và từ bỏ

Price:

Read more

Con Đường Của Yêu – Osho

Chương 7. Hài hoà của yêu và từ bỏ


Tôi đã làm tĩnh lặng tâm trí bất ổn của tôi,

và tim tôi rạng ngời:

vì trong tính Cái đó tôi đã thấy bên ngoài tính Cái đó, trong bạn bè tôi đã thấy Bản thân Ngài.

Sống trong lệ thuộc, ta đã đặt bản thân ta tự do:

Tôi đã đập bỏ nanh vuốt của mọi sự hẹp hòi.

Kabir nói: Tôi đã đạt tới cái không thể đạt tới,

và tim tôi được tô bằng mầu của yêu.

Cái mà ông thấy là không hiện hữu:

Và với cái đang đó, ông không có lời.

Chừng nào ông chưa thấy, ông không tin:

Điều được nói cho ông, ông không thể chấp nhận.

Người thấy rõ các cái biết bằng lời;

và người dốt đứng há miệng.

Một số người suy tư về vô hình tướng,

và những người khác thiền về hình tướng;

nhưng người trí huệ biết

rằng Brahma ở bên ngoài cả hai.

Rằng cái đẹp của Ngài là không thấy được bằng mắt,

rằng nhịp của Ngài là không được nghe bằng tai.

Kabir nói:

Người đã thấy cả yêu và từ bỏ

Không bao giờ đi xuống chết.

Hôm đó đã là buổi sáng đẹp, và mặt trời vừa mới lên trên đường chân trời, và tia sáng mặt trời đầu tiên đang chơi đùa cùng lá hạnh, và tôi thấy một con cú đậu trên cây hạnh. Nó nói, "Khi trời tối đây có là chỗ tốt để nghỉ tới bình minh không?" Chỉ một con thỏ nghe nó. Thỏ nói, "Thưa ông, trời đang bình minh! Mặt trời đang mọc. Ông hiểu nó theo đường vòng sai rồi."

Việc hiểu của cú là khác toàn bộ: đêm là ngày cho nó, và ngày là đêm; và đến sáng nó đậu nghỉ cho đêm. Tối là bình minh của nó. Và kẽ hở ngần ấy tồn tại giữa nhà huyền bí và người không huyền bí. Điều là bình minh cho nhà huyền bí là đêm tối cho bạn, và điều là đêm tối cho nhà huyền bí là mọi điều cuộc sống của bạn bao gồm. Do đó có hiểu lầm.

Nhà huyền bí bao giờ cũng bị hiểu lầm. Họ nói cái gì đó - chúng ta hiểu cái gì đó khác toàn bộ. Việc hiểu lầm là tự nhiên giữa nhà huyền bí và người không huyền bí tới mức việc hiểu lầm dường như gần là phép màu. Và bất kì khi nào việc xảy ra là việc hiểu chảy giữa nhà huyền bí và người không huyền bí, người không huyền bí không còn là không huyền bí; người đó được biến đổi bởi chính việc hiểu đó.

"Xin vui lòng để tôi giúp bạn bằng không bạn sẽ chết đuối," khỉ nói, vừa đẩy cá an toàn lên cây.

Bây giờ, nó đang cố gắng vất vả để là từ bi, cố cứu con cá khỏi chết đuối. Nó nhất định giết chết con cá - từ từ bi. Điều này phải được hiểu rất sâu; điều này sẽ là điểm ngoặt.

Bây giờ, Kabir là nhà huyền bí, một trong những nhà huyền bí vĩ đại nhất. Điều ông ấy đang cố nói, ngay chỗ đầu tiên, bị bóp méo nhiều vào khoảnh khắc ông ấy nói nó - vì ông ấy đã biết nó trong trạng thái mà lời không bao giờ xuyên tới, nơi im lặng là vĩnh hằng. Ông ấy đã biết, đã trải nghiệm nó, đương đầu với nó, nhưng trong khoảnh khắc mà ông ấy không là tâm trí.

Thế rồi ông ấy muốn truyền đạt nó: tâm trí phải bước vào, tâm trí phải làm vai trò nào đó. Tâm trí cố truyền đạt nó, nhưng trong chính nỗ lực đó nó bị bóp méo. Bây giờ im lặng phải đi vào âm thanh, im lặng phải đi vào cái đối lập của nó; vô lời phải trở nên bị giới hạn vào lời, cái không định nghĩa được phải được thu lại thành định nghĩa; và cái gì đó huyền bí phải trở thành lời giải thích... tất cả bị mất đi. Nếu không tất cả, thế thì gần như tất cả. Chỉ một chút thoáng qua của chân lí còn lại, chỉ gợn sóng. Trong khi trong kinh nghiệm riêng của ông ấy, nó đã là đại dương lớn, giờ nó chỉ là gợn sóng.

Dầu vậy nhà huyền bí phải nói nó. Ông ấy phải chia sẻ nó. Chính một phần của kinh nghiệm của ông ấy là chia sẻ nó. Điều đó cũng như hoa nở ra và chia sẻ hương thơm của nó. Điều đó phải được làm; không ai có thể giữ nó trong bản thân người đó. Người đó nợ nó với nhân loại và với tất cả những người đang vật lộn trong bóng tối. Có thể người đó không thể nào truyền đạt được toàn thể ánh sáng, nhưng ngay cả việc phản xạ của ánh sáng có thể giúp đỡ cho nhiều người. Ngay cả một hình tướng bị bóp méo của nó có thể giúp cho nhiều người, tìm kiếm, truy hỏi. Việc đó tạo ra nhiều khát khao về nó. Cho nên nhà huyền bí phải nói nó. Và bất kì khi nào nhà huyền bí nói nó, người đó khóc - vì người đó có thể thấy điều đã ở trong kinh nghiệm của mình, và điều đã được biến thành lời của ông ấy: chín mươi chính phần trăm bị mất đi. Và thế rồi khi bạn nghe lời này, bạn dịch nó lại tương ứng theo kinh nghiệm của bạn.

Đầu tiên, kinh nghiệm này; thế rồi nhà huyền bí phải dịch nó tương ứng với tâm trí của ông ấy. Và tâm trí được trao cho ông ấy bởi xã hội, tâm trí này bị ước định bởi xã hội. Tâm trí không là gì ngoài kinh nghiệm sống với mọi người. Ông ấy phải dịch nó - cái được biết tới trong tính một mình vô cùng, cái được trải nghiệm trong đơn độc tuyệt đối, phải được mang vào trong thế giới trần tục, phải được thu gọn lại cho ngôn ngữ quần chúng, môi trường quần chúng. Nhiều điều bị mất.

Và thế rồi bạn nghe lời, và thay vì nghe theo vô lời, bạn bắt giữ lời, cái không phải là bản chất. Cái bản chất lại bị mất. Và thế rồi bạn dịch lời tương ứng theo tâm trí của bạn, tương ứng theo kinh nghiệm riêng của bạn. Bây giờ bạn ở xa cả nghìn dặm khỏi kinh nghiệm nguyên thuỷ.

Tôi đã nghe...

Một Thiền sư lớn, Tăng Xán, được yêu cầu giải thích giáo huấn tối thượng của Phật. Ông ấy trả lời, "Các ông sẽ không hiểu chừng nào các ông chưa có nó." Nhưng thế thì phỏng có ích gì mà hiểu điều đó? Khi bạn có nó, bạn có nó; không cần hiểu nó. Khi bạn không có nó, bạn không thể hiểu được nó, và nhu cầu tồn tại để hiểu nó. Đây là nghịch lí: bạn có thể hiểu nó chỉ khi bạn có nó. Không có cách nào để hiểu nó trước điều đó; duy nhất kinh nghiệm sẽ giải thích nó cho bạn. Không cái gì khác có thể làm việc đó, không cái thay thế nào là có thể. Nhưng thế thì không có nhu cầu - khi bạn có nó, bạn có nó. Khi nó có đó, nó có đó. Thậm chí không có bất kì ham muốn nào để hiểu nó; nó đã xảy ra, bạn đã biết nó, nó đã trở thành bạn.

Điều đó cũng như khi bạn ăn thức ăn: khi bạn ăn thức ăn, bạn không trở thành thức ăn. Bạn có quan sát điều đó không? Bằng không bạn chắc đã trở thành chuối. Bạn ăn chuối; bạn không trở thành chuối, chuối trở thành bạn. Và đích xác cùng điều đó xảy ra khi bạn đã biết Thượng đế: Thượng đế trở thành bạn. Khi bạn đã biết chân lí, chân lí trở thành bạn; được tiêu hoá, nó chạy trong máu bạn, nó trở thành xương của bạn, nó trở thành tuỷ của bạn, nó trở thành sự hiện diện của bạn. Không có nhu cầu hiểu nó. Thực ra, không có người nào để hiểu nó, không người nào được bỏ lại đằng sau nó, bạn đã trở thành nó. Việc hiểu của bạn đã trở thành nó. Nhu cầu tồn tại vì chúng ta không hiểu. Cho nên chúng ta liên tục tìm giải thích, và không giải thích nào có thể giải thích được nó.

Đây là nghịch lí của kinh nghiệm tôn giáo: người biết không cần hiểu về nó. Họ được hài lòng vô cùng bởi việc biết nó; điều đó là quá đủ. Họ có thể múa, họ có thể hát, họ có thể cười, nhưng họ không tìm kiếm giải thích nó theo bất kì cách nào. Họ có thể sống nó, họ có thể giữ yên tĩnh về nó - họ có thể ngồi im lặng, hay họ có thể cực lạc điên khùng về nó - nhưng họ không bận tâm giải thích nó.

Đó là lí do tại sao mọi kinh sách lớn của thế giới: Upanishads, Đạo Đức Kinh, những lời của Jesus, Dhammapada của Phật, là những phát biểu đơn giản, không phải là giải thích. Upanishads không chứng minh Thượng đế, chúng đơn giản khẳng định; chúng nói: Nó là vậy. Điều đó không phải là luận cứ. Chúng không đề nghị bất kì giả thuyết nào, chúng đơn giản tuyên bố: Nó là vậy. Nó là việc tuyên bố. Chúng không tạo ra bất kì chứng minh nào về tại sao chúng tuyên bố rằng nó tồn tại. Chúng đơn giản nói: Nó là vậy - nhận nó hay bỏ nó, nhưng nó là vậy. Và không có nhu cầu về bất kì bằng chứng nào: chúng là bằng chứng.

Nhưng với những người vẫn đang trong đêm tối của hồn, đang loạng choạng, dò dẫm, giải thích nào đó là được cần. Nó sẽ rất, rất xa khỏi chân lí, nó sẽ là lời nói dối - nhưng dầu vậy nó được cần.

Cho nên các nhà huyền bí nói. Họ phải nói, họ phải đổ tràn ra con người của họ, vẫn biết rằng nó có thể giúp cho vài người thôi. Nó chỉ giúp cho rất ít người. Nó chỉ giúp cho những người thực sự tin cậy - bằng không nó không bao giờ giúp. Nếu bạn tranh cãi nó bị mất - vì nhà huyền bí không thể tranh cãi, ông ấy không thể thuyết phục bạn. Theo cách đó nhà huyền bí là rất mong manh; theo cách đó, một cách logic, ông ấy rất mong manh: ông ấy không thể tranh cãi và ông ấy không thể chứng minh. Bạn có thể tới gần ông ấy, bạn có thể cảm thấy con người của ông ấy, bạn có thể nhìn vào mắt ông ấy, bạn có thể cầm tay ông ấy, bạn có thể rơi vào trong yêu của ông ấy, bạn có thể tin cậy người điên này, nhà huyền bí, bạn có thể đi cùng ông ấy trên cuộc hành trình không biết. Nó sẽ là cuộc phiêu lưu dũng cảm của tin cậy. Nếu bạn hoài nghi, đột nhiên bạn bị cắt rời. Nếu bạn hoài nghi, thế thì không có khả năng nào của bất kì chiếc cầu nào. Người ta phải tin cậy.

Nếu bạn tin cậy vào lời của nhà huyền bí, thế thì có khả năng điều đó có thể tạo ra gợn sóng nhỏ trong bạn. Bằng không, với hoài nghi, ngay cả gợn sóng đó cũng biến mất.

Nghe Kabir, hay Christ, hay Krishna, nhớ điều đó - họ phải được nghe theo cách nào đó; đó không phải là việc nghe bình thường. Họ phải được nghe trong yêu, tin cậy tới mức bạn không đứng tách rời khỏi họ, tới mức bạn trở thành toàn là tai, tới mức bạn trở thành nữ tính, tới mức bạn trở thành chỉ cảm nhận, tới mức bạn đơn giản uống. Bạn không có bất kì ý kiến nào và bạn không cố dịch nó. Thay vì vội vàng dịch nó bên trong bạn, diễn giải nó, và nghĩ liệu nó là đúng hay sai, bạn đơn giản nghe như bạn nghe nhạc.

Khi Ravi Shankar đang chơi nhạc, bạn không bận tâm về liệu ông ấy là đúng hay sai. Bạn ngụ ý gì bởi "đúng" hay "sai"? Âm nhạc là âm nhạc - hay hay dở, nhưng không đúng hay sai. Bạn không bận tâm; bạn đơn giản nghe. Và bởi vì âm nhạc không có ngôn ngữ, bạn không thể dịch được nó. Bạn đơn giản ở trong sự hiện diện của âm nhạc, được bao quanh bởi nó, được tràn ngập bởi nó, chân bạn được nó dẫn tới cuộc hành trình xa xăm. Nhưng bạn không quyết định liệu nó là đúng hay sai, liệu nó có hấp dẫn logic của bạn hay không. Bạn nghe từ tim.

Nhà huyền bí phải được nghe dường như bạn đang nghe nhạc. Và vâng, tôi nói với bạn: Nó là âm nhạc, sâu hơn nhiều so với bất kì cái gì nhạc sĩ có thể tạo ra. Một khi bạn bắt đầu dịch nó, mọi sự trở thành khó khăn.

Ngay cả những bản dịch hay này của Rabindranath Tagore là không thực - không thể thực được. Những lời của Kabir là trong tiếng Hindi; thế rồi chúng được dịch sang tiếng Bengali; thế rồi từ tiếng Bengali, Rabindranath đã dịch chúng sang tiếng Anh. Chúng là tiếng vọng xa xăm, và nhiều điều bị mất. Chẳng hạn: Tôi đã làm tĩnh lặng tâm trí bất ổn của tôi, và tim tôi rạng ngời: vì trong tính Cái đó tôi đã thấy bên ngoài tính Cái đó, trong bạn bè tôi đã thấy Bản thân Ngài.'

'Tôi đã làm tĩnh lặng tâm trí bất ổn của tôi'... Calat mansa acal kinhi: bây giờ bản gốc có hương vị khác toàn bộ cho nó. Nếu tôi phải dịch nó, câu đó sẽ nói là, "Hỡi Trời, vậy ngài đã làm điều đó sao? Ngài đã làm chuyển động tâm trí bất động của tôi sao?" Đó là nghĩa là của nó: Calat mansa acal kinhi? "Tâm trí cái bao giờ cũng chuyển động, bao giờ cũng chuyển động... hỡi Trời, vậy ngài đã làm điều đó sao? Ngài đã làm nó thành bất động sao?" Điều đó chắc sẽ là đúng hơn cho Kabir. Calat mansa acal kinhi? Kabir ngỡ ngàng! Kabir nói, "Ôi Thượng đế, ngài đã làm cái gì vậy? Tôi đã từng cố gắng và cố gắng và cố gắng, và tôi đã không thể làm tĩnh lặng được nó, và ngài đã làm tĩnh lặng nó rồi sao? Và điều đó khó thế, thậm chí không thể quan niệm được. Ngay cả một ý nghĩ đã khó bỏ thế, và bây giờ nó bị bỏ hoàn toàn, bây giờ nó không ở đâu! Tôi không thể tìm thấy nó. Mọi rung động đó của tâm trí, mọi sóng đó, sóng liên tục, mọi ý nghĩ đó, đám diễu hành ý nghĩ - tất cả đã biến mất. Vậy là ngài đã làm điều đó sao? Calat mansa acal kinhi? Rabindranath dịch nó: Tôi đã làm tĩnh lặng tâm trí bất ổn của tôi. Bây giờ ông ấy đã bỏ lỡ toàn thể vấn đề. Ông ấy nói, Tôi đã làm tĩnh lặng tâm trí bất ổn của tôi. Không; Kabir không nói điều đó. Câu này có thể được dịch theo cách này nữa. Cho nên tôi không nói rằng việc dịch là đúng về ngôn ngữ; nó là sai về huyền bí.

Nó có thể được dịch theo cách này nữa: Calat mansa acal kinhi? vì Kabir không nói bất kì cái gì về ai đã làm cho nó thành bất động - tôi hay ngài. Ông ấy đã không nói bất kì cái gì. Nó có thể được dịch là: tôi đã làm tĩnh lặng tâm trí tôi. Nhưng điều đó là không thể được - vì "tôi" là tâm trí, cho nên "tôi" không thể làm tĩnh lặng bản thân nó được. Điều đó sẽ là việc kéo bản thân bạn lên bằng dây buộc giầy riêng của bạn - Dùng tay kéo dây giầy. Bạn nhất định thất bại; điều đó là không thể được. Duy nhất Thượng đế có thể làm tĩnh lặng...

Cho nên tôi nói nó là đúng về mặt ngôn ngữ, nhưng không đúng về mặt huyền bí.

Duy nhất Thượng đế có thể làm tĩnh lặng tâm trí. Đó là món quà. Nó là ân huệ giáng lên bạn, nó không phải là cái gì đó bạn làm -vì bất kì cái gì bạn làm, bạn sẽ còn lại. Việc làm của bạn không thể làm tan biến được bạn. Việc làm của bạn sẽ làm mạnh cho bạn ngày càng nhiều hơn. Nỗ lực của bạn sẽ trở thành thức ăn cho bản ngã của bạn.

Làm sao bạn có thể làm tĩnh lặng được tâm trí của bạn? Ai là người sẽ làm tĩnh lặng tâm trí? Nó là bản thân tâm trí. Điều đó sẽ giống như con chó đuổi theo đuôi riêng của nó. Do đó, tôi nói nó không đúng về mặt huyền bí. Tôi không biết mấy về ngôn ngữ, nhưng tôi biết huyền bí là gì. Tôi có thể không có thông tin nhiều về huyền môn - nhưng không có nhu cầu có nhiều thông tin về huyền môn; nó là kinh nghiệm của tôi.

Thông tin là tri thức được trực giác nhận lấy; việc biết là tri thức được lộ ra qua trực giác. Tôi là nhà huyền bí, tôi không phải là nhà thơ. Rabindranath đã là nhà thơ lớn, và ông ấy đã thấy điều đó rằng việc dịch phải vẫn còn thơ ca, đúng về ngôn ngữ, nhưng ông ấy đã bỏ lỡ cái gì đó cực kì có giá trị.

Để tôi nhắc lại nó: Calat mansa acal kinhi? Hỡi Thượng đế, ngạc nhiên làm sao. Đó là phép màu. Tôi không bao giờ có thể tin được rằng điều đó có thể xảy ra. Điều đó không thể tin được. Vậy ngài đã làm điều đó sao?! Và tôi đơn giản ngỡ ngàng... Tôi không thể tin được điều, và nó đã xảy ra. Tôi không ở đâu cả, ngài đã làm tĩnh lặng tôi rồi sao? Ân huệ của ngài là vĩ đại.

Kabir biết ơn; đây là bài ca của lòng biết ơn. Và Kabir không tin vào các phương pháp. Ông ấy không tin rằng con người phải làm cái gì đó để đạt tới Thượng đế. Con người có thể làm được gì? Bàn tay con người nhỏ bé thế; cái với của chúng không thể rất lớn. Cái với của chúng ta sẽ là cái với của chúng ta; làm sao chúng ta có thể đạt tới Thượng đế qua cái với của con người? Điều đó là không thể được. Duy nhất Thượng đế có thể với tới chúng ta. Chúng ta có thể sẵn có, có vậy thôi. Chúng ta có thể cúi mình, buông xuôi, có vậy thôi.

Kabir không tin vào nỗ lực, ông ấy tin vào vô nỗ lực. Đó là điều ông ấy gọi là sahaj samadhi, cực lạc tự phát. Kabir là người yêu; con đường của ông ấy là con đường của yêu. Yêu không biết nỗ lực.

Bạn đã không quan sát điều đó trong cuộc sống riêng của bạn sao? Bạn có thể làm bất kì cái gì về yêu không? Nếu tôi nói với bạn, "Đi và yêu người kia," bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ nói, "Vô nghĩa làm sao! Làm sao tôi có thể đi và yêu như điều đó được?" Bạn không thể ra lệnh cho bất kì người nào đi vào yêu ai đó. Nếu yêu xảy ra, nó xảy ra; nếu nó không xảy ra, nó không xảy ra. Không có cách nào tạo ra nó bằng việc ra lệnh. Và đó là một trong những khổ của thế giới; tất cả chúng ta đã học tạo ra nó theo ra lệnh, cho nên tất nhiên nó là giả.

Người mẹ nói với đứa con, "Yêu mẹ đi; mẹ là mẹ của con!" Và đứa con bất lực, và đứa con phụ thuộc tới mức thay vì trở thành người yêu mẹ nó, nó trở thành chính khách. Nó bắt đầu giả vờ: "Vâng, con yêu mẹ." Nó lỡ rồi. Chúng ta làm biến chất trẻ nhỏ, chúng ta làm biến chất chúng thành những chính khách. Nó không ngụ ý điều đó chút nào, nhưng nó phải làm điều đó; người mẹ nói, "Mẹ là mẹ của con và con phải yêu mẹ." Bây giờ nó được cho là yêu thế nào? Bạn có thể làm gì để yêu ai đó? Bạn có thể giả vờ, bạn có thể diễn vai, bạn có thể chơi trò chơi yêu, nhưng nó sẽ không là yêu chút nào. Và đứa trẻ bắt đầu chơi trò chơi ngoại giao. Nó trở thành nhà chính trị. Khi người mẹ tới nó mỉm cười; nụ cười chỉ trên môi.

Bạn không thể ép buộc tim mỉm cười. Nhiều nhất bạn có thể tập luyện môi.

Và nó nhìn mẹ với đôi mắt yêu thiết tha, giả tạo. Và nó nói đi nói lại với mẹ, "Con yêu mẹ" - vân vân và vân vân. Nó phải yêu bố, và các anh và các chị. Nó thực sự ghét mọi anh và mọi chị, vì họ là những kẻ cạnh tranh. Thực ra, mọi đứa trẻ đều muốn là một mình; nó ghét anh chị em ruột, nó phải cạnh tranh với họ. Nhưng nó phải yêu. "Đây là em của con" - cho nên nó phải yêu. Nó ghét đứa em nhỏ này, nó muốn giết đứa em nhỏ này. Vì đứa em nhỏ này nó không còn là quan trọng như nó vẫn thường là vậy. Nó không còn là trung tâm của chú ý của gia đình. Nó bị bỏ ra phần ngoại vi; đứa em nhỏ này, kẻ thù này, đã chiếm vị trí trung tâm - bây giờ nó điều khiển, nó chỉ đạo và chi phối từ sân khấu trung tâm. Bây giờ nó không còn nhiều hơn nhân vật thứ hai: làm sao nó có thể yêu đứa em nhỏ này được? Nhưng nó phải biểu lộ yêu... bằng không nó sẽ trong khó khăn. Và đây là cách yêu bị làm giả đi, từ chính lúc bắt đầu.

Thế rồi trong cả đời mình bạn sẽ liên tục yêu theo cùng cách giả tạo này. Bạn sẽ liên tục giả vờ, và bạn sẽ không bao giờ cho phép yêu thực chiếm quyền sở hữu bạn. Và bạn bao giờ cũng sẽ sợ yêu thực, vì yêu thực sẽ có vẻ như trận lụt - nguy hiểm, tới từ cái không biết, không thể kiểm soát được. Bạn đã học thủ đoạn.

Tất nhiên, yêu của bạn là nhỏ tới mức nó có thể bị kiểm soát. Nó là giả thế; nó có thể bị kiểm soát. Nó là ở trong tay bạn, bạn có thể làm bất kì cái gì bạn muốn làm với nó. Yêu thực là lớn hơn bạn; nó là khổng lồ, vô cùng. Nó đơn giản làm ngập lụt bạn, bạn đơn giản bị đem đi. Bạn không còn đứng ở bất kì chỗ nào. Bạn mất con người của bạn trong yêu thực; nó là vĩ đại, nó trút xuống từ cõi trời.

Và cùng điều đó là đúng về thiền: thiền thực trút xuống từ cõi trời. Nó không phải là cái gì đó mà bạn làm, nó là cái gì đó xảy ra. Về phần bạn chỉ một điều được cần, và đó là: bạn phải vẫn còn tính cảm nhận, tuôn chảy, sẵn sàng đi cùng Thượng đế. Nếu Thượng đế đi lên phương bắc, bạn đi lên phương bắc.

Khi chong chóng gió trỏ hướng bắc, nó không làm gió bắc thổi, nhớ lấy. Khi chong chóng gió trỏ hướng bắc, nó không làm gió bắc thổi. Nó đơn giản ghi lại rằng gió bắc đang thổi.

Và thiền là vậy, và yêu là vậy, và lời cầu nguyện là vậy: nó không làm Thượng đế chảy tới bạn, nó đơn giản ghi lại rằng Thượng đế đang chảy tới bạn, rằng Thượng đế đang thổi tới bạn. Thiền không phải là phương pháp - không là phương pháp cho Kabir. Đó là khác biệt giữa Patanjali và Kabir. Patanjali có tính phương pháp; ông ấy tin vào phương pháp luận. Kabir tin vào yêu. Điều Patanjali gọi là "samadhi" Kabir sẽ gọi là "samadhi nhân tạo". Ngược lại Patanjali, Kabir nói, "Nghĩ về sahaj: sự tự phát, cái đơn giản, cái không được ông tạo ra, cái không được ông chế tạo ra - vì bất kì cái gì ông chế tạo ra đều sẽ là vô dụng, vô giá trị. Ông là vô giá trị, cho nên bất kì cái gì ông chế tạo ra đều sẽ tự nhiên là vô giá trị. Chữ kí của ông sẽ có ở trên nó."

Sahaj Samadhi ngụ ý: nó không được bạn làm ra. Nó không phải là nhà làm lấy, nó được Thượng đế cho. Chữ kí không phải là của bạn, nó là chữ kí của Thượng đế. Đó là lí do tại sao tôi nói con đường của Kabir là con đường của yêu.

Tôi đã làm tĩnh lặng tâm trí bất ổn của tôi... Không đâu: "Tâm trí đã trở nên tĩnh lặng. Tôi đã thấy tâm trí của tôi trở nên tĩnh lặng, tôi đã quan sát điều đó xảy ra. Thượng đế ơi, ngài đã làm nó rồi sao? Và tim tôi rạng ngời."

Khi tâm trí im lặng, tim rạng ngời. Khi tâm trí huyên thuyên, cái đầu là chết. Bạn không thể tồn tại trong tim nếu bạn tồn tại trong tâm trí. Nếu bạn tồn tại trong tâm trí... Tâm trí rất ghen tị và rất sở hữu; nó không cho phép bạn đi hướng tới tim. Tâm trí là bà vợ rất ghen tuông: nó hấp thu bạn một cách toàn bộ, nó không để lại một khoảnh khắc để đi tới tim. Và cho dù bạn bắt đầu nghĩ về tim, tâm trí tạo ra tim giả trong đầu. Tâm trí thậm chí còn bắt đầu bịa ra các cảm giác.

Đôi khi ai đó tới tôi và nói, "Tôi đã rơi vào yêu thầy, Thầy kính yêu." Tôi nói, "Thực không?" Anh ta nói, "Tôi nghĩ vậy." Bây giờ, việc cảm không thể là việc nghĩ. Hoặc bạn đã rơi vào yêu tôi, hoặc bạn đã không rơi vào yêu tôi. Nhưng bạn không thể nghĩ rằng bạn đã rơi vào yêu tôi. Việc nghĩ là thứ giả, nhưng tâm trí tạo ra đồng tiền giả để lừa bạn. Nó nói, "Mình cần yêu? Được, có nó đi" - và nó tạo ra ý nghĩ về yêu, nó tạo ra ý nghĩ về tình cảm. Tâm trí cực kì có tính bịa đặt; nó có thể liên tục chơi trò chơi. Và điều này phải được quan sát, bằng không bạn bao giờ cũng sẽ bị lạc trong đầu. Đầu là rất thủ đoạn và nó liên tục giở thủ đoạn lên bạn lặp đi lặp lại mãi. Nó là cái bẫy vô cùng, nó có thể tạo ra bất kì cái gì. Nó rất hiệu quả trong việc tạo ra hàng hoá giả.

Một thanh niên đã nói với tôi rằng anh ta không thể khóc được, nước mắt của anh ta đã trở nên khô. Và anh ta nói, "Tôi đã cố gắng vất vả, vì bây giờ tôi đã hiểu rằng việc khóc là được cần, rằng việc khóc sẽ làm tôi thảnh thơi, rằng việc khóc sẽ làm cho tôi sẵn có hơn cho tình cảm. Cho nên tôi đang cố gắng vất vả."

Tôi nói, "Nếu bạn cố gắng vất vả, bạn có thể thành công - và điều đó là nguy hiểm. Tâm trí thậm chí có thể tạo ra nước mắt. Nó có thể ép buộc mắt cho chảy ra nước mắt, và điều đó sẽ không có bất kì quan hệ nào với tim của bạn. Và một khi bạn đã thành công trong việc ép buộc mắt, bạn sẽ nghĩ rằng bây giờ bạn đã thành công. Và tâm trí đã lừa bạn."

Người ta phải rất, rất có tính quan sát. Kabir nói: Chỉ khi Thượng đế làm tĩnh lặng tâm trí ông điều đó xảy ra. Cho nên cái gì được làm từ phần chúng ta? Kabir nói: Về phần mình chúng ta phải ở đầu cảm nhận. Về phần mình chúng ta phải chỉ đón chào, quan sát, chờ đợi. Về phần mình chúng ta không làm bất kì cái gì - vì bất kì việc làm nào đều là việc hoàn tác riêng của chúng ta. Và điều này là khó. Thử nó đi. Rất dễ làm cái gì đó; điều khó nhất trong thế giới này là không làm bất kì cái gì. Không làm là thành tựu lớn nhất. Thiền nhân gọi điều đó là zazen - toạ thiền: ngồi im lặng, không làm gì.

Tôi đã bắt gặp một chuyện Thiền rất hay. Nghe nó một cách chăm chú vào; nó là chuyện của bạn đấy.

Đằng sau ngôi chùa có cánh đồng nơi nhiều đám tụ tập đã dồn lại. Một hôm cuộc đánh nhau bắt đầu. Bây giờ bạn biết đấy, đám tụ tập là đám tụ tập… trận đánh nhau lớn. Đám tụ tập chia thành hai nhóm và làm ra huyên náo lớn la hét lẫn nhau. Và tất nhiên họ vẫn thường sống trong chùa, họ đã lớn lên trong chùa, cho nên hai nhóm này phải đã có tính tôn giáo: người Ki tô giáo và người Do Thái, Phật tử và người Jaina, người Hindu và người Mô ha mét giáo - cái gì đó kiểu như thế. Tranh cãi thượng đế học đã nảy sinh. Sư trụ trì nghe thấy tiếng ồn ào. Ông ấy rầy la và trách móc họ khi nói, "Này, các ông đang tụ tập! Ý tưởng đánh nhau giữa các ông đấy! Và trong chùa Thiền sao?! Mọi người làm toạ thiền đi! Ngồi im lặng không làm gì cả."

Sư này đã dạy họ cách làm toạ thiền: "Xếp chân lại như thế này; ngồi và dựng thẳng xương sống và cổ lên." Khi mọi người trong đám tụ tập đã ngồi toạ thiền, giận của họ dịu xuống và họ lắng lại. Thế rồi sư này nói, "Mọi người để tay lên đỉnh đầu mình." Khi mọi người đã cảm thấy đỉnh đầu mình bằng bàn tay của họ, họ thấy vật kì lạ nào đó trên đầu họ. Hoá ra rượu đã kết nối họ với nhau. Họ bắt đầu cười. Họ nói, "Điều này thực sự buồn cười! Chúng ta là một, và chúng ta đã tranh đấu không cần thiết."

Ngồi trong toạ thiền, người ta thấy rằng vũ trụ là một. Ngồi im lặng, người ta thấy rằng không có xung đột ở bất kì chỗ nào, rằng kẻ thù không tồn tại; rằng thù địch chỉ là ảo tưởng riêng của chúng ta, được tạo ra bởi chúng ta; căng thẳng, tham vọng, vật lộn đó, toàn chỉ là trò chơi tâm trí. Không có người nào để vật lộn chống lại; cái toàn thể là một. Khi bạn đi tới biết rằng cái toàn thể là một, rằng chúng ta được kết nối với nhau, rằng chúng ta là cùng nhau, rằng tôi là một phần của bạn và bạn là một phần của tôi, rằng chúng ta là thành viên của nhau, thế thì đột nhiên bạn đã mở ra. Việc hiểu này tới không bởi bất kì nỗ lực nào, nhưng chỉ bằng việc ngồi im lặng, vô nỗ lực, chỉ chờ đợi - tỉnh táo, tất nhiên. Vì bạn có thể rơi vào giấc ngủ, thế thì không cái gì sẽ xảy ra.

Hai điều là dễ: làm cái gì đó là dễ hay rơi vào giấc ngủ là dễ. Bất kì khi nào bạn không làm cái gì đó, đột nhiên bạn cảm thấy buồn ngủ. Bạn chỉ biết hai cách: hoặc là làm cái gì đó - thế thì bạn có thể vẫn còn thức; hoặc không làm cái gì đó - và bạn bắt đầu cảm thấy buồn ngủ, bạn bắt đầu cảm thấy thích rơi vào giấc ngủ. Chính ở giữa hai điều này là việc này: không làm bất kì cái gì, là yên tĩnh như bạn bạn trong ngủ, và vậy mà tỉnh táo như khi bạn đang làm cái gì đó - tỉnh táo như bạn đang đánh kẻ thù bằng kiếm, và yên tĩnh dường như bạn đã rơi vào giấc ngủ. Nơi ngủ và nhận biết gặp nhau, có sahaj samadhi, có cực lạc tự phát. Và trong khoảnh khắc đó bạn đột nhiên cảm thấy toàn thể năng lượng của bạn đã dịch chuyển hướng tới tim. Đầu biến mất; bạn trở thành vô đầu.

Mới hôm nọ, Savita đã nói rằng cô ấy đã phân vân rất nhiều: cô ấy đã thấy tôi trong một loại mơ hay mơ màng, không có đầu. Tôi nói, "Hoàn toàn đúng, Savita. Bạn đã đạt tới tỏ ngộ lớn, kinh nghiệm lớn. Tôi là không đầu! Và bạn cũng là không đầu, và mọi người đều là không đầu."

Điều này xảy ra khi năng lượng bắt đầu chuyển tới tim: một ngày nào đó đột nhiên bạn nhận ra rằng không có đầu. Không phải là đầu vật lí của bạn biến mất đâu - nó vẫn có đó, nhưng không còn là trung tâm của con người bạn nữa; nó vẫn có đó, nhưng không còn là sân khấu trung tâm, không còn là kẻ kiểm soát, không còn là người quản lí, không còn là ông chủ.

Tâm trí lắng đọng, chuyển động đã trở thành bất động. Tâm trí, khi nó không chuyển động, là vô trí - vì chuyển động là bản thân tâm trí. Khi tâm trí của bạn không chuyển động, tâm trí sẽ ở đâu? Ý nghĩ, để có, phải chuyển động. Nếu không có chuyển động trong tâm trí của bạn và mọi quá trình ý nghĩ đã dừng lại, tâm trí đã biến mất - vì tâm trí không là gì ngoài quá trình ý nghĩ. "Khi tâm trí không có, tim rạng ngời": thế thì đột nhiên mặt trời mọc trong tim bạn. Bạn đầy ánh sáng, bạn đầy vui, bạn đầy yêu.

…vì trong tính Cái đó tôi đã thấy bên ngoài tính Cái đó…

Và ở đó, bạn bắt gặp cõi bên kia. Ở đó, qua khoảnh khắc đó, bạn đi tới thấy cái đang đó, thực tại. Qua tâm trí bạn bao giờ cũng bắt gặp phóng chiếu riêng của bạn. Qua tâm trí bạn không bao giờ đi tới cái thực. Tâm trí liên tục tạo ra ý tưởng về cái thực. Bạn không bao giờ đối diện với thực tại như nó vậy; bao giờ cũng có màn ảnh ý nghĩ, và ý nghĩ bao giờ cũng liên tục bóp méo thực tại. Bạn không bao giờ thấy cái đang đó, bạn không có tính đối thể. Tưởng tượng của bạn liên tục làm việc, việc thoả ước của bạn liên tục làm việc, ham muốn của bạn liên tục tô mầu mọi thứ. Bạn không bao giờ có thể thấy mọi sự như chúng vậy chừng nào tâm trí còn chưa hoàn toàn bị gạt sang bên. Khi bạn nhìn qua tim, bạn thấy thực tại.

…vì trong tính Cái đó tôi đã thấy bên ngoài tính Cái đó…

Trong ánh sáng vô cùng đó, sự rạng ngời của tim, tôi đã nhìn vào trong chiều sâu này, tôi đã nhìn vào trong cõi bên kia.

…trong bạn bè tôi đã thấy Bản thân Ngài.

Và bây giờ tôi biết rằng bất kì người nào ở quanh tôi đều không là ai khác ngoài Ngài. Trong bạn bè tôi đã thấy Bản thân Ngài: bây giờ vợ tôi không còn là vợ tôi - đó là Thượng đế đóng vai vợ tôi. Và con trai tôi không còn là con trai tôi; và chồng tôi không còn là chồng tôi - đó là Thượng đế đang đóng vai chồng tôi hay con trai tôi. Ngay cả kẻ thù cũng không còn là kẻ thù, nhưng Thượng đế đang đóng vai kẻ thù của tôi để làm cho cuộc sống được vui vẻ hơn, làm cho cuộc sống được phong phú hơn chút ít, để làm cho cuộc sống sáng tạo, năng động hơn chút ít. Để làm phong phú cho cuộc sống, Thượng đế đã lấy nhiều hình tướng thế.

…trong bạn bè tôi đã thấy Bản thân Ngài.

Sống trong lệ thuộc, tôi đã đặt bản thân tôi tự do…

Bây giờ không có nhu cầu đi bất kì chỗ nào. Kabir nói: Sống trong lệ thuộc, tôi đã đặt bản thân tôi tự do. Bây giờ điều này là tự do lớn hơn nhiều so với tự do tồn tại chống lại lệ thuộc. Đây là tự do thực: nó không chống lại lệ thuộc, nó đơn giản ở ngoài lệ thuộc. Nếu bạn có thể tự do ngay cả trong tù, chỉ thế bạn là tự do. Thế thì tự do của bạn có phẩm chất tâm linh. Thế thì bạn có thể bị xiềng xích ở bên ngoài, và dầu vậy, sâu bên trong, bạn là tự do như chim trên trời. Và thế thì bạn không tranh đấu, ngay cả với xiềng xích.

Tôi đã nghe...

Có lần Diogenes bị vài người, kẻ cướp, bắt giữ. Diogenes là nhà huyền bí rất mạnh khoẻ. Ở phương Tây, ông ấy dường như là người duy nhất có thể được so sánh với Mahavira ở phương Đông. Ông ấy thường sống trần trụi, và ông ấy có thân thể đẹp. Người ta nói rằng ngay cả Alexander cũng ghen tị với ông ấy. Và ông ấy đã là một fakir trần trụi; ông ấy chẳng có gì khác hơn niềm vinh quanh của ông ấy, hơn cái đẹp riêng của ông ấy. Ông ấy bị bắt: ông ấy đang thiền dưới cây trong rừng, và vài kẻ cướp bắt ông ấy. Và họ nghĩ, "Tốt rồi đây. Chúng ta có thể được giá hời về ông ta. Ông ta có thể được bán ở chợ nô lệ." Nhưng họ sợ, vì người này có vẻ rất khoẻ. Các kẻ cướp ít nhất cũng phải có nửa tá, nhưng dầu vậy họ vẫn sợ. Và họ rất thận trọng tiến tới gần vì ông ấy có thể là nguy hiểm. Một mình ông ấy dường như là đủ đương đầu với sáu người.

Diogenes nhìn họ và nói, "Đừng sợ. Đừng sợ, ta không đánh các ông đâu. Các ông có thể lại gần ta, và các ông có thể đặt xiềng xích vào ta."

Họ ngạc nhiên. Họ xích ông ấy lại, họ làm ông ấy thành tù nhân, và họ đem ông ấy đi xa tới bãi chợ. Trên đường ông ấy nói, "Nhưng tại sao các ông đã xích ta? Các ông có thể chỉ yêu cầu ta, và ta sẽ làm theo. Tại sao làm ồn ào về điều đó thế?"

Họ nói, "Chúng tôi không thể tin được rằng ai đó lại sẵn lòng trở thành nô lệ thế!"

Và Diogenes cười và ông ấy nói, "Vì ta là người tự do, ta không lo nghĩ về điều này." Họ không thể nào hiểu được. Thế rồi, ở bãi chợ, đứng giữa chợ ông ấy hô lên, "Ông chủ đã tới để được bán ở đây. Có nô lệ nào đó muốn mua ông ấy không?" Nhìn điều ông ấy đã nói: "Ông chủ đã tới để được bán ở đây. Có nô lệ nào đó muốn mua ông ấy không?"

Người chủ là người chủ. Tự do thực không chống lại lệ thuộc, tự do thực ở bên ngoài lệ thuộc. Nếu tự do của là bạn chống lại lệ thuộc, bạn không là tự do thực. Bạn có thể thoát li lên Himalayas chỉ vì bạn sợ bãi chợ và vợ và con, nhưng bạn không thực sự là người tự do. Himalayas không thể trở thành tự do của bạn. Bạn sợ vợ, và nếu vợ tới gặp bạn ở Himalayas, bạn sẽ bắt đầu run. Ông chồng sợ vợ của bạn sẽ đột nhiên có đó.

Chuyện kể về Swami Ramateertha: ông ấy đã du hành khắp thế giới khi thuyết giảng thông điệp của phương Đông.

Ông ấy là nhà tư tưởng lớn, nhà huyền bí lớn. Thế rồi ông ấy quay lại. Ông ấy đã ở trên Himalayas với đệ tử của mình, Punsi. Một hôm, Punsi tường trình trong nhật kí của ông ta, vợ ông ấy tới gặp ông ấy. Và Punsi nói, "Tôi đã thấy Ramateertha gặp hàng nghìn người, đàn ông, đàn bà đủ các loại, nhưng đột nhiên tôi cảm thấy cái bóng rơi lên ông ấy - người vợ - và ông ấy trở nên hơi sợ." Và ông ấy nói với Punsi, "Ông bảo vợ tôi rằng tôi không muốn gặp bà ấy."

Punsi bị choáng. Ông ta nói, "Thưa thầy, nếu thầy sợ vợ, thế thì tôi cũng muốn đi xa khỏi thầy. Thế thì thầy không còn là Thầy của tôi. Tại sao thầy sợ người đàn bà đáng thương này? Và bà ấy đã tới từ làng xa xôi, từ Punjab. Thầy đã bỏ bà ấy, thầy đã bỏ bà ấy với ba đứa con, và bà ấy bằng cách nào đó trong nghèo khó, trong túng thiếu vô cùng, đã trông nom mà không phàn nàn gì. Và bà ấy đã tới chỉ để chạm chân thầy, chỉ để gặp thầy, và bà ấy sẽ đi trước tối - và thầy không muốn gặp bà ấy sao? Phải có nỗi sợ tinh vi nào đó trong thầy; thầy vẫn sợ bà ấy. Thế thì thầy vẫn là người chồng. Thế thì thầy đã không trở thành sannyasin thực."

Ramateertha nghe những lời của Punsi, trở nên nhận biết, và nói, "Ông đúng. Gọi người đàn bà đó đi: không chỉ bà ấy sẽ chạm chân ta, ta sẽ chạm chân bà ấy nữa. Đây có thể là thông điệp từ Thượng đế. Đây có thể là nỗi sợ cuối cùng của ta; nó phải ở đây đó trong vô thức của ta. Ông đúng."

Kể từ ngày đó, Punsi đã viết trong nhật kí của mình, Ramateertha có sự chói sáng mà chưa bao giờ có trước đây. Kể từ ngày đó ông ấy đã thực sự là tự do; ông ấy là tự do. Cái bóng cuối cùng của lệ thuộc đã biến mất: ông ấy đã chấp nhận vợ của ông ấy nữa. Bây giờ không có miễn cưỡng, không phàn nàn, không sợ, không thoát li.

Đó là điều tôi ngụ ý khi tôi nói tự do phải ở bên ngoài lệ thuộc, không chống lại lệ thuộc. Tự do chống lại lệ thuộc là tự do của lệ thuộc, và tự do mà là sợ thì không phải là tự do chút nào. Tự do và sợ không bao giờ tồn tại cùng nhau. Sợ là cái chết của mọi tự do, và tự do là có thể chỉ khi mọi sợ đã biến mất, biến mất hoàn toàn.

Đó là nghĩa của Kabir:

Sống trong lệ thuộc, tôi đã đặt bản thân tôi tự do…

Bây giờ không có vấn đề gì. Bây giờ tự do này không có điều kiện về nó: "Tôi phải sống ở Himalayas, thế thì tôi sẽ là tự do"; "Tôi sẽ sống trong tu viện Cơ đốc giáo, thế thì tôi sẽ là tự do"; "Tôi sẽ tránh đàn bà, thế thì tôi sẽ là tự do"; "Tôi sẽ không chạm vào tiền, thế thì tôi sẽ là tự do" - toàn vô nghĩa, toàn rác rưởi, được bịa ra bởi sự hèn nhát của con người, được tạo ra bởi sợ.

Sống trong lệ thuộc, tôi đã đặt bản thân tôi tự do:

Tôi đã đập bỏ nanh vuốt của mọi sự hẹp hòi.

Đây là tự do: tự do khỏi mọi sự hẹp hòi. Nếu bạn là người Hindu, bạn không thể là tự do, bạn là rất hẹp. Bạn ở trong đường hầm có tên là Hindu giáo. Nếu bạn là người Mô ha mét giáo, bạn không tự do. Nếu bạn nghĩ bạn là đàn ông, bạn là đàn bà, bạn không tự do - các đường hầm, mọi đường hầm, tất cả chúng. Nếu bạn nghĩ bạn là người da đen hay người da trắng, thế thì bạn không tự do - các đường hầm, mọi đường hầm, tất cả chúng. Nếu bạn nghĩ bạn là người cộng sản hay người chống cộng sản, nếu bạn có ý thức hệ nào đó để xác định bạn, bạn không là tự do.

Tự do ngụ ý không xác định. Không được xác định, bạn là... bao la như bản thân sự tồn tại. Và cái đó là chân lí, bạn là cái đó. Tatwamasi: ông là cái đó. Bạn là cái toàn thể, không ít hơn một li. Bộ phận là cái toàn thể: để tôi tuyên bố điều đó. Rất phi toán học mà nói rằng bộ phận là cái toàn thể, nhưng huyền môn là phi toán học. Nếu bạn đi tới nhà toán học ông ấy sẽ nói, "Làm sao bộ phận có thể là cái toàn thể được? Bộ phận phải là bộ phận. Bộ phận không bao giờ có thể là cái toàn thể, và bộ phận không bao giờ có thể tương đương với cái toàn thể, và bộ phận phải là nhỏ hơn cái toàn thể." Chắc chắn, điều đó là đúng về mặt toán học, nhưng về mặt huyền bí nó là vô nghĩa.

Bộ phận là cái toàn thể, tương đương với cái toàn thể, không nhỏ hơn chút nào, không kém một li. Vì bộ phận không tách rời khỏi cái toàn thể, làm sao bộ phận có thể là nhỏ hơn cái toàn thể? Cứ nghĩ về sóng mà xem: nhà toán học sẽ nói, "Sóng là ít hơn đại dương"; nhà huyền bí sẽ nói, "Sóng là đại dương!" Làm sao nó có thể là nhỏ hơn đại dương được? Bạn có thể lấy sóng xa khỏi đại dương được không? Bạn có thể lấy nó ra xa được không? Bạn có thể cầm giữ nó trong hộp được không? Thế thì bạn sẽ biết rằng khoảnh khắc bạn lấy sóng ra xa, nó không còn là sóng nữa. Sóng chỉ tồn tại trong đại dương, như đại dương; nó không thể được lấy ra xa. Sóng không là gì ngoài việc nổi sóng của đại dương.

Sóng là hoạt động của đại dương. Nó không tách rời, không có phân chia. Sóng là đại dương, bộ phận là cái toàn thể; và khi bạn nhớ điều này, thế thì bạn tuyên bố, như Christ, "Thượng đế của tôi và tôi là một"; hay, như el-Hillaj Mansoor: "Ana'l Haq" - Ta là Chân lí; hay, như Upanishads, "Aham Brahmasmi" - Ta là Thượng đế, ta là tuyệt đối, ta là cái toàn thể.

Tôi đã đập bỏ nanh vuốt của mọi sự hẹp hòi.

Kabir nói: Tôi đã đạt tới cái không thể đạt tới…

Nghe cái hay của nó:

Tôi đã đạt tới cái không thể đạt tới,

và tim tôi được tô bằng mầu của yêu.

Tại sao gọi nó là không thể đạt tới nếu bạn nói, "Tôi đã đạt tới?" Đó là nơi logic và huyền môn đi trên những con đường tách rời, xa lìa bạn bè. Nhà logic... nếu bạn đi tới Arthur Koestler và bạn hỏi ông ấy về câu này từ Kabir, chỗ Kabir nói, "Tôi đã đạt tới cái không thể đạt tới," ông ấy sẽ nói, "Ngớ ngẩn! Nếu nó là không thể đạt tới được, thế thì chắc chắn, làm sao ông có thể nói ông đã đạt tới nó được? Nếu ông nói ông đã đạt tới nó, thế thì làm sao ông có thể gọi nó, trong cùng hơi thở, là không thể đạt tới được?" Ông ấy sẽ nói đây là việc huyền bí hoá, đây là điên.

Nhưng nghe đi... nó không phải là huyền bí hoá đâu. Kabir đang cố nói cái gì đó cực kì có giá trị. Ông ấy phải dùng cách diễn đạt ngớ ngẩn này vì đó là cách duy nhất để diễn đạt nó. Chân lí có thể được diễn đạt chỉ qua nghịch lí.

Kabir nói: Tôi đã đạt tới cái không thể đạt tới…

Thế thì ông ấy ngụ ý cái gì? Ông ấy gọi nó là "cái không thể đạt tới" vì bạn không thể đạt tới nó được. Bạn không thể đạt được nó, bạn không thể làm nó thành mục đích, bạn không thể làm bất kì nỗ lực nào để đạt tới nó, không có phương pháp luận để đạt tới nó. Không có cách nào để đạt tới nó - do đó ông ấy gọi nó là "không thể đạt tới". Nhưng dầu vậy nó vẫn được đạt tới. Một ngày nào đó, đột nhiên, nó tới như món quà - không như việc đạt tới. Không phải là bạn đã đạt tới; bạn đơn giản sững sờ, bạn không thể tin được vào mắt riêng của bạn - nó có đó, nó đang trút xuống khắp quanh bạn. Và điều nghịch lí là: bạn càng cố đạt tới nó, càng ít có khả năng cho món quà tới với bạn.

Khi bạn bỏ việc cố đạt tới nó, khi bạn quên mọi thứ về việc đạt tới, khi bạn đã hiểu rằng nó không thể được đạt tới, khi việc hiểu này đã xuyên thấu tới chính cốt lõi của con người bạn, và bạn được thảnh thơi, và không có ham muốn đạt tới, đi bất kì chỗ nào, là ai đó, có cái gì đó - kinh nghiệm nào đó về Thượng đế, moksha, nirvana - khi mọi ham muốn này đã biến mất... Vì bạn biết nó là không thể đạt tới; nó không thể được ham muốn, nó không thể được làm thành đối thể của tham vọng, vì mọi đối thể của tham vọng sẽ tạo ra bản ngã - và qua bản ngã điều đó là không thể được. Làm sao, qua bản ngã, bạn có thể trở thành bao la? Bản ngã là đường hầm; làm sao bạn có thể vẫn còn trong đường hầm và vậy mà đạt tới bầu trời bao la? Không thể được.

Khi hiểu điều này: "Mình là căn nguyên của khổ của mình, mình là sự giam cầm của mình," người ta thảnh thơi. Khi thảnh thơi là hoàn hảo, khi thảnh thơi là hoàn toàn, thế thì nó tới như món quà.

Cho nên Kabir nói, "Tôi đã đạt tới cái không thể đạt tới - không phải là tôi đã đạt tới nó; tôi đã được nhận nó, nó là ân huệ. Thượng đế đã giáng lên tôi."

Đó là lí do tại sao tôi nói Rabindranath đã không dịch đúng nó. Calat mansa acal kinhi? "Vậy, Thượng đế của tôi, ngài đã làm nó rồi sao? Tôi đã mất mọi hi vọng. Tôi thậm chí đã dừng cầu nguyện cho nó; nó đã là vô nghĩa. Trong hàng nghìn và hàng nghìn kiếp tôi đã đi tìm nó, và thế rồi tôi đã bỏ tất cả - toàn thể việc tìm này. Và bây giờ điều tôi đã bỏ mọi việc tìm ngài đã làm nó rồi sao? Ngài làm cho tôi ngạc nhiên! Khi tôi còn cố, ngài đã làm thất vọng tôi. Và giờ tôi không còn cố, và ngài đã làm nó rồi sao? Khi tôi còn nghĩ tôi đã có năng lực có nó, khi tôi đã nghĩ tôi xứng đáng với nó, ngài không bao giờ nghe tôi. Ngài đã ở xa xôi thế. Và giờ cái tôi nghĩ tôi không xứng đáng với nó, rằng tôi không xứng với nó, đột nhiên ngài có ở đây."

Tôi đã đạt tới cái không thể đạt tới,

và tim tôi được tô bằng mầu của yêu.

Chỉ khi Thượng đế đã xảy ra tim bạn mới được tô mầu của yêu, không bao giờ trước điều đó. Hay, khi tim bạn được tô mầu bằng mầu của yêu, Thượng đế được đạt tới, không bao giờ trước điều đó. Và xin đừng làm ra câu đố từ điều đó: đừng bắt đầu hỏi cái gì là đầu tiên, gà hay trứng. Đừng hỏi điều đó.

Hoặc đi qua yêu, và bạn sẽ đạt tới Thượng đế, hoặc đi qua Thượng đế, và bạn sẽ đạt tới yêu. Chúng tới cùng nhau; đó là một gói. Gà và trứng là không tách rời - trứng không là gì ngoài cách thức để gà tạo ra nhiều gà hơn, và gà không là gì ngoài cách cho trứng tạo ra nhiều trứng hơn. Chúng là không tách rời. Trứng là gà không biểu lộ, và gà là trứng biểu lộ. Chúng là hai đầu của một thứ, của một hiện tượng. Thượng đế và yêu cũng vậy.

Đó là lí do tại sao Jesus nói, "Thượng đế là yêu." Và tôi nói với bạn: Yêu là Thượng đế. Cả hai ngụ ý cùng một điều.

Thượng đế là một đầu của cùng năng lượng, của cùng rung động, và đầu kia là yêu. Bạn bắt đầu từ bất kì chỗ nào.

Xin bắt đầu đi; đừng chỉ ngồi và nghĩ, "Cái nào là cái đầu tiên? Mình phải bắt đầu từ đâu?" Những người nghĩ về từ đâu họ sẽ không bao giờ bắt đầu việc bắt đầu. Những người nghĩ không bao giờ bắt đầu. Chỉ người không nghĩ lấy cú nhảy.

Ai đó tới tôi và tôi hỏi, "Về phẩm chất sannyas thì sao; bạn có sẵn sàng lấy cú nhảy không?" và người này nói, "Tôi sẽ nghĩ về điều đó." Người nghĩ không bao giờ lấy bất kì cú nhảy nào. Việc nghĩ ngụ ý làm mọi thứ thành chắc chắn trước khi nó đã xảy ra. Việc nghĩ ngụ ý cố làm cái không biết thành cái biết trước khi đi vào trong nó. Việc nghĩ ngụ ý: "Mình phải làm mọi thu xếp. Mình không đi vào trong trò đánh bạc nào đó." Việc nghĩa là hèn nhát. Việc nghĩ là hèn, người nghĩ là người hèn.

Và bạn có thể biết cái gì trong cuộc sống huyền bí này? Bạn có thể biết cái gì? Chẳng cái gì được biết.

Tôi đã nghe...

Trong xe bus lèn chặt người, một cô thư kí trẻ gặp khó khăn khi moi đồng xu từ ví để trả tiền xe. Một người lịch sự vạm vỡ đứng đằng sau cô ta tình nguyện: "Tôi có thể trả phí cho cô được chứ?"

"Ồ không đâu," cô ta lắp bắp, "Tôi không thể để anh làm điều đó được. Sau rốt, anh là người hoàn toàn lạ."

"Không thực thế đâu," anh ta bảo cô ta. 'Cô đã mở khoá quần tôi ba lần rồi."

Nhưng đó là điều chúng ta gọi là quen biết, tri thức. Bạn có biết vợ bạn không? Bạn có biết chồng bạn không? Bạn có biết con bạn không? Bạn có biết mẹ bạn không? Bạn có biết tôi không? Chúng ta biết cái gì? Mọi tri thức là hời hợt thế. Nhưng dầu vậy, người nghĩ vẫn nghĩ rằng đầu tiên anh ta phải làm mọi thức chắc chắn, đầu tiên anh ta phải trở thành am tường theo mọi cách. Anh ta phải có bản đồ, người hướng dẫn, các khả năng, các nguy hiểm, các ích lợi - và thế thì anh ta sẽ chuyển động. Thế thì bạn có thể đi vào trong bất kì cái gì, nhưng bạn không thể đi vào trong phẩm chất sannyas: nó là việc đánh bạc. Thế thì bạn không thể đi vào trong Thượng đế: nó là việc đánh bạc tối thượng. Cái mà bạn thấy là không hiện hữu - cho nên bạn sẽ nghĩ gì? Và bạn có thể nghĩ được cái gì?

Cái mà ông thấy là không hiện hữu:

Và với cái đang đó, ông không có lời.

Cái đang hiện hữu bạn không thể thấy được vì việc nghĩ của bạn. Việc nghĩ là ngu xuẩn lớn nhất của con người. Thế thì bạn mang các ý tưởng trong đầu bạn, và bạn bao giờ cũng nhìn qua những ý tưởng đó.

Tôi đã nghe...

Những người đi lại từ Connecticut đã trở nên quen với dịch vụ đường sắt khủng khiếp, nhưng khi chuyến tầu địa phương ì ạch vào ga Grand Central và một giờ rưỡi sau mới chạy chuyến bốn mươi phút theo lịch, ngay cả người hơi ngu dễ bảo từ Mount Vernon cũng phản đối.

Trưởng tàu nhắc nhở anh ta, "Chúng ta bao giờ cũng trễ khi trời tuyết."

"Tôi biết điều đó," người ngu khăng khăng. "Nhưng sáng nay thậm chí không có mây trên trời!"

"Chúng tôi không chịu trách nhiệm cho điều đó," trưởng tàu trung thành kết luận. "Tuyết đã được dự báo rồi."

Đó là cách thức của tri thức. Bạn liên tục tìm các thứ đã được dự báo, nhưng không tìm các thứ đang đó. Bạn liên tục tìm các thứ mà với chúng bạn đã được huấn luyện, nhưng không tìm các thứ đang có đó. Bạn liên tục tìm cái mà xã hội đã chuẩn bị cho bạn, nhưng không tìm cái mà đang là thực tại. Không xã hội nào đã từng có khả năng chuẩn bị cho bạn về thực tại - vì xã hội là điều huyền bí. Xã hội là hư cấu, xã hội là dối trá.

Tôi đã nghe một sự vụ rất hi hữu, và nó là thực; các nguồn tin cậy nói nó là vậy.

Khi Darwin bắt gặp một hòn đảo nhỏ trong cuộc hành trình của ông ấy, họ đã du hành trong một chiếc tàu rất lớn. Dân đảo chưa bao giờ thấy thứ gì to lớn thế. Họ đã chỉ biết những chiếc thuyền rất nhỏ nơi hai người, là nhiều nhất, có thể ngồi - chỉ là thuyền của ngư dân. Khi chiếc tàu này cập bến gần hòn đảo, Darwin báo cáo trong nhật kí của ông ấy, dân đảo không thấy nó! Không ai bị lôi kéo. Mọi người làm việc trên bờ và đánh cá - và con tầu khổng lồ thế, và không ai thậm chí đã nhìn. Họ ngạc nhiên: "Có chuyện gì thế nhỉ? Những người này có điên không?" họ đáng ra phải chạy đi, họ đáng ra phải tụ tập trong đám đông. Toàn thể đảo nhỏ đáng ra phải tụ tập lại ở đó; đó là điều Darwin đã mong đợi.

Khi họ lên bờ và họ hỏi, thế thì, dần dần, dân đảo trở nên nhận biết về con tàu. Và thế rồi tù trưởng nói, "Vì chúng tôi chưa bao giờ thấy thứ gì như vậy, chúng tôi chưa bao giờ mong đợi điều đó."

Và chừng nào bạn chưa mong đợi cái gì đó, làm sao bạn có thể thấy nó được? Khi bạn mong đợi một thứ bạn bắt đầu thấy nhiều thứ. Nếu bạn đang di chuyển qua một tu viện và bạn không biết rằng nó là tu viện, bạn có thể thấy cái gì đó khác mà không có đó. Nếu bạn biết nó là tu viện - nó có thể không là tu viện - bạn có thể bắt đầu thấy các thứ không có đó. Nếu bạn đi qua nghĩa địa và bạn không biết, bạn sẽ không thấy ma. Nhưng nếu bạn biết rằng đó là nghĩa địa - nó có thể không là vậy, bạn có thể bị thông tin sai - bạn sẽ bắt đầu thấy ma. Cái nhìn của bạn bị che mờ bởi điều bạn mong đợi. Cái nhìn của bạn không rõ ràng.

Cái mà ông thấy là không hiện hữu:

Và với cái đang đó, ông không có lời.

Chừng nào ông chưa thấy, ông không tin:

Điều được nói cho ông, ông không thể chấp nhận.

Và Kabir nói, tôi biết - bất kì cái gì tôi đang nói ông không thể tin được nó, vì ông đã không thấy nó. Làm sao bạn có thể tin được nó? Tôi có thể hiểu khó khăn của bạn. Khi tôi bảo bạn, "Lấy cú nhảy vào trong phẩm chất sannyas," tôi biết khó khăn của bạn. Bạn đã không thấy nó; làm sao bạn có thể tin cậy vào nó được? Bạn không biết tôi nữa; làm sao bạn có thể tin cậy tôi được? Bạn thậm chí không biết bản thân bạn; làm sao bạn có thể tin cậy vào bản thân bạn được? Tôi có thể hiểu hoang mang của bạn, khó khăn của bạn. Và những người lấy cú nhay đã không lấy cú nhảy qua bất kì kết luận nào về phần họ. Họ đã lấy cú nhảy mặc cho mọi sợ, hoài nghi. Mặc cho tâm trí họ, họ đã lấy cú nhảy. Không phải là họ đã trở nên được thuyết phục. Điều tôi đang nói tới là cái gì đó bạn trải nghiệm - chỉ thế thì bạn biết. Cho nên làm sao bạn có thể trở nên được thuyết phục về nó? Không có cách nào làm cho bạn được thuyết phục một cách tiên nghiệm, sớm.

Kabir nói: "Tôi biết."

Chừng nào ông chưa thấy, ông không tin:

Điều được nói cho ông, ông không thể chấp nhận.

Người thấy rõ các cái biết bằng lời;

và người dốt đứng há miệng.

Với người biết, ngay cả hơi chút hướng dẫn là đủ: ngay cả lời sẽ cho người đó thông điệp của vô lời. Nhưng người đó đã biết; người đó là người thấy rõ, người đó đã thức tỉnh.

Kabir và Farid có lần gặp gỡ và đã không nói chuyện. Trong hai ngày họ vẫn còn im lặng cùng nhau. Lúc thì họ cười, lúc thì họ ôm nhau. Cầm tay họ ngồi đó, ngắm mặt trăng và mặt trời. Và các đệ tử rất lo nghĩ: "Cái gì đã xảy ra cho hai người này?" Họ cả hai bao giờ cũng nói mà.

Farid đã là một Thầy lớn; Kabir cũng vậy. Và Farid đã du hành khắp nước, cho nên các đệ tử của ông ấy nói, "Đạo tràng của Kabir ở ngay cạnh. Điều hay là thấy các thầy cùng nhau. Đó sẽ là kinh nghiệm lớn cho chúng tôi." Và họ đã thầm hi vọng rằng khi hai người này gặp gỡ, chắc sẽ có trao đổi nào đó giữa hai người này, cuộc đối thoại, và họ sẽ được lợi vô cùng. Cho nên các đệ tử riêng của Kabir nói với ông ấy, "Chúng tôi đã nghe nói rằng Farid đang sắp đi ngang qua.

Chúng ta phải mời ông ấy. Chính biến cố lớn cho người trong đạo tràng là gặp cả hai thầy cùng nhau, có chuyện phiếm."

Kabir cười. Farid đã được mời. Farid đã ở lại đạo tràng của Kabir trong hai ngày, nhưng không một lời nào được cả hai người thốt ra. Các đệ tử trở nên rất, rất chán. Họ đã mong đợi rất nhiều; họ đã bị thất vọng, tất nhiên. Họ theo dõi ngày và đêm vì có thể khi họ đi hai người có thể nói. Cho nên họ không bao giờ bỏ hai người lại, họ không bao giờ đi ngủ. Ngay cả khi Kabir và Farid đang ngủ, họ đã chờ đợi. Nhưng không một lời được trao đổi.

Thế rồi Farid rời đi, Kabir tới nói lời tạm biệt; thậm chí không một lời được thốt ra. Họ ôm ghì nhau và ra đi.

Khoảnh khắc họ ra đi khỏi nhau, các đệ tử nhảy lên. Đệ tử của Farid nhảy lên ông ấy và họ nói, "Cái gì đã xảy ra cho thầy? Chúng tôi chưa bao giờ biết rằng thầy là người câm thế! Tại sao thầy đã giữ yên tĩnh? Tại sao thầy đã hành hạ chúng tôi nhiều thế? Im lặng đó là rất nặng nề, và chúng tôi đang chờ đợi trao đổi nào đó giữa hai thầy."

Farid nói, "Nhưng nói cái gì? Ông ấy biết." Và điều đó cũng là hoàn cảnh với Kabir. Ông ấy nói, "Nói cái gì? Nói cái gì đó cho ông ấy đơn giản chứng tỏ rằng ta không biết. Ông ấy biết, ta biết, và chúng ta biết cùng điều. Chúng ta nhìn vào mắt nhau - và điều đó được kết thúc. Phỏng có ích gì mà lặp lại? Nó sẽ là việc lặp lại, và vô nghĩa."

Khi ai đó biết, ngay cả lời là không được cần tới - hay thậm chí một lời là đủ.

Một số người suy tư về vô hình tướng,

và những người khác thiền về hình tướng;

nhưng người trí huệ biết

rằng Brahma ở bên ngoài cả hai.

Vài người nghĩ Thượng đế là có hình tướng - saguna; vài người nghĩ Thượng đế là vô hình tướng - nirguna. Kabir nói: Thượng đế ở bên ngoài cả hai, và Thượng đế ở bên trong cả hai, và cái bên trong là cái bên kia, Ngài là trong các hình tướng, và vậy mà là vô hình tướng. Ngài biểu lộ Bản thân ngài theo hàng triệu hình tướng thế, và vậy mà vẫn còn vô biểu lộ.

Rằng cái đẹp của Ngài là không thấy được bằng mắt…

Nếu bạn muốn thấy Ngài, những đôi mắt này sẽ không giúp được gì.

Rằng cái đẹp của Ngài là không thấy được bằng mắt…

... thực ra, bạn sẽ phải nhắm những đôi mắt này lại. Bạn sẽ phải mở con mắt của tâm thức của bạn, của nhận biết của bạn. Những con mắt vật lí này sẽ không có tác dụng.

…rằng nhịp của Ngài là không được nghe bằng tai.

Giai điệu đó, âm nhạc đó, nhịp đó, bài ca đó, không được nghe bằng những đôi tai này. Bạn sẽ phải chuyển vào bên trong. Ngài đang hát ở đó bên trong bạn, không ở bên ngoài. Những tai này chỉ có thể nghe nhạc bên ngoài. Bạn sẽ phải chuyển vào bên trong; ca sĩ ở đó, nhạc sĩ ở đó. Ngài liên tục hát bài ca. Bài ca đó là chính cuộc sống của bạn.

Nhưng bạn phải nghe theo cách khác toàn bộ, và bạn phải nhìn với phẩm chất khác toàn bộ.

Kabir nói:

Người đã thấy cả yêu và từ bỏ

Không bao giờ đi xuống chết.

Nhớ, hài hoà cao nhất là giữa yêu và từ bỏ. Nhìn lời kinh có ảnh hưởng sâu xa vô cùng này: yêu và từ bỏ, cùng nhau. Đó là toàn thể giáo huấn của tôi nữa.

Mọi người tới tôi và họ nói, "Nếu thầy đơn giản dạy thiền, điều đó chắc là đủ. Tại sao thầy dạy về yêu nữa? Chúng tôi chưa bao giờ biết tới các thánh nhân nói về yêu. Tại sao thầy nói về yêu? Hay cho dù các thánh nhân nói về yêu, họ không nói về yêu của người bình thường."

Mới hôm nọ khi tôi nói: "Thượng đế là yêu, và đừng viết yêu với chữ Y hoa," một người đàn bà đã viết một bức thư phản đối. Cô ấy viết, "Tại sao? Tại sao không viết chữ Y hoa? Tại sao thầy khăng khăng rằng chữ y phải viết thường?" Tôi có thể hiểu được phản đối của cô ấy. Với chữ Y hoa, yêu là cái gì đó thiêng liêng, không phải của con người. Với chữ Y hoa, yêu của bạn bị tuột ra khỏi nó; nó là yêu giữa Krishna và gopis của ông ấy, yêu giữa Thượng đế và người sùng kính của Ngài - không phải là yêu xảy ra giữa bạn và con bạn. Cái đó là yêu với chữ y thường. Vâng, sẽ là tốt nếu tôi nói yêu với chữ Y hoa và nói nó là Thượng đế - "Nhưng yêu thường, yêu của con người, bạn gọi nó là thiêng liêng sao?" Điều đó là khó khăn, điều đó có vẻ như báng bổ - nhưng đó là toàn thể nỗ lực của tôi ở đây.

Không có chữ Y hoa. Ngay cả Thượng đế cũng phải được viết bằng chữ t thường - vì toàn thể sự tồn tại này là thiêng liêng. Toàn thể sự tồn tại... trong chính cái bình thường, cái phi thường hiện diện. Nhìn vào trong chữ y thường: chữ Y hoa hiện diện.

Trong hòn đá cuội bình thường, trong tảng đá bình thường, Ngài hiện diện nhiều như trong viên kim cương Kohinoor. Không có phân biệt với Ngài. Toàn thể sự tồn tại là quí giá với sự hiện diện của Ngài.

Kabir nói:

Người đã thấy cả yêu và từ bỏ…

Rất khó hiểu, cực kì phi logic... Chúng ta có thể hiểu yêu, nhưng thế thì về từ bỏ thì sao? Chúng ta có thể hiểu từ bỏ, nhưng về yêu thì sao? Chúng dường như là những mâu thuẫn lớn nhất có thể. Khi bạn yêu, làm sao bạn có thể từ bỏ? Và khi bạn từ bỏ, làm sao bạn có thể yêu?

Cố hiểu điều đó đi. Yêu thường là một loại ngủ: bạn trở nên bị gắn bó với đối thể của yêu, bạn bắt đầu cảm thấy ghen, bạn trở nên có tính sở hữu - và tính sở hữu của bạn và ghen của bạn thực sự đầu độc toàn thể yêu. Chúng phá huỷ nó. Yêu bị phá huỷ bởi ghen, sở hữu. Khoảnh khắc bạn cố sở hữu đối thể yêu của bạn, bạn đã phủ nhận yêu, bạn đã phủ nhận rồi. Bạn đã tuyên bố rằng bạn không yêu.

Yêu là có thể chỉ nếu không có sở hữu và không có ghen. Điều đó ngụ ý yêu đã đạt tới từ bỏ. Bạn yêu người này nhưng bạn từ bỏ tính sở hữu; bạn yêu người này nhưng bạn từ bỏ ghen; bạn yêu người này nhưng bạn không muốn làm ra nô lệ từ người này; bạn yêu người này nhưng bạn kính trọng tự do của người này; bạn yêu người này nhưng yêu của bạn không trở thành việc giam hãm. Bạn yêu, và vậy mà bạn vẫn còn không bị gắn bó. Bạn yêu, bạn yêu vô cùng, nhưng dầu vậy bạn không bám víu: điều đó là từ bỏ.

Yêu thế giới, và không bị gắn bó. Ở trong thế giới, nhưng không là của thế giới - đó là điều từ bỏ là gì. Đó là điều tôi gọi là phẩm chất sannyas: sự hài hoà lớn giữa yêu và từ bỏ; sự hài hoà lớn giữa Thượng đế và đấng sáng tạo, và thế giới, cái được sáng tạo; hài hoà lớn giữa thân và hồn, hài hoà lớn, không xung đột; việc biến mất của mọi xung đột.

Nếu yêu của bạn là lớn tới mức nó có thể chứa từ bỏ, chỉ thế thì nó là yêu. Nếu từ bỏ của bạn là lớn tới mức nó có thể chứa yêu, chỉ thế thì nó là từ bỏ. Và người mà có thể yêu và vậy mà vẫn trong từ bỏ, là sự trưởng thành lớn lao nhất, định mệnh. Đó là định mệnh chúng ta đang tìm kiếm. Và chừng nào nó còn chưa được đạt tới, bạn sẽ không bao giờ cảm thấy được hoàn thành. Thượng đế là người yêu và là sannyasin.

Nhìn đi... Ngài yêu thế giới, bằng không thế giới chắc đã không thể hiện hữu. Ngài yêu thế giới... và vậy mà bạn không thể tìm thấy Ngài ở bất kì chỗ nào. Ngài hoàn toàn vắng mặt; từ bỏ của Ngài là hoàn toàn. Ngài yêu thế giới; Ngài liên tục sáng tạo ra nó. Ngài yêu vô cùng, bằng không tại sao Ngài phải sáng tạo? Ngài chăm nom vô cùng, nhưng nó là không bị gắn bó tới mức Ngài không bao giờ bước vào bãi chợ để tuyên bố, "Trông đây, ta là đấng sáng tạo."

Ngài không có cái tôi. Ngài là đấng sáng tạo không bao giờ cảm thấy, "Ta là đấng sáng tạo." Từ bỏ của ngài là hoàn toàn, yêu của ngài là hoàn toàn.

Sannyasin sẽ là bản thu nhỏ của Thượng đế: yêu của người đó sẽ là toàn bộ, từ bỏ của người đó cũng là toàn bộ.

Và Kabir nói:

Người đã thấy cả yêu và từ bỏ

Không bao giờ đi xuống chết.

Người đó đi ra ngoài chết; người đó trở thành bất tử. Người đó đã đạt tới nước cam lồ của điều thiêng liêng. Người đó đã đạt tới tiên đan. Vì tiên đan này, các nhà giả kim thuật trên khắp thế giới đã từng tìm và kiếm. Tiên đan này có thể xảy ra trong bạn. Chỉ một tổ hợp được cần, việc tổng hợp lớn: tổng hợp giữa yêu và từ bỏ.

Xem Chương 8Quay Về Mục Lục

..............................

0 Đánh giá

Ads Belove Post