Read more
Con Đường Của Yêu – Osho
Chương 8. Thượng Đế vẫn hy vọng
Câu hỏi thứ nhất:
Có sống sau chết không?
Đây là câu hỏi sai, về
căn bản là vô nghĩa. Người ta phải không bao giờ nhảy lên trước bản thân mình:
có mọi khả năng rằng bạn sẽ rơi vào mặt bạn. Người ta phải hỏi câu hỏi cơ bản,
người ta phải bắt đầu ở chỗ bắt đầu. Gợi ý của tôi là: hỏi câu hỏi cơ bản hơn
đi.
Chẳng hạn, bạn có thể
hỏi, "Có sống sau sinh không?" Điều đó chắc là cơ bản hơn, vì nhiều
người được sinh ra nhưng rất ít người có sống. Chỉ bởi việc được sinh ra bạn
không là sống động. Bạn tồn tại, chắc chắn, nhưng sống là nhiều hơn tồn tại đơn
thuần. Bạn được sinh ra, nhưng chừng nào bạn chưa được tái sinh trong con người
bạn, bạn không sống, bạn không bao giờ sống.
Sinh là cần, nhưng
không đủ. Cái gì đó thêm nữa được cần, bằng không người ta đơn giản sống thực vật,
người ta đơn giản chết. Tất nhiên, đó là cái chết rất từ từ - và bạn vô nhận biết
tới mức bạn không bao giờ biết điều đó, bạn không bao giờ trở nên nhận biết về
điều đó. Từ sinh tới chết, đó là việc tiến dần lâu dài của chết. Rất hiếm khi bắt
gặp một người sống động. Một Phật, một Jesus, một Kabir - họ là sống động. Và
đây là phép màu: rằng những người là sống động không bao giờ hỏi câu hỏi:
"Có sống sau chết không?" Họ biết nó. Họ biết sống là gì, và trong việc
biết đó, chết đã biến mất. Một khi bạn biết sống là gì, chết không tồn tại. Chết
tồn tại chỉ vì bạn không biết sống là gì, vì bạn chưa nhận biết về sống, về
tính bất tử của nó. Bạn đã không chạm tới sống, do đó sợ chết tồn tại. Một khi
bạn đã biết sống là gì, trong chính khoảnh khắc đó, chết đã trở thành vô tồn tại.
Đem ánh sáng vào
trong phòng tối, và tối biến mất; biết sống, và chết biến mất. Người thực sự sống
động đơn giản cười vào chính khả năng của chết. Chết là không thể được; chết
không thể tồn tại, trong chính bản chất mọi sự: cái đang hiện hữu sẽ vẫn còn lại,
bao giờ cũng vẫn còn lại. Cái đang hiện hữu không thể biến mất. Nhưng không về
mặt lí thuyết; bạn phải đi tới kinh nghiệm này về mặt tồn tại.
Bình thường câu hỏi
này vẫn còn lại trong tâm trí, dù bạn hỏi điều đó hay không: câu hỏi, "Cái
gì xảy ra sau chết?" vì không cái gì đã xảy ra trước chết, đó là lí do tại
sao có câu hỏi này. Vì sống đã không xảy ra ngay cả sau sinh, làm sao bạn có thể
tin và tin cậy rằng sống sẽ xảy ra ngay cả sau chết? Nó đã không xảy ra sau
sinh, làm sao nó có thể xảy ra sau chết? Và người biết sống thì biết rằng chết
là sinh khác và không gì khác. Chết là sinh khác; cánh cửa mới mở ra. Chết là
phía bên kia của cùng một cánh cửa bạn gọi là sinh: từ bên này cửa được biết là
chết, từ bên kia cửa được biết là sinh.
Chết mang tới sinh
khác, việc bắt đầu khác, cuộc hành trình khác - nhưng đây sẽ chỉ là suy đoán
cho bạn. Điều này sẽ không có nghĩa gì mấy chừng nào bạn chưa biết sống là gì.
Đó là lí do tại sao tôi nói, hỏi câu hỏi đúng. Câu hỏi sai không thể được trả lời,
hay nó có thể được trả lời chỉ theo cách sai. Câu hỏi sai hàm ý câu trả lời
sai. Tôi ở đây để giúp bạn biết cái gì đó, không để giúp bạn trở thành người
suy đoán lớn, người nghĩ. Kinh nghiệm là mục đích, không phải triết lí hoá - và
duy nhất kinh nghiệm giải được thách đố.
Bạn được sinh ra,
nhưng chưa thực sự được sinh ra đâu. Việc tái sinh được cần; bạn phải được sinh
hai lần. Lần sinh thứ nhất chỉ là sinh vật lí, lần sinh thứ hai là việc sinh thực:
việc sinh tâm linh. Bạn phải đi tới biết bản thân bạn, bạn là ai. Bạn phải hỏi
câu hỏi này: Tôi là ai? Và trong khi sống có đó, sao không hỏi vào bản thân sống?
Sao bận tâm về chết? Khi nó tới, bạn có thể đối diện với nó và bạn có thể biết
nó. Đừng bỏ lỡ cơ hội này để biết sống khi sống bao quanh bạn.
Nếu bạn đã biết sống,
bạn sẽ chắc chắn đã biết chết - và thế thì chết không phải là kẻ thù, chết là bạn.
Thế thì chết không là gì ngoài giấc ngủ sâu. Lại có buổi sáng, mọi thứ lại sẽ bắt
đầu. Thế thì chết không là gì ngoài nghỉ ngơi - việc nghỉ vô cùng, việc nghỉ được
cần. Sau cả đời vất vả và mệt mỏi, người ta cần việc nghỉ lớn lao trong Thượng
đế. Chết là quay lại cội nguồn, cũng như trong ngủ.
Mọi đêm bạn chết cái
chết nhỏ. Bạn gọi nó là ngủ; sẽ tốt hơn nên gọi nó là chết nhỏ. Bạn biến mất khỏi
bề mặt, bạn chuyển vào trong con người bên trong nhất của bạn. Bạn bị mất đi, bạn
không biết bạn là ai. Bạn quên tất cả về thế giới, và mối quan hệ, và mọi người.
Bạn chết cái chết nhỏ, cái chết tí hon, nhưng ngay cả cái chết tí hon đó làm hồi
sinh bạn. Đến sáng bạn đầy say mê và lại hăng hái, lại đập rộn ràng với sống, lại
sẵn sàng nhảy vào trong cả nghìn lẻ một cuộc phiêu lưu, sẵn sàng nhận thách thức.
Đến tối bạn sẽ lại mệt mỏi.
Điều này xảy ra hàng
ngày. Bạn thậm chí đã không biết ngủ là gì; làm sao bạn có thể biết được chết?
Chết là giấc ngủ lớn, việc nghỉ ngơi lớn sau cả đời. Nó làm bạn thành mới, nó
làm bạn thành tươi tắn, nó phục sinh bạn.
Câu hỏi thứ hai:
Ông chủ của khách sạn lớn nơi tôi đang sống muốn câu trả lời cho
câu hỏi này: Tại sao Thượng đế tạo ra thế giới này?
Trước hết, đừng bao
giờ mang câu hỏi của bất kì người nào khác tới tôi. Đem người hỏi tới đi, vì
tôi không thể trả lời câu hỏi của bất kì người nào khác được. Người hỏi phải ở
đây, trong sự hiện diện của tôi, vì sâu bên dưới, sự hiện diện của tôi là câu
trả lời - không phải điều tôi nói, nhưng điều tôi đang vậy. Đừng bao giờ đem
các câu hỏi vay mượn. Nếu nó không phải là của bạn, nó là vô nghĩa. Bạn bảo ông
chủ khách sạn của bạn, "Ông có thể tới," và nếu ông ấy thực sự quan
tâm, ông ấy sẽ tới. Tôi nghĩ ông ấy không quan tâm tới Thượng đế hay bất kì cái
gì đâu - có thể tò mò, nhưng người tò mò chỉ là người ngu.
Bất kì người ngu nào
đều có thể tò mò. Để là người truy hỏi thực sự, người ta cần thông minh lớn.
Bây giờ, nếu ông ta
quan tâm, tôi đang ở đây tại Poona, và ông ta quản lí khách sạn ở đây. Các bạn ở
đây từ những nước xa xôi, và ông ta đã không tới. Ông ta không quan tâm, ông ta
chỉ tò mò. Ông ta không sẵn sàng đánh cược bất kì cái gì, thậm chí không tới
đây. Tới đây chẳng tốn kém gì nhiều; ông ta có thể đã tới. Và ông ta biết bạn tới
đây mọi ngày, và ông ta biết rằng bạn là sannyasin. Ông ta biết rằng bạn đã
đánh cược đời bạn, bạn đã đánh bạc bằng cuộc đời bạn, và ông ta thậm chí đã
không trở nên quan tâm.
Đừng bao giờ mang những
câu hỏi như vậy tới tôi. Kiểu câu hỏi này là ngu xuẩn; nó không thể được trả lời
- vì chừng nào bạn chưa hỏi một cách mãnh liệt, chừng nào bạn chưa hỏi từ chính
cốt lõi của con người bạn, câu hỏi là không liên quan. Câu hỏi trở thành liên
quan chỉ khi bạn ở đằng sau nó và bạn sẵn sàng làm cái gì đó cho nó: bạn sẵn
sàng trả giá cho nó.
Thượng đế là không sẵn
có cho những người như vậy. Họ không sẵn sàng trả giá bằng bất kì cái gì. Họ muốn
có Thượng đế rất rẻ. Họ muốn Thượng đế gián tiếp. Bây giờ, bạn sẽ nghe câu trả
lời của tôi, và thế rồi bạn sẽ đi và nói cho ông ta. Đầu tiên, bạn không biết;
bạn sẽ không nghe điều tôi nói, bạn nhất định mang thông điệp sai nào đó. Tất
nhiên, tâm trí của bạn sẽ bước vào, bạn sẽ bóp méo nó: bạn sẽ thêm cái gì đó, bạn
sẽ xoá đi cái gì đó khỏi nó, bạn sẽ tô mầu nó bằng tâm trí riêng của bạn, bằng
diễn giải riêng của bạn, và thế rồi bạn sẽ đem nó cho ông ta. Nó đã chết rồi; bạn
đã giết nó. Thế rồi bạn đi và trao nó cho ông ta.
Và nếu theo cách này
các hướng dẫn là có thể, thế thì sách là sẵn có. Ông ta nên đi và tra cứu thư
viện; mọi câu trả lời đều được viết ở đó. Và ông ta phải đã đọc cái gì đó, bằng
không câu hỏi này chắc đã không nảy sinh. Ông ta phải đã nghe từ 'Thượng đế'.
Đừng bao giờ làm những
điều này. Nếu ai đó hỏi câu hỏi như vậy, lôi người đó tới tôi. Bảo người đó,
"Ông tới và ông đối diện thẳng với người này đi."
Nhưng, tôi ngờ rằng
câu hỏi này là của bạn, chứ chẳng của ông chủ khách sạn gì cả. Nhưng bạn không
đủ dũng cảm để nói rằng nó là của bạn. Mọi người xấu hổ thế, ngay cả việc hỏi
câu hỏi đích thực. Tại sao mọi người xấu hổ thế? - vì hỏi câu hỏi chứng tỏ rằng
bạn là dốt. Cho nên mọi người muốn trốn đằng sau lưng của ai đó khác: bây giờ
"người chủ Khách sạn Lớn" là chỗ hoàn hảo để trốn.
Mọi người cảm thấy
hơi xấu hổ khi họ hỏi câu hỏi, vì chính ý tưởng rằng "Tôi đang hỏi câu hỏi,"
ngụ ý rằng "Tôi không biết."
Có lần chuyện xảy ra:
Một người tới tôi và anh ta nói, "Bạn tôi đã trở nên bất lực. Thầy có thể
gợi ý cái gì đó không?"
Tôi nói, "Điều tốt
hơn cho bạn chắc là bạn đưa bạn của bạn tới và anh ta có thể nói sự thực: rằng
bạn của anh ta đã trở nên bất lực. Tại sao bạn đã bận tâm? Bạn có thể đã đưa
người bạn đó tới, và anh ta có thể đã nói ra sự thực: rằng bạn của anh ta đã trở
nên bất lực. Bạn thậm chí không đủ sức mạnh để hỏi câu hỏi sao? Tại sao mang
người bạn này vào?"
Điều thứ nhất khi bạn
hỏi một câu hỏi là thừa nhận dốt của bạn. Từ đó việc truy hỏi bắt đầu. Câu hỏi
là hay khi người hỏi biết rằng người đó không biết. Thế thì câu hỏi này là lành
mạnh - vì người mẹ là lành mạnh, và câu hỏi này là con của bạn. Khi bạn nói,
"Tôi không biết, và tôi hỏi vì tôi không biết," thế thì câu hỏi này
là cực kì lành mạnh, sống động, có nhịp đập con tim của nó. Nó thở. Và tôi
thích câu hỏi sống động; thế thì cái gì đó có thể được làm.
Bây giờ, bạn mang tới
câu hỏi chết vì bạn không thể chấp nhận được sự kiện rằng bạn không biết. Bạn
biết hoàn toàn rõ rằng ông chủ này này của Grand Hotel là dốt về điều ông ta
đang hỏi. Đó là lí do tại sao tôi sẽ trả lời - vì tôi biết nó là câu hỏi của bạn.
"Tại sao Thượng
đế tạo ra thế giới này?"
Thứ nhất: điều có thể
làm cho bạn ngạc nhiên là Thượng đế không bao giờ tạo ra thế giới này. Thế giới
này là sáng tạo của bạn. Thượng đế đã tạo ra thế giới, nhưng bạn không biết về
thế giới đó chút nào. Thế giới này Ngài đã không tạo ra chút nào: thế giới này
nơi Richard Nixon tồn tại, nơi Việt Nam tồn tại, nơi Idi Amin Dada tồn tại. Thế
giới này Thượng đế đã không tạo ra: thế giới này của Adolf Hitlers và
Mussolinis, và chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản, và Stalin và Mao. Thế
giới này Thượng đế đã không tạo ra: thế giới này là thế giới nơi nghèo nàn vô
cùng tồn tại vì mọi người tham thế, vì mọi người liên tục tích trữ; thế giới
này nơi sự sống xấu xí thế tồn tại, nơi thậm chí không một cơn mưa rào của yêu
xảy ra - tựa sa mạc, không có yêu, mọi người chỉ cạnh tranh, tranh đấu, xung đột
- nơi bạo hành mênh mông thế tồn tại... Thế giới này Thượng đế đã không tạo ra.
Đây là thế giới của bạn. Bạn là người sáng tạo của nó. Bạn là thế giới này. Thế
giới này là phóng chiếu của bạn. Thế giới này rung động trên cái xấu của bạn.
Cho nên điều thứ nhất:
Thượng đế đã không tạo ra thế giới này. Xin đừng làm cho Ngài chịu trách nhiệm
về nó; Ngài không chịu trách nhiệm đâu. Bằng không Ngài chắc đã là kẻ tội phạm
lớn nhất nếu Ngài đã tạo ra thế giới này. Ít nhất tôi ủng hộ cho một tuyên bố rằng
Ngài đã không tạo ra thế giới này. Đây là sáng tạo của bạn.
Nhưng bạn sẽ nói, và
theo một cách logic nữa, rằng Ngài đã tạo ra chúng ta, và nếu chúng ta tạo ra
thế giới này thế thì chung cuộc Ngài chịu trách nhiệm chứ. Không, dầu vậy tôi vẫn
nói Ngài không chịu trách nhiệm - vì Ngài đã tạo ra bạn như sự tự do. Đó là điều
cần được hiểu.
Thế giới xấu xa này
chắc sẽ không tồn tại nếu Thượng đế đã tạo ra bạn như nô lệ. Nếu Thượng đế đã tạo
ra bạn như các robot, các cái máy, thế thì thế giới xấu xa này chắc sẽ không tồn
tại. Thế thì tất cả các bạn chắc là chư Phật, nhưng là chư Phật vô nghĩa. Nếu vị
Phật không thể là một Adolf Hitler, nếu chính khả năng này bị phủ nhận, thế thì
Phật chỉ là bức tượng, vô nghĩa. Nếu bạn phải là thiện, và không có tự do để là
ác, và không có tự do để là ác, thế phỏng có ích gì mà là thiện? Thế giới chắc
đã là thiện nếu Thượng đế đã không tạo ra bạn như sự tự do. Nếu Ngài đã ép buộc
bạn chỉ là việc lặp lại máy móc, chiếc đĩa hát, thế thì tất cả các bạn chắc đã
rao giảng Bài giảng trên núi, hay viết ra Bhagavadgita. Nhưng đĩa hát là đĩa
hát thôi.
Thượng đế đã tạo ra bạn
như sự tự do. Tất nhiên, trong tự do, cái đối lập được bao hàm. Bạn có thể làm
điều thiện nếu bạn chọn, bạn có thể làm điều ác nếu bạn chọn nó theo cách đó,
và chọn lựa là của bạn. Thượng đế đã cho bạn mọi tự do chọn lựa.
Đó là vinh quang của
con người, và cả đau khổ nữa - vinh quang, vì con người là tự do. Bạn không thể
thấy điều đó sao? Cây không tự do; bụi hồng là bụi hồng. Bất kì cái gì sắp xảy
ra đều đã được xác định bởi số mệnh rồi. Bụi hồng không tự do. Nếu nó quyết định
không mọc ra hoa hồng, không cái gì sẽ xảy ra; hoa hồng vẫn sẽ tới. Nếu bụi hồng
quyết định đổi mầu của hoa hồng, không cái gì sẽ xảy ra; hoa hồng sẽ vẫn còn là
cùng mầu như trước đây. Nếu bụi hồng quyết định trở thành cây sen, không cái gì
sẽ xảy ra; bụi hồng sẽ vẫn còn là bụi hồng. Nó được mang định mệnh là bụi hồng.
Nó là đẹp, nhưng không tự do.
Đó là lí do tại sao
tôi nói: Không cái gì có thể được so sánh với cái đẹp của con người. Ngay cả
hoa hồng cũng không là gì mà so được với cái đẹp của con người. Vì hoa hồng phải
là hoa hồng, nó ở trong một loại lệ thuộc nào đó. Nó không thể làm bất kì cái
gì khác. Nó không thể đi lạc lối: nó phải là thánh nhân. Nó phải là một Jesus,
nó không thể là một Judas. Đó là lí do tại sao bụi hồng chỉ là bụi hồng - nhìn
thì đẹp, nhưng không cái gì so sánh được với cái đẹp của con người. Cái đẹp tới
vì người ta có thể trở thành một Jesus hay người ta có thể trở thành một Judas,
và mọi người đều mang cả hai khả năng này - Jesus và Judas.
Mọi người là tự do
toàn bộ, và miền này là lớn - toàn thể phổ. Con người là cầu vồng - đủ mọi mầu
sắc. Con người không bị xác định bởi số mệnh. Do đó chúng ta đã tạo ra thế giới
này từ tự do của chúng ta. Trách nhiệm là của chúng ta. Nếu bạn muốn trở thành
Phật, bạn có thể trở thành Phật. Không ai có thể ép buộc bạn trở thành một
Thành Cát Tư Hãn. Chọn lựa là của bạn. Thượng đế không lôi bạn đi bất kì chỗ
nào. Ngài đã cho bạn chiếc áo choàng đủ rộng... bạn có thể đi lạc lối, bạn có
thể quay về. Vì khả năng này của việc đi lạc lối, thế giới này tồn tại. Thế giới
này có thể được thay đổi, có thể được thay đổi hoàn toàn. Một khi chúng ta thay
đổi ý thức của chúng ta, thế giới này có thể trở thành chuyện khác toàn bộ.
Bạn hỏi, "Tại
sao Thượng đế đã tạo ra thế giới này?" cho nên điều đầu tiên: Ngài đã
không tạo ra thế giới này, Ngài đã tạo ra bạn. Ngài đã tạo ra tự do của con người
- và người ta phải cảm thấy biết ơn rằng Ngài đã làm cho bạn là tự do. Bằng
không, nếu bạn bị ép buộc trở thành một Jesus, thế thì là một Jesus là có tính
máy móc, vô nghĩa; không có ý nghĩa, không có thơ ca trong việc đó. Vì bạn có
thể bỏ lỡ mục tiêu...
Từ 'sin-tội' của người
Ki tô giáo là rất có ý nghĩa. Nguyên gốc của nó ngụ ý: bỏ lỡ mục tiêu. Nguyên gốc
cho từ 'sin' bắt nguồn từ 'bỏ lỡ mục tiêu'. Bạn có thể bỏ lỡ; điều đó là tuỳ ở
bạn. Tội là bỏ lỡ mục tiêu, đó là việc đi lạc lối. Và Thượng đế sẽ không ngăn cản
bạn: Yêu của Ngài là vô hạn tới mức Ngài sẽ yêu bạn cho dù bạn đã đi lạc lối.
Ngài yêu các tội nhân nhiều như các thánh nhân. Và nếu bạn nghe theo Jesus,
Jesus nói Ngài yêu các tội nhân thậm chí còn nhiều hơn, vì họ cần nhiều yêu
hơn.
Bạn đã không quan sát
điều đó sao? Nếu đứa trẻ ốm, người mẹ chăm sóc đứa trẻ ốm nhiều hơn đứa trẻ khoẻ
- một cách tự nhiên là vậy. Điều đó được biện minh. Đứa khoẻ là khoẻ, cho nên
không có nhu cầu cho người mẹ phải quá cẩn thận. Nhưng đứa ốm là ốm: người mẹ
ngồi bên cạnh giường, xoa bóp cho đứa con, chăm nom nhiều hơn. Jesus nói Thượng
đế chăm nom nhiều hơn cho tội nhân, những người đã bỏ lỡ mục tiêu. Ngài liên tục
trút lòng nhân từ lên họ.
Thế giới này là việc
đi lạc lối của chúng ta, tội của chúng ta. Nó chẳng liên quan gì tới Thượng đế.
Điều thứ hai: "Tại
sao Thượng đế tạo ra thế giới này?" Điều thứ hai là ở chỗ trong thế giới của
Ki tô giáo, của Do Thái giáo, của Mô ha mét giáo, một quan niệm rất sai tồn tại
về Thượng đế, dường như Ngài là tách rời khỏi sáng tạo của Ngài; dường như một
ngày nào đó Ngài tạo ra thế giới và thế rồi quên sạch về điều đó; dường như Thượng
đế là hoạ sĩ - bức tranh được hoàn thành và bức tranh trở thành tách rời khỏi
hoạ sĩ. Không, phương Đông biết rõ hơn nhiều. Phương Đông nói: Thượng đế không
tách rời khỏi sáng tạo của Ngài. Đấng sáng tạo không tách rời khỏi sáng tạo của
Ngài. Ngài được tham gia vào trong nó, Ngài ở trong nó, Ngài là nó. Đấng sáng tạo
là việc sáng tạo. Đó là lí do tại sao tôi nhấn mạnh đi nhấn mạng lại: đừng gọi
Thượng đế là "đấng sáng tạo", gọi ngài là "tính sáng tạo".
Thượng đế là tính sáng tạo năng động. Đấng sáng tạo là quan niệm chết - dường
như một ngày nào đó Ngài được kết thúc. Đó là điều người Ki tô giáo liên tục
nghĩ: trong sáu ngày Ngài đã sáng tạo ra thế giới và ngày thứ bẩy Ngài nghỉ
ngơi. Trong sáu ngày, được kết thúc sao? Thế thì Ngài đã từng làm gì kể từ đó?
Ngài phải rất mệt mỏi, chẳng làm bất kì cái gì. Ngài phải phát chán. Ngài phải
chán lắm: nên nhân từ với Ngài.
Ngài vẫn chưa bị kết
thúc. Việc sáng tạo không bao giờ bị kết thúc; nó là quá trình tiếp diễn mãi.
Việc sáng tạo không bao giờ được hoàn thành, và Thượng đế tiếp diễn mãi mãi.
Ngài không bị kết thúc với nó. Nếu Ngài mà bị kết thúc với nó, thế thì điều đó
sẽ là chỗ kết thúc. Ngài vẫn còn được tham gia vào, Ngài vẫn còn trong yêu.
Ngài vẫn còn đang vẽ, Ngài vẫn đang điêu khắc... Ngài vẫn hi vọng.
Rabindranath đã nói,
"Bất kì khi nào tôi thấy một em bé mới sinh, tôi nhìn lên trời và nói: Thượng
đế vẫn hi vọng." Em bé mới sinh là niềm hi vọng. Tất nhiên, Ngài đã thất bại
với thế hệ già, cho nên Ngài tạo ra thế hệ mới. Ngài nói, "Chúng ta hãy
xem; có thể lần này ta sẽ thành công." Lạc quan của Ngài là vô hạn, Ngài
giống như nhà thơ liên tục soạn những bài thơ mới mọi ngày. Mọi ngày ngài đều cảm
thấy được thoả mãn một chút và không được thoả mãn một chút - được thoả mãn vì
cái gì đó đã xảy ra trong thơ ca, cái gì đó đã được bắt lấy, tia sáng; nhưng
cái gì đó vẫn còn thiếu. Sáng mai, lại việc thử khác.
Rabindranath đã viết
sáu nghìn bài thơ, và khi ông ấy sắp chết một người bạn cũ nói với ông ấy,
"Ông có thể chết một cách an bình và trong mãn nguyện sâu sắc,vì ông là
nhà thơ vĩ đại nhất."
Rabindranath mở mắt
ra và nói, "Thôi cái vô nghĩa này đi! Ngay bây giờ tôi đang nói với Thượng
đế: Ngài đang làm gì vậy? Tôi đã từng cố gắng và cố gắng, và tôi vẫn chưa thành
công! Nhiều thứ đã xảy ra, nhưng tôi không được thoả mãn. Và chỉ bây giờ tôi
đang tới mỗi lúc một gần hơn, và đây là lúc đem tôi đi sao? Tôi chỉ mới tới mỗi
lúc một gần hơn, và tôi cảm thấy rằng nó có đó chỉ ở ngay góc kia thôi - thơ ca
mà tôi đang từng cố gắng. Sáu nghìn bài thơ của tôi là sáu nghìn thất bại... có
thể là bài thơ thứ sáu nghìn linh một sao? Và đây là lúc đem tôi đi sao? Ngài
đang làm gì vậy? Cả đời tôi, tôi đã từng cố gắng và cố gắng, và giờ tôi cảm thấy
cao trào đã tới và tôi đã đi tới đỉnh, và đây là khoảnh khắc ngài rút tôi ra
sao?"
Thượng đế vẫn chưa được
kết thúc: Thượng đế vẫn hi vọng. Do đó, chúng ta cũng có thể hi vọng. Trong hi
vọng của Ngài là hi vọng của chúng ta nữa. Ngài đã không hoàn toàn thất bại.
Ngài vẫn tin cậy bạn, Ngài vẫn liên tục sáng tạo. Cho nên quan niệm này về đấng
sáng tạo chết ở đâu đó trong quá khứ...
Thượng đế học Ki tô
giáo là ngu xuẩn tới mức họ thậm chí đã quyết định ngày tháng, năm: bốn nghìn
linh bốn năm trước Jesus Christ, Ngài đã sáng tạo ra thế giới - vào ngày thứ
hai nào đó tất nhiên. Sớm, và sáu giờ sáng, khi bạn bắt đầu Thiền Động, Ngài bắt
đầu toàn thể sự năng động này. Vào sáng sớm, sáu giờ sáng - ngài phải đã đặt đồng
hồ báo thức. Điều đó toàn là ngu xuẩn.
Việc sáng tạo là vô
thời gian: nó bao giờ cũng ở đó, nó bao giờ cũng có đó - vì Thượng đế là việc
sáng tạo, Thượng đế là tính sáng tạo. Cho nên tôi không bao giờ gọi Thượng đế
là hoạ sĩ, tôi gọi Ngài là vũ công.
Khi bức tranh được kết
thúc, hoạ sĩ là tách rời và bức tranh là tách rời. Trong điệu vũ, điều đó là
khác toàn bộ. Múa là hiện tượng tâm linh nhất, vì vũ công và điệu vũ là một. Bạn
không thể tách rời chúng, nhị nguyên không tồn tại. Có tính một vô cùng: vũ
công là điệu vũ, điệu vũ là vũ công. Nếu bạn lấy ra điệu vũ, vũ công không còn
là vũ công. Nếu vũ công dừng lại, điệu vũ dừng lại - chúng không là hai. Thượng
đế được tham gia vào trong thế giới của Ngài như vũ công được tham gia vào
trong điệu vũ của người đó. Do đó tôi bảo bạn tôn kính thế giới, đừng bao giờ kết
án nó; Thượng đế được tham gia trong nó, Thượng đế hiện diện ở mọi nơi.
Đó là điều Kabir liên
tục nói: Cảm thấy kính kể, tôn kính, kì diệu đi, vì Ngài vẫn đang làm việc ở mọi
nơi. Bạn có thể bắt gặp Ngài, vẫn đang vẽ, vẫn đang làm điêu khắc, vẫn đang
múa. Điều đó không phải là cái gì đó đôi khi xảy ra trong quá khứ. Nó đang xảy
ra ngay khoảnh khắc này: Ngài đang nói qua tôi, Ngài đang nghe qua bạn. Việc
sáng tạo vẫn đang diễn ra. Nó không bao giờ đi tới kết thúc, nó là cuộc hành
trình vô tận.
Thực ra, sự tồn tại
không có mục đích. Nó là cuộc hành trình thuần khiết. Cuộc hành trình trong bản
thân nó là đẹp thế: ai bận tâm về mục đích?
Thánh Teresa đã nói,
"Cõi trời bao giờ cũng là con đường tới cõi trời. Ngài đã chẳng nói: Ta là
Con đường đó sao?" Một khẳng định hay thế, có ý nghĩa mênh mông: "Cõi
trời bao giờ cũng là con đường tới cõi trời" - đừng chờ đợi cõi trời nào
đó như mục đích - "cõi trời là mọi con đường tới cõi trời. Ngài đã chẳng
nói: Ta là con đường đó sao?" Thượng đế là Con đường, không là mục đích.
Thượng đế là ở đây, không ở kia. Thượng đế là bây giờ, không khi khác. Thượng đế
là trong bạn, trong tôi, khắp xung quanh. Duy nhất Thượng đế hiện hữu.
Cho nên bạn không thể
hỏi câu hỏi này: "Tại sao Thượng đế đã tạo ra thế giới này?" Ngài
không bao giờ tạo ra nó, Ngài vẫn đang sáng tạo, và nếu bạn thực sự muốn biết tại
sao, đi tới các nghệ sĩ đi. Đừng đi tới các nhà thượng đế học và đừng đi tới
các triết gia và đừng đi tới các bác học: đi tới các nghệ sĩ. Đi tới một Van
Gogh khi ông ấy đang vẽ và hỏi ông ấy tại sao ông ấy vẽ. Đi tới vũ công, cầm
tay người đó và hỏi người đó, "Tại sao bạn múa?" Đi tới ca sĩ và hỏi
người đó, "Tại sao bạn hát?" Và bạn sẽ biết câu trả lời.
Hoạ sĩ sẽ nhún vai.
Người đó sẽ nói, "Tôi có thể làm cái gì khác đây? Tôi yêu vẽ. Tại sao? Chẳng
có tại sao. Tôi yêu vẽ. Đó là cách tôi đang vậy. Đó là cách tôi cảm thấy hạnh
phúc nhất để hiện hữu. Đây là cách duy nhất tôi cảm thấy cực kì được phúc lành,
đó là lí do tại sao. Không có tại sao khác." Hỏi vũ công, "Tại sao bạn
múa?" và người đó sẽ nói, "Người ta có thể làm cái gì khác đây? Cuộc
sống là để nhảy múa." Hay hỏi một người đang yêu tại sao người đó yêu. Bạn
đã bao giờ yêu ai đó chưa? Và nếu ai đó tới và hỏi bạn tại sao, bạn sẽ nói gì?
Bạn sẽ thực sự có bất kì câu trả lời nào cho tại sao bạn yêu không? Bạn sẽ nói,
"Tại sao à? Không có câu hỏi nào về nó. Đó là cách tôi cảm thấy điều tốt
nhất của tôi, ở chính đỉnh của tôi. Đó là cách tôi cảm thấy đang nở hoa. Đó là
cách phúc lạc xảy ra cho tôi."
Bây giờ, không có câu
hỏi nào về phúc lạc. Nếu bạn hạnh phúc, bạn hạnh phúc; không ai hỏi bạn tại sao
bạn hạnh phúc.
Vâng, nếu bạn khổ,
câu hỏi là có liên quan. Nếu bạn khổ, ai đó có thể hỏi tại sao bạn khổ, và câu
hỏi này là có liên quan - vì khổ là chống lại tự nhiên, cái gì đó sai đang xảy
ra. Khi bạn hạnh phúc, không ai hỏi bạn tại sao bạn hạnh phúc, ngoại trừ vài kẻ
thần kinh. Có những người như thế; tôi không thể phủ nhận khả năng này.
Tôi đã nghe nói về một
bệnh nhân. Nhà tâm thần phát chán với anh ta. Tất nhiên, ông ta kiếm đủ tiền từ
anh ta, nhưng dần dần, ông ta phát ngán - ba, bốn, năm năm làm phân tâm, và người
này cứ lặp đi lặp lại mãi cùng một điều. Nhà tâm thần nói, "Anh làm một điều
này: anh đi lên núi trong vài ngày đi. Điều đó sẽ rất giúp đỡ." Thế là bệnh
nhân đi lên núi, và bạn có biết cái gì không? Ngày hôm sau một bức điện tín gửi
tới cho nhà tâm thần. Bệnh nhân nói trong bức điện tín: "Tôi cảm thấy rất
hạnh phúc. Tại sao vậy?"
Cảm thấy rất hạnh
phúc: tại sao vậy? - lời giải thích được cần. Không, hạnh phúc không cần lời giải
thích. Hạnh phúc là việc giải thích riêng của nó. Thượng đế đang sáng tạo vì đó
là cách duy nhất Ngài có thể hạnh phúc, đó là cách duy nhất Ngài yêu, đó là
cách duy nhất Ngài hát, đó là cách duy nhất Ngài có thể hiện hữu chút nào. Sáng
tạo là bản chất bên trong nhất của Ngài. Không tại sao nào được cần.
Câu hỏi thứ ba:
Khác biệt gì giữa tu viện và đạo tràng?
Nhiều khác biệt, khác
biệt lớn. Khác biệt này là nhiều như giữa phương Tây và phương Đông. Khác biệt
này là nhiều như giữa ý chí và buông xuôi.
Tu viện là quan niệm
phương Tây. Bạn phải đừng bao giờ dịch 'đạo tràng' là 'tu viện'. Điều đó phá hỏng
từ 'đạo tràng', phá huỷ toàn thể nghĩa của nó. Tu viện là trên con đường của ý
chí: người ta đang cố gắng vất vả để biết chân lí, vật lộn vất vả để tìm ra Thượng
đế. Tu viện là rất nỗ lực phấn đấu, căng thẳng.
Chính từ 'ashram-đạo
tràng' ngụ ý nghỉ ngơi, thảnh thơi. Chính từ 'đạo tràng' ngụ ý được thảnh thơi
vô cùng. Đạo tràng là chỗ mà bạn đi tới thảnh thơi, tu viện là chỗ mà bạn đi
tìm, đi kiếm. Tu viện là năng nổ, nam tính; đạo tràng là nữ tính, thụ động. Đạo
tràng là vô nỗ lực. Tu viện không là gì ngoài nỗ lực. Trong tu viện bạn làm việc
để đạt tới Thượng đế, và trong đạo tràng bạn chơi đùa: đó là khác biệt. Đạo
tràng là vui đùa; tu viện là rất nghiêm chỉnh.
Từ 'monastery-tu viện'
bắt nguồn từ từ 'monk-sư'. Sư là người rất nghiêm chỉnh; ông ta đã từ bỏ thế giới,
từ bỏ vợ, từ bỏ con, từ bỏ cái này và cái nọ. Sư là rất khô khan, do đó mọi tu
viện cổ phương Tây đã tồn tại trong sa mạc. Những tu viện lớn đã tồn tại trong
sa mạc, khô cằn - khô bên trong, khô bên ngoài, không thư thái, không bóng cây,
không mầu xanh, không hoa nở; chỉ nỗ lực và nỗ lực và nỗ lực; không ốc đảo của
thư thái. Và sư ngụ ý người đã quyết định sống đơn độc.
Từ 'monk-sư' ngụ ý
tính đơn độc, người đã quyết định sống theo cách riêng của mình. Đó là lí do tại
sao từ cùng một gốc này đưa tới 'monopoly-độc quyền', 'monogamy-một vợ một chồng',
'monotony-đơn điệu' - cùng một gốc: một, một mình. Tu viện là chỗ mà nhiều người
sống trong sự đơn độc của họ, nhưng họ không sống cùng nhau. Tính cùng nhau
không có đó. Tu viện không phải là cộng đồng. Những người ở đó, nhiều người có
thể sống ở đó, nhưng từng người đang sống một mình. Cùng nhau, họ là đơn độc.
Nó không phải là cộng đồng. Từng người đang tìm kiếm Thượng đế; nỗ lực lớn phải
được làm: người ta phải có tính khổ hạnh, người ta phải liên tục quất mạnh vào
thân thể người ta, người ta phải hành hạ, người ta phải nhịn ăn, người ta phải
phá huỷ mọi gắn bó với thế giới. Làm sao bạn có thể thảnh thơi được? Thế giới
là tội lỗi và bạn được sinh ra trong tội lỗi - làm sao bạn có thể thảnh thơi,
làm sao bạn có thể thư thái, làm sao bạn có thể mở hội?
Bạn sẽ ngạc nhiên: từ
'celebration-mở hội' bắt nguồn từ một gốc celere, và 'celere' ngụ ý nhịn ăn.
Trong các tu viện cổ phương Tây, khi các sư nhịn ăn, điều đó được gọi là mở hội.
Bây giờ, bữa tiệc có thể là việc mở hội, nhưng làm sao việc nhịn ăn có thể là mở
hội? Nhưng đó là cách nhịn ăn bị áp đặt - như mở hội. Hành hạ, tự hành hạ, đã
được coi là là lời cầu nguyện. Thế giới được coi là chống lại Thượng đế, cho
nên bạn phải rời bỏ thế giới nếu bạn muốn đạt tới Thượng đế.
Đạo tràng có cảnh
quan khác toàn bộ. Đạo tràng ngụ ý cộng đồng, giao cảm của mọi người, của các hồn
giống nhau. Bạn sẽ ngạc nhiên: đạo tràng Hindu hiện đại không thực sự có tính
phương Đông, nhớ lấy. Đạo tràng Hindu hiện đại bị ảnh hưởng bởi tu viện Ki tô
giáo tới mức nó không có tính Hindu chút nào. Nếu bạn thực sự muốn có thoáng
nhìn về đạo tràng Hindu, bạn sẽ phải đi về những ngày của Vedas. Thầy có đó,
nhưng Thầy không là sư. Thầy là người có gia đình: thầy có vợ, thầy có con, đạo
tràng là gia đình của thầy. Đó là lí do tại sao đạo tràng đã được gọi là gurukul.
'Gurukul' ngụ ý: gia đình của Thầy. Thầy có con, thầy có vợ, thầy sống cuộc sống
thảnh thơi - sâu trong rừng, sâu trong tự nhiên - cách sống tự phát, không vội
vàng; không tìm, nhưng chờ đợi; không để Thượng đế chống lại thế giới, nhưng tận
hưởng thế giới vì Thượng đế là trong nó. Và đệ tử sống cùng thầy là gia đình của
thầy, gurukula. Nó không phải là thể chế, nó là gia đình. Họ là con của thầy,
con riêng của thầy. Họ có thể già hơn thầy; điều đó không là vấn đề - nhưng họ
đã là con của thầy.
Cộng đồng này sống
theo cách rất thảnh thơi, rất sâu - múa, hát, mở tiệc, mở hội, tận hưởng tự
nhiên: sao, trăng, mặt trời, buổi sáng, buổi tối, ngày, đêm, và lắng nghe tiếng
của Thượng đế trong tự nhiên. Do đó, Thầy đã đi vào rừng. Điều đó không chống lại
thế giới, nhớ lấy. Khi sư Ki tô giáo đi ra khỏi thế giới, ông ta chống lại thế
giới. Khi hiền nhân phương Đông đi vào rừng, ông ấy đi vì ông ấy đã ủng hộ tất
cả cho thế giới, và ở bãi chợ thế giới đã bị là biến chất và bị phá huỷ nhiều
thế. Biết phân biệt này đi: nó là vô cùng.
Hiền nhân phương Đông
thường đi vào trong tự nhiên vì ở đó, Thượng đế hiện diện nhiều hơn. Con người
còn chưa can thiệp. Khó tìm ra Thượng đế trên đường rải nhựa, dù bạn nhìn chăm
chú thế nào. Bạn thậm chí sẽ không thấy một thoáng nhìn. Khó tìm ra Thượng đế
trong cơ xưởng - khó, rất khó - vì ồn ào của con người là quá nhiều. Máy móc,
công nghệ là quá nhiều; tự nhiên đã đi xa rồi.
Tôi đã nghe...
Có một cuộc điều tra ở
London, và một triệu đứa trẻ thuật lại rằng chúng chưa bao giờ nhìn thấy con bò.
Bây giờ điều này là
quá thể: một triệu trẻ em chưa bao giờ thấy con bò sao? Làm sao chúng bao giờ
có khả năng hiểu Thượng đế là gì nếu chúng chưa bao giờ nhìn vào trong mắt bò?
Thượng đế là trong như pha lê trong mắt bò hơn trong mắt của giáo hoàng hay của
shankaracharya. Một triệu đứa trẻ đã không nhìn thấy con bò sao? Bây giờ một
triệu đứa trẻ này sẽ khổ vô cùng. Có hàng nghìn và hàng nghìn người chưa bao giờ
thấy Himalayas, những đỉnh núi tuyết phủ, tuyết vĩnh hằng - trinh nguyên, không
bao giờ có người bước lên. Ở đó, Thượng đế vẫn hiện diện nhiều hơn, đập rộn
ràng nhiều hơn, sống động; con người còn chưa phá huỷ.
Hiền nhân phương Đông
đi vào rừng, không phải vì họ chống lại thế giới nhưng vì họ muốn thực sự biết
thế giới mà Thượng đế đã sáng tạo ra, không bị con người can thiệp vào. Khi người
Ki tô giáo đi vào tu viện họ đi chống lại thế giới, vì thế giới là chỗ của tội
lỗi. Họ cả hai đều đi, nhưng cả hai đi vì những lí do khác nhau, đối lập đối xứng.
Và từ phương Đông 'đạo tràng' là hay: nó ngụ ý thư thái nghỉ ngơi. Bạn đã sống
trong thế giới, bạn đã biết thế giới; bây giờ để nghỉ ngơi bạn đi vào đạo
tràng. Bạn đã thấy thế giới - cái xấu của nó, cái vô tích sự của nó, cái vô dụng
của nó, cái vô nghĩa của nó - bây giờ bạn muốn thư thái nghỉ ngơi. Bây giờ bạn
đi sâu vào trong rừng, bạn ngồi dưới bóng cây, bạn lắng nghe tiếng rì rào của
suối và tiếng hót của chim, và bạn thấy những tia sáng mặt trời chơi đùa trên
ngọn cây buổi sáng, và bạn quan sát những ngôi sao im lặng. Bạn thảnh thơi. Dần
dần, bạn thảnh thơi trong tự nhiên của bạn với sự giúp đỡ của tự nhiên bên
ngoài bạn. Điều đó trở thành việc hài hoà - tự nhiên bên trong và tự nhiên bên
ngoài. Bạn bắt đầu chơi đùa với tự nhiên bên ngoài. Nó không phải là tìm kiếm;
đạo tràng Hindu không tìm kiếm. Nó là chỗ nghỉ ngơi thư thái.
Tìm, và bạn sẽ không
bao giờ thấy - vì chính việc tìm làm cho bạn căng thẳng. Phương Đông nói: Đừng
tìm, và Ngài sẽ tìm thấy ông. Tìm và ông sẽ không bao giờ thấy, tìm và ông sẽ
tìm trong vô vọng. Người được ân huệ là người có thể thư thái nghỉ ngơi trong lời
cầu nguyện, người có thể nghỉ ngơi và tin cậy, và người có thể nói, "Được
rồi, bất kì khi nào ngài cảm thấy thích tới, tới đi. Tôi không vội vàng."
Phương Đông không vội vàng, phương Đông không có ý thức thời gian. Nó nói,
"Được rồi, nếu trong kiếp này, tốt; và nếu mình quyết định tới kiếp sau, tốt.
Mình sẽ thấy mình vẫn ở đây. Không có vội vàng."
Phương Tây vội vàng
quá nhiều. Ở phương Tây quan niệm về một kiếp sống đã tạo ra cái nút căng thẳng
thế trong tâm trí con người. Chỉ một kiếp sống sao? - bẩy mươi năm thôi sao? -
ba lần hai mươi và mười năm, và bị kết thúc sao? Và trong bẩy mươi năm này, hai
mươi nhăm năm bị mất cho giáo dục, trong gần hai mươi nhăm năm bạn sẽ ngủ, và
cho phần còn lại, cạo râu và đi tới văn phòng, trở về từ văn phòng... và giao
thông và xung đột và trẻ con và toà án và li dị - mọi điều này. Cái gì còn lại?
Nếu bạn đếm mọi thứ, bạn sẽ đơn giản ngạc nhiên: thậm chí không có bẩy phút được
dành cho Thượng đế. Vội vàng lớn nảy sinh: đi nhanh lên! Làm cái gì đó! Bằng
không, làm sao bạn sẽ tìm ra Thượng đế?
Thượng đế không là
cái gì đó để được tìm ra. Nó là cái gì đó bạn thảnh thơi trong đó, nó là không
gian bên trong. Khi bạn không hiện hữu, nó có đó. Và khi bạn không hiện hữu, bạn
không hiện hữu chỉ khi bạn không là người tìm kiếm. Người tìm kiếm giữ bạn như
một bản ngã. Ai đang đi tìm?
Đạo tràng là quan niệm
khác toàn bộ: bạn thảnh thơi, bạn chỉ hiện hữu. Bạn làm những thứ nhỏ bé. Bạn cảm
thấy đói - bạn ăn. Bạn cảm thấy mệt - bạn đi ngủ, không vội vàng gì, không lo
nghĩ gì. Bạn chỉ cho phép Thượng đế tới theo cách riêng của Ngài, vào thời gian
riêng của Ngài. Đây là quan niệm về đạo tràng.
Nếu bạn thực sự muốn
biết đạo tràng thực, đạo tràng của tôi là đạo tràng duy nhất - vì mọi đạo tràng
khác bị làm biến chất tuyệt đối bởi người Ki tô giáo; họ nghĩ họ là người Hindu
nhưng họ không là vậy. Vì có hấp dẫn nào đó trong cách biện luận của người Ki
tô giáo, điều đó lôi cuốn. Đầu tiên, chính ý tưởng về ý chí hấp dẫn bạn: bạn phải
làm việc vất vả. Người Ki tô giáo đã cho thế giới về đạo đức công việc. Làm việc
đi! Chơi đùa sao? Quên về chơi đùa đi. Chơi đùa dành cho trẻ con. Bạn làm việc,
bạn là người lớn, bạn làm việc vất vả, bạn làm việc cho cả đời bạn, và thế rồi
đến cuối - như củ cà rốt lủng lẳng - bạn sẽ có phần thưởng. Ở chỗ cuối! Và chỗ
cuối đó không bao giờ tới. Bạn làm việc và làm việc và làm việc và bạn chết khi
làm việc. Một ngày nào đó bạn rơi vào nấm mồ của bạn.
Ở phương Đông chúng
ta không có đạo đức làm việc đó. Chúng ta nói: Thảnh thơi, tận hưởng, chơi đùa,
làm trò hề xung quanh, trò vui, không nghiêm chỉnh. Và mục đích không phải là mục
đích, và mục đích không phải là kết quả; nó là trong bản thân quá trình. Để tôi
nhắc lại: "Cõi trời là mọi đường tới cõi trời. Ngài đã không nói: Ta là
Con đường?" Thái độ thảnh thơi này dần dần giúp bạn biến mất, biến mất
hoàn toàn. Và khi bạn không hiện hữu, đột nhiên một ngày nào đó bạn thấy Thượng
đế có đó. Và bạn thấy... bạn bị sững sờ rằng Ngài bao giờ cũng có đó. Nếu bạn
mà không tìm Ngài, bạn chắc đã biết Ngài vào bất kì lúc nào. Chính việc tìm kiếm
của bạn đã là cản trở - vì cái được tìm đã ẩn trong người tìm, Và bạn đã chạy
xô đi đây đó.
Tu viện là của phương
Tây; tu viện là luận cứ của phương Tây. Đạo tràng là của phương Đông, luận cứ của
phương Đông. Và tôi nói với bạn rằng mọi đạo tràng khác ở Ấn Độ đã trở thành có
tính Ki tô giáo, vì tu viện Ki tô giáo hấp dẫn rất mạnh. Thế giới hiện đại được
tạo ra bởi phương Tây; phương Đông không còn là phương Đông.
Ý chí giúp bạn cảm thấy
bản ngã nhiều hơn. Mọi người đều muốn cảm thấy rằng mình là ai đó, và bạn có thể
cảm thấy rằng bạn là ai đó chỉ nếu bạn làm cái gì đó. Chỉ để lừa xung quanh, bạn
không thể cảm thấy giống ai đó. Chỉ để có vui đùa, bạn không thể cảm thấy giống
ai đó. Bạn phải làm cái gì đó để chứng tỏ rằng bạn là ai đó. Và thế rồi đạo đức
Ki tô giáo nói: Tôn giáo là phục vụ, cho nên đi và phục vụ mọi người đi.
Thái độ phương Đông
là: Tôn giáo không là phục vụ. Phục vụ có thể tới như sản phẩm phụ nhưng nó
không đồng nghĩa với tôn giáo. Tôn giáo là thiền, lời cầu nguyện, thảnh thơi.
Tôn giáo là đi vào trong bản thân bạn. Nếu bạn đã đạt tới sâu trong con người
riêng của bạn, có thể - và điều đó là có thể, có lẽ - bạn có thể bắt đầu phục vụ
mọi người. Nhưng phục vụ sẽ không là nghĩa vụ, nó sẽ chỉ là việc chia sẻ. Và
phương Đông nói: Điều đó chỉ là "có lẽ", vì nó có thể không xảy ra
cho mọi người theo cùng cách. Từng người là duy nhất thế. Khi nó xảy ra cho
Meera, cô ấy bắt đầu nhảy múa; cô ấy quên đi mọi thứ về phục vụ. Tất nhiên, có
những người nghèo, và nếu phục vụ người nghèo chắc đã có nhiều tính kinh tế
hơn, nhưng cô ấy đơn giản bắt đầu nhảy múa và hát. Và tôi nói cô ấy đã làm tốt.
Nếu như cô ấy mà phục vụ người hủi hay người nghèo, hay nếu cô ấy mở trường học
và đã làm ra bệnh viện, điều đó chắc đã là mất mát lớn - vì bài ca của cô ấy là
hay vô cùng thế. Điệu vũ của cô ấy đã làm thay đổi phẩm chất của sự tồn tại con
người: cô ấy đã đập rộn ràng giai điệu mới. Không, điều đó chắc đã không là tốt.
Điều tốt là cô ấy đã cho phép việc diễn đạt riêng của cô ấy. Đã từng có những
người không bao giờ đi bất kì chỗ nào khi họ trở nên chứng ngộ; họ vẫn còn ở dưới
cây. Đó là cách nó đã xảy ra cho họ.
Ở phương Đông chúng
ta chấp nhận tính duy nhất của cá nhân. Chúng ta không ép buộc bất kì đạo đức
nào lên trên đỉnh của cá nhân. Chúng ta đơn giản nói: Khi bạn đã về tới nhà, thế
thì bất kì cái gì xảy ra đều là tốt. Thế thì bất kì cái gì Thượng đế định làm
qua bạn, để nó là vậy đi. Amen. Bạn không can thiệp. Nếu Ngài muốn là im lặng
trong bạn dưới cây bồ đề, thế thì để Ngài là im lặng đi. Qua im lặng Ngài sẽ tạo
ra rung động, điều sẽ làm thay đổi hết thế kỉ nọ tới thế kỉ tiếp. Trong hàng
nghìn năm những rung động này sẽ giúp mọi người đạt tới trạng thái tâm thức cao
hơn, trạng thái tâm thức được thay đổi. Cho nên đừng bận tâm và đừng can thiệp.
Nếu Ngài muốn vẫn còn yên tĩnh và im lặng, để Ngài là vậy đi. Nếu Ngài muốn nhảy
múa trong bạn, để Ngài là vậy đi. Nếu Ngài muốn đi và phục vụ người nghèo, để
Ngài là vậy đi. Nếu Ngài muốn trở thành một Meera, tốt; nếu Ngài muốn trở thành
một Chaitanya, tốt; nếu Ngài muốn trở thành một Phật, tốt. Bất kì cái gì Ngài định
làm, để ý định của Ngài được thực hiện.
Nhưng luận cứ Ki tô
giáo là quan trọng: Thế giới nghèo nàn, mọi người đang khổ, và ông đang thiền
sao? Đi và phục vụ mọi người đi! Điều đó là logic, điều đó hấp dẫn lí trí. Đạo
tràng đã biến mất.
Tôi đang cố tạo ra một
tâm xã mới - mới theo nghĩa rằng nó không còn tồn tại; bằng không nó là tâm xã
cổ đại nhất. Có thời nó đã tồn tại, bây giờ chỉ kí ức còn lại - thậm chí không
phải là kí ức. Nó đã biến mất, phai mờ đi: tâm xã nơi mọi người đơn giản thảnh
thơi và làm việc của họ, chuyển qua việc cảm của họ, không qua lí trí; vận hành
qua tim không qua đầu của họ... và coi nó là dễ.
Vâng, chính từ 'đạo
tràng' ngụ ý: coi nó là dễ.
Câu hỏi thứ tư:
Thầy là loại người ranh ma láu lỉnh! Tôi có bao giờ học được
cách thức của thầy không?
Không có khả năng nào
đâu, thưa bạn - vì tôi không có gì. Tôi là Cách thức. Nếu bạn nhìn qua tôi, thấu
suốt, chỉ thế thì bạn sẽ thấy. Nếu bạn nghe lời tôi - và đó là điều bạn đang
làm; người hỏi không phải là sannyasin - nếu bạn chỉ đứng bên ngoài tôi...
Trở thành sannyasin
nghĩa là đứng bên trong tôi, trở thành một phần của gia đình của tôi, thuộc về
tôi. Tôi là Cách thức. Tôi không thuyết giảng cách thức nào đó cho bạn, tôi đơn
giản thuyết giảng bản thân tôi. Tôi không cho bạn, không trao cho bạn, kĩ thuật
nào đó, phương pháp nào đó, cách thức nào đó. Và nếu bạn đang cố hình dung ra
nó, bạn sẽ trở nên ngày càng bị rối trí hơn. Tôi có thể đưa bạn tới phát rồ. Hoặc
là sannyasin, hoặc trốn đi.
Nếu bạn là sannyasin,
thế thì tính điên của bạn có phương pháp cho nó. Nếu bạn không là sannyasin, thế
thì bạn sẽ trở nên ngày càng bị rối hơn. Bạn sẽ trở nên điên với phương pháp.
Và khi bạn đã trở nên quá rối trí, nếu bạn trốn khỏi đây, điều đó sẽ không giúp
gì. Tôi sẽ liên tục ám ảnh bạn.
Bạn nói, "Tôi có
bao giờ học được cách thức của thầy không?" Không có khả năng nào đâu,
thưa bạn. Điều đó là không thể được, vì không có cách nào tôi đang thuyết giảng
ở đây. Thực ra, tôi đang phá huỷ mọi cách thức. Tôi đang cố lấy đi mọi cách thức
khỏi bạn. Ở đây, toàn thể nỗ lực của tôi là để tạo ra hỗn loạn trong bạn, hỗn độn
- vì cách thức của bạn là cản trở cho Thượng đế. Khi bạn ở trong trạng thái hỗn
loạn - không biết bạn là ai, không biết bạn đang đi đâu, không biết cái gì là
cái gì - trong hỗn độn đẹp đó, tự do tồn tại. Trong tự do đó duy nhất Thượng đế
là có thể. Tôi đang cố tạo ra một không gian ở đây, không phải là cách thức.
Tôi không làm đường siêu xa lộ để cho mọi người có thể đi theo nó. Tôi đang ném
bạn vào trong nơi hoang dã nơi không bản đồ nào tồn tại, và tôi không cho bạn bất
kì hướng dẫn nào. Ở đây tôi không dạy bạn học thuyết nào đó - không, không chút
nào. Tôi đang cố lấy đi mọi học thuyết mà bạn đã biết. Ở đây, tôi đang cố giúp
bạn dỡ bỏ, dỡ bỏ các cách thức để cho Cách thức có thể tồn tại. Và Cách thức
này không không phải là một trong những cách thức. Cách thức chẳng liên quan gì
tới chọn lựa của bạn, hay với tâm trí của bạn, hay với lí trí của bạn, hay với
logic của bạn. Khi bạn hoàn toàn lúng túng, Cách thức tồn tại, Thượng đế tồn tại.
Ở đây, vấn đề không
phải là bất kì thượng đế học nào, vấn đề là yêu. Và nếu bạn đứng bên ngoài chỉ
như khán giả, và người quan sát, bạn sẽ thu được cái gì đó, nhưng cái đó sẽ
không là thứ thực - và bạn sẽ có được nó theo cách rất manh mún, và bạn sẽ có
được nó tương ứng với bạn. Và bạn không thể có được tôi tương ứng với bạn, nhớ
lấy: làm điều đó thành vấn đề đi. Bạn có thể có được tôi chỉ tương ứng với tôi,
không tương ứng với bạn. Đó là nghĩa của việc trở thành sannyasin: rằng bạn
nói, "Thôi được, bây giờ chúng tôi sẽ nhận thầy như thầy vậy, tương ứng
theo thầy." Nếu bạn nhận tôi tương ứng với bản thân bạn, điều đó sẽ đơn giản
là hiểu lầm. Thế thì chúng ta là các cực tách rời.
Tôi đã nghe...
Một người thuyết giảng
rất ba hoa đang đích thân hô hào điên cuồng trong bài giảng về địa ngục và nguyền
rủa. Một cậu bé bốn tuổi trong giáo đoàn không thể rời mắt khỏi nhân vật hoang
dã trên bục giảng kinh. Cuối cùng cậu bé thì thào với mẹ nó, "Chúng ta sẽ
làm gì nếu ông ấy bao giờ thoát ra?"
Bây giờ đứa trẻ có việc
hiểu riêng của nó. Nó ở đó, lắng nghe, nhưng với việc hiểu riêng của nó.
Nếu bạn đang cố hiểu
tôi bằng việc hiểu riêng của bạn, bạn sẽ không hiểu tôi chút nào. Bạn sẽ có những
quan niệm, khái niệm sai nào đó, và bất kì cái gì bạn mang từ đây sẽ là gánh nặng
cho bạn thay vì làm giảm nhẹ. Nó sẽ quấy rối bạn, và nó bao giờ cũng tạo ra lộn
xộn cho bạn. Đừng bao giờ hiện hữu ở bất kì chỗ nào một cách nửa vời. Hoặc hiện
hữu hoặc không hiện hữu, nhưng không bao giờ là nửa vời - bằng không bạn đang
phạm phải cái sai nào đó chống lại bản thân bạn.
Bạn có thể nghe tôi,
chắc chắn, mà không trở thành sannyasin; bạn có thể thiền ở đây mà không trở
thành sannyasin; bạn có thể vẫn còn là người ngoài, xa cách, trung lập, và bạn
có thể nghĩ rằng bạn rất khôn - nhưng bạn sẽ sa vào rối trí. Và tôi cảnh báo bạn:
thế thì đó là rủi ro riêng của bạn.
Rối loạn sẽ là ở chỗ
cái gì đó sẽ bắt đầu xảy ra, và nó sẽ không bao giờ là điều đúng. Vì tôi không
tin cậy mấy vào kĩ thuật: kĩ thuận chỉ là phương cách để đem bạn lại gần tôi
hơn. Kĩ thuật chỉ là phương cách để cho bạn chơi đùa để cho bạn vẫn còn bị bận
bịu.
Tôi nói với bạn,
nhưng việc nói không phải là mục đích. Tôi phải chuyển giao cái gì đó mà không
thể được nói ra. Cái đó tôi có thể chuyển giao chỉ khi tôi cảm thấy rằng tim bạn
để mở. Chừng nào tim còn chưa mở, tôi sẽ liên tục thuyết phục tâm trí của bạn -
nhưng bất kì cái gì tôi đang làm với tâm trí đều không là điều thực. Điều thực
phải được chuyển giao cho bạn khi tim bạn sẵn sàng, khi bạn ở trong tin cậy sâu
sắc, khi bạn đã chấp nhận tôi. Và nhớ, bạn sẽ nghĩ, "Đó là điều mình đang
nghĩ: liệu có chấp nhận thầy hay không." Nếu bạn chấp nhận tôi qua hợp lí
hoá, suy nghĩ, điều đó sẽ không là chấp nhận đâu. Bạn sẽ vẫn đang chấp nhận bản
thân bạn, suy nghĩ riêng của bạn. Nếu bạn quyết định, "Vâng, người này dường
như là đúng, và bây giờ mình sẽ lấy cú nhảy," nó không còn là cú nhảy chút
nào. Bạn đã bỏ lỡ cú nhảy này. Bây giờ bạn vẫn đang tin cậy vào suy nghĩ riêng
của bạn: bạn đã quyết định, đã kết luận, rằng người này là đúng: "Bây giờ
mình đi vào cuộc hành trình" - bạn vẫn không đi. Bước này phải được lấy
trong sự hồn nhiên, không trong khôn lỏi. Bước này phải được lấy như đứa trẻ.
Bước này phải được lấy trong tin cậy, trong dại khờ.
Vâng, tôi nhắc lại
nó: chỉ những người đủ dại khờ lấy cú nhảy bao giờ cũng sẽ có khả năng tìm ra
Cách thức là gì.
Bạn đã không quan sát
sao? Suốt nhiều thế kỉ, điều này đã từng xảy ra: khi Christ còn trên thế gian,
chỉ vài người khờ tin ông ấy, vài người ngu ngơ. Bạn có thể gọi họ là tông đồ
bây giờ, nhưng họ đã là người ngu ngơ: ai đó đã chỉ là người đánh cá, người
khác là tiều phu, ai đó đã là thợ giầy - chỉ những kiểu người này. Không giáo
sĩ nào đi theo ông ấy, không giáo sư nào, không bác học nào, không người đáng
kính nào. Họ toàn là người không ai biết, người thường: người đánh cá, tiều
phu, nông dân, gái mãi dâm, kẻ say - kiểu người đó đã đi theo ông ấy, và điều
đó nữa là một con số rất giới hạn. Và mọi giáo sĩ đã chống lại ông ấy. Họ là những
người khôn lỏi: họ biết, họ đã biết. Mọi học giả đều đã chống lại ông ấy. Thực
ra, mọi học giả, mọi giáo sĩ, mọi người thông thái, họ cùng mưu đồ. Họ đã thu xếp
để người này phải bị giết, vì người này là nguy hiểm, và họ sợ. Chính sự hiện
diện của người đó là việc tạo ra sợ - vì ông ấy là kinh sách sống thế; ai sẽ
nghe những giáo sĩ chết này, người nói về các kinh sách chết? Ông ấy là Cách thức.
Và những giáo sĩ này đã dạy nhiều cách thế để đạt tới Thượng đế, và ở đây là
người đã tuyên bố: "Ta là Cách thức, và ta là Chân lí. Tới đi, đi theo ta.
Tất cả những người đã bị đè nặng, tới ta và nghỉ ngơi trong ta." Bây giờ
điều này là quá thể!
Bạn có thể ở đây như
người thông thái, đứng bên cạnh, nhìn từ khoé mắt, không nhìn thẳng. Thế thì bạn
sẽ bỏ lỡ.
Câu hỏi thứ năm:
Khi thầy thức dậy buổi sáng và thầy nghe tiếng chim hót và thầy
ngửi mùi không khí, chẳng phải thầy bao giờ cũng nghĩ, "Mình muốn tận hưởng
điều đó, và mình cảm thấy không thích nói bài giảng" đó sao?
Tôi cảm thấy điều đó
mọi ngày: tôi cảm thấy điều đó mọi ngày khi tôi lắng nghe chim trên cây hạnh.
Tôi bao giờ cũng thích thú điều đó, tôi bao giờ cũng cảm thấy cực kì hay về nó.
Đó là lí do tại sao tôi nói bài giảng mọi ngày - vì tôi phải hát.
Bài giảng của tôi là
bài ca. Tôi hát ở đây không phải là chống lại chim; đó là trong buổi hoà nhạc với
chúng. Đây là cách hát của tôi. Và tin cậy tôi đi... khi chim hót tôi cảm thấy
hạnh phúc; khi tôi hát chúng cảm thấy hạnh phúc. Đó là thoả thuận.
Điều tôi đang nói cho
bạn không phải là bài giảng đâu. 'Bài giảng' là từ xấu. Làm sao tôi có thể đọc
bài giảng được? Đây là bài ca, đây là dòng chảy ra tự phát, nó là việc tuôn
tràn. Tôi cảm thấy hạnh phúc; đó là lí do tại sao tôi nói nhiều thứ thế cho bạn.
Thực ra, điều đó không giải thích bất kì cái gì cho bạn. Tôi không giải thích.
Điều đó đơn giản là truyền đạt niềm vui của tôi, vui sướng của tôi trong sự sống;
đó là cách tôi có thể nhảy múa. Những lời này là các cử chỉ của tôi.
Và nghe tôi như bạn
nghe nhà thơ hay nghe chim đi. Đừng bao giờ nghe tôi như bạn nghe triết gia: nó
không phải là bài giảng đâu, nó không phải là buổi giảng đạo. Tôi không trút đạo
đức vào bạn. Tôi sẽ không cho bạn bất kì cái "phải", "nên"
nào; tôi không cho bạn bất kì lí tưởng nào. Tôi đơn giản truyền đạt rằng tôi cực
kì hạnh phúc... bạn không thể thấy được điều đó sao? Tôi đơn giản đang truyền đạt
điều tôi đã đạt tới. Bạn cũng có thể đạt tới. Tôi đơn giản làm nhiều điệu bộ thế
để cho nếu điệu bộ này bị bỏ lỡ, điệu bộ khác có thể không bị bỏ lỡ; nếu điệu bộ
khác bị bỏ lỡ, tôi sẽ làm cả nghìn lẻ một điệu bộ. Ngày nào đó, điệu bộ nào đó
có thể đập vào bạn vào khoảnh khắc đúng. Ngày nào đó, trong khoảnh khắc nào đó,
bạn có thể sẵn sàng và chín, và đột nhiên nó sẽ xảy ra.
Lắng nghe tôi chỉ là
cách để giao cảm với tôi. Tôi nói, bạn nghe - có thể xảy ra giao cảm lớn. Khi
việc nghe là hoàn hảo, toàn bộ, khi bạn chỉ trở thành tai, đột nhiên sẽ có bột
phát năng lượng, tia sét, tỏ ngộ. Bạn sẽ hiểu ra. Và tôi sẽ không cố giải thích
cho bạn, và bạn sẽ hiểu ra. Tôi đơn giản truyền việc hiểu. Đây không phải là lời
giải thích.
Bạn có thể bỏ lỡ tôi
chỉ nếu bạn điếc - và nhiều người điếc. Bạn có thể bỏ lỡ tôi chỉ nếu bạn mù -
và nhiều người chỉ dường như có mắt: họ mù.
Một người tới thăm
nhà thương điên thấy một người bị giam giữ ghé tai vào bức tường gạch. "Đây
này, nghe ở đây này," người bị giam nói, và vị khách viếng thăm sốt sắng
ghé tai mình vào vị trí được chỉ ra.
"Tôi chẳng nghe
thấy bất kì cái gì," anh ta nói, bị trở ngại.
"Tôi biết,"
người bị giam nói. "Nó đã như vậy ngần này năm rồi từ khi tôi ở đây; tôi
cũng chẳng nghe thấy bất kì cái gì."
Nhưng dầu vậy anh ta
vẫn đang nghe, ghé tai vào tường.
Có hai điều bất hạnh
trong sự sống. Có những người liên tục nghe tường: bài giảng, bài thuyết pháp,
tu sĩ, giáo hoàng, shankaracharyas - những người đã không trải nghiệm bản thân
họ, những người là người hạng hai, người là bản sao giấy than. Nếu bạn nghe họ,
bạn sẽ nghe hàng năm, và bạn sẽ không có khả năng tìm ra bất kì cái gì. Họ là
tường, không có gì bên trong họ. Đây là một điều bất hạnh: bị gắn bó với tường.
Có bất hạnh khác: bạn
có thể ở cùng một Phật, một Krishna, một Christ, một Mohammed, nhưng bạn có thể
là tường. Thế thì ông ấy có thể liên tục gõ búa, ông ấy có thể liên tục nói, và
bạn không nghe. Jesus nói nhiều lần thế với đệ tử của ông ấy: "Nếu ông có
tai, nghe đi; nếu ông có mắt, nhìn đi. Ta ở đây."
Đây không phải là bài
giảng mà tôi chuyển giao cho bạn. Đây là hiện hữu của tôi mà tôi đang chia sẻ với
bạn. Trở nên nhạy cảm hơn đi, trở nên yêu thương hơn đi, trở nên cảm nhận hơn
đi, trở nên nữ tính hơn đi, trở thành bụng mẹ - và sớm hay muộn bạn nhất định
mang thai với tôi.
Nhưng có những người
thực sự không muốn nghe; họ có đầu tư nào đó trong việc không nghe. Có những
người tới nghe, và vậy mà không muốn nghe. Họ không thể bỏ lỡ việc nghe, và họ
không thể cho phép nó nữa. Khi họ không ở đây họ cảm thấy rằng họ thiếu cái gì
đó, họ đáng ra phải ở đây. Khi họ ở đây họ trở nên cứng ngắc, họ trở nên sợ, họ
trở nên kinh hoàng. Nếu họ nghe quá nhiều, nếu họ đi vào trong nó quá nhiều, có
thể họ sẽ không có khả năng trở về. Đây là cách họ liên tục treo; họ vẫn còn
trong trạng thái lấp lửng.
Tôi đã nghe...
Mulla Nasruddin xin
đăng mục quảng cáo trong tờ báo địa phương đề nghị hậu tạ một trăm ru pi, để nhận
lại con mèo cưng của vợ anh ta, không câu hỏi nào được hỏi.
"Điều đó là hậu
tạ lớn cho một con mèo - và ở Ấn Độ!" nhân viên bán hàng quan sát, vừa chấp
nhận quảng cáo này.
"Không dành cho
con mèo này đâu," Mulla nói một cách hớn hở. "Tôi đã dìm chết nó rồi."
Bây giờ có nhiều người
như điều đó: họ biết họ không muốn nghe, và vậy mà họ tới và họ cố gắng nghe. Họ
biết rằng họ đã dìm chết con mèo cho nên không có khả năng nào tìm thấy được
nó, nhưng dầu vậy họ liên tục đi tìm nó. Có thể họ đang cố lừa người khác,
nhưng nhớ, chú tâm điều đó: nếu bạn cố lừa người khác, có mọi khả năng rằng sớm
hay muộn bạn sẽ bị lừa bởi nỗ lực riêng của bạn. Khi người khác bị lừa, bạn sẽ
bị lừa bởi việc bị lừa của họ.
Tỉnh táo đi. Bạn phải
tiếp nhận tôi trong tỉnh táo vô cùng. Chỉ thế thì... chỉ thế thì bạn sẽ có khả
năng thấy điều đang xảy ra ở đây.
Câu hỏi cuối cùng:
Ba lí do bí truyền nhất là gì cho việc tới bài giảng vào số phút
kì lạ quá tám giờ?
Đây là từ Yatri. Anh ấy
hỏi tại sao đôi khi tôi tới trễ. Bản thân tôi cũng ngạc nhiên. Các lí do là
khác nhau. Tôi ngạc nhiên vì tôi ngạc nhiên tại sao đôi khi tôi không tới trễ.
Thời gian không tồn tại
cho tôi; chính phép màu là làm sao tôi xoay xở được. Và anh ấy hỏi: "Ba lí
do bí truyền nhất là gì cho việc tới bài giảng của thầy với số phút kì lạ quá
tám giờ?"
Thứ nhất, tôi say.
Thứ hai, tôi say.
Thứ ba, tôi say.
Và chính câu hỏi cuối cùng:
Tôi có thể hỏi câu hỏi trước câu hỏi thứ nhất, câu hỏi thực sự,
thực sự thứ nhất không? Vì thầy hiển nhiên không phải là một Einstein, tại sao
không từ bỏ việc đánh số các câi hỏi từ đầu tiên tới cuối cùng?
Điều đó là đúng. Tôi
không biết toán, nhưng một điều tôi nghĩ tôi muốn nói cho bạn - ngay cả
Einstein cũng không giỏi hơn tôi. Ông ấy đôi khi thậm chí còn kém hơn.
Có lần chuyện xảy ra:
Ông ấy đi trên xe bus. Để trả tiền xe, ông ấy đã đưa số tiền nào đó cho người
lái xe. Ông ấy trừ số tiền cho vé xe và lấy lại số tiền còn lại. Ông ấy đếm nó
- chỉ vài đồng xu - nhưng ông ấy tưởng rằng ông ấy đã bị lừa. Thế là ông ấy nói
với người lái xe, "Ông nghĩ gì vậy? Ông coi tôi là trẻ con sao? Ông đã
không trả lại đúng số tiền." Người lái xe đếm lại nó lần nữa. Đó chỉ là một
số tiền nhỏ; ông ta đếm lại lần nữa. Ông ta nói, "Nó tuyệt đối đúng."
Einstein đếm lại nó lần nữa. Ông ấy nói, "Không!" Người lái xe rất tức,
và ông ta nói, "Cái gì thành vấn đề với ông vậy? Ông không biết đếm à? Ông
không biết… con số à?" Einstein đã kể lại điều đó trong hồi kí của mình.
Ngay cả Einstein đã
không là một Einstein như vậy. Tôi chắc chắn là không; tôi bị lộn xộn lên: câu
hỏi thứ nhất, câu hỏi thứ hai... và thế rồi tôi quên mất. Điều đó là đúng. Bạn
nên ngạc nhiên rằng tôi không bắt đầu từ câu hỏi cuối cùng.
Xem Chương 9 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá