Read more
Con Đường Của Yêu – Osho
Chương 9. Cõi trời là mọi đường tới cõi trời
Sáo của cái vô hạn được chơi không dừng,
và âm thanh của nó là yêu:
khi yêu từ chối mọi giới hạn,
nó đạt tới chân lí.
Hương thơm lan rộng làm sao!
Nó không có kết thúc, không cái gì đứng trên đường của nó.
Hình tướng của giai điệu này là sáng chói
như triệu mặt trời:
âm thanh vô song đàn vina,
đàn vina của các nốt chân lí.
Con đường của yêu là tinh tế!
Thế thì không có hỏi và không có không hỏi,
Ở đó người ta mất đi bản thân mình dưới chân Ngài,
Ở đó người ta được nhấn chìm trong niềm vui của việc tìm kiếm:
nhào vào trong chiều sâu của yêu
như cá trong nước.
Người yêu không bao giờ chậm trong dâng hiến đầu mình
Vì sự phục vụ của Trời của người đó.
Kabir tuyên bố bí mật của yêu này.
Nhà siêu hình nói mà
không biết; nhà huyền bí biết, nhưng giữ yên tĩnh. Thầy là im lặng hùng biện.
Thầy là tổ hợp hiếm hoi của nhà siêu hình và nhà huyền bí. Thầy là sự tổng hợp
lớn giữa nhà siêu hình và nhà huyền bí. Nhà siêu hình biết cách nói, nhưng ông
ta không biết nói về cái gì. Nhà huyền bí biết nói về cái gì, nhưng ông ấy
không biết cách nói. Nhà huyền bí đầy kinh nghiệm, nhưng câm. Nhà siêu hình
không có kinh nghiệm, nhưng ông ta rất giỏi nói. Nhà siêu hình không có giá trị
nào, và nhà huyền bí không có cái dụng nào.
Bạn có thể tôn thờ
nhà huyền bí, nhưng bạn sẽ không bao giờ có khả năng hiểu ông ấy - vì trao đổi
không tồn tại: ông ấy đã phá vỡ chiếc cầu ngôn ngữ. Ông ấy hiện hữu trong chân
lí, nhưng ông ấy không thể đem thông điệp tới bạn.
Nhà siêu hình liên tục
mang thông điệp nọ tới thông điệp kia, nhưng thông điệp này chỉ là lời nói. Nếu
bạn đi sâu vào trong nó, không có nội dung trong nó, nó là không bản chất.
Thầy biết nhiều như
có thể được biết, và vậy mà đủ giỏi nói để diễn đạt, để trao đổi.
Các nhà siêu hình đã
tồn tại theo con số nghìn, và nhà huyền bí cũng tồn tại như vậy - Thầy là rất
hiếm hoi. Kabir là Thầy lớn: ông ấy biết, và ông ấy biết cách truyền đạt nó. Đó
là lí do tại sao ông ấy tuyên bố: Kabir tuyên bố bí mật của yêu này. Toàn thể
con người của ông ấy là lời tuyên bố. Ông ấy không câm; ông ấy hát cả đời mình,
và ông ấy hát những bài ca của chân lí. Bài hát cuối cùng này trong chuỗi bài
hát này là cực kì có giá trị. Đi theo tôi rất chậm và cố lĩnh hội, để cho nó trở
thành một phần của con người bạn - vì đó là cách duy nhất để hiểu nó.
Sáo của cái vô hạn được chơi không dừng,
và âm thanh của nó là yêu:
khi yêu từ chối mọi giới hạn,
nó đạt tới chân lí.
Hương thơm lan rộng làm sao!
Sáo của cái vô hạn...
Ở phương Đông chúng
ta bao giờ cũng biểu tượng hoá sự tồn tại như sáo, trúc hổng trên môi của Thượng
đế. Bài ca là của Ngài; sáo không thể hát, sáo chỉ có thể cho phép việc hát, ca
sĩ, bài ca, chảy qua nó. Sự tồn tại là lối chuyển; con người cũng vậy. Con người
là sáo, chim cũng là sáo, và cây cũng thế, và mặt trời và mặt trăng. Toàn thể sự
tồn tại là trúc hổng - Thượng đế chảy qua nó, lọc qua nó, được diễn đạt theo
hàng triệu cách.
Khi tôi đang nói với
bạn, tôi không nói với bạn đâu; tôi chỉ là trúc hổng. Và khi bạn nghe tôi, bạn
không nghe tôi đâu; Ngài đang nghe qua bạn - bạn là trúc hổng. Là người nói hay
là người nghe đi; là vũ công hay là thính giả đi - tất cả chúng ta đều là trúc
hổng trên môi của cái vô hạn. Bài ca là của Ngài và im lặng cũng vậy.
Một khi bạn hiểu quan
niệm này về việc là trúc hổng, bạn đang trên con đường của yêu. Đây là bước thứ
nhất.
Sáo của điều vô hạn
được chơi không dừng…
Và đây là cái đẹp và
mâu thuẫn: rằng cái vô hạn cần chiếc sáo của vô hạn, của hữu hạn. Cái vô hình
tướng cần hình tướng để được diễn đạt qua. Thượng đế cần bạn nhiều như bạn cần
Ngài. Nhu cầu này không phải là một chiều, bằng không nó chắc không đẹp thế. Nếu
chỉ chúng ta cần Thượng đế, thế thì điều đó chắc là trạng thái không cân xứng của
mọi sự. Không, có cân bằng chứ: Thượng đế cần cho chúng ta nhiều như chúng ta cần
Ngài. Sáo cần ca sĩ, nhưng ca sĩ nữa, cần sáo. Điều đó là đúng - sáo không thể
tạo ra bài ca bởi bản thân nó; nhưng bản thân ca sĩ cũng không thể tạo ra được
bài ca. Sáo là điều phải có cho Ngài vì Ngài là điều phải có cho sáo.
Đây là quan niệm về
tương thuộc: cái toàn thể phụ thuộc vào các bộ phận, các bộ phận phụ thuộc vào
cái toàn thể. Bộ phận không là độc lập mà cái toàn thể cũng không là độc lập.
Thực ra, chính ý tưởng về độc lập là thần kinh. Chúng ta được nối lẫn nhau. Điều
này cho chân giá trị vô cùng.
Một mặt Kabir nói: Là
trúc hổng đi. Mặt khác ông ấy nói: Nhớ chân giá trị của ông; không có ông Thượng
đế không thể hát bài ca được.
Vâng, không có những
con chim tí hon này trên cây phi lao, Thượng đế không thể hát bài ca được. Ngài
phụ thuộc và chúng; mọi sáng ngài cần chúng. Ngài không thể nở hoa mà không có
hoa hồng; mọi sáng ngài tìm chúng.
Thượng đế và sự tồn tại
của Ngài không phải là hai thứ tách rời, nhưng tương thuộc, dựa vào nhau, tìm
nhau như hai người yêu. Người yêu sẽ không là toàn bộ nếu người được yêu bị mất,
và người được yêu sẽ không là toàn thể nếu người yêu bị mất. Khi họ cùng nhau,
khi tính cùng nhau của họ là tới mức họ tan chảy vào nhay, chỉ thế thì cả hai là
toàn thể.
Điều này phải được hiểu:
bộ phận không bao giờ có thể là một mình cái toàn thể. Nói gì về bộ phận? -
ngay cả cái toàn thể cũng không thể là một mình cái toàn thể! Ngài sẽ cần bộ phận;
không có bộ phận cái toàn thể sẽ không giầu có thế. Nghĩ mà xem: Thượng đế mà
không có sự tồn tại... Nó sẽ chỉ là trống rỗng, đất hoang. Nghĩ về Thượng đế mà
không có cây và không có sông và không có đại dương; nghĩ về Thượng đế mà không
có người và chim và con vật; nghĩ về Thượng đế mà không có mặt trời và mặt trăng
và sao... và nó sẽ chỉ là mảnh đất hoang, sa mạc.
Phương Đông nói: Thượng
đế được cần nhiều như chúng ta được cần; chúng ta phụ thuộc lẫn nhau, chúng ta
là thành viên của nhau, chúng ta là cùng nhau. Biết tính cùng nhau này là biết
yêu là gì. Biết sự thống nhất này, sự thống nhất mênh mông này, là biết yêu tất
cả là gì.
Khi bạn rơi vào yêu
người đàn và hay người đàn ông, bạn đi tới biết cái gì? Yêu là gì? Theo một
cách rất tí hon bạn đi tới cảm thấy rằng các bạn là không tách rời. Theo một
cách rất, rất nhỏ bé, trên qui mô nhỏ, bạn bắt đầu cảm thấy rằng các bạn được
ngụ ý dành cho nhau, rằng người ta không là toàn thể nếu không có người kia, rằng
người kia là điều phải có, rằng người kia là một phần của hồn của bạn và con
người của bạn, rằng người kia không ở bên ngoài bạn. Bằng cách nào đó người đó ở
bên trong bạn, vậy mà ở bên ngoài; và bạn là ở bên trong người kia, và vậy mà ở
bên ngoài. Những người yêu xuyên thấu vào nhau. Điều đó không chỉ là biểu tượng
dục: việc xuyên thấu có tính tâm linh. Dục chỉ là cái bóng của nó.
Những người yêu xuyên
thấu vào nhau: biên giới của họ bị mờ đi, họ trở thành mờ đục, sự xác định của
họ trở nên lung lay. Khi sống cùng người đàn bà hay người đàn ông trong nhiều
năm, và đột nhiên người đàn bà chết hay người đàn ông chết, nỗi đau được cảm thấy,
nỗi khổ, đau đớn được cảm thấy bởi người bạn tình kia, người bị bỏ lại sau,
không chỉ là ai đó đã chết. Đó là vì bây giờ người đó sẽ không bao giờ là toàn
thể. Đó là vì bây giờ một phần của con người người đó bị phá huỷ hoàn toàn,
toàn bộ. Bây giờ sẽ tồn tại hố đen trong con người của người đó, vực thẳm, và
trống rỗng. Khi người yêu chết đi, cái gì đó sâu bên trong bạn cũng chết. Các bạn
đã trở nên cùng nhau thế; cuộc sống của các bạn đã không còn tách rời, nó đã chờm
lấp lên nhau. Các bạn đã ở trong hai thân thể, nhưng các bạn trở thành một hồn
- đó là nghĩa của yêu.
Khi cùng điều này xảy
ra với toàn thể sự tồn tại - rằng bạn bắt đầu cảm thấy rằng bạn không tách rời,
các biên giới của bạn chờm lấp; không chỉ các biên giới của bạn chờm lấp, các
trung tâm của bạn chờm lấp; rằng trung tâm của bạn là trung tâm của thế giới nữa,
rằng trung tâm của thế giới là trung tâm của bạn nữa - trong cực lạc đó của
tính một là hương thơm được gọi là yêu.
Sáo của điều vô hạn
được chơi không dừng,
và âm thanh của nó là
yêu:
Dòng nguyên bản của
Kabir là: Murali bajat akhand sadaya. Từ akhand rất có nghĩa. Nó được dịch là
'không dừng': sáo của điều vô hạn được chơi không dừng. Nhưng điều đó không
đích xác là nghĩa đúng của từ akhand là theo cách thức liên tục, và vậy mà
không liên tục. Bạn liên tục thở - bằng không bạn sẽ chết - nhưng khi thì bạn
thở vào, và khi thì bạn thở ra. Khi bạn thở vào, bạn không thở ra; khi bạn thở
ra, bạn không thở vào. Và chắc chắn, việc thở vào là trong quá trình này, và việc
thở ra là trong quá trình khác. Việc thở ra sẽ tạo ra kẽ hở trong quá trình thở
vào, và việc thở vào sẽ tạo ra kẽ hở trong quá trình thở ra.
Quan niệm phương Đông
là ở chỗ Thượng đế liên tục chơi, nhưng điều đó không có nghĩa rằng không có kẽ
hở. "Không dừng" cho ấn tượng dường như không có kẽ hở. Không; nếu
như không có kẽ hở âm nhạc không thể là âm nhạc. Âm nhạc không chỉ là âm thanh,
âm nhạc là việc tổ hợp, và quá trình giả kim thuật của âm thanh và vô âm. Âm nhạc
là âm thanh và khoảng hở, kẽ hở giữa hai âm thanh.
Bạn quan sát: ai đó
đang thổi sáo, bạn quan sát các nốt; ai đó đang hát bài hát, bạn quan sát; tôi
đang nói với bạn, bạn quan sát - một lời không được tiếp theo bởi lời khác; một
lời được tiếp theo bởi im lặng, thế rồi tới lời khác. Giữa hai lời có khoảng hở
- bằng không lời này và lời khác sẽ không có bất kì xác định nào. Chúng sẽ xô
vào nhau, chúng sẽ đụng nhau. Thế thì sẽ không có âm nhạc, sẽ chỉ có tiếng ồn,
hỗn độn.
"Không dừng"
ngụ ý: âm thanh liên tục, nhưng lúc thì nó là âm thanh và lúc thì nó là vô âm.
Lúc thì nó là biểu lộ, và lúc thì cái toàn thể biến mất và không có biểu lộ.
Ở phương Đông chúng
ta nói: Khi Thượng đế thở ra, có sự tồn tại; khi Thượng đế thở vào, toàn thể sự
tồn tại biến mất. Đây là ý tưởng hay, có nghĩa vô cùng. Sự tồn tại hiện hữu chỉ
vì Thượng đế thở ra - thế rồi Ngài thở vào, toàn thể sự tồn tại biến mất; lần nữa
ngài thở ra, có sự tồn tại; lần nữa ngài thở vào, sự tồn tại biến mất.
Vật lí hiện đại đã tới
rất gần với điều này. Họ nói rằng vật chất dường như là liên tục, vậy mà nó
không liên tục. Ở giữa, nó biến mất, những kẽ hở này là nhỏ tới mức bạn không
thể phát hiện được chúng. Chuyển động của điện tử là tinh tế tới mức khoảnh khắc
này bạn thấy điện tử ở chỗ này, khoảnh khắc khác bạn thấy nó ở chỗ khác, và bạn
thậm chí đã không thấy làm sao nó đã chuyển từ chỗ này sang chỗ khác. Nó đã
không chuyển động, nó đã không nhảy. Bây giờ một ý tưởng rất ngớ ngẩn đã nảy
sinh: ý tưởng rằng điện tử không đi từ chỗ này sang chỗ khác; từ chỗ này nó đơn
giản biến mất vào vô tồn tại và ở chỗ khác nó lại đi vào sự tồn tại, lại bật
ra. Điều này là kì lạ... và chân lí là kì lạ hơn hư cấu. Nó là vậy.
Vậy lí hiện đại đã trở
thành siêu hình hơn bất kì siêu hình nào. Đây là nghĩa của akhand: cho dù nó biến
mất, nó có đó. Khi nó xuất hiện nó có đó, đúng: khi nó biến mất, thế nữa nó có
đó. Khi nó xuất hiện nó có đó, khi nó biến mất nó có đó. Bạn có thể biết nó lúc
thì như việc biểu lộ, và lúc thì như vô biểu lộ. Lúc thì nó lấy hình tướng và
lúc thì nó trở thành vô hình tướng - nhưng nó có đó. Nếu bạn có tại để nghe các
kẽ hở nữa, bạn sẽ thấy: nó có đó không dừng.
Murali bajat akhand
sadaya: Sáo này liên tục chơi, liên tục tạo ra bài ca, vĩnh hằng...
…và âm thanh của nó
là yêu…
Sự tồn tại được làm
ra từ chất liệu được gọi là yêu.
Vật lí nói vật chất
bao gồm điện. Nếu bạn hỏi Kabir ông ấy sẽ nói: Vật chất, sự tồn tại, bao gồm
hơi ấm, không là điện - hơi ấm của yêu. Sự tồn tại là có thể chỉ vì yêu, vì Thượng
đế chăm nom, vì ngài yêu. Thượng đế không dửng dưng. Thượng đế là người yêu. Sẽ
tốt hơn nếu nói, "Thượng đế là yêu."
Chúng ta có thể quên
từ 'Thượng đế', nhưng chúng ta phải không quên từ 'yêu'. Yêu là có giá trị hơn
nhiều so với từ 'Thượng đế', vì yêu là chính tâm linh của Thượng đế. Thượng đế
có thể chỉ là thân thể, yêu là chính hồn.
Và toàn thể sự tồn tại
này là trong yêu: những sông này đổ xô hướng tới đại dương, những cây này đang
chuyển động vô cùng trong yêu; những sao này, những sông này đang đổ xô ra đại
dương là đang chạy xô tới chuyện tình nơi chúng có thể gặp gỡ và hội nhập.
Quan sát, và bạn sẽ
thấy ở mọi nơi bóng dáng của yêu, xúc động, háo hức, cực lạc của yêu. Dù ở bất
kì hình tướng nào, nếu bạn nhìn sâu, bạn bao giờ cũng thấy ra cái gì đó đập rộn
ràng ở trung tâm, cái mà không thể là bất kì cái gì khác hơn yêu.
… và âm thanh của nó
là yêu:
khi yêu từ chối mọi
giới hạn,
nó đạt tới chân lí.
Khi yêu từ chối mọi
giới hạn...
Có nhiều giới hạn, và
yêu của chúng ta bị giam trong các giới hạn. Đó là lí do tại sao cho dù chúng
ta yêu, chúng ta không bao giờ hạnh phúc với nó. Bất hạnh tới qua yêu không phải
vì yêu, nhưng bởi vì các giới hạn bao quanh nó.
Để điều đó là rõ ràng
tuyệt đối cho bạn, vì nhiều người, khi thấy rằng yêu cho khổ - vâng, nó có thể
cho, có những giới hạn - trở nên đối kháng hướng tới yêu. Họ trở thành kẻ thù của
yêu. Thế rồi họ bắt đầu trốn khỏi mọi khả năng của yêu.
Có vài tu viện có
trong sự tồn tại ở châu Âu. Một tu viện tồn tại; nó đã tồn tại trong gần một
nghìn hai trăm năm, một nghìn ba trăm năm. Một khi sư đi vào tu viện ông ta
không bao giờ đi ra khỏi nó; đó là cam kết cả đời. Và, trong tu viện, không đàn
bà nào đã bao giờ được phép vào; trong một nghìn ba trăm năm không một đàn bà
nào đã vào. Tu viện này chỉ dành cho nam, đàn ông. Và có những tu viện nơi chỉ
đàn bà được phép, không đàn ông nào đã bao giờ đi vào. Mọi khả năng của yêu bị
loại bỏ.
Những người trốn lên
Himalayas: họ đang trốn khỏi yêu, không trốn khỏi thế giới. Họ sợ yêu, và sợ của
họ có lí do nào đó đằng sau nó. Bất kì khi nào bạn đang trong yêu, bạn trong rối
loạn. Bất kì khi nào có yêu, có khó khăn; bất kì khi nào có yêu, có xung đột; bất
kì khi nào có yêu, có địa ngục. Jean-Paul Sartre nói, "Người kia là địa ngục."
Cho nên bất kì khi nào có yêu, người kia đi vào cuộc sống của bạn, và đột nhiên
có xung đột, đụng độ, vật lộn để chi phối lẫn nhau, để sở hữu lẫn nhau, làm chủ
lẫn nhau. Và khổ nảy sinh. Những người yêu hiếm khi hạnh phúc. Tôi không nói rằng
người không yêu là hạnh phúc; người không yêu có thể không hạnh phúc, nhưng họ
không bao giờ bất hạnh như những người yêu.
Và những người yêu là
bất hạnh hơn vì yêu đã hứa hẹn nhiều thế lúc ban đầu - mong đợi lớn đã nảy
sinh, hi vọng lớn đã có đó - và thế rồi mọi thứ bị tan nát trên đá. Người không
yêu đã không có bất kì mong đợi nào; người đó được lắng đọng, người đó đã không
hi vọng về cõi trời. Bạn không thể ném một người vào địa ngục nếu người đó
không hi vọng về cõi trời. Bạn có thể ném một người vào trong địa ngục chỉ khi
người đó hi vọng cõi trời. Bằng không không có khả năng nào.
Ở phương Đông hôn
nhân không phải là bất hạnh thế như ở phương Tây, vì ở phương Đông nó không dựa
trên yêu. Khi hôn nhân không dựa trên yêu, bạn không hi vọng mấy từ nó; bạn biết
con đường mòn, lệ thường. Khi hôn nhân được bố mẹ và nhà chiêm tinh thu xếp, và
bạn chẳng có gì để nói về nó - thực ra bạn không là ai cả, bạn chỉ là người
quan sát; bất kì cái gì xảy ra, bạn quan sát... và thế thì đột nhiên người đàn
bà mà bạn thậm chí đã không thấy trước đây được ném vào cùng bạn - không có
mong đợi nào, không có lãng mạn, không có hi vọng lớn. Bạn đã không khao khát về
trăng. Đó là chuyện bình thường trong thế giới hàng ngày: hôn nhân, thể chế xã
hội không có lãng mạn. Các bạn bắt đầu sống cùng nhau; như mọi người sống cùng
anh chị em của họ và với mẹ và bố của họ, ở phương Đông mọi người sống củng vợ
của họ. Bạn không bao giờ chọn mẹ và bố của bạn. Đột nhiên một ngày nào đó bạn
thấy rằng đây là mẹ bạn, vậy phải làm gì? Đẹp, xấu, tốt, tệ - mẹ là mẹ, cho nên
bạn yêu người mẹ. Theo cùng cách này, ở phương Đông, mọi người yêu vợ của họ và
chồng của họ. Bạn có thể làm được gì? Một ngày nào đó bạn thấy rằng cô ấy là vợ
bạn. Nhưng vì không có chuyện tình đi trước nó, không có mấy khổ. Cõi trời đã
không bao giờ được mong đợi, cho nên bạn không bị ném vào địa ngục. Bạn đi trên
đất bằng. Bạn đi càng cao hơn, càng nhiều khả năng ngã hơn.
Khi bạn đi trên các đỉnh
núi, bạn có thể ngã vào trong vực thẳm. Khi bạn đi trên đường siêu xa lộ không
có sợ ngã vào trong vực thẳm. Hôn nhân đi trên đất bằng. Hôn nhân là không có
yêu, và bất kì cái gì yêu bắt đầu xảy ra sau hôn nhân đều giống như tình yêu
anh chị em hơn là yêu. Nó không có lãng mạn trong nó.
Khi hai người thấy bản
thân họ được gắn với nhau, dần dần, họ trở nên quen thuộc với nhau, và dần dần,
họ bắt đầu thích, chỉ thích lẫn nhau. Dần dần, họ điều chỉnh. Điều đó rất trần
tục, nó không có thơ ca trong nó.
Ở phương Tây, hôn
nhân không phải là luống hoa hồng. Con thuyền bao giờ cũng rung chuyển; nó bao
giờ cũng trên đá, nó bao giờ cũng trong trạng thái sụp đổ vào bất kì khoảnh khắc
nào. Tại sao? Nếu bạn yêu, bạn mong đợi. Khi bạn mong đợi, yêu trở nên bị vấy bẩn,
bị ô nhiễm. Thế thì yêu không thực sự là yêu; bây giờ nó có giới hạn - vì mong
đợi. Khi bạn yêu một người, bạn bắt đầu sở hữu người đó; bạn sợ người đàn bà của
bạn có thể đi tới ai đó khác. Bạn trở nên sợ nhiều tới mức bạn thậm chí không
thể chịu được cô ấy nhìn vào ai đó. Bạn không thể chịu được ý tưởng rằng cô ấy
cười với ai đó khác. Rằng cô ấy có thể cười mà không có bạn?! Điều đó là không
thể được, nó gây tổn thương. Bạn bắt đầu tạo ra nhà tù cho cô ấy - cái cũi đẹp,
tất nhiên, cái bạn gọi là gia đình - nhưng bạn tạo ra cái cũi. Chắc chắn, khi bạn
bắt đầu tạo ra cũi, cô ấy phải tạo ra cũi cho bạn nữa - vì không ai có thể trở
thành cai tù chừng nào người đó chưa trở thành tù nhâu nữa.
Khi bạn sở hữu ai đó,
bạn bị sở hữu. Khi bạn ép buộc ai đó là nô lệ, bạn phải trở thành nô lệ trong bản
thân quá trình này.
Thầy là người không
bao giờ kiểm tra bất kì người nào, thầy không bao giờ ép buộc bất kì người nào
là nô lệ. Nếu bạn cố làm mọi người thành nô lệ, bạn sẽ bị làm thành nô lệ bởi họ.
Đó là quá trình đơn giản. Sở hữu cái gì đó và cái đó sẽ sở hữu bạn. Trở nên bị
gắn bó vào cái gì đó và bạn sẽ cảm thấy rằng bây giờ bạn ở trong lệ thuộc lớn.
Vì các giới hạn của
yêu, yêu trở thành bị kết án, và mọi người cảm thấy điều đó vì yêu mà họ đang
chịu đựng. Cố hiểu các giới hạn nào là có thể đi.
Kabir nói: Khi yêu từ
bỏ mọi giới hạn, nó đạt tới chân lí. Các giới hạn này phải được hiểu.
Martin Buber, một
trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời đại này, đã phân chia yêu theo
hai cách. Cách thứ nhất ông ấy gọi là tôi-nó: bạn yêu xe hơi của bạn, bạn yêu
nhà của bạn; đây là yêu tôi-nó. Bạn yêu con bạn, bạn yêu người đàn bà của bạn;
đây là yêu tôi-người. "Có hai kiểu yêu," Buber nói:
"Tôi-nó" và tôi -người."
Bây giờ, quan sát cẩn
thận vào. Yêu tôi-nó - sự việc rất giới hạn - vì cái kia chỉ là đồ vật, và đồ vật
không bao giờ có thể cho bạn tự do. Và thực ra, khi bạn trở nên bị gắn bó quá
nhiều với đồ vật, bản thân bạn cũng bắt đầu trở thành đồ vật... vì yêu của bạn
xác định ra con người của bạn.
Người yêu xe hơi của
mình không thể là nhiều phần của con người: yêu xe hơi, bạn phơi bày bạn thuộc
kiểu người nào. Người yêu tiền trở nên ngày càng giống tiền hơn: chỉ những tờ
tiền bẩn thỉu. Người đó cũng trở thành giống chúng. Bạn có thể thấy điều đó
trong đôi mắt: nếu một người quá nhiều phần là kẻ keo kiệt, bạn có thể thấy điều
đó trong đôi mắt - các tờ tiền, tờ tiền bẩn, trôi nổi. Người đó đánh mất hồn của
mình; người đó bị thu lại thành cái gì đó người đó yêu.
Thận trọng: đừng bao
giờ yêu đồ vật ở dưới bản thân bạn, bằng không bạn sẽ rơi xuống. Vì đối thể yêu
của bạn trở thành mục đích của bạn, bạn bắt đầu rơi hướng tới nó.
Bất kì người nào bạn
yêu, bạn bắt đầu rơi hướng tới người đó. Đừng bao giờ yêu đồ vật, bằng không hồn
của bạn sẽ bị thu lại thành đồ vật. Đây là giới hạn lớn nhất, tôi-nó. Và vấn đề
là phức tạp hơn, vì nếu bạn yêu xe của bạn, bạn hiểu đây là chiếc xe. Nhưng có
những người yêu vợ của họ cũng theo cùng cách - tôi-nó. Vợ không được coi là
người.
Ở phương Đông họ gọi
vợ là "của cải của tôi ". Vợ sao? - của cải của bạn sao? Đó là cách
nó đã được nghĩ tới suốt nhiều thời đại. Ở phương Đông mối quan hệ giữa chồng
và vợ là mốt quan hệ tôi-nó. Ở nhiều nước, nếu bạn giết vợ bạn sẽ không có vấn
đề gì. Đó không phải là vấn đề cho luật pháp lo nghĩ: cô ấy là vợ của bạn, bạn
được quyền giết cô ấy. Nếu bạn đánh vợ bạn, không ai sẽ nói bất kì cái gì với bạn;
đó là chuyện của bạn, bạn có thể đánh vợ bạn. Đây là cách mọi thứ đã tồn tại.
Tất nhiên, vợ đã đáp
trả theo cách riêng của cô ấy. Cô ấy có thể không đánh chồng, nhưng cô ấy có thể
đánh anh ta theo cả nghìn lẻ một cách, một cách gián tiếp. Và cô ấy làm điều
đó. Và đàn bà đã trở thành rất, rất thành thạo, rất láu lỉnh trong việc đánh chồng
- theo những cách đầy thủ đoạn tới mức bạn thậm chí không thể nói, "Em
đang đánh anh." Họ đã tìm ra những cách gián tiếp: cách thức của kẻ yếu.
Người yếu cũng phải bảo vệ bản thân mình và đáp trả. Người yếu tìm ra cách
riêng của mình, phương pháp luận của người đó là khác.
Chẳng hạn, đàn bà có
thể bắt đầu khóc lóc, và cô ấy sẽ đánh bạn bằng việc khóc lóc của cô ấy. Hay
đàn bà có thể ngã bệnh, và bạn biết tại sao cô ấy bị đau đầu. Và cô ấy sẽ không
nấu ăn cho bạn, và cô ấy sẽ không chăm sóc con cái - cô ấy sẽ nằm dài trên giường
và sẽ nói cô ấy bị sốt. Bây giờ cô ấy đang đánh bạn, và trẻ con, và toàn thể
gia đình; đó là cách thức của cô ấy. Hay đàn bà sẽ trở nên lạnh lùng: bất kì
khi nào bạn tới gần cô ấy, bất kì khi nào bạn có bất kì sáng kiến nào hướng tới
yêu, cô ấy sẽ lạnh băng. Cô ấy sẽ đơn giản trở thành lạnh lùng, cô ấy sẽ nhìn bạn
với con mắt kết án. Cô ấy sẽ thu bạn thành con vật. Cô ấy sẽ nghĩ về bạn rằng bạn
là người bị ám ảnh về dục hay cái gì đó. Và bất kì khi nào bạn sẽ làm tình với
cô ấy, cô ấy sẽ nằm ra đó như xác chết. Cô ấy sẽ không hợp tác. Và tất nhiên cô
ấy sẽ rất ghen và rất có tính sở hữu. Cô ấy sẽ không cho bạn bất kì tự do nào -
vì bạn đã không cho cô ấy bất kì tự do nào. Đó là luật của tự nhiên. Nếu bạn có
mối quan hệ tôi - nó, thế thì người kia sẽ cố có mối quan hệ tôi-nó với bạn. Đó
là đáp ứng tự nhiên.
Và như tôi thấy nó,
trong một trăm người, gần như chín mươi chín phần trăm mọi người sống trong mối
quan hệ tôi-nó, ngay cả với con người. Chồng không phải là người, vợ không phải
là người: chồng là đồ vật để được sở hữu, vợ cũng vậy. Chúng ta đã thu lẫn nhau
thành đồ vật. Đó là cái xấu bắt nguồn từ yêu của chúng ta nếu nó có giới hạn
như vậy - biên giới này của mối quan hệ tôi-nó.
Bỏ biên giới này đi.
Đi lên cao hơn một chút, đi tới quan niệm lớn hơn một chút. Và quan niệm đó
Buber gọi là tôi-người.
Để người đàn bà của bạn
là người đi, không là nó; để người đàn ông của bạn là người đi, không là nó; để
con bạn là người đi - kính trọng người khác. Người khác là hồn có giá trị mênh
mông. Người khác là Thượng đế. Gọi người đó là "người", và không chỉ
gọi người đó, mà cư xử theo cách mà bạn không bao giờ nghĩ người khác là đồ vật.
Đừng bao giờ cố dùng
bất kì người nào; chia sẻ, nhưng không bao giờ dùng. Kính trọng chân giá trị của
người khác, không bao giờ can thiệp, và thế thì yêu có không gian lớn hơn, ít bị
giới hạn. Nhưng dầu vậy, nó sẽ bị giới hạn.
Buber chỉ nói về hai
cách: tôi-nó và tôi-người. Tôi muốn nói về hai khả năng thêm nữa. khả năng thứ
ba, cao hơn tôi-người, là "không tôi-người" - khi bạn nói, "Tôi
không hiện hữu, chỉ bạn hiện hữu." Đó là chỗ lời cầu nguyện nảy sinh: khi
bạn nói, "Tôi không hiện hữu, bạn hiện hữu. Tôi toàn bộ là một với bạn.
Tôi không có thực thể tách rời." Khi bạn có thể nói điều đó cho người yêu
của bạn, mối quan hệ đã đi ra ngoài con người. Tôi-nó là dưới tính con người,
tôi-người là có tính người, không tôi-người là siêu nhân, trạng thái của lời cầu
nguyện.
Tôi-nó có tính dục,
tôi-người là điều bình thường được gọi là yêu, không tôi-người là lời cầu nguyện.
Đó là lí do tại sao những người sùng kính nói với Thượng đế, "Tôi không hiện
hữu. Không phải ý của tôi, nhưng ý của ngài sẽ được thực hiện." Người sùng
kính buông xuôi cái tôi của người đó; người trong lời cầu nguyện buông xuôi cái
tôi của mình, cúi đầu và nói, "Duy nhất ngài hiện hữu. Tôi chỉ là một phần
trong ngài, chỉ là một phần, một phần đơn thuần, chẳng có gì để ba hoa. Không
có nhu cầu làm bất kì đống lộn xộn về tôi. Tôi không hiện hữu."
Đây là cách thứ ba: bạn
có bầu trời bao la hơn sẵn có cho bạn.
Và cách thứ tư tôi gọi
là: không tôi, không người; đó là trạng thái của thiền. Khi bạn nói, "Tôi
không hiện hữu, bạn hiện hữu," cảm giác tinh vi về "tôi" sẽ còn
dai dẳng - vì cho dù gọi người khác là người, tôi được cần tới. Không có cái
tôi, người không thể tồn tại - có thể bây giờ không có ý thức, có thể không thô
thế, có thể được tinh luyện - nhưng sẽ vẫn còn cái bóng. Bằng không, ai sẽ nói
"người"? Gọi Thượng đế là "người" hay người yêu của bạn là
"người", bạn phải có đó.
Trạng thái thứ tư là:
không tôi, không người. Bây giờ thậm chí không có lời cầu nguyện. Ngay cả nhị
nguyên chừng này đã bị bỏ đi. Có im lặng, im lặng mang tính thiền, toạ thiền.
Người ta đơn giản ngồi, không làm gì. Không có gì để nói, không có người nào để
nói, không có người nào để cho nó được nói cho. Người nói đã biến mất, và do vậy
người được nói cho biến mất. Đó là lí do tại sao tôi nói Phật giáo đạt tới chỗ
cao nhất: không tôi, không người.
Phật giáo nói: Không
có Thượng đế và không có hồn. Đó là nghĩa của nó. Đó không phải là lí thuyết
siêu hình, đó là phát biểu dưới dạng cao nhất của yêu: không có Thượng đế và
không có hồn. Tôi không hiện hữu và bạn không hiện hữu - được kết thúc. Thế thì
chẳng ích gì mà thốt ra lấy một lời. Bây giờ im lặng có thể tràn ngập, không có
nhu cầu ngay cả cho đối thoại.
Tôi-nó - các thân thể
gặp gỡ. Nó có tính dục, vật lí, rất thô. Tôi-người - các tâm trí gặp gỡ. Nó có
tính tâm lí; không thô thế, nhưng vậy mà không tinh tế thế. Không tôi-người -
các linh hồn bắt đầu gặp gỡ, các hồn bắt đầu gặp gỡ. Nhưng dầu vậy chúng là
tách rời. Lại gần hơn, lại gần hơn; chúng liên tục tới gần hơn, nhưng dầu vậy,
lằn ranh tinh tế tồn tại. Người sùng kính vẫn có đó: không rất có tính khẳng định,
không rất bản ngã, rất khiêm tốn, nhưng trong khiêm tốn của người đó nữa, cái
tôi tồn tại. Cách thứ tư là chỗ ngay cả cũng hồn biến mất: không thân thể,
không tâm trí, không hồn. Bạn đã về tới nhà. Duy nhất một tồn tại, không có bất
kì lằn ranh nào.
Đây là điều Kabir gọi:
khi yêu từ chối mọi giới hạn,
nó đạt tới chân lí.
Hương thơm lan rộng làm sao!
Và thế thì hương thơm
mà bạn đã từng mang trong nhiều kiếp cùng nhau, cái bạn đã mang như hạt mầm,
lan toả từ con người của bạn. Bây giờ nó đã trở thành đoá sen: bây giờ nó mở với
bầu trời, với gió, với mặt trời, với mưa, và hương thơm lan toả và liên tục lan
toả tới chính các góc của sự tồn tại. Chuyện tình của bạn đã lan toả khắp sự tồn
tại. Bây giờ bạn ở trong trạng thái cực thích với bản thân sự tồn tại. Đây là cực
lạc. Đây là phúc lạc tối thượng, phúc lành.
Trong trạng thái tối
thượng của yêu này, việc nở hoa tối thượng của con người bạn, yêu không còn là
mối quan hệ: nó trở thành trạng thái. Tôi-nó là quan hệ, rất bị giới hạn bởi
"nó". Tôi-người vẫn là quan hệ - được tự do chút ít, được tự do nhiều
hơn: dây thừng của bạn là lớn hơn để lang thang quanh - nhưng "người"
vẫn là quan niệm giới hạn. Nó vẫn là mối quan hệ. Không tôi-người... mọi thứ
đang tan chảy. Bạn ở trong nồi nấu tan chảy, nhưng bạn còn chưa biến mất toàn bộ,
hoàn toàn. Chắc chắn mối quan hệ này đã trở thành rất lớn, nhưng dầu vậy nó vẫn
là mối quan hệ. Trong trạng thái thứ tư nó không còn là mối quan hệ, vì để mối
quan hệ tồn tại, hai được cần. Nó là trạng thái của con người.
Mãi cho tới trạng
thái thứ ba bạn có thể nói yêu tồn tại như đối thoại. Bên ngoài trạng thái thứ
ba đối thoại đã biến mất. Bây giờ không phải là bạn yêu; bây giờ bạn là yêu.
Bây giờ yêu là tất cả mọi cái có đó: người yêu đã biến mất, người được yêu đã
biến mất, chỉ yêu còn lại.
Trong mọi tình huống
cuộc sống, ba ngôi này phải được nhớ: người biết, cái được biết, và tri thức;
người yêu, người được yêu, và yêu; người quan sát, cái được quan sát, và việc
quan sát. Đây là ba ngôi, dần dần, chúng ta phải làm tan biến đi. Khi người biết
không còn nữa và cái được biết không còn nữa, thế thì tri thức được tự do khỏi
mọi giới hạn. Thế thì tri thức là mênh mông, mênh mông như bản thân sự tồn tại.
Và yêu cũng vậy khi người yêu và người được yêu đã biến mất.
khi yêu từ bỏ mọi giới hạn,
nó đạt tới chân lí.
Nó trở thành bản thân chân lí.
Nó không có kết thúc, không cái gì đứng trên đường của nó.
Hình tướng của giai điệu này là sáng chói
như triệu mặt trời:
âm thanh vô song đàn vina,
đàn vina của các nốt chân lí.
Một điều nữa cần được
suy tư: Kabir nói đi nói lại rằng khi yêu đã nở hoa toàn bộ, có ánh sáng chói lọi,
dường như, đột nhiên, hàng triệu mặt trời đã mọc khắp xung quanh bạn. Và điều
này không chỉ Kabir nói vậy; Mohammed cũng nói vật, và Christ cũng nói vậy, và
mọi nhà huyền bí của thế giới cũng nói vậy. Họ đã nói rằng khi bạn đạt tới cốt
lõi bên trong nhất, đột nhiên có bùng nổ ánh sáng. Điều này không thể chỉ là biểu
dụ: các nước khác nhau, các ngôn ngữ khác nhau, các thế kỉ khác nhau, nhưng
trên khắp thế giới, các nhà huyền bí đã từng đồng ý về một điều - rằng vào khoảnh
khắc cuối cùng có bùng nổ ánh sáng, hàng nghìn mặt trời đã đột nhiên nảy sinh.
Ánh sáng là chói mắt thế, người ta không thể mở được mắt. Ánh sáng là rực rỡ thế;
phải mất thời gian để được điều chỉnh theo nó và để nhìn vào trong nó. Thực ra,
khi lần đầu tiên nó xảy ra, nhà huyền bí cảm thấy dường như ông ấy đã rơi vào
trong đêm tối. Nó làm loá mắt thế...
Các nhà huyền bí Ki
tô giáo đã nói rằng trước khi ánh sáng xảy ra, người ta phải trải qua đêm tối của
hồn. Điều đó gần như là bạn nhìn thẳng vào mặt trời: thế thì trong vài giây, bạn
sẽ cảm thấy dường như bạn sắp bị mùi. Đột nhiên, mặt trời sẽ biến mất, ánh sáng
sẽ biến mất; bạn sẽ trở nên gần như mù, bạn sẽ cảm thấy khắp xung quanh là tối.
Nếu mặt trời là quá
nhiều và mắt bạn không thể hấp thu được nó, chúng sẽ từ chối, chúng sẽ đóng lại
- do đó có tối. Và nếu hàng nghìn mặt trời đột nhiên có đó, làm sao bạn có thể
quan niệm được rằng bạn sẽ có khả năng thấy điều đó?
Lúc ban đầu nó trở
thành rất tối, tối kinh hoàng; nhà huyền bí cảm thấy ông ấy đã bị mù. Nhưng cho
dù trời tối, nó rất dịu; cho dù trời tối nó rất thảnh thơi; cho dù trời tối nhà
huyền bí sẽ không muốn mở mắt ra và nhìn thế giới bên ngoài. Bóng tối bên trong
là tốt hơn nhiều so với ánh sáng bên ngoài; một cách có quan hệ, một cách có so
sánh, nó là tốt hơn nhiều. Nhà huyền bí thảnh thơi trong bóng tối bên trong, và
dần dần, ông ấy trở nên được điều chỉnh, mắt ông ấy trở nên có năng lực thấy
ánh sáng này, ánh sáng này là gì.
Lần nữa tôi muốn nhắc
nhở bạn: các nhà vật lí nói rằng vật chất bao gồm điện, và nếu bạn liên tục
phân chia chúng thế thì chung cuộc nguyên tử được phân chia thành ánh sáng vô
cùng - chỉ điện tử còn lại. Đó là toàn thể lí thuyết về vụ nổ nguyên tử, về
năng lượng nguyên tử. Riêng một nguyên tử, khi nó nổ, trở thành ánh sáng lớn thế.
Khi bom nguyên tử được
thả xuống Hiroshima và Nagasaki, ánh sáng nhiều thế chưa bao giờ được thấy trước
đây, ánh sáng vô cùng và bùng nổ; chỉ trong vài giây, ánh sáng vĩ đại khắp mọi
nơi. Nếu có thể bằng việc phân chia một nguyên tử nhỏ mà bằng mắt trần không thể
thấy được, thế thì người ta phải nghĩ, thiền: có thể khi tế bào bên trong của sự
sống, nguyên tử của sự sống, nguyên tử của con người bạn, bùng nổ, cùng điều đó
có thể xảy ra - vì sự sống là cùng năng lượng, ngoài và trong. Vật chất và tâm
thức - nó là cùng năng lượng.
Các nhà vật lí nói
nguyên tử bùng nổ trong ánh sáng, và các nhà huyền bí nói hồn bùng nổ trong ánh
sáng. Họ dường như ở trong việc tán thành sâu sắc. Thực ra, không ai đang cố
làm chiếc cầu giữa tôn giáo và khoa học. Nếu nó được làm, nó sẽ có giá trị lớn
- những cái nhìn sâu này đi song song. Chúng phải đi song song, chúng phải đi vậy,
vì đó là một sự tồn tại. Ở đâu đó, mọi điều mà khoa học đã khám phá và mọi điều
mà tôn giáo đã khám phá, cho dù ngôn ngữ của họ là khác nhau, ở đâu đó phải có
sự tán thành, vì chúng ta đang tìm và kiếm các phương pháp khác nhau, các cách
tiếp cận khác nhau, những động thái khác nhau, nhưng chúng ta đang tìm cùng một
chân lí. Ở đâu đó này khác, nhà huyền bí và nhà khoa học phải trong sự tán
thành.
Hình tướng của giai điệu này là sáng chói
như triệu mặt trời…
Một điều thêm nữa: từ
chính thời cổ đại ở phương Đông, người ta đã từng nghĩ rằng mọi âm thanh có mầu
đặc biệt của nó. Đó là lí do tại sao trong âm nhạc Ấn Độ mầu sắc được gọi là
raga: 'raga' nghĩa là mầu sắc. Từng âm thanh có mầu riêng của nó: đó là một
trong những học thuyết rất cổ đại về âm nhạc phương Đông. Và bây giờ các nhà
khoa học cũng đang tới gần nó hơn: phải có tương ứng nào đó giữa âm thanh và mầu
sắc - vì âm thanh không là gì ngoài rung động của điện, và điện là mầu sắc, ánh
sáng. Khi tia sáng bị tách ra qua lăng kính, nó trở thành bẩy mầu. Khi bẩy mầu
đó lại gặp gỡ nó trở thành trắng. Có bẩy âm thanh, cũng như có bẩy mầu. Dứt
khoát có khả năng rằng bẩy mầu và bẩy âm thanh có cái gì đó chung.
Đó là lí thuyết về âm
nhạc Ấn Độ, và Kabir không chỉ là nhà huyền bí, không chỉ là nhà siêu hình; ông
ấy là nhạc sĩ nữa. Ông ấy nói: Hình tướng của giai điệu này là sáng như hàng
triệu mặt trời. Và khi giai đoạn bên trong, âm thanh bên trong, âm thanh vô âm,
anahat nad, omkar, bùng nổ, mầu của nó là tuyệt đối trắng - vì bây giờ mọi nốt
và mọi âm thanh biến mất trong một thứ. Cũng như bẩy mầu biến mất trong một mầu,
mầu trắng, bẩy âm thanh biến mất trong một âm thanh, âm thanh của im lặng.
Trong đêm im lặng
sâu, đôi khi bạn nghe thấy nó. Hay nếu bạn bịt tai chặt, đột nhiên bên trong có
âm thanh. Nếu bạn trở nên có tính thiền sâu và mọi suy nghĩ biến mẩt, thế thì bạn
sẽ nghe thấy cái sâu nhất. Khi tâm trí không vận hành, lăng kính bị bỏ đi.
Chính là qua lăng kính của tâm trí mà âm thanh bị phân chia, chia chẻ. Khi lặng
kính bị bỏ đi, tâm trí bị bỏ đi - đột nhiên mọi âm thanh trở thành một. Và mầu
của âm thanh một đó - điều Thiền nhân gọi là "tiếng vỗ tay của một bàn
tay" - là trắng.
Điều này dường như là
một phát biểu rất có tính sự kiện, và tôi đang nói điều đó cho bạn vì ngày này
hay ngày khác bạn sẽ bắt gặp nó. Nếu bạn liên tục thiền, ngày này hay ngày nọ bạn
sẽ đi tới ánh sáng bên trong này. Và đây là điểm của cao trào lớn. Âm nhạc là
mênh mông, giai điệu là mênh mông... nó là điều tối thượng… và ánh sáng là vô
cùng. Và cả hai là cùng nhau, dường như là hai mặt của cùng một năng lượng.
Con đường của yêu là tinh tế!
Thế thì không có hỏi và không có không hỏi,
Ở đó người ta mất đi bản thân mình dưới chân Ngài,
Ở đó người ta được nhấn chìm trong niềm vui của việc tìm kiếm:
nhào vào trong chiều sâu của yêu
như cá trong nước.
Người yêu không bao giờ chậm trong dâng hiến đầu mình
Vì sự phục vụ của Trời của người đó.
Kabir tuyên bố bí mật của yêu này.
Kabir là tuyên bố về
bí mật của yêu này. Ông ấy nói: Đây là con đường của tôi. Và con đường của yêu
là dành cho nhiều người. Dễ đi từ con đường của yêu hơn đi qua bất kì con đường
nào khác - vì yêu là gần tim bạn thế.
Vấn đề duy nhất nảy
sinh cho người đương đại, cho con người đương đại, là ở chỗ người đó không còn
đập trong tim mình. Người đó bị treo trong đầu. Chúng ta được huấn luyện ngày
càng nhiều về cái đầu, và tim đã bị bỏ quên, bỏ qua. Không có huấn luyện cho
tim, không có môn học cho tim; không có trường học, không có đại học nào bận
tâm về tim. Về việc cảm, chúng ta là hoang dã, còn tệ hơn hoang dã. Toàn thể văn
hoá của chúng ta là của cái đầu, cho nên đầu trở thành quá nặng và tim liên tục
co lại. Nó đáng phải không như vậy. Đây là thảm hoạ lớn nhất đã xảy ra cho nhân
loại trong toàn thể lịch sử của tâm trí, của tâm thức. Chúng ta ở trong đầu quá
nhiều, có quá nhiều đầu tư vào cái đầu; tim bị bỏ lại xa đằng sau. Thực ra,
chúng ta đã bỏ qua nó, chúng ta thậm chí đã không đi qua nó.
Chúng ta không cho
phép việc cảm. Con người của cảm dường như là yếu, con người của vô cảm dường
như là rất mạnh. Chúng ta dạy mọi người không có tính xúc cảm. Chúng ta dạy mọi
người không khóc, không cười quá to. Chúng ta dạy mọi người bao giờ cũng vẫn
còn trong kiểm soát; và nếu bạn đang trong kiểm soát, thế thì yêu sẽ không xảy
ra cho bạn - vì yêu chỉ xảy ra khi bạn ở trong trạng thái không kiểm soát.
Yêu là cái gì đó lớn
hơn bạn; bạn không thể kiểm soát được nó. Nếu bạn muốn kiểm soát, bạn có thể vẫn
còn trong ghét. Ghét có thể bị kiểm soát; ghét là nhỏ hơn bạn. Yêu không thể bị
kiểm soát; yêu là lớn hơn bạn. Nếu bạn cố kiểm soát yêu, bạn sẽ bỏ lỡ mọi khả
năng. Bạn sẽ trở thành người vô yêu - và đó là điều người chết là gì: người vô
yêu, người tồn tại trong đầu và người đã quên mất tim riêng của mình.
Kabir nói: bhakti ka
marag jhina ra - con đường của yêu là tinh tế.
Vâng, nó không thô.
Cái đầu là rất thô. Đầu không là gì ngoài logic, số học, tính toán, tinh ranh,
láu lỉnh; tốt để khai thác mọi người, tốt để hành hạ mọi người, tốt để thu thập
tiền, có số dư ngân hàng lớn; tốt để trở thành chính khách, tốt để khuất phục mọi
người, tốt để phá huỷ. Cái đầu là rất thô.
Tim là rất tinh tế,
và tuyệt đối vô dụng khi có liên quan tới thế giới. Qua tim là thơ ca, không
tính toán. Qua tim là xúc động. Qua tim là nhạy cảm, không láu lỉnh. Qua tim là
từ bi, không khai thác. Tim không được cần chút nào ở chợ; tim không thể mua bất
kì hàng hoá nào. Và tim sẽ không làm cho bạn thành chính khách lớn hay tướng
lĩnh lớn; nó sẽ không làm cho bạn thành chiến binh lớn, nó sẽ không làm bạn
thành một Adolf Hitler đẫm máu hay ai đó khác.
Với tim, dần dần, bạn
sẽ đi xa khỏi những con đường của cạnh tranh, cạnh tranh cắt họng, vật lộn bạo
hành nơi mọi người chống lại mọi người. Thế giới thù địch này, thế giới xấu xa
này... bạn sẽ dần dần đi sang bên lề. Bạn sẽ không còn trên đường siêu xa lộ của
tính xấu; bạn sẽ không còn là một phần của xã hội xấu này; bạn sẽ không chơi những
trò chơi này của chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản; bạn sẽ không quan tâm tới các ý thức hệ theo bất kì cách nào. Bạn
sẽ yêu, và bạn sẽ tận hưởng, và bạn sẽ vui sướng.
Để khác biệt này là rất
rõ ràng cho bạn.
Mới vài ngày trước một
thanh niên nói với tôi, "Tôi đang thiền và yêu lớn nảy sinh trong tôi với
nhân loại."
Tôi nói, "Với
nhân loại sao? Làm sao bạn sẽ yêu được nhân loại? Bạn sẽ tìm ra nhân loại ở
đâu? Bạn nói nhân loại sao? Con người sẽ là đủ. Yêu con người, không phải nhân
loại. 'Nhân loại' là thủ đoạn của cái đầu. Nhân loại sao? Làm sao bạn sẽ yêu
nhân loại được? Bạn sẽ ôm nhân loại ở đâu? Bạn sẽ cầm tay nhân loại ở đâu? Bạn
bao giờ cũng sẽ tìm ra con người dù bạn đi bất kì chỗ nào; bất kì nhân loại nào
chẳng có ở đâu cả. Nhân loại là ý thức hệ, là quan niệm, sự trừu tượng trong đầu.
Sự sống bao giờ cũng là đặc biệt, cái đầu bao giờ cũng có tính quan niệm. Bạn
bao giờ cũng tìm ra con người nào đó, đàn ông, đàn bà..."
Và khi tôi nó với anh
thanh niên này, "Yêu con người đi," anh ta choáng. Thực ra, anh ta đã
cố trốn vào trong "yêu nhân loại" để né tránh con người. Không, anh
ta đã không rất hài lòng khi tôi nói điều đó. Tôi có thể thấy trong mắt anh ta
rằng anh ta rất không hài lòng - dường như tôi đã mang anh ta xuống; anh ta đã
bay rất cao. Anh ta không bay chút nào đâu; anh ta đã đơn giản chơi trò chơi
nói ra mồm.
Nếu bạn yêu nhân loại,
bạn có thể giết con người để cứu nhân loại. Nếu bạn yêu hoà bình, bạn có thể đi
vào chiến tranh. Đừng bao giờ yêu hoà bình và đừng bao giờ yêu dân chủ và đừng
bao giờ yêu chủ nghĩa cộng sản - toàn các ý thức hệ.
Yêu con người cụ thể
đi, yêu cây cụ thể, yêu đá cụ thể, đặc biệt... và chỉ thế thì bạn sẽ biết yêu là
gì. Quên các trừu tượng lớn đi; chúng là nguy hiểm. Con người đã từng đánh nhau
vì chúng, tiêu diệt lẫn nhau. Người Mô ha mét giáo sẵn sàng đánh nhau vì Hồi
giáo, và người đó sẽ giết người vì tình yêu của Hồi giáo. Bây giờ điều này là
ngu xuẩn. Người Ki tô giáo thậm chí sẵn sàng giết người Ki tô giáo nếu đó là để
cứu Ki tô giáo. Ki tô giáo này là gì vậy?
Yêu cái cụ thể, yêu
cái tức khắc đi. Tận hưởng khoảnh khắc này, đừng chuẩn bị cho ngày mai. Hôm nay
là đẹp: cui sướng trong nó đi, để nó là việc mở hội.
Con đường của yêu là
tinh tế!
Tại sao tinh tế? Vì
người ta phải có tính nhạy cảm, người ta phải ngày càng nhiều trong tim hơn,
người ta phải trở nên có khả năng cảm và đáp ứng.
Cảm, khóc, cười, múa,
nhỏ nước mắt, la hét, nhưng làm điều đó từ tim. Và dần dần bạn sẽ cảm thấy thay
đổi mới, sự biến đổi - năng lượng rơi từ đầu hướng tới tim. Và bạn sẽ bắt đầu
đi theo cách khác toàn bộ. Những giá trị mới sẽ nảy sinh, vì cái đầu có giá trị
khác.
Bạn rơi vào yêu với
người đàn bà đẹp, nhưng cái đầu nói, "Mình đang làm gì đây? Người đàn bà
này là đẹp nhưng cô ấy không có tiền." Cái đầu nói, "Tốt hơn là tìm bạn
gái có tiền." Cái đầu tính toán, cái đầu là điên. Do đó tôi nói với bạn: Nếu
bạn muốn yêu, là điên đi. Duy nhất người điên - điên theo nghĩa rằng họ không
tính toán, điên theo nghĩa rằng họ mạo hiểm cái bên ngoài vì cái bên trong,
điên theo nghĩa rằng họ có thể mạo hiểm ngày mai vì hôm nay - duy nhất người
điên có thể đi trên con đường của yêu.
Thế thì không có hỏi
và không có không hỏi…
Bạn phải hiểu rằng, lần
nữa, yêu có thể có bốn kiểu. Một: bạn đơn giản hỏi xin; đó là yêu chưa trưởng
thành. Đứa bé đơn giản hỏi xin. Nó không thể cho, ngay chỗ đầu tiên; nó không
biết cách cho. Nó là đứa trẻ, nó có thể được tha thứ. Nó hỏi xin người mẹ, nó hỏi
xin người bố, nó hỏi xin mọi người. Mọi người phải yêu nó; nó rất đòi hỏi.
Nhưng người ta phải trưởng thành ra khỏi việc đó. Điều này là rất chưa trưởng
thành. Loại yêu thứ nhất là yêu chưa trưởng thành, khi bạn đòi hỏi: bạn nói,
"Cho tôi cái này, cho tôi cái kia. Nếu bạn cho tôi, tôi sẽ biết bạn yêu
tôi; nếu bạn không cho tôi, thế thì chắc chắn bạn không yêu tôi." Đó là
cách duy nhất đứa trẻ biết dù bạn yêu nó hay không. Nếu bạn mang cho nó nhiều đồ
chơi, nhiều kem, nhiều thứ, thế thì nó biết bạn yêu nó. Nó có thể hiểu chỉ một
ngôn ngữ - đó là việc cho nó các thứ; cho nó.
Điều này không sai, mọi
đứa trẻ phải trải qua pha này. Nhưng nhiều người vẫn còn bị mắc kẹt ở đó. Thế rồi
họ đã trở thành người lớn - họ có thể có con riêng của họ. Người này bây giờ có
thể bốn mươi, có thể có ba con riêng của người đó, và dầu vậy người đó liên tục
đòi hỏi. Một người bốn mươi tuổi về nhà và anh ta đợi cho đứa con cho anh ta
cái hôn, và anh ta nói, "Trông đây, bố đây. Bây giờ cho cái hôn đi."
Bạn là kiểu bố gì vậy? Bạn vẫn chưa trưởng thành, bạn vẫn đang hỏi xin. Và kiểu
người này sẽ hỏi xin yêu từ người vợ, và kiểu đàn bà này sẽ hỏi xin yêu từ người
chồng; mọi người hỏi xin, và không ai sẵn sàng cho; toàn trẻ con, không ai đủ
trưởng thành để cho. Do đó có nhiều xung đột thế.
Kiểu thứ hai, kiểu
yêu cao hơn, là khi bạn bắt đầu cho - khi bạn cho, và bạn không bận tâm về liệu
người khác có cho bạn hay không. Nhưng nhớ, bạn có thể bị mắc kẹt ở kiểu thứ
hai nữa. Người ta có thể bị mắc kẹt nhiều tới mức người ta sẽ không cho phép ai
đó cho người ta bất kì cái gì. Nhà truyền giáo, người làm việc tốt, những người
này, họ sẽ không cho phép. Nếu bạn cho phép họ làm cái gì đó tốt cho bạn, họ sẵn
sàng, nhưng họ sẽ không nhận lại bất kì cái gì - vì điều đó là chống lại bản
ngã của họ. Làm sao họ có thể nhận được? Họ là những người trưởng thành; họ chỉ
cho, họ không nhận. Họ đã chuyển sang cực đoan kia. Họ là trưởng thành hơn kiểu
thứ nhất, nhưng vẫn có trưởng thành khác. Đây lại là bản ngã: "Tôi chỉ có
thể cho."
Một người tôi biết là
người giầu, người rất giầu, và anh ta đã từng làm mọi loại giúp đỡ cho họ hàng,
bạn bè của anh ta. Anh ta đã phân phát nhiều tiền của mình. Anh ta thường tới
tôi. Một lần anh ta nói, "Một điều tôi không bao giờ có thể hình dung ra
được: Tôi đã từng giúp đỡ mọi người, nhưng không ai đã bao giờ cảm thấy biết ơn
với tôi."
Và tôi biết anh ta đã
cố gắng - anh ta đã giúp đỡ, anh ta thực sự hào phóng, người hào phóng hiếm
hoi. Bạn chỉ cho anh ta một gợi ý và anh ta sẽ cho; bất kì cái gì anh ta có thể
cho anh ta sẽ cho. Anh ta sẽ không bao giờ nói không. Và anh ta đã cho: mọi họ
hàng và bạn bè của anh ta đã trở nên giầu có vì anh ta. Và điều này nữa tôi biết:
rằng không ai biết ơn anh ta. Và tôi bảo anh ta, "Bạn có thể không thích
điều đó, nhưng vấn đề là: bạn bao giờ cũng cho, bạn không bao giờ cho phép họ
cho bạn bất kì cái gì. Bạn quá bản ngã... hào phóng, nhưng bạn không thể quan
niệm được việc nhận bất kì cái gì từ bất kì người nào. Điều đó chống lại bản
ngã của bạn."
Anh ta suy ngẫm về điều
đó. Anh ta bắt đầu khóc. Anh ta nói, "Có thể điều này là đúng. Tôi đã
không bao giờ nhận giúp đỡ của bất kì người nào trong đời tôi. Tôi là người tự
tay làm nên. Tôi có thể cho, nhưng tôi không thể nhận. Có thể thầy đúng."
Tôi nói, "Không
có nhu cầu nhận những thứ lớn, nhưng nhận những thứ nhỏ đi. Cứ nói với ai đó,
'Tôi cảm thấy bị ốm; bạn tới và ngồi cạnh tôi và tôi sẽ cảm thấy hạnh phúc' -
điều đó sẽ có tác dụng. Những thứ nhỏ bé - nhưng cho người khác một cơ hội để
cũng bầy tỏ tình yêu của người đó hướng tới bạn. Bằng không người đó bao giờ
cũng bị nặng gánh, và bị nặng gánh. Và khi người ta bị nặng gánh, người ta
không bao giờ có thể tha thứ cho bạn."
Cho nên kiểu yêu thứ
ba là khi một người có thể nhận và cho - có thể dễ dàng nhận, có thể dễ dàng
cho - và không có vấn đề gì. Dòng chảy là tương đương, cũng như việc thở vào và
thở ra. Đây là kiểu yêu thứ ba; rất trưởng thành.
Và kiểu thứ tư, kiểu
cuối cùng, là khi bạn không biết cho cái gì và nhận cái gì. Vì người kia không
còn đó, bạn là một phần của cái toàn thể.
Người yêu không bao
giờ chậm trong dâng hiến đầu mình
Vì sự phục vụ của Trời
của người đó.
Nhớ, chỉ một dâng hiến
sẽ có tác dụng - dâng hiến đầu của bạn. Dâng hiến suy nghĩ của bạn, ý nghĩ của
bạn, suy luận của bạn; điều đó sẽ có tác dụng. Chỉ chặt đầu bạn và là hiện hữu
cùng tim. Và Kabir nói: Đây là bí mật mà tôi tuyên bố với bạn.
Đừng liên tục dâng hiến
hoa; chúng sẽ không giúp gì. Dâng hiến đầu của bạn, dâng hiến suy nghĩ của bạn,
ý chí của bạn. Và Kabir nói: Khi ông được nhấn chìm trong niềm vui của việc tìm
kiếm... Người yêu thực, người đi theo thực trên con đường của yêu, không bị lo
nghĩ về mục đích. Cuộc hành trình là mục đích.
"Cõi trời là mọi
con đường tới cõi trời. Ngài đã không nói, 'Ta là con đường' đó sao?"
Ông ấy không bị bận
tâm về cái gì sẽ xảy ra ngày mai, đến cuối. Ông ấy không hướng theo kết quả; cuộc
hành trình là mục đích của ông ấy. Điều đó là đẹp vô cùng. Bhaktas, người sùng
kính, đã từng hát ở phương Đông: "Thưa Trời, chúng tôi không tìm cứu rỗi.
Chúng tôi không muốn moksha, niết bàn. Thế giới này là đẹp, trò chơi của ngài
là đẹp; cho phép chúng tôi chơi đi! Cuộc hành trình là đẹp vô cùng - ai bận tâm
về mục đích? Cuộc hành trình là mục đích."
Người sùng kính, người
yêu, yêu bản thân việc tìm kiếm. Người đó không vội vàng tìm ra Thượng đế. Người
đó nói, "Ngài tiếp tục trốn kĩ đi. Để chúng tôi chơi trò chơi trốn tìm; việc
tìm kiếm là đẹp thế." Và người đó không vội vàng, người đó không nóng vội.
Người đó nói, "Tôi sẽ đợi. Bất kì khi nào ngài quyết định tới, tới đi.
Ngài sẽ thấy tôi sẵn sàng, cánh cửa nhà tôi sẽ mở. Tôi sẽ chờ ở cửa, và thức ăn
sẽ sẵn sàng. Ngài tới và chúng ta sẽ có bữa tiệc. Và không vội vàng gì: ngài có
cả nghìn lẻ một thứ để làm; ngài làm chúng, ngài giữ thời gian của ngài. Tôi có
thể đợi."
Người yêu là tuyệt đối
kiên nhẫn, và tận hưởng chính việc tìm kiếm, chính sự tồn tại. Mục đích của người
đó không ở trong tương lai, người đó được nhận chìm trong khoảnh khắc này,
trong cái tức khắc này - đó là thiền của người đó.
Điều này là có thể nếu
bạn bỏ cái đầu của bạn. Nếu bạn bỏ tâm trí của bạn, chỉ với việc bỏ tâm trí,
toàn thể năng lượng đi tới tim... và yêu nảy sinh.
Yêu là chìa khoá bí mật;
nó mở cánh cửa của điều thiêng liêng. Cười, yêu, sống động, múa, hát, trở thành
trúc hổng, và để bài ca của Ngài chảy qua bạn.
Murali bajat akhand
sadaya: Sáo của ngài liên tục hát. Bài ca của ngài liên tục tiếp diễn. Bất kì
khoảnh khắc nào bạn quyết định trở thành chiếc sáo của Ngài, Ngài sẽ nhận bạn
trong tay Ngài, Ngài sẽ đặt bạn vào môi Ngài, Ngài sẽ bắt đầu hát bài ca... và
bài ca đó là bài ca của yêu, bài ca của tự do, bài ca của niết bàn.
Xem Chương 10 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá