Read more
Thực Hành Vô Ngã by
Vô Ngã
Con Đã Có Đường Đi – Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Con Đường Của Phật
Những đóng góp của đạo Phật cho một nền đạo đức
toàn cầu
Chương 05. Cánh cửa đi tới giải thoát

Cánh cửa đi tới giải thoát
Trong đạo Bụt có đề cập
tới ba phép thực tập để đưa tới giải thoát: Giới, Định, Tuệ, đó là Tam Vô Lậu Học.
Thực tập giới đưa tới định
lực. Khi giới và định hùng hậu, ta có khả năng chọc thủng được bức màn vô minh
và tiếp xúc được với thực tại, đạt tới tuệ giác. Mà có tuệ giác là có sự giải
thoát.
Thông thường, giới được
hiểu như là đạo đức, nhưng tại Làng Mai giới được hiểu như là sự thực tập chánh
niệm. Do vậy, theo truyền thống Làng Mai, Giới, Định, Tuệ còn được gọi là Niệm,
Định, Tuệ.
Cách đây bốn chục năm,
tôi đã khám phá ra điều này: giới tức là niệm. Tại vì niệm có nghĩa là ý thức
được những gì đang xảy ra trong mình và xung quanh mình. Ví dụ, khi có sự căng
thẳng và ta biết rằng ta đang có sự căng thẳng. Thở vào, tôi ý thức được sự
căng thẳng trong thân tâm tôi. Thở ra, tôi buông bỏ sự căng thẳng trong thân
tâm tôi. Trước hết, phải nhận diện được sự căng thẳng đang có mặt, và sự căng
thẳng là một nỗi khổ.
Nếu có niệm lực hùng hậu,
thì định sẽ xuất hiện. Khi để hết tâm ý vào sự căng thẳng tức là khổ đế thì ta
sẽ tìm ra được nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng (tập đế), đó là cách sống hấp
tấp, vụt chạc, dồn nén, mà không chịu buông thư trong đời sống hằng ngày. Rõ
ràng, niệm giúp ta nhận diện ra cái khổ, và giúp ta thấy được gốc rễ của cái khổ.
Niệm đi cùng định tìm đến với tuệ. Tuệ tức là thấy được cái nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng. Khi biết được nguyên nhân của sự căng thẳng, ta sẽ thực tập và lấy những căng thẳng ra khỏi thân tâm, đó là diệt đế.
Phương pháp buông thư, phương pháp thực tập để chuyển hóa tận gốc những căng thẳng chính là đạo đế. Vì vậy, niệm là đầu dây mối nhợ. Nhờ có niệm mà có định, nhờ có định mà có tuệ. Nhờ niệm định tuệ, ta thấy được chân tướng của Bốn sự thật.
Trong văn học đạo Bụt,
chữ học có nghĩa là thực tập, Tam học là ba sự thực tập. Khi người hãy còn phải
thực tập thì gọi là hữu học. Người đã thực tập thành công rồi, không còn phải học
nữa thì gọi là vô học. Vô học không có nghĩa là vô giáo dục.
Vô học trong đạo Bụt là
một địa vị rất cao. Các bậc vô học cao hơn các bậc hữu học nhiều. Khi nói tôi
là một người hữu học có nghĩa tôi là người đang còn thực tập. Bạn là một người
vô học có nghĩa bạn đã thực tập thành công rồi. Ta thực tập niệm tức là ta thực
tập giới. Vì vậy, ta cần biết rằng nền tảng của đạo đức đạo Bụt là chánh niệm.
Đầu dây mối nhợ bắt đầu từ chánh niệm. Có chánh niệm, ta biết mình cần làm gì
và không nên làm gì.
Giới cũng có nghĩa là đạo
đức. Đạo đức là những quy tắc, những tuệ giác giúp ta biết được nên làm gì và
không nên làm gì để tránh khổ đau và mang lại hạnh phúc cho mình và cho người.
Tuệ giác là cái thấy sâu sắc
Trong quá khứ, có thể
nhiều vị thầy đã thấy được giới tức là niệm. Nhưng có lẽ tôi là người đầu tiên
nói ra điều đó. Chúng ta biết, nếu niệm hùng hậu sẽ mang tới định. Nếu niệm, định
hùng hậu ắt sinh tuệ.
Trong phạm vi Đạo đức học,
tuệ tức là cái thấy. Như ví dụ về sự căng thẳng vừa xét trên, mình thấy được sự
căng thẳng đang diễn ra trong thân tâm mình, mình cũng biết rằng mình có thể
buông thư và có những phương pháp cụ thể để đạt tới sự buông thư, chấm dứt căng
thẳng. Cái thấy này gọi là tuệ.
Tuệ rất quan trọng, bởi
không có tuệ, ta chẳng biết đường đâu mà thực tập. Tuệ tức là chánh kiến. Khi
có chánh kiến, ta sẽ có chánh tư duy, và hẳn nhiên là sẽ nói năng đúng phép, tức
là chánh ngữ. Khi có chánh kiến, ta sẽ hành động đúng, tức là chánh nghiệp. Và
khi có chánh kiến, ta sẽ biết tìm nghề nghiệp mà không gây khổ đau, không tàn hại
sinh môi, không gây tác hại cho những sự sống khác đó là chánh mạng. Tư duy,
ngôn ngữ, hành động và nghề nghiệp đúng, không gây khổ đau cho ta và cho người
khác là nhờ có tuệ hay chánh kiến. Sự siêng năng trong các hoạt động để phục vụ
cho hạnh phúc của người và của mình gọi là chánh tinh tấn. Tinh tấn có khi còn
được gọi là cần. Bát Chánh Đạo là con đường của tám sự hành trì chân chính có
thể được coi như nền tảng của nền đạo đức Phật giáo.
Nhìn tổng quát, ta thấy
rằng trong nền đạo đức Phật giáo, giáo lý Bát chánh đạo không phải chỉ dành
riêng cho những vị tu sĩ. Giáo lý Bát chánh đạo dành cho tất cả mọi người trong
xã hội. Bởi khi sống trong xã hội, ta phải tiếp xúc với mọi người và mọi loài.
Do vậy, hành động, ngôn ngữ của ta đừng để gây đổ vỡ, gây khó khăn cho người
khác, cho các loài khác. Bát chánh đạo là căn bản của một nền đạo đức được áp dụng
trong xã hội chứ không chỉ áp dụng riêng trong chùa hay trong các tu viện. Rõ
ràng, đạo Bụt có tính cách nhập thế. Cho nên chúng ta xác định rằng Bát chánh đạo
là nền tảng của nền đạo đức cho toàn xã hội. Đạo Bụt nhập thế, đạo Bụt đi vào
cuộc đời có cơ sở ngay từ giáo lý Bát chánh đạo.
Làm sao để có tuệ giác?
Sự quán chiếu trong đạo
Bụt phải dùng đến năng lượng niệm và định. Đối tượng của niệm và định trước hết
là những đau khổ, những khó khăn trong đời sống. Đạo Bụt không chủ trương về những
vấn đề siêu hình như sự quán sát trăng sao, vũ trụ, nguồn gốc của thế giới này…
Đạo Bụt đưa con người trở về với vấn đề của hiện tại, vấn đề của những khổ đau,
những khó khăn đang tồn tại trong cuộc sống, và giúp đưa ra phương pháp chuyển
hóa những khổ đau và khó khăn ấy để mọi loài có thể sống hạnh phúc.
Vậy nên nền đạo đức đạo
Bụt có tính cách thực dụng. Nếu quay trở về quán chiếu sự thật về khổ, ta sẽ
khám phá ra được khổ đau và hạnh phúc đều có gốc rễ. Tập là gốc rễ của khổ và đạo
là gốc rễ của hạnh phúc. Qua đó ta có thể thấy được Bốn sự thật nương vào nhau
mà có, Bốn sự thật tương tức không thể tách rời nhau. Do vậy, tuệ giác là nền tảng
của đạo đức đạo Bụt.
Nhưng làm sao để có tuệ?
Muốn có tuệ cần phải có niệm và định. Có tuệ thì tư duy đúng, nói năng đúng,
hành động đúng, phương thức sống đúng, tinh tấn đúng. Một khi đã có tuệ thì
không còn khổ đau nữa.
Do đó, Bát chánh đạo bắt
đầu bằng chánh kiến (cái thấy đúng). Cái thấy đúng tức là cái thấy tương tức. Nếu
đạt được cái thấy tương tức thì sự thực tập bảy chi phần còn lại của Bát chánh
đạo mới sâu sắc được. Ví dụ khi nhìn cây bắp, ta thấy được hạt bắp, cây bắp và
hạt bắp không ở ngoài nhau, chúng ở trong nhau.
Trong khoá tu tổ chức đầu
năm 2008 tại Ý, tôi có phát cho mỗi thiền sinh một hạt bắp. Tôi yêu cầu họ đem
hạt bắp đó về trồng trong chậu, chăm sóc cho đàng hoàng. Khi cây bắp nẩy mầm,
ra lá thì đến nói chuyện với nó, hỏi nó như thế này: “Cây bắp ơi, em có nhớ rằng,
ngày xưa em đã từng là hạt bắp không?” Hỏi xong, hãy lắng nghe cây bắp trả lời.
Cũng có thể cây bắp quên mất, nó lúng túng hỏi lại: “Tôi hả? Tôi đã từng làm hạt
bắp hả? Lạ quá, tôi không nhớ chuyện đó.” Nếu nó quên, ta cần nhắc cho nó nhớ.
Ta là người đã trồng ra nó, ta đã mang nó từ khóa tu về, ta đã chăm sóc nó,
quan sát nó từ khi nó nẩy mầm, ra lá thứ nhất, lá thứ hai, lá thứ ba...
Đôi khi, ta cũng giống
như cây bắp. Khi giận cha, giận mẹ, ta quên mất rằng ta được sinh ra và lớn lên
như thế nào. Ta nghĩ cha mẹ là những thực thể ngoài ta. Ta không còn nhớ cha mẹ
là người đã từng sinh ra ta và ta đang mang cha mẹ trong người. Ta đâu biết, ta
bước được một bước, nở được nụ cười là cha mẹ ta cũng được hưởng những điều ấy.
Nếu thấy được như vậy thì ta không thể nào giận cha mẹ được.
Đối với người Hồi giáo
và Ấn Độ giáo hay giữa người Palestine và người Do Thái, nếu họ thấy được tính
tương tức trong nhau thì họ sẽ không còn chống đối nhau, kỳ thị nhau nữa. Tất cả
chúng ta cùng chung một tổ tiên cho dù chúng ta mang màu da khác nhau. Nếu thấy
được rằng chúng ta có mối quan hệ chặt chẽ với nhau thì chúng ta sẽ không còn
làm khổ nhau nữa. Tương tức là cái thấy căn bản do đức Thế Tôn khám phá ra.
Các nhà khoa học đặt ra
câu hỏi: bộ não và tâm thức của ta có dính líu với nhau không? Có phải tâm thức
là do não bộ sinh ra không? Bộ óc và tâm thức là hai hay là một? Có cái chủ thể
nhận thức nằm ở trong bộ não không? Có một thế giới được nhận thức ở bên ngoài
bộ não không? Cái tâm thức chủ quan và cái thế giới khách quan có liên quan với
nhau không? Đây là những mối quan tâm nhất hiện nay của các nhà khoa học.
Nhưng ba mươi mấy năm
nay, phần lớn giới khoa học chủ trương theo đường hướng nhị nguyên. Còn đạo Bụt
quan niệm rằng, tâm thức và pháp (đối tượng của tâm thức) ở trong nhau. Thân ở
trong tâm và tâm ở trong thân. Thân và tâm không thể ở ngoài nhau. Đó là cái
nhìn tương tức, bất nhị. Theo cái nhìn bất nhị, não bộ với tâm ý chứa đựng
nhau, trong não bộ có tâm ý, trong tâm ý có não bộ. Trong cây bắp có hạt bắp,
trong hạt bắp có cây bắp. Con có trong cha mẹ, cha mẹ có trong con.
Một trong những phép tu
của đạo Bụt là các phép quán: quán vô thường, quán vô ngã, quán duyên sinh,
quán không, quán tương tức. Nhưng chúng ta phải thấy được các phép quán này có
tính tương tức. Nếu ta thực tập thành công một phép quán thì ta có thể hiểu được
những phép quán khác.
Ví dụ, đứng về phương
diện thời gian thì cái chuông này vô thường. Nhưng đứng về phương diện không
gian, cái chuông này vô ngã. Cái chuông không có một thực thể riêng biệt. Nó được
tạo thành từ rất nhiều yếu tố và nó biến chuyển không ngừng theo thời gian. Do
vậy, vô thường là vô ngã. Hơn nữa, tất cả các hiện tượng đều do nhân duyên mà
thành, mà biểu hiện nên vô ngã cũng chính là duyên sinh. Từ đóa hoa, chiếc bàn
cho đến vì sao trên bầu trời… đều do những điều kiện hội tụ mà thành. Mọi hiện
tượng do duyên sinh, mọi hiện tượng đều vô ngã, vô thường.
Vô thường tức vô ngã, vô ngã tức duyên sinh, duyên sinh tức không. Không tức là không có mặt riêng biệt, độc lập.
Hạt bắp làm sao có mặt
riêng biệt với cây bắp được? Cây bắp làm sao có mặt riêng biệt với hạt bắp được?
Cha làm sao có mặt riêng biệt ngoài con và con cũng làm sao có mặt ngoài cha được?
Ta cần thấy được tính tương tức giữa các sự vật, hiện tượng. Về mặt hình thức,
đôi lúc ta thấy dường như có những cái chống đối nhau. Nhưng sự thực chúng
không chống đối nhau, chúng tương tức với nhau. Nếu ta quán chiếu Tứ Điệu Đế dưới
ánh sáng của chánh niệm, ta sẽ thấy được rằng có khổ cho nên mới có vui, có vui
cho nên mới có khổ, khổ và vui tương tức. Và cái thấy này cũng đúng với tất cả
các hiện tượng hiện hữu trong vũ trụ.
Như đã nói ở trên, mọi
sự vật hiện tượng đều có tính vô thường, vô ngã, tương tức và không. Nhưng nếu
dùng chữ không, nhiều người sẽ hiểu lầm là đạo Bụt chủ trương đoạn diệt, bi
quan. Trong đạo Bụt có nhiều phép quán, ta có thể đem Niệm, đem Định chuyên chú
về một phép quán. Nếu ta thành tựu được Định đó thì ta sẽ có Tuệ. Định này có
thể là định vô thường, định vô ngã, định không, định duyên sinh hay định tương
tức. Khi có Tuệ, ta sẽ có được nền tảng đạo đức không sai lạc. Lúc này, ta
không còn bị kéo theo những cái tà kiến. Tà kiến là những cái thấy đi ngược lại
với tính không, vô thường, vô ngã, duyên sinh, tương tức.
Nếu lấy tà kiến làm nền
tảng thì tư duy sẽ sai lầm, ngôn ngữ sẽ sai lầm, hành động sẽ sai lầm, gây khổ
đau cho ta và cho người khác. Ở đây, ta nói chánh kiến là nền tảng của nền đạo
đức chân chính. Nhưng chánh kiến này từ đâu đến? Nó đến từ công phu quán chiếu.
Nó không đến từ một đấng Thượng Đế. Chúng ta phải dùng Niệm, Định để khảo sát Tứ
Đế, và đạt tới cái thấy về không, về tương tức, về vô thường, về vô ngã, và về
duyên sinh. Đây là cái thấy Bất nhị. Chư Tổ có dạy, chánh kiến chính là tuệ,
trước hết là cái thấy về Bốn sự thật. Nếu thấy được Bốn sự thật trong chân tướng
của nó thì sẽ thấy được bản chất của toàn bộ vũ trụ.
Triết gia Aristotle có
để lại thuyết Natural Law (luật tự nhiên). Thuyết này ra đời nhiều trăm năm trước
Chúa giáng sinh. Và đã được một người đệ tử của Plato Aristotle ghi chép lại.
Aristotle nói rằng mình phải đặt câu hỏi về bản chất và công dụng của những sự
vật đang hiện hữu trong vũ trụ này. Cần hỏi rằng cái này là cái gì? Cái này làm
bằng gì? Nó được làm ra như thế nào? Dùng vào việc gì? Ví dụ như ta cầm con dao
lên hỏi cái này là cái gì? Trả lời: Con dao. Hỏi tiếp: Làm bằng gì? Trả lời: Sắt.
Cái này do đâu mà có? Trả lời: Do ông thợ rèn. Dùng để làm gì? Trả lời: để cắt,
gọt. Aristotle thấy sự xuất hiện của tất cả mọi vật, mọi hiện tượng trong vũ trụ
đều có lý do tồn tại và mục đích, chứ không phải là sự tình cờ. Còn khoa học
thì tin vào sự tình cờ, vào sự chọn lọc tự nhiên.
Nhưng có một điều rất
thú vị là khi Aristotle được hỏi vi trùng vì sao mà có, lý do tồn tại của nó, mục
đích của bệnh tật là gì thì ông ta hơi bỡ ngỡ, hơi lúng túng. Hoặc những trận
bão, những trận hỏa hoạn có lợi ích và công dụng gì thì thật là khó hiểu, khó
trả lời. Tới đây thì người ta loanh quanh, lẩn quẩn, và tìm cách để giải thích
rằng đó là những hình phạt của Thượng Đế đối với những con người sống không
đàng hoàng. Rõ ràng thuyết tự nhiên có những khó khăn.
Còn Cơ Đốc giáo và Do
Thái giáo nói rằng chính Thượng đế đã tạo ra thế giới này và Thượng đế đã đặt
vào trong lòng sự vật những luật lệ, khi nhìn vào sự vật thì ta thấy được những
ý định của Thiên chúa. Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo thì dạy rằng vũ trụ đã được
một Thượng đế toàn năng và đầy thương yêu tạo ra để làm chỗ ở cho con người.
Con người được tạo ra từ Thượng đế. Sự có mặt của vũ trụ này có ý nghĩa và có mục
đích. Và vũ trụ này là nơi để thực hiện các chương trình và mục đích của Thượng
đế. Đó là cái nhìn theo Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo.
Căn cứ trên cái thấy
đó, một nền đạo đức mà trong đó có mệnh lệnh của Thượng đế được thành lập. Thượng
đế nói rằng cái này là đúng, cái này là sai; không được làm cái này, không được
làm cái kia; phải làm cái này, phải làm cái kia. Vì vậy, đạo đức học của Cơ Đốc
giáo và Do Thái giáo căn cứ vào mệnh lệnh của đấng Thượng đế. Và mười điều răn
của Chúa đã xuất hiện trong đạo Cơ Đốc và Do Thái.
Trong khi đó, Năm Giới
của đạo Bụt không xuất phát từ phán quyết của Bụt mà xuất phát từ nhận thức của
Bụt và tăng đoàn. Nhận thức này do sự thực tập mà có. Ý thức được rằng những khổ
đau do sự sát hại gây ra, đó chính là Niệm. Ý thức được chính những tà kiến,
chính từ cái nhìn lưỡng nguyên, từ sự kỳ thị, lo lắng, giận hờn, sợ hãi mà đưa
tới sự giết hại lẫn nhau, con nguyện thực tập giới thứ nhất là buông bỏ tà kiến.
Đi theo chánh kiến, tập nhìn bằng cái nhìn Bất nhị, Tương tức, để con có thể bảo
hộ được sự sống của mọi người và mọi loài.
Trong Mười Bốn Giới Tiếp
Hiện có những giới liên hệ tới tuệ, tức là chánh kiến. Giới thứ nhất là không lạc
vào tà kiến, không nắm giữ tà kiến, không bị kẹt vào cái thấy và phải sẵn sàng
buông bỏ cái thấy. Cho nên có những ý trong các giới Tiếp hiện có thể bổ túc
cho Năm giới. Khi nói về giới thứ nhất là bảo hộ sinh mạng, không sát sanh,
chúng ta nói rằng: Ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, đó là niệm.
Khổ đau là sự thật thứ nhất, khổ đế. Giết hại sinh mạng là nguồn gốc của khổ
đau tức là sự thật thứ hai, tập đế. Nhưng trong ánh sáng của Bát chánh đạo thì
nguồn gốc khổ đau không phải chỉ là giết hại; sự giết hại đó là do ta không có
chánh kiến. Ta không thấy được người đó là anh chị em của mình, là chính mình.
Do vậy, giới thứ nhất của Năm giới cần được tu chỉnh lại để người hành trì thấy
rõ rằng, khi người ta giết là vì người ta có tà kiến. Các giới khác cũng cần được
tu chỉnh lại để Năm giới có thể trở thành một đóng góp của đạo Bụt.
Ở Bombay vừa có một loạt
thảm sát, gây chết và bị thương hàng mấy trăm người. Đó là khổ đau rất lớn do sự
khủng bố và giết hại gây ra. Sự giết hại đó đã tới từ những cái thấy sai lạc.
Đôi khi ta tưởng người ta kia sắp giết mình, nhưng thực tế có thể người kia không
có ý định giết ta mà chỉ vì ta sợ nên đã ra tay giết người ta trước cho chắc
ăn. Sự sợ hãi nằm ở mặt sau của sự giết hại. Mặt sau của giết hại cũng có thể
là sự kỳ thị, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị chủng tộc. Mặt sau của sự giết hại cũng
có thể là tham lam. Nhưng tựu trung lại, nguyên nhân của sự giết hại đến từ tà
kiến. Bụt đã dùng chánh niệm để chế giới nhằm mục đích đối trị với những khổ
đau đó. Do đó, giới tức là niệm, từ niệm mà sinh ra. Niệm sinh ra một nền đạo đức.
Và nhờ có niệm, có định mà sinh ra tuệ, chánh kiến. Chánh kiến làm nền tảng trở
lại cho sự hành trì, cho những hành động của chúng ta.
Xem Chương 6 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá