Read more
Thực Hành Vô Ngã by
Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Đạo Phật Ngày Nay
Chương 4. Nguyên thỉ và đại thừa
Vấn đề Phật giáo
nguyên thỉ thường được các học giả xem như là một vấn đề chính yếu của Phật học.
Có người nói rằng chính Phật giáo nguyên thỉ mới là Phật giáo, còn ngoại giả đều
là những thứ Phật giáo cải cách. Có người lại lựa chọn ra một bên những thứ
mình ưa thích và gọi đó là nguyên thỉ, và bên còn lại kia thì gọi là không
nguyên thỉ. Thực ra ta phải định nghĩa thế nào là Phật giáo nguyên thỉ.
Trước hết, ta phải trở
lại định nghĩa Phật giáo mà chúng tôi đã trình bày trong chương trước:
Phật giáo là tất cả những sinh hoạt nào của con người nhằm biểu hiện những nguyên lý Phật học mà đức Phật và các thế hệ Phật tử kế tiếp đã thực chứng.
Để thực hiện những
nguyên lý ấy, mỗi thời đại, mỗi địa phương có những hình thái sinh hoạt khác
nhau, để một mặt thích ứng với nhu cầu sinh hoạt của con người, một mặt biểu hiện
được dòng sinh hoạt chính pháp.
Cho nên Phật giáo nguyên thỉ phải được định nghĩa là những hình thức sinh hoạt văn hóa trong xã hội Ấn Độ cách đây hai ngàn năm trăm năm nhằm mục đích thể hiện những nguyên lý Phật học để phụng sự cho con người của xã hội ấy.
Trong xã hội và thời
đại của đức Phật, những hình thức sinh hoạt văn hóa ấy đã được coi là rất thích
hợp cho con người, đáp ứng được mọi nhu cầu trí tuệ, tình cảm, lý tưởng và giải
thoát của con người; nói tóm lại, đã thể hiện được những nguyên lý Phật học mà
đức Phật đã chứng nghiệm. Nhưng các cơ cấu xã hội luôn luôn biến đổi theo luật vô
thường: mỗi xã hội, mỗi thời đại đều có những nhu cầu sai biệt, và các sinh hoạt
tâm lý, tình cảm và trí tuệ của con người trong xã hội đó cũng biến chuyển
không ngừng. Cho nên, những hình thức sinh hoạt gọi là Phật giáo nguyên thỉ
không còn thích hợp nữa, hoặc ít ra không còn thích hợp một cách hoàn toàn nữa;
do đó sự tạo dựng những hình thức sinh hoạt Phật giáo mới là một sự tất yếu, dĩ
nhiên phải có, nếu người Phật tử không muốn cho Phật chủng (hạt giống đạo Phật)
bị đoạn diệt. Vì vậy mà chúng ta thấy có Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Nam
tông, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Nhật
Bản, Phật giáo Tích Lan, Phật giáo Ấn Độ... Các nền Phật giáo nầy có những sinh
hoạt khác biệt về phương diện hình thức và cũng có khi cả về phương diện nội
dung tư tưởng nữa, nhưng tất cả đều nhắm tới một mục đích là làm sống những
nguyên lý Phật học trong đời sống nhân loại.
Có người nói rằng Phật
giáo Nam tông mà hiện thời đại biểu là phái Theravada là hình bóng bất biến của
Phật giáo nguyên thỉ. Nói như vậy là không hiểu gì về Phật giáo nguyên thỉ cả.
Làm sao mà những hình thức sinh hoạt văn hóa của một xã hội cách đây hai nghìn
năm trăm năm lại có thể áp dụng thích nghi với những nhu yếu sinh hoạt của một
xã hội mới hôm nay? Phật giáo Tích Lan, Cam Bốt chẳng hạn, đã biến đổi rất nhiều
trong nội dung cũng như ngoài hình thức. Ta cần thêm rằng phái Theravada chỉ là
một trong nhiều học phái khác của Phật giáo Nam phương, trong đó ta nên kể phái
Sarvastivada, một học phái đã hưng thịnh trong suốt mười lăm thế kỷ ở Mathura, Gandhara
và Kashmir. Điều đáng chú ý là con người phương Nam, nghĩa là con người những xứ
nhiệt đới, bao giờ cũng thiên về sinh hoạt nội tâm hơn, và ít ưa hoạt động hơn
người phương Bắc. Vì thế Phật giáo Nam phương có tính cách nội hướng và bảo thủ
hơn. Cho nên, một ít hình thức sinh hoạt nguyên thỉ còn có thể bảo tồn được ở các
xứ ấy. Và khi nhìn những hình thức kia người ta cứ tưởng lầm Phật giáo Nam
phương là Phật giáo nguyên thỉ. Kỳ thực trên dòng lịch sử truyền bá và sinh hoạt,
không giờ khắc nào mà Phật giáo không chuyển biến. Không chuyển biến tức là
không sinh tồn, bởi vì sinh tồn là chuyển biến vậy (sinh sinh chi vị dịch).
Điều hệ trọng nhất là
qua tất cả các sinh hoạt luôn luôn chuyển biến ấy của các nền Phật giáo, người
ta đều có thể nhận thấy bản chất của đạo Phật: đó là những nguyên lý căn bản để
tạo dựng nền sinh hoạt đạo pháp, là những căn nguyên khơi mở dòng sinh hoạt đạo
pháp.
Những nguyên lý căn bản
ấy mới chính là bản chất của đạo Phật. Nghiên cứu Phật giáo nghĩa là cố đạt tới
những nguyên lý ấy, những nguyên lý rất linh động ấy, chứ không phải là chép lại
những hình thái sinh hoạt trong một giai đoạn, trong đó kể cả kinh điển, chữ nghĩa.
Kinh điển chữ nghĩa cũng là để đối trị với căn bệnh của thời đại, của con người
trong thời đại. Ta phải đi xuyên qua kinh điển để tìm những nguyên lý sinh hoạt
kia.
Kinh Trường A Hàm
(tương đương với Dighanikaya, bản dịch của Pali Text Society) chẳng hạn đã nhắm
nhiều tới mục đích chỉ vạch những kiến thức sai lạc của các nền tư tưởng học
phái đương thời. Nếu Trường A Hàm được thuyết vào thế kỷ XX, thế nào ta cũng được
đọc về những sai lạc căn bản của thuyết Mác xít, thuyết Hiện sinh và mọi tà
thuyết khác hiện thời.
Như thế kinh điển,
cũng như giáo điều căn cứ trên kinh điển, cũng như những hình thức sinh hoạt Phật
giáo xây dựng trên các giáo điều ấy, đều chỉ là hình thức, là phương tiện biểu
hiện cái nội dung quan trọng là bản chất Phật học, là những nguyên lý Phật học.
Bản chất ấy, những nguyên lý ấy, ta thấy ở bất cứ một nền Phật giáo nào: ở Phật
giáo Nam phương cũng như ở Phật giáo Bắc phương, ở Phật giáo Tây Tạng cũng như ở
Phật giáo Nhật Bản, ở Phật giáo Không tông cũng như ở Phật giáo Hữu tông.
Bản chất ấy là những hạt giống, hạt giống Bồ Đề. Các hạt giống ấy, tùy theo miếng đất ta gieo, sẽ mọc lên thành nhiều cây Bồ Đề khác nhau. Khí hậu màu mỡ, đất đai sẽ qui định những chỗ khác nhau ấy, nhưng bao giờ cây Bồ Đề cũng vẫn là cây Bồ Đề. Chứ không phải chỉ có một cây ấy, trồng ở thời đại ấy, trên miếng đất xã hội ấy mới được gọi là cây Bồ Đề.
Huống nữa, đi sâu vào
nội dung, ta thấy những danh từ Nam tông, Bắc tông, Đại thừa, Tiểu thừa chỉ gây
những khái niệm hết sức tương đối. Ở Phật giáo Bắc phương người ta thấy có những
tông phái Tiểu thừa, những kinh điển Tiểu thừa, cũng như ở Phật giáo Nam phương
người ta vẫn thấy tư tưởng Đại thừa và lối hành trì Đại thừa.
Ở Cam Bốt chẳng hạn,
vào khoảng năm 1360 của kỷ nguyên Phật giáo, tức là vào khoảng năm 800 của kỷ
nguyên Tây lịch, giáo lý Đại thừa đã được phát đạt một thời. Kinh điển Pali và
những sinh hoạt của Phật giáo Nam phương ngày xưa đã có hơn một lần truyền đến
miền Bắc Việt Nam, nhưng có lẽ vì thủy thổ không thích hợp, nên những hạt giống
kia không bắt rễ đâm chồi được. Những cố gắng hiện thời của Tăng sĩ Theravada ở
Nam phần Việt Nam cũng chưa đạt đến những kết quả nào đáng kể, có lẽ vì Việt
Nam từ lâu đã thuộc về khu vực văn hóa Bắc phương.
Trong giai đoạn lịch
sử hiện tại, người Phật tử của Phật giáo Nam tông đã nhận thấy cần hướng nhiều
hơn về những hoạt động nhập thế, cũng như người Phật tử của Phật giáo Bắc tông
nhận thấy cần tăng cường năng lực sinh hoạt nội hướng để đủ chất liệu nuôi dưỡng
những hoạt động nhập thế của mình. Như vậy ranh giới Bắc, Nam, Đại, Tiểu đang
đi dần đến sự xóa bỏ, và Phật giáo chỉ là Phật giáo với tất cả những hình thái
có thể phục vụ sự giải thoát con người về mọi mặt.
Đứng về phương diện
kinh điển, ta phải thấy rõ rằng tuy cả bốn bộ Tứ A Hàm của tạng kinh Bắc phương
cũng như bốn bộ Nikaya của tạng kinh Ba lị đều là những kinh điển căn bản của
Phật giáo hiện giờ, nhưng tạng kinh Nam phương đã mang nặng màu sắc của nền văn
học Abhidharma nhiều lắm.
Nền văn học
Abhidharma nhắm mục đích ghi chép nhận thức và quan điểm của học giả Nam tông,
do đó bốn bộ Nikaya hiện thời đều được xem như là đã được chỉnh lý theo tinh thần
Abhidharma. Vào buổi đầu của nền văn học Phật giáo Nam phương, chưa có sự phân
biệt rõ rệt về giới hạnh kinh và luận. Có nhiều tác phẩm thuộc về luận (sastra)
được sáng tác mô phỏng theo hình thức kinh (sutra). Qua kết quả của sự nghiên cứu
ngày nay, ta có thể khám phá ra được nhiều kinh vốn chính là luận như kinh
"Chúng tập" của Trường A Hàm, "Vệ đà tư tha" của Trung A
Hàm... Nhưng không sao, những "kinh" ấy vẫn nói được các nguyên lý Phật
học, tiếp tục khai thác những khu rừng tư tưởng đã được đức Phật khai mở khi Ngài
còn tại thế.
Bên Phật giáo Bắc
tông, cũng có đại khái những hiện tượng như thế, nhưng ta phải công nhận với
tinh thần cởi mở tự do, nền Phật giáo Bắc phương đã dám đi xa hơn, cho nên đã đạt
tới những chân trời mới lạ hơn. Một bộ kinh như kinh Pháp Hoa chẳng hạn đã phản
chiếu một giai đoạn sinh hoạt tư tưởng sáng rỡ và phản chiếu cả một xã hội Phật
giáo hưng thịnh. Vậy nếu kinh Pháp Hoa nối được truyền thống tu chứng của đức
Phật thì chính kinh Pháp Hoa đã nói được điều đức Phật muốn nói, thực hiện được
điều đức Phật muốn làm.
Giới Phật tử thường
nói đến những Pháp ấn như "chư hạnh vô thường", "chư pháp vô
ngã", "niết bàn tịch tĩnh" hay những nguyên lý căn bản như Tứ Diệu
Đế, Bát Chánh Đạo tức là những đặc chất của Phật giáo. Ở bất cứ một nền giáo lý
nào, ở bất cứ một sinh hoạt chính pháp nào, những pháp ấn ấy, những nguyên lý ấy
vẫn được xem như là căn bản. Lìa những đặc chất kia, phản bội những nguyên lý
kia, mọi sinh hoạt mệnh danh là Phật giáo đều không phải là Phật giáo, mà là tà
đạo.
Như thế Phật giáo là
tổng thể của mọi giáo lý, mọi sinh hoạt văn hóa hiện hữu của nhân loại trên khắp
thế giới, không phân biệt thời gian, địa phương, miễn nhắm tới sự phục vụ con
người bằng cách hướng dẫn con người sống đúng theo những nguyên lý căn bản của
Phật học.
Mong rằng một nhận thức
như thế sẽ đưa chúng ta đến gần đạo Phật hơn và xóa bỏ những quan niệm hẹp hòi
vướng bận hình thức, vướng bận chủ quan thiên lệch. Để tìm đến những nguyên lý
Phật học, ta phải đi sâu vào mọi thực tại sinh hoạt của Phật giáo; qua các thực
tại sinh hoạt khác biệt đó ta mới có đủ yếu tố để suy luận, để chứng nghiệm, để
có một nhận thức đầy đủ. Một giọt nước có thể đủ để cho ta biết được thế nào là
đại dương, nhưng chấp rằng giọt nước là đại dương, ấy là điều nên tránh vậy.
0 Đánh giá