Read more
Thực Hành Vô Ngã by
Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đạo Phật Hiện Đại Hóa
Chương 4. Đạo Phật trong các lĩnh vực sinh hoạt
II. Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật
Phần lớn văn nghệ sĩ
Việt Nam có cảm tình với đạo Phật. Một số thương yêu lý tưởng đạo Phật và ước
ao được phụng sự cho lý tuởng ấy. Sự kiện phần lớn văn nghệ sĩ Việt Nam có cảm
tình với đạo Phật là một sự kiện dễ hiểu. Văn nghệ sĩ Việt Nam chưa bao giờ đi
quá xa để tách khỏi tính cách dân tộc; mà nói đến dân tộc tính ít khi chúng ta có
thể quên được đạo Phật.
Tuy nhiên, trong hiện
tình của sinh hoạt đạo Phật, sự đóng góp đích thực của gia đình văn nghệ sĩ cho
Phật sự quả thực chưa có gì đáng kể. Đó không phải là lỗi của các nhà văn học và
nghệ thuật: đó là lỗi của các nhà lãnh đạo Phật giáo không biết đón nhận họ thực
sự vào trong hàng ngũ Phật tử mà chỉ muốn nhờ vả họ một vài việc lặt vặt: viết
cho ít bài, vẽ cho ít tranh, soạn cho ít nhạc. Đã thế lại không trình bày cho họ
rõ ràng xem họ phải viết, phải vẽ, phải soạn cái gì, theo nguyên tắc nào, và
cho ai. Anh em văn nghệ sĩ dù có muốn đóng góp phần mình cũng không biết đóng
góp cách nào.
Viết truyện nói về quả
báo nhãn tiền, soạn nhạc ghi chép điệu tụng kinh, vẽ tranh có mái tam quan và
có gác chuông, những việc ấy ai mà chịu làm. Viết truyện ngắn cho một tờ báo Phật
chẳng hạn, rất khó. Biết viết gì đây. Viết về một tên tham quan hay một tên ô lại,
độc ác, giết người, ăn hối lộ suốt mười lăm năm trời; rồi một buổi sáng nào đó
vợ bỗng lăn đùng ra chết, con bị Tây bắn, nhà cửa bị bom dội. Viết như thế thì
ai mà đọc. Bọn tham quan ô lại thì không bao giờ ngán những chuyện như thế, và
cũng đời nào cầm lấy một tờ báo Phật mà đọc những chuyện như thế. Chỉ có giới
bình dân đọc và đọc xong thì cũng chẳng thấy có gì mới lạ, bởi vì thuyết thiện
ác nghiệp báo vốn là triết lý của họ từ lâu.
Đề tài đã khan hiếm
như thế mà tiền thù lao lại chẳng có gì, trong khi người văn nghệ sĩ nào cũng
phải lo chạy gạo cho con, không lấy đâu ra thì giờ mà "phát tâm" sáng
tác cho chùa, cho Giáo hội. Cho nên ít nhất là hai vấn đề được đặt ra: vấn đề
phương tiện sáng tác và vấn đề đường hướng sáng tác.
Trước hết ta hãy bàn
về phương tiện sáng tác.
Thực ra, độc giả Phật
tử rất nhiều và số quần chúng đông đảo ấy có thể ủng hộ đắc lực cho sự phát triển
nền văn học và nghệ thuật đạo Phật, được xem như là phương tiện vĩ đại nhất để
thực hiện công trình hiện đại hóa đạo Phật và đem đạo Phật đi vào cuộc đời.
Các sách Phật bán rất
chạy. Những cuốn sách như cuốn Ánh Đạo Vàng của nhà văn Võ Đình Cường đã được
in tới ngót mười lần. Cả những cuốn sách dở cũng có thể bán được, và đã có khá
nhiều những người lợi dụng điều đó để in ra những cuốn sách chẳng phản chiếu được
chút nào tinh thần chân chính của đạo Phật. Một nhà xuất bản và phát hành đứng
đắn được Giáo hội bảo trợ sẽ có thể nâng đỡ rất nhiều cho văn nghệ sĩ về phương
diện vật chất. Một nhà xuất bản và phát hành như thế, theo chúng tôi biết, sẽ
thu được rất nhiều tiền lời, và số tiền ấy có thể dùng để trả thù lao cho các
ký giả, mua bản quyền các tác phẩm với một giá không cần "phát tâm"
chút nào.
Một hiệp hội văn nghệ
sĩ Phật tử cần được thành lập và thành lập gấp, để ngoài sự giải quyết các vấn
đề thuộc phạm vi sinh tồn và tương trợ cho các hội viên, những vấn đề phải được
nhận định như là nền tảng của mọi phát triển về mặt sáng tác văn học và nghệ
thuật, những vấn đề có thể giải quyết tương đối dễ dàng hơn dưới sự bảo trợ của
Giáo hội. Uy tín của Giáo hội cũng như thị trường tiêu thụ các văn nghệ phẩm
trong quần chúng Phật tử sẽ là những yếu tố quyết định sự thành công trong lĩnh
vực này.
Việc tiêu thụ sản phẩm
văn nghệ đương nhiên là có liên hệ đến đường hướng sáng tác văn nghệ. Cố nhiên
một nền văn hóa tự do như đạo Phật sẽ không bao giờ dung túng được việc ép buộc
văn nghệ sĩ sáng tác theo một chiều hướng, trong những khuôn khổ nhất định và
là ép buộc bằng những phương tiện vật chất mà mình có thể cung cấp cho họ. Tuy
nhiên trong chúng ta không ai có thể chấp nhận được một thứ văn nghệ phá sản đầu
độc quần chúng, nhất là trong lúc mọi người đang cố gắng xây dựng lại những gì
đã đổ nát. Một nền văn nghệ Phật giáo phải là một nền văn nghệ biểu hiện tình
thương và tinh thần cứu khổ, và như thế là một nền văn nghệ được hướng dẫn bởi
tinh thần Phật giáo. Hướng dẫn bởi tinh thần Phật giáo chứ không phải được điều
khiển bởi một nhân vật hoặc một nhóm nhân vật nào, dù nhân vật ấy hay nhóm nhân
vật ấy tự nhận là uy quyền của Phật giáo.
Một nền văn nghệ mà
biểu hiện được tinh thần đạo Phật thì cố nhiên sẽ được Giáo Hội Phật Giáo nâng
đỡ, ủng hộ, bảo trợ. Bởi vì nếu không, thì Giáo hội đâu còn là Giáo hội nữa. Mà
nếu Giáo hội nâng đỡ và bảo trợ cho một nền văn nghệ đầy sinh lực như thế thì
chắc chắn là quần chúng Phật tử sẽ tin tưởng và ủng hộ một cách nồng nhiệt. Ý
thức hiện đại hóa đạo Phật sẽ được phổ biến mau lẹ và sâu rộng, các kế hoạch xây
dựng văn hóa kinh tế xã hội do Giáo hội chủ trương cũng sẽ được tích cực hưởng ứng
và tham dự.
Vấn đề phương tiện
sáng tác có liên hệ đến vấn đề đường hướng sáng tác. Văn nghệ sĩ cần phải có
phương tiện để làm cho phong phú đời sống tâm linh của mình. Một trong những
phương tiện ấy là sự thoát bỏ thỉnh thoảng cái không khí náo nhiệt, cái guồng
máy mưu sinh đầy dẫy những phiền não bực dọc, cái xã hội đầy dẫy những đảo
điên, thác loạn, trong đó chúng ta phải lặn hụp hằng ngày.
Ở các đô thị văn nghệ sĩ phải có một ngôi chùa riêng cho họ, trong đó có chính điện: thờ Phật, có thư viện Phật học, có phòng tham thiền, viết lách, sáng tác, có nơi uống trà và đàm đạo. Tất cả những thứ ấy đều do họ tổ chức và trang hoàng lấy. Vị tu sĩ của ngôi chùa này phải tự mình là một nhà văn hay một nghệ sĩ để có thể hiểu biết và hường dẫn sinh hoạt tâm linh cho gia đình văn nghệ sĩ một cách dễ dàng hơn các vị tu sĩ khác.
Ngôi chùa cố nhiên sẽ
thanh tịnh, trang nhã, mát mẻ. Các văn nghệ sĩ có thể ngồi tĩnh tâm trong phòng
tham thiền để cho tâm tư lắng đọng. Những giờ tham thiền như thế sẽ giúp rất
nhiều cho công việc sáng tác, và ảnh hưởng nhiều tới công việc sáng tác. Văn
nghệ sĩ nào cũng thấy được điều hệ trọng đó. Sản phẩm văn nghệ sẽ vững mạnh hơn
nhờ những giờ tham thiền. Ngôn ngữ, hình tượng, cảm xúc sẽ không bị non yếu và
méo mó vì những phiền não bực dọc ta phải chịu đựng ngay trước giờ sáng tác. Nhờ
tham thiền và các sinh hoạt tôn giáo, người văn nghệ sĩ giữ lại được sự bình
tĩnh, lấy lại được phong độ của mình, nuôi dưỡng được đức tin nơi cuộc đời và
tình thương đối với con người.
Nhờ tủ sách Phật học
được trang bị đặc biệt cho văn nghệ sĩ, họ có dịp tìm hiểu thêm về đạo Phật, dưới
sự hướng dẫn của vị tu sĩ chủ trì. Thường thường văn nghệ sĩ Việt Năm ít đọc về
đạo Phật. Không phải vì các bạn làm biếng, mà vì các bạn không biết sách gì mà
đọc, không có sách gì mà đọc. Lắm lúc sinh kế bức bách, chẳng có thì giờ đi tìm
mua một cuốn sách Phật. Tủ sách Phật học trong chùa phải cung cấp những sách
hay nhất và trình bày linh động nhất về đạo Phật. Bởi vì những sách khảo cứu
khô khan trong bước đầu sẽ không gây được hứng thú.
Có học Phật, có tĩnh tâm,
tham thiền, người văn nghệ sĩ mới thấy được hướng dẫn bởi những nguyên lý phật
học trong khi sáng tác và mới bảo tồn được lý tưởng và con người đích thực của
mình. Người văn nghệ sĩ mới có thì giờ suy tư và trao đổi với nhau về những vấn
đề như sáng tác cái gì, sáng tác cho ai, và sáng tác thế nào? Người văn nghệ sĩ
tạo một không khí gia đình trong ngôi chùa dành riêng cho mình, trong đó mình sống
những giờ thanh tịnh, thoải mái, tràn đầy ý thức về sứ mạng, và nếu cần có thể
sáng tác tại thư viện của chùa hay trong các phòng xá dành cho công việc ấy. Cơ
sở xuất bản sẽ bảo đảm quyền tác giả của họ và họ sẽ không sợ bị những nhà xuất
bản và những ông chủ báo bóp nghẹt và lợi dụng nữa.
Cố nhiên người văn
nghệ sĩ Phật tử có thể sáng tác mà không cần dùng hình tượng chùa chiền, kinh
điển, tăng ni, giáo hội, tiếng chuông tiếng mõ và một mớ danh từ đạo Phật. Sáng
tác theo tinh thần đạo Phật, nhất là đạo Phật vì cuộc đời, thì không cần phải
có những màu mè như thế. Mà dù có muốn cho một nghệ phẩm có tính cách đạo Phật
bằng cách đưa các danh từ, hình ảnh và âm thanh ấy vào, nghệ phẩm ấy cũng không
thể được gọi là thành công. Một bản nhạc có tinh thần đạo Phật chẳng hạn, khi
đánh lên, sẽ tự chứng minh được tinh thần đó. Nếu bản nhạc kia không có bản chất
đạo Phật thì khi đặt lời cho nó dù ta có chêm vào nào Nam mô, nào Từ bi, nào Niết
bàn thì nó cũng không thể vì thế mà trở thành một bản nhạc Phật. Được hướng dẫn
bởi tinh thần đạo Phật thì dù viết chuyện về cờ bạc, viết chuyện mặt trận, viết
chuyện thanh lâu thì nghệ phẩm vẫn là nghệ phẩm xây dựng có bản chất Phật giáo.
"Được hướng dẫn"
không có nghĩa là bị khép vào một khuôn khổ hay bị quy định bởi những luật lệ
nào. Không có ai có nhiều tự do cho bằng những người Phật tử. Đạo Phật không phải
là một hệ thống những giáo điều khắt khe. Giáo hội Phật giáo không phải là một
cái đảng đang chủ trương đấu tranh với các đảng khác, không phải là một giai cấp
đang chủ trương đấu tranh với một giai cấp khác.
Giáo hội tồn tại để bảo
vệ cho tự do, nuôi dưỡng cho tình thương và bồi đắp cho ý chí phụng sự. Phụng sự
không phải là phụng sự cho một người nào, một nhóm người nào, một đoàn thể nào,
dù đoàn thể ấy là Giáo hội coi như một cái ngã tách biệt ra khỏi những cái ngã
khác.
Phụng sự ở đây là chống
lại vô minh, căm thù, cuồng tín, vu khống - chứ không phải là chống lại con người.
Đạo Phật không chống ông A, ông B, ông C mà chỉ chống tham, sân, si. Nếu ông A
mà tham, sân, si thì ông A sẽ ráng mà chịu, thì ông A phải diệt tham, sân, si
đi nếu không muốn bị chống đối. Mà cái tham, sân, si gần nhất cần phải chống là
cái tham, sân, si nằm ngay trong lòng những người Phật tử - những người chủ
trương chống tham, sân, si. Cho nên đạo Phật phải tiêu biểu cho tự do và tình
thương và nếu có một quy luật sáng tác thì quy luật đó là quy luật của tự do và
tình thương. Chưa bao giờ các vị Tổ lên án một tư tưởng gia đã sáng tác ra một
tông phái mới dù tông phái đó trái chống với tông phái của các vị. Chưa có vị
tăng sĩ nào bị trục xuất vì đã sáng tác và khởi xướng một lý thuyết mới. Nếu
hai yếu tố tự do và tình thương mà vắng mặt trong đạo Phật thì thiết tưởng dù đạo
Phật có triết lý cao siêu đến mấy ta cũng không nên theo. Và nếu đạo Phật có
đóng góp được gì cho thế giới hôm nay và ngày mai thì cũng là nhờ bản chất tràn
đầy tự do và tình thương của nó.
Vì tự do cho nên đạo
Phật không cố chấp, luôn khiêm nhượng cởi mở và không bịt tai trước bất cứ tiếng
chuông nào. Vì tự do nên người văn nghệ sĩ Phật tử không tự hào tự đại cho mình
là phản ảnh được thực tại một cách hiện thực nhất, còn bao nhiêu quan niệm và
đường lối văn nghệ khác đều là hoàn toàn sai lạc, phản bội, cần phải lên án.
Người văn nghệ sĩ Phật
tử phải có đức bao dung như chính bản chất của tư tưởng Phật giáo. Người văn
nghệ sĩ Phật tử phải tôn thờ tự do mà không được nghĩ rằng tự do là một chướng
ngại vật cho tiến bộ. Bởi vì nghĩ như thế tức là độc tài rồi. Nhìn sứ mệnh văn
nghệ qua khía cạnh nhiệm vụ, ta thấy tự do là cần thiết. Anh có thể nói cho tôi
nghe tôi sai lạc ở chỗ nào và anh hãy làm cho tôi chuyển hướng đi bằng cách
chinh phục lý trí và tình cảm của tôi. Chứ anh không thể tước đoạt tự do của
tôi. Luôn luôn thao thức đón nhận thực tại linh động, người văn nghệ sĩ Phật tử
mở rộng trí não để học hỏi thêm trong từng giờ từng phút, không bao giờ được
cho mình là đã biết đủ, không bao giờ được nhất quyết rằng người khác là hoàn
toàn sai. Như thế người văn nghệ sĩ biết trừ bỏ sở tri chướng và tiến những bước
tiến mau lẹ trên đường nhận thức.
Mục đích của văn nghệ
là gây hứng thú mỹ cảm cho người thưởng thức và đồng thời trình bày thực tại
theo tinh thần tứ điệu đế để làm phát sinh nơi người đọc nhận thức cần thiết về
những vấn đề thiết thực nhất của sự sống, phát triển và nuôi dưỡng những tình cảm
tốt đẹp trong lòng họ, và cuối cùng động viên họ tham dự vào công việc diệt trừ
khổ đau và kiến tạo an lạc. Một nghệ phẩm mà đạt được từng đó mục đích thì là một
nghệ phẩm lý tưởng. Một nghệ phẩm chỉ đạt tới một phần của mục đích trên thì
cũng là một nghệ phẩm có ích. Người văn nghệ sĩ Phật tử chấp nhận mọi sản phẩm
nghệ thuật chỉ trừ những sản phẩm cổ súy cho dục vọng và vô minh.
Một chuyện thần tiên
cho trẻ em, tuy không diễn bày sự thực xã hội, nhưng kích thích được óc tưởng
tượng của các em và gây cho các em những cảm tưởng tươi sáng, yêu đời thì cũng
đã đạt đến một kết quả tốt của văn học. Một cuốn tiểu thuyết tả chân của phái tự
nhiên ghi chép một cách vô tư các hiện tượng mà tiểu thuyết gia đã cảm giác và ý
thức được cũng có thể gây hứng thú cho người đọc và do đó cũng đạt được một kết
quả tốt của văn học. Gây được hứng thú mỹ cảm cho người thưởng thức, dù bằng đường
lối nào, miễn là đừng nối giáo cho dục vọng và vô minh, cũng có thể gọi là
thành công rồi. Bởi ta không thể chấp nhận được một vũ trụ văn nghệ luôn luôn cổ
súy, gầm thét, sách động. Thần kinh con người sẽ căng thẳng trong một không khí
văn nghệ như thế, và tình cảm chân thực của con người bị bóp chẹt, không được nảy
nở phát triển.
Phái tự nhiên thường
bị buộc tội là chỉ lo ghi chép một cách tỉ mỉ những gì mình thấy mình nghe,
không chịu đưa quan điểm và lập trường của mình vào tác phẩm và như thế, sự
sáng tác văn nghệ thiếu hẳn ý thức về hoạt động sáng tạo. Thực ra, nếu quả thực
người văn nghệ sĩ thực hiện được một thái độ vô tư và khách quan trong lúc ghi chép
thực tại thì đó là một điều vô cùng quý giá.
Nhận thức của con người
thường thường bị che lấp và bị ảnh hưởng bởi những tư kiến và những tình cảm chủ
quan, do đó ít khi trực nhận được bản thân thực tại. Khách quan chủ nghĩa không
phải là một chủ trương bắt người văn nghệ sĩ phải nhìn thực tại như một cái gì
xa lạ không ăn thua gì đến mình. Một sự kiện như thế không bao giờ xảy ra được.
Người văn nghệ sĩ nếu
rửa sạch được thành kiến và cố chấp thì có thể dễ dàng nhận thức được bản thân
của thực tại và vượt ra khỏi cái vòng tròn chủ quan sai lạc. Chỉ sợ rằng người
văn nghệ sĩ không thực hiện được thái độ vô tư phá chấp ấy mà thôi. Chứ nếu mà
thực hiện được thì không những họ đã không xa lạ với thực tại mà họ còn có thể được
gọi là nằm trong lòng thực tại nữa. Vô tư và khách quan, hiểu theo tinh thần
phá chấp không có nghĩa là tách mình ra khỏi đối tượng, không phải là đối tượng
hóa. Thái độ vô tư và khách quan giúp cho con người phá vỡ biên giới chủ thể và
đối tượng và chính người văn nghệ sĩ được thể nhập vào thực tai. Trong trường hợp
này tính chất nghệ phẩm của họ còn hiện thực gấp mười lần những người tự xưng
là hiện thực mà luôn luôn bị nô lệ cho kiến chấp cho giáo điều, dù giáo điều
duy tâm hay duy vật.
Hơn thế, thực tại
không phải chỉ là thực tại xã hội mà còn là thực tại tâm linh nữa. Khám phá tâm
linh mình, công việc ấy có khi còn quan trọng gấp ngàn lần công việc khám phá
thực tại xã hội. Người văn nghệ sĩ cần tự biết mình, dùng ý thức soi rọi tâm
linh mình, tâm linh không phải như sản phẩm của não bộ và thần kinh, không phải
như một tấm gương phản ảnh thực tại xã hội, phản ảnh hệ thống sản xuất mà như một
thực tại mầu nhiệm. Nói như thế không phải là nhảy từ khách quan chủ nghĩa đến
chủ quan chủ nghĩa một cách đột ngột đâu. Nói như thế là để nêu rõ rằng dù duy
tâm hay duy vật, người ta cũng chỉ đi loanh quanh trên ngọn mà không bao giờ
tìm tới gốc. Tìm tới gốc thì khách quan chủ nghĩa cũng thế, chủ quan chủ nghĩa
cũng thế mà hiện thực chủ nghĩa cũng thế. Sự đối kháng nhau bắt nguồn từ khuynh
hướng phân biệt cành lá và bỏ quên gốc rễ. Tìm tới gốc rễ thì chủ quan sẽ không
phải để đối lập với khách quan, hiện thực sẽ không phải để đối lập với lãng mạn.
Tất cả sẽ tạo nên một hòa điệu và những chống đối những cố chấp sẽ tan biến.
Trong trường hợp chủ
quan chủ nghĩa, người ta thường nói rằng các văn nghệ sĩ không thèm đếm xỉa đến
thực tại mà cứ ỷ vào thiên tài mình để tưởng tượng và sáng tạo ra những liên
quan giả tạo giữa các hiện tượng. Nhưng thực tại tâm linh tự nó không phải là một
thực tại sao? Hơn nữa nếu bảo rằng ý thức là tấm gương phản ảnh thực tại xã hội,
thì tại sao lại có những tấm gương kỳ cục, nghĩa là những tấm gương không chịu
phản ảnh thực tại theo kiểu những tấm gương khác những tấm gương được tưởng thưởng
và hoan hô?
Liêu Trai Chí Dị cũng
phản chiếu thực tại, không những thực tại tâm lý mà là thực tại xã hội nữa. Ai
có chút ít kiến thức văn học cũng phải công nhận như thế. Truyện Trinh Thử của
Hồ Huyền Quy và truyện Tây Du Ký cũng vậy. Ai dám nói là chúng không phản ảnh
được dù ít dù nhiều cái thực tại xã hội mà trong đó các tác giả đã sống?
Những ai không chịu
nói hùa theo đa số thì thường bị lên án là sa vào chủ quan chủ nghĩa. Cái nhìn
của đa số đâu chắc đã là cái nhìn sáng suốt nhất. Cái nhìn của đa số không thể
nói là cái nhìn khách quan. Khi tôi không chịu tán dương ca ngợi, thì người ta
bảo là tôi bôi đen thực trạng bằng cái nhìn chủ quan đen tối của tôi. Cũng như
Trần Dần bị mắng là đã bôi đen cái thực trạng đẹp đẽ khi anh viết:
"Tôi bước đi
không thấy phố thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa trên
mầu cờ đỏ."
Trong khi Tố Hữu được
khen là phản ảnh đúng thực tại khi anh ca ngợi:
"Đường ta rộng
thênh thang tám thước."
Thực ra, đường tám
thước cũng rộng đấy. Nhưng có khi những con đường rộng mười lăm thước mà có người
vẫn cho là hẹp và có khi con đường chỉ có hai ba tấc mà cũng được cho là rộng lắm
rồi. Rộng hẹp là tùy theo trường hợp, tâm lý nhận thức. Ai có thể đoán quyết rằng
chỉ có những con đường tám thước mới là những con đường rộng?
Khi tôi không chịu đả
phá nói xấu những gì anh thích tôi đả phá, thì người ta bảo là tôi tô hồng tô
thắm thực tại bằng cái chủ quan lạc quan của tôi. Thực ra trong trường hợp
trên, chưa chắc là Trần Dần đã bôi đen, và chưa chắc Tố Hữu đã không tô hồng.
Có lẽ thực tại là một cái gì liên hệ vào chủ thể nhận thức, và có lẽ cả hai đều
thành thực. Điều đáng nói là nếu quả họ thành thực thì ta phải tôn trọng họ. Còn
nếu ta đem một chủ thuyết kinh điển nào ra để phê phán, tán dương hoặc công
kích họ thì ta đã xâm phạm vào tự do của họ rồi. Ta tự nhốt ta trong một tháp
ngà chủ quan mà ta đặt tên là hiện thực chủ nghĩa.
Một thái độ hiện thực
chân chính là một thái độ vô tư, khách quan, tôn trọng tự do. Mà muốn có thái độ
ấy, người văn nghệ sĩ không thể không tự giải phóng ra ngoài ngục tù cố chấp,
cuồng tín. Phải gạt bỏ kinh điển, thần tượng, phải đừng bám chặt vào những giáo
điều, những tín ngưỡng siêu hình, phải trở về miếng đất thực nghiệm để học hỏi
và chiêm nghiệm. Muốn phản ảnh trung thành thực tại, dù là thực tại tâm linh
hay là thực tại xã hội, người văn nghệ sĩ phải là một tấm kính trung thực,
không méo mó trước đã. Do đó, đi sâu vào cuộc đời, tham gia vào cuộc sống đồng
lao cộng khổ của quần chúng cũng chưa đủ. Phải giữ cho tâm hồn trung thực nữa.
Phải đừng để cho thành trì cố chấp bưng bít nữa. Phải tự mình là mình nữa. Và do
đó, người văn nghệ sĩ phải chú trọng đến sinh hoạt tâm linh trong khi không
quên tiếp xúc thẳng với thực tại xã hội đầy dẫy khổ đau, những khổ đau phần lớn
đã được gây ra vì cố chấp, thành kiến và độc tài.
Cho nên ta thấy rằng
lột hết những cặp kính màu mà thấy được mặt mũi chân thực của thực tại không phải
là chuyện dễ. Tinh thần phá chấp và thực nghiệm của đạo Phật có thể giúp đỡ người
văn nghệ sĩ rất nhiều. Đi sâu vào cuộc sống, tham dự vào những xót xa khổ đau của
kiếp người là điều cần thiết, đạo Phật công nhận điều đó và khích lệ điều đó.
Sự thực thứ nhất
trong Bốn Sự Thực Mầu Nhiệm dạy con người xoay lưng về phía siêu hình để mà tỉnh
táo nhìn về những cái khổ của nhân loại. Nhiếp pháp đồng sự dạy con người hòa đồng
vào khối đại chúng để tìm hiểu mà hướng dẫn họ. Người văn nghệ sĩ Phật tử cần
biết rõ hơn ai hết điều đó. Nhưng người văn nghệ sĩ Phật tử cũng biết thêm rằng
nếu mình không biết rõ mình là ai, nếu mình không nắm chắc được mình thì mình sẽ
tự đánh mất mình trong dòng đời phiền tạp, và thay vì chuyển hóa cuộc đời cho tốt
đẹp, mình bị cuộc đời chuyển hóa theo nó và cuối cùng trôi giạt theo nó. Cũng
vì vậy cho nên người văn nghệ sĩ không thể không học Phật, tham thiền, tĩnh
tâm, cầu nguyện.
Không ai không thấy rằng
phần lớn các vị thiền sư đạt đạo, như ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam chẳng hạn,
đều là những thi sĩ hay họa sĩ. Hoa đạo và trà đạo cũng là những biểu hiện của
Thiền, của sức mạnh tâm linh tự cường và tự tỉnh. Nghệ phẩm của các thiền sư không
phải là những bài diễn văn chính trị, không là những bản nhạc thúc đẩy ý chí đấu
tranh giai cấp, sản xuất kinh tế, nhưng vẫn là những tiếng nói phô diễn thực tại:
thực tại tâm linh nhiệm mầu, phong phú. Thiền sư Bách Trượng vừa thiền định vừa
cuốc đất: còn có bài thơ nào tràn đầy tính chất hiện thực hơn thế nữa?
Ngôn ngữ thiền là một
ngôn ngữ đặc biệt và chỉ có những tâm hồn phong phú mới có thể tiếp nhận được bản
chất nghệ thuật tuyệt vời chuyên chở trong hình thức nghệ thuật ấy. Chỉ tiếc rằng
nhóm Xuân Thu Nhã Tập không chịu tu Thân thành ra không tự bảo vệ mình được một
cách danh chính ngôn thuận. Khi bị người ta trách cứ là làm thơ khó hiểu, vô
nghĩa, nhóm Xuân Thu Nhã Tập lấy giọng Thiền sư:
"Đừng vội thất vọng
vì một bài thơ khó hiểu. Hãy căng lại dây đàn. Hãy đặt mình trong tình trạng có
thần trợ. Thiết tha và tin tưởng. Trong sạch mà nhập Thần. Sẽ trực giác được
thơ... Tục nên không thể giao tiếp với thần linh. Lỗi không phải ở thần linh."
Lỗi không phải ở thần
linh, nhưng lỗi ở nhóm Xuân Thu Nhã Tập: không có bản chất thần bí mà đi tìm một
loại ngôn ngữ thần bí thành ra sa vào một chủ nghĩa hình thức lập dị. Nhưng dù
sao nhóm Xuân Thu Nhã Tập cũng không phải vì vậy mà bị kết án là trốn tránh sự sống
đâu. Họ ham mê sự sống và họ đã làm thơ, đã xuất bản, đã tranh luận.
Các Thiền sư, bằng cuộc
sống của họ, thơ và họa của họ, đã chứng tỏ sự hiện diện của sức sống tâm linh
trong lòng cuộc đời: những đóng góp vô hành của họ, trong nhãn quan đạo Phật,
là một thứ đóng góp vô cùng quan trọng.
Tuy nhiên, nguồn đạo
đức vô hành được khơi mở từ suối tâm linh ấy cần được lưu nhuận trong cuộc đời
và cũng vì vậy mà văn nghệ sĩ lại có thêm sứ mạng đem đạo Phật thực hiện an lạc
ngay trong lòng cuộc đời. Đạo Phật không sinh ra để được ca tụng, phục vụ mà là
để phụng sự con người. Văn học nghệ thuật cũng thế. Chúng ta không thể đem văn
nghệ phụng sự cho một đảng phái nào, một chủ nghĩa nào. "Nghệ thuật chỉ phụng
sự nỗi thống khổ và quyền tự do con người ", Albert Canmus đã nói rất chí
lý. Có những nỗi thống khổ của con người.
Những nỗi thống khổ ấy
đều có nguyên nhân, trong đó sự kiện tự do bị tước đoạt là một nguyên do quan
trọng. Diệt trừ khổ đau và kiến tạo an lạc bằng cách đóng góp vào công việc
tiêu hủy ngu dốt, cơ cực, độc tài, cuồng tín là con đường phải đi. Vậy thì quy
luật này là quy luật vô cùng đơn giản của Bốn Sự Thực. Và quy luật này là quy
luật phổ biến nhất trong các quy luật.
Nhận thức được nguy
cơ của những cái nhìn phiến diện, người văn nghệ sĩ Phật tử luôn luôn mở toang
các cánh cửa nhận thức. Đành rằng ta công nhận tầm quan trọng của vấn đề sản xuất
kinh tế nhưng ta không nên vì vậy mà quên rằng có rất nhiều vấn đề khác cũng quan
trọng như thế và có khi hơn thế. Đành rằng ta công nhận quy luật tranh chấp giữa
giới thợ thuyền và giới tư bản, nhưng ngoài quy luật ấy còn có nhiều quy luật
khác nữa của xã hội chúng ta, có khi còn quan trọng hơn. Vậy tại sao ta lại bắt
mọi người phải quên tất cả những phần kia của thực tại để chỉ chú ý vào một phần
này của thực tại, và để tự dành cho mình cái danh dự là đích thực hiện thực?
Nguyên do khổ đau có
thể là phân phối lợi tức không đồng đều, có thể là sự bóc lột của tư bản đối với
người nghèo. Chúng tôi sẵn sàng công nhận điều đó. Những nguyên do của khổ đau
còn là cố chấp, thành kiến, cuồng tín, độc tài và tham vọng. Những kẻ thù đó của
loài người không phải chỉ đứng về phía giới tư bản. Chúng nằm sâu trong lòng mọi
giới, kể cả giới tiểu tư sản, cũng như giới nông dân thợ thuyền. Chính những kẻ
thù đó mới là kẻ thù không đội trời chung của con người. Xin đừng giết con người
bằng nhân danh, dù là nhân danh hạnh phúc của con người, nhân danh tự do, nhân
danh đảng phái hay tôn giáo. Hãy giết tham vọng, căm thù và cố chấp - trong ta và
trong mọi người.
Người văn nghệ sĩ Phật
tử tiếp xúc với Sự Thực Thứ Nhất để cho tâm hồn rung động vì xót thương (bi),
nuôi dưỡng xót thương ấy cho lâu bền để biến thành ý chí phụng sự. Người văn
nghệ sĩ Phật tử mở rộng cánh cửa nhận thức để học hỏi và trực nhận thực tại
(Trí), và can đảm tố cáo những sự thực khổ đau để cùng gây ý thức xây dựng an lạc
xã hội mà không sợ hãi bạo lực và khổ đau (Dũng). Người văn nghệ sĩ Phật tử, được
hướng dẫn bởi tinh thần Phật giáo, đóng góp nhận thức và ý kiến mình cho giáo hội
trong những chương trình và kế hoạch cải tiến xã hội về mọi mặt sinh hoạt. Người
văn nghệ sĩ Phật tử bằng sáng tạo nghệ thuật, hướng dẫn và giáo dục quần chúng,
khiến quần chúng tự nguyện tham dự những công trình xây dựng chung phù hợp với
tình thương và tự do. Đó là pháp thí trong nhiếp pháp thứ nhất. Người văn nghệ
sĩ Phật tử không tin ở giải pháp gây căm thù bởi vì căm thù thường đi với tàn bạo.
Sức mạnh không phải chỉ có thể tạo được do căm thù. Lòng xót thương (Bi) và
tình thương yêu (Từ) là chất liệu tạo nên một sức mạnh không kém gì sức mạnh của
biển cả. Sức mạnh của từ bi luôn luôn được soi sáng bởi lý trí mà không phải là
một sức mạnh mù quáng. Căm thù thì khó mà sáng suốt được; trong chúng ta ai
cũng biết rằng giận mất khôn và mặn mất ngon.
Tình thương và sự cởi
mở dễ chiếm được lòng người. Có trong lòng tình thương rồi, người văn nghệ sĩ
Phật tử sẽ đạt được nghệ thuật làm rung động con người một cách dễ dàng. Họ sẽ
không chửi mắng công kích một cách thô tục. Họ thực hành ái ngữ, nhiếp pháp thứ
ba. Họ chỉ bình tĩnh trình bày sự thực, điều hơn lẽ phải với một ngòi bút ướt mực
thương yêu và xót xa.
Cho nên đi vào cuộc đời,
văn nghệ đạo Phật mang theo cảm thông, cởi mở và tình thương - tiêu chuẩn của
người văn nghệ sĩ Phật tử là Tứ Nhiếp Pháp: Bố Thí, ái Ngữ, Lợi Hành và Đồng Sự.
Văn nghệ biểu hiện
sinh hoạt hoặc tâm linh hoặc xã hội phải được thực hiện trong những hình thức
khế cơ. Đại chúng hóa văn nghệ cũng là tuân theo nguyên tắc khế cơ của đạo Phật
để văn nghệ có thể có tác dụng mạnh mẽ trong đa số quần chúng Việt Nam. Nhưng
nói như vậy không có nghĩa là tất cả các văn nghệ sĩ phải làm nhất loạt như
nhau: mỗi lĩnh vực cần có văn nghệ sĩ cho lĩnh vực ấy, tuy rằng đại chúng đòi hỏi
sự có mặt của một số đông văn nghệ sĩ bên cạnh họ.
Cố nhiên người văn
nghệ sĩ không nhất thiết cần phải viết những bài thuyết pháp, những mẩu chuyện
thiện ác nghiệp báo mới được gọi là phục vụ cho lý tưởng đạo Phật. Người văn
nghệ sĩ Phật tử có thể vẽ tranh hài hước, có thể viết tiểu thuyết trang trong
các nhật báo, có thể soạn dân ca... và đề tài sẽ là đề tài lấy trong cuộc sống
hàng ngày.
Ngòi bút sẽ chẳng bao
giờ hạ xuống để viết hay vẽ những gì khích động dục vọng thấp hèn. Ngòi bút sẽ
ca ngợi tình thương yêu, sẽ gây ý thức cho quần chúng về những khổ đau hiện thực
của cuộc đời, động viên quần chúng đứng dậy trong công cuộc cách mạng xã hội để
cải tiến đời sống đang đầy dẫy khổ đau. Sức mạnh của lòng xót xa và tình thương
yêu có thừa năng lực dựng quần chúng dậy trong một niềm tin vào tự lực của mình
và vào ngày mai. Lòng xót xa ấy, tình yêu thương ấy và niềm tin tưởng ấy là những
hoa trái tốt đẹp nhất mà người văn nghệ sĩ Phật tử có thể hiến tặng.
Tỉnh táo trong ý thức
về Sự Thực Thứ Nhất, người văn nghệ sĩ Phật tử sẽ không thể không đứng trong
hàng ngũ của chủ nghĩa chân hiện thực. Do đó, mà người văn nghệ sĩ Phật tử
không xa lìa quần chúng. Và cũng nhờ thái độ khiêm cung cởi mở sẵn sàng học tập
mà người văn nghệ sĩ Phật tử sẽ không như những con người tuy rằng đứng ngay
trong môi trường sinh hoạt của quần chúng mà không thể nào hiểu được quần
chúng, vì lẽ những cái vỏ cố chấp và cuồng tín đã khép họ lại thật chặt cho đến
nỗi bất cứ sự xúc tiếp nào cũng trở thành vô hiệu.
Những văn nghệ sĩ nào
đã đi thật sâu trong phạm vi sinh hoạt tôn giáo cũng cần chú trọng đến sự cải
tiến nền lễ nhạc kiến trúc và mỹ thuật tôn giáo. Lễ nhạc, kiến trúc và mỹ thuật
tôn giáo cần biểu lộ tinh thần trí dũng của đạo Phật và công việc này còn có
giá trị mười lần hơn những bài thuyết pháp hùng hồn.
Nhìn một tượng Phật còn xấu hơn cả hình người, nhìn một ngôi chùa kiến trúc còn rườm rà vá víu hơn cả một cái rạp hát, nghe những bài nhạc và lời tụng còn chát chúa ồn ào hơn cả một bài hát thế gian, ai cũng có quyền nghi ngờ thực chất của đạo Phật.
Người văn nghệ sĩ Phật
tử chân chính sẽ phải có mặt ở mọi lĩnh vực sinh hoạt để mà chỉnh đốn lại mọi lệch
lạc và đảm nhiệm lấy trách vụ nói lên bằng ngôn ngữ nghệ thuật của mình tiếng nói
của đạo Phật trong cuộc đời.
0 Đánh giá