Read more
(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (Kyozan)
Người Thực Của Thiền – Osho
Bài Nói Về Thiền
Chương 1. Phát Biểu Mênh Mông
Nghe hoặc Tải MP3 'Ngưỡng Sơn Huệ Tịch - Người Thực Của Thiền' ê
Thưa Thầy kính yêu của
chúng tôi,
Một lần, khi vẫn còn sống cùng thầy, Ngưỡng Sơn Huệ Tịch nói với
Qui Sơn Linh Hựu, "Phật thực cư ngụ ở đâu?"
Qui Sơn Linh Hựu đáp, "Bằng sự tinh tế của ý nghĩ vô ý
nghĩ, suy tư về sự chói sáng tâm linh vô biên. Suy tư về nó cho tới khi trở về
nền tảng của bản thể, bản tính trú ẩn tự nhiên, và hình dạng của nguyên tắc
không phân đôi. Đây là phật thực."
Nghe thấy lời này, Ngưỡng Sơn Huệ Tịch được chứng ngộ.
Về sau, khi Ngưỡng Sơn Huệ Tịch tự mình đã trở thành thầy, Qui
Sơn Linh Hựu gửi cho ông một chiếc gương làm quà tặng. Khi ông ấy vào phòng các
sư đang tụ hội, Ngưỡng Sơn Huệ Tịch giơ chiếc gương lên và nói với hội chúng,
"Nói cho ta biết liệu đây là gương của Qui Sơn Linh Hựu hay gương của Ngưỡng
Sơn Huệ Tịch. Nếu người nào nêu câu trả lời đúng, thì ta sẽ không đập vỡ chiếc
gương này."
Chẳng ai trả lời, và Ngưỡng Sơn Huệ Tịch đập vỡ chiếc gương.
Maneesha, loạt bài nói
mới bắt đầu ngày hôm nay.
Đây không phải là bài
thuyết giảng trong nhà thờ; đây là giao cảm. Bài nói, buổi thuyết giảng, vẫn
còn trong những giới hạn của tâm trí. Chỉ giao cảm mới có thể nâng bạn ra ngoài
tâm trí, và cái vượt ra ngoài tâm trí là Thiền. Loạt bài nói mới này về giao cảm
là một biến cố trọng đại. Chúng ta sẽ nhìn vào trong chính trái tim của Ngưỡng
Sơn Huệ Tịch.
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch là
người giản dị - không phải là loại người triết lí, không phải nhà thơ, không phải
nhà điêu khắc. Chẳng điều gì có thể nói được về ông ấy ngoại trừ điều ông ấy
tuyệt đối chân thực, lương thiện. Nếu ông ấy không biết điều gì thì ông ấy sẽ
nói vậy, ngay cả với nguy cơ mọi người nghĩ rằng ông ấy đã sa ngã khỏi chứng ngộ
của mình. Nhưng điều này làm cho ông ấy thành thầy duy nhất.
Thiền đầy những thầy
duy nhất, nhưng tính duy nhất của Ngưỡng Sơn Huệ Tịch là ở sự giản dị. Ông ấy
giống hệt như đứa trẻ. Qui Sơn Linh Hựu, thầy ông ấy, phải mất bốn mươi năm làm
việc vất vả để làm cho Ngưỡng Sơn Huệ Tịch chứng ngộ. Thầy quyết tâm, và thầy
nói mình sẽ không rời khỏi thân thể chừng nào Ngưỡng Sơn Huệ Tịch còn chưa trở
nên chứng ngộ - mặc dầu thầy đã khá già rồi.
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch đã
làm mọi điều Qui Sơn Linh Hựu nói, nhưng chẳng cái gì xuyên thấu vào chính bản
thể ông ấy. Ông ấy là một con người rất bình thường. Thiên đường và địa ngục,
Thượng đế và cõi bên kia chưa bao giờ làm ông ấy suy nghĩ. Ông ấy đã không phải
là người tìm kiếm theo nghĩa mọi người tìm kiếm đều như vậy - người tìm kiếm
chân lí.
Không, ông ấy đã không tìm
kiếm chân lí, bởi vì tương truyền ông ấy đã nói rằng, "Nếu ông tìm kiếm
chân lí thì ông đã chắc chắn chấp nhận rằng chân lí tồn tại, còn ta không chấp
nhận điều gì theo đức tin cả. Cho nên ta chỉ tìm kiếm, tìm theo mọi hướng, cố gắng
đi tới hài hoà với vũ trụ. Điều đó có thể chỉ là ảo tưởng của ta, hư huyễn của
ta, nhưng ta muốn đi không định kiến nào."
Cho dù định kiến có thể
chứng tỏ là đúng, nhưng khi định kiến được chứng tỏ là đúng, bạn sẽ chẳng bao
giờ biết tới chân lí. Bạn sẽ liên tục phóng chiếu định kiến của mình. Và bạn có
thể tạo ra toàn bộ hệ thống định kiến, hệ thống các niềm tin - hợp lí, logic, hấp
dẫn, chỉnh tề - nhưng nếu niềm tin là hòn đá tảng để trên đó bạn dựng lên cả
lâu đài, thì bạn đang làm việc vất vả không cần thiết.
Không ai có thể đi tới
biết chân lí bằng bất kì ý tưởng định kiến nào. Ý tưởng định kiến của người đó
sẽ cho kinh nghiệm một hình dạng nào đó, một màu sắc nào đó . Kinh nghiệm này sẽ
không thuần khiết. Nó sẽ bị ô nhiễm như không khí ở Pune vậy!
Nhưng Qui Sơn Linh Hựu,
dường như vậy, lại coi nó là thách thức: nếu một người thường như Ngưỡng Sơn Huệ
Tịch mà không thể được biến đổi thành phật, thì làm sao bạn có thể cho phép người
khác tin cậy vào kinh nghiệm về phật?
Tất cả các tôn giáo đều
đã làm điều đối lập lại. Krishna là hoá thân của Thượng đế, Rama cũng vậy,
Parasuram cũng vậy. Họ đã cho những người này ngồi lên bệ để bạn chỉ có thể tôn
thờ, bạn chỉ có thể cầu nguyện; bạn không thể quan niệm nổi rằng bản thân mình
cũng có thể kinh nghiệm điều những người trên những đỉnh cao đó đang kinh nghiệm.
Và việc tạo ra hệ thống
cấp bậc làm khó cho hầu hết mọi người để mà không bị định kiến. Khi đứa trẻ được
sinh ra, chúng ta đều có ý định tốt, nhưng ý định tốt không có nghĩa là họ sẽ
đưa bạn tới chân lí. Mọi người đều bị nặng gánh với các ý định tốt - với
Shrimad Bhagavadgita, với Koran linh thiêng, với Kinh thánh linh thiêng. Liên tục
lặp lại bất kì cái gì, dần dần điều đó trở thành chân lí cho bạn. Và trong hàng
thế kỉ những tôn giáo này đã cứ lặp lại.
Qui Sơn Linh Hựu đã chọn
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch làm người kế tục của mình. Phải mất bốn mươi năm làm việc
vô cùng nhẫn nại với ông ấy, bởi vì ông ấy là người giản dị, và ngay chỗ đầu
tiên ông ấy không đi tìm chân lí. Bạn nghĩ về người nào đó không đi tìm chân
lí, mà bạn lại cứ gõ cửa người đó hàng ngày.
Xem Nhân chứng Jehovah
đấy! Dù bạn có muốn nghe họ hay không - điều đó không quan trọng - bạn phải
nghe, bạn phải xưng tội. Và bây giờ Giáo hoàng Polack đã làm điều đó thành tội
lỗi... Ông ấy là người phát hiện ra tội lỗi mới - tất cả mọi tội nhân cũ đã chết
đều phải xoay người, trở mình trong nấm mồ rằng họ đã lỡ - ông ấy đã tuyên bố rằng
xưng tội trực tiếp với Thượng đế là tội lỗi; bạn phải đi theo kênh đúng. Bạn phải
tới linh mục, xưng tội với linh mục, nhận sự trừng phạt, rồi linh mục sẽ chăm
sóc bạn, để cho vào Ngày Phán xử khi Thượng đế mở mọi nấm mồ ra, thì linh mục sẽ
là nhân chứng rằng, "Anh chàng này là tốt; khi phạt anh ta đã trả năm đô
la cho ngài."
Nhưng Thượng đế ở vào
thế khó khăn, đặc biệt ở Ấn Độ. Phần lớn dân chúng đều tin vào lửa và việc đốt
xác người chết. Khi ngài mở nấm mồ của người Hindu, bản thân ngài có thể kinh
hoàng - chỉ toàn xương, và thậm chí không có tới hộ chiếu! Nhưng tôi bao giờ
cũng nghĩ bạn sẽ trông thế nào, cái gì đó tương tự như tấm ảnh bạn đang mang
trong hộ chiếu của mình mà không có da.
Và tôi không thể nào
quan niệm nổi rằng việc phán xử xong được trong một ngày. Trong hàng triệu năm,
hàng nghìn tỉ người đã sống trên trái đất này. Một nhà nghiên cứu nào đó đã
tính rằng, bất kì chỗ nào bạn đang ngồi, bạn đều đang ngồi trên mười bộ xương
người chết. Đừng sợ, họ toàn là những người rất tốt! Và cũng nhớ rằng việc phán
xử không chỉ cho đàn ông. Đàn bà cũng sẽ có đó. Và đàn bà sẽ tán gẫu nhiều thế:
"Tin tức gì vậy? Ai là người mới tới?"
Tôi không nghĩ rằng Thượng
đế sẽ có khả năng quản lí được, và có lẽ đó là lí do mà Jesus nói, "Ngày
Phán xử sẽ tới sớm thôi - trong cuộc đời các ông," nhưng nó thậm chí vẫn
chưa tới mãi tới giờ, mặc dầu hai nghìn năm đã trôi qua. Tôi có thể nói với bạn
việc phán xử sẽ không bao giờ tới đâu, bởi vì nó là không khả thi.
Và vào Ngày Phán xử sẽ
có đánh nhau cực kì đẫm máu giữa các bộ xương; bởi vì một đàn ông đã là chồng
trong hàng trăm kiếp với hàng trăm đàn bà, một đàn bà đã là vợ của hàng trăm
đàn ông trong các kiếp quá khứ của mình. Và mọi người sẽ lôi kéo nhau. Ai đó
kéo chân bạn, "Anh đi đâu thế?" Cả thế giới sẽ thành đống lộn xộn đến
mức tôi phải nói với bạn một cách quả quyết rằng ý tưởng về phán xử đã bị hoãn
lại vĩnh viễn.
Chọn Ngưỡng Sơn Huệ Tịch
làm người kế tục mình, và chờ đợi trong bốn mươi năm - kiên nhẫn làm sao! - gần
như biến đổi tảng đá thành kim cương. Nhưng Qui Sơn Linh Hựu lại cương quyết
làm một điều tuyệt đối rõ ràng cho nhân loại: nếu Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, một người
bình thường và đơn giản, không thuộc vào bất kì đặc trưng nào, bất kì loại nào,
chẳng có tài năng gì, chẳng thiên tài gì - nếu ông ấy có thể trở nên chứng ngộ,
thì điều đó sẽ là bằng chứng. Để nêu bằng chứng này cho nhân loại, ông ấy đã chọn
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch và làm việc vất vả với ông này. Và cái ngày Ngưỡng Sơn Huệ
Tịch trở nên chứng ngộ, cái ngày Qui Sơn Linh Hựu đã truyền chứng ngộ của mình
và hai ngọn lửa trở thành một, thì Qui Sơn Linh Hựu biến mất khỏi thế giới vật
chất, thân thể, tâm trí.
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch bây
giờ toả sáng thế. Ông ấy không chỉ một lần chứng ngộ, ông ấy đã chứng ngộ kép.
Thầy của ông ấy đã trao cho ông ấy kinh nghiệm phong phú, không gian sâu sắc
hơn nhiều, bầu trời sáng tỏ hơn nhiều.
Một chút ít ghi chép tiểu
sử:
Khi Ngưỡng Sơn Huệ Tịch
mười lăm tuổi, ông ấy đã muốn trở thành sư, nhưng bố mẹ ông ấy không cho phép
điều đó. Hai năm sau đó, ông ấy chặt hai ngón tay trên bàn tay trái và cầu xin
bố mẹ để ông ấy theo con đường tâm linh, và cuối cùng họ đã đồng ý.
Họ phải đồng ý. Nếu ông
ấy có thể chặt hai ngón tay thì ông ấy cũng có thể chặt cả bàn tay, và trách
móc sẽ đổ lên họ.
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch
theo học nhiều thầy và rồi ở lại với Qui Sơn Linh Hựu trong nhiều năm, trước
khi đi tới núi Kyo nơi các đệ tử tới với ông ấy.
Trong Thiền, tiểu sử là
không quan trọng. Điều quan trọng là ở chỗ người này đã trở thành ngọn lửa vĩnh
hằng, là ở chỗ người này đã đạt tới tiềm năng tối thượng của mình, là ở chỗ
bông sen xanh lam của người đó đã nở ra. Ai quan tâm tới ngày sinh, tới bố mẹ bạn?
Những điều đó trở thành bỏ qua được. Đó là lí do tại sao ở phương Đông không có
gì giống như lịch sử phương Tây.
Lịch sử phương Tây mang
tính sự kiện; nó ghi lại tất cả các sự kiện từ sinh tới tử. Lịch sử phương Đông
không bận tâm về dáng vẻ vật lí; nó quan tâm tới trưởng thành tâm linh của bạn.
Đấy mới là những điểm tiến bộ thực.
Để có kinh nghiệm này
các bạn nên tới đền chùa Jaina. Đừng nhắc tới tên tôi đấy! Và bạn sẽ thấy trong
ngôi đền này hai mươi bốn tượng các thầy Jaina. Và bạn sẽ bị phân vân bởi vì
chúng tất cả đều trông như nhau; không có cách nào tìm ra ai là ai.
Tôi đang cố gắng làm rõ
ràng cho bạn rằng ai là ai cũng chẳng thành vấn đề gì cả. Những bức tượng đó
không biểu diễn cho thân thể vật lí; chúng biểu diễn cho im lặng tâm linh,
duyên dáng tâm linh, an bình tâm linh. Nếu bạn ngồi đó, bạn sẽ bị nhận chìm nếu
bạn không phải là người Jaina - bởi vì người Jaina đi cùng định kiến.
Đi mà tìm hiểu xem tại
sao hai mươi bốn bức tượng này đích xác hệt như nhau. Lí do là, kinh nghiệm bên
trong là một - dù nó xảy ra cho Adinatha hay cho Mahavira hay cho Phật Gautam,
điều đó không thành vấn đề. Ngọn lửa bên trong và hương thơm và im lặng sẽ bao
quanh bạn. Chỉ ngồi im lặng, để cho nó xảy ra. Đừng vội vàng gì.
Cho nên chúng ta không
biết mấy về tên, chúng ta không biết khi nào họ sinh ra, chúng ta không biết
khi nào họ trở nên chứng ngộ, nhưng chúng ta biết rằng bùng nổ bất thần của ánh
sáng đã xảy ra trong một con người. Chúng ta đã tính chỉ những người này trong
lịch sử của mình.
Và điều liên quan tới vật
lí chúng ta đã xoá bỏ đi khỏi lịch sử phương Đông. Nhưng chúng ta đã nhớ, và
chúng ta liên tục nhớ... và nếu bạn ngồi trước tượng Phật bên ngoài lối vào, chỉ
ngồi im lặng, bạn sẽ ngạc nhiên lần đầu tiên bạn cảm thấy được thảnh thơi thế,
an bình thế, không lo nghĩ thế. Hình dạng của tượng tạo ra không gian nào đó và
năng lượng nào đó.
Điều này đã được phát
hiện ra vào những ngày đầu của thế kỉ này khi có háo hức lớn lao về những kim tự
tháp Ai Cập. Chúng đã hoàn toàn bị bịt kín. Khi một kim tự tháp được mở ra -
kim tự tháp đầu tiên - đã có an bình kì lạ bên trong, hương thơm kì lạ bên
trong.
Và điều thách đố nhất
đưa ra ánh sáng là một con mèo phải đã chết từ hàng trăm năm trước đây rồi,
nhưng không bị thối rữa thân thể. Cứ dường như là nó vừa mới chết thôi. Họ
không thể tin được vào điều đó bởi vì tháp chứa hài cốt đã ba nghìn năm rồi, và
nó chưa bao giờ bị mở ra.
Khi họ đóng cánh cửa cuối
cùng, bằng cách nào đó con mèo này phải đã chui vào, và còn lại ở trong, và tất
nhiên phải chết; không có cách nào ra cả. Nó phải đã chết từ ba nghìn năm trước
đây, nhưng vấn đề là không có sự thối rữa.
Và các nhà khoa học trở
nên quan tâm rằng có lẽ hình dạng của kim tự tháp tạo ra một không gian nào đó
mà trong đó không cái gì có thể chết. Cái chết tới bởi vì không có thức ăn,
không có nước, nhưng kim tự tháp đã giữ con mèo này cứ dường như vẫn sống như bất
kì con mèo nào có thể sống.
Bây giờ trên thị trường
thế giới có bán những kim tự tháp nhỏ. Bạn chỉ ngồi dưới kim tự tháp này trong
một giờ và bạn sẽ thấy thay đổi nào đó; bạn không còn vội vàng nữa, bạn không
có căng thẳng nào. Chiếc tháp đựng hài cốt đã làm điều gì đó, nhưng nó vẫn là một
bí ẩn.
Các Phật tử cũng đã làm
các tháp đựng hài cốt: ở Ấn Độ, Bodhgaya, nơi Phật trở nên chứng ngộ... ở
Sanchi, nơi nhiều chư phật đã trở nên chứng ngộ. Nhưng không ai dường như quan
tâm tới ngoại trừ kiến trúc của chúng. Việc nghiên cứu kiến trúc không phải là
cách tìm ra điều bí ẩn của việc tại sao những tháp này lại được làm ra theo
cách nào đó.
Ở Ấn Độ, ở Tây Tạng, ở
Trung Quốc, ở Nhật Bản, ở Ceylon - bất kì nơi nào Phật giáo tới, những tháp
này, những đài kỉ niệm này đều được dựng lên để cho một chỉ dẫn rằng không ai
chết cả; chỉ thân thể và tâm trí bị bỏ lại sau còn bạn mở rộng đôi cánh của tâm
thức. Và lần đầu tiên khi tất cả các cánh cửa chớp đều bị phá vỡ và toàn thể trời
xanh là vương quốc của bạn.
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch đã
theo học với nhiều thầy, nhưng họ không phải là các thầy... và chắc chắn ông ấy
không sẵn sàng là đệ tử. Khoảnh khắc ông ấy gặp Qui Sơn Linh Hựu, bỗng nhiên một
làn gió mới, một hương thơm mới thoảng qua ông ấy.
Họ gặp gỡ trên con đường
mòn nhỏ trên núi. Ông ấy không thể cưỡng lại được... con người này toả mùi thơm
như gỗ đàn hương và có ánh sáng bao quanh mình, thoải mái thế.
Ông ấy quay lại và hỏi
Qui Sơn Linh Hựu, "Thầy có thể nhận tôi làm đệ tử được không?"
Qui Sơn Linh Hựu nhìn
vào ông ấy. Qui Sơn Linh Hựu nói, "Ta chưa bao giờ bác bỏ ai cả, điều đó sẽ
là sự sỉ nhục - mặc dầu ta biết, nhìn vào ông, rằng đó sẽ là nhiệm vụ lâu dài.
Nhưng nếu ông sẵn sàng đi trên cuộc hành hương dài lâu cùng ta, thì có lẽ điều
có thể xảy ra bây giờ có thể xảy ra thật."
Qui Sơn Linh Hựu có một
nghìn sư-đệ tử, và họ tất cả đều phân vân rằng, trong khi đã có một hội chúng
mang tính sĩ phu lớn thế, ông ấy lại đã chọn một nông dân, vô giáo dục, người
thậm chí còn không biết tới cái tên của kinh Phật. "Sao thầy quan tâm thế
tới anh ta vậy?" Và họ đều là những kẻ sĩ lớn với kỉ luật cao quí, người
đã từng ở với thầy nhiều năm - và, "Đây là người mới tới, một dân
làng."
Qui Sơn Linh Hựu nói với
các đệ tử khác, "Hôm nay anh ta còn chưa sẵn sàng, anh ta mới là hạt mầm.
Nhưng ngày mai các ông sẽ biết tại sao ta đã chọn anh ta. Ta đang cố gắng nhắm
hai đích trong một biến cố. Nếu con người này có thể trở thành phật, thế thì cánh
cửa mở ra cho tất cả mọi người." Và ông ấy đã làm điều đó thành lời hứa rằng
ông ấy sẽ không rời khỏi thân thể chừng nào Ngưỡng Sơn Huệ Tịch còn chưa làm
cho toàn thể hội chúng các đệ tử thoả mãn rằng thầy đã không sai.
Lời kinh:
Thưa Thầy kính yêu của
chúng tôi,
Một lần, khi vẫn còn sống
cùng thầy, Ngưỡng Sơn Huệ Tịch nói với Qui Sơn Linh Hựu, "Phật thực cư ngụ
ở đâu?"
Qui Sơn Linh Hựu đáp,
"Bằng sự tinh tế của ý nghĩ vô ý nghĩ, suy tư về sự chói sáng tâm linh vô
biên. Suy tư về nó cho tới khi trở về nền tảng của bản thể, bản tính trú ẩn tự
nhiên, và hình dạng của nguyên tắc không phân đôi. Đây là phật thực."
Nghe thấy lời này, Ngưỡng
Sơn Huệ Tịch được chứng ngộ.
Đó là một sự vụ rất kì
lạ.
Giáo dục kiểu phương
Tây ở mọi nơi đã làm cho chúng ta bị rất giới hạn và một chiều. Cho nên nếu bạn
đọc điều này bạn sẽ đơn giản cười. Bạn có thể hiểu từng lời và những ngụ ý của
nó, nhưng đấy không phải là điều thực đang xảy ra giữa Qui Sơn Linh Hựu và Ngưỡng
Sơn Huệ Tịch.
Một lần, khi vẫn còn sống
cùng thầy, Ngưỡng Sơn Huệ Tịch nói với Qui Sơn Linh Hựu, "Phật thực cư ngụ
ở đâu?"
Qui Sơn Linh Hựu đáp,
"Bằng sự tinh tế của ý nghĩ vô ý nghĩ, - khi tâm trí vô ý nghĩ và chỉ trống
rỗng, đó là ngôi chùa của phật - suy tư về nó cho tới khi trở về nền tảng của bản
thể, bản tính trú ẩn tự nhiên, và hình dạng của nguyên tắc không phân đôi. Đây
là phật thực."
Bao giờ cũng đi vào
trong sự thống nhất với vũ trụ. Phân đôi là phân chia; không phân đôi là không
phân chia, không phân chia bất kì loại nào. Suy tư về nó, và chính việc suy tư
này... bạn sẽ không tìm thấy phật; bạn sẽ tìm thấy bạn là phật. Sẽ không có
hai, bởi vì điều đó sẽ tạo ra phân đôi. Sẽ không có bạn đứng nhìn vào phật. Bạn
sẽ hội nhập vào im lặng, biến mất trong kinh nghiệm đại dương của tâm thức,
thanh thản vĩnh hằng của sự tồn tại. Không có người biết và không cái gì được biết,
nhưng mọi thứ hiện hữu. Cái 'hiện hữu' này là phật.
Nghe thấy lời này, Ngưỡng
Sơn Huệ Tịch được chứng ngộ.
Điều này gây khó khăn
cho tâm trí hiện đại. Làm sao người ta có thể trở nên chứng ngộ chỉ bởi việc
nghe có vài dòng thôi? Bạn có thể cứ đọc mãi những dòng này đọc đi đọc lại, bạn
vẫn không trở nên chứng ngộ; bạn đơn giản trở thành rồ.
Ở phía dưới, cái gì đó
khác đang xảy ra. Trong khi thầy nói, đệ tử không chỉ nghe bởi vì anh ta có
tai. Đệ tử nghe bằng toàn bộ bản thể của mình, bằng mọi thớ thịt của con người
mình; không chỉ bằng tai, anh ta cũng còn nghe bằng mắt, nhìn vào thầy; anh ta
còn cảm thấy thầy, rung động của thầy. Đó là hiện tượng toàn bộ. Anh ta đã quên
mất bản thân mình và biến mất trong phát biểu vô biên này.
Khoảnh khắc bạn quên mất bản thân mình và chỉ tâm thức im lặng còn lại, bạn đã về nhà. Chứng ngộ không phải là cái gì đó đặc biệt; nó ẩn bên trong bạn, sự huy hoàng ẩn kín của bạn. Chỉ vì bạn quá bận tâm với thế giới bên ngoài đến mức bạn có thể quên mất mọi thứ, đặc biệt những thứ rất hiển nhiên.
Trong cuộc chiến tranh
thế giới thứ nhất, việc chia khẩu phẩn đã được đưa vào và mọi người đều phải xuất
hiện trước khi quan chức chia khẩu phần thu lấy tem phiếu. Thomas Alva Edison,
một nhân vật nổi tiếng thế giới - tất cả mọi tiện nghi và sự thoải mái của bạn,
phần lớn trong chúng đều là từ Edison; ông ấy đã phát minh ra hàng nghìn thứ -
ông ấy cũng đang đứng xếp hàng. Và khi ông ấy tới gần đầu hàng hơn, mọi người rời
đi, đem theo tem phiếu của mình, và cuối cùng viên thư kí hô lên, "Bây giờ
là lúc cho Thomas Alva Edison."
Edison nhìn quanh đây
đó; ông ấy chẳng thấy ai cả. Một hàng dài ở sau ông ấy. Ai đó từ đằng sau nói,
"Cứ như tôi biết, người đang đứng trước ông là Thomas Alva Edison."
Edison nói, "Có lẽ
tôi có thể là người đó, nhưng trong năm mươi năm chẳng ai đã dùng tên tôi trước
tôi." Ông ấy nổi tiếng thế; tại đại học ông ấy được gọi là 'giáo sư',
không ai dùng tên ông ấy cả. Và ông ấy mê mải và dấn thân vào các thực nghiệm của
mình, ông ấy không có thời gian để gặp mọi người, để nói với mọi người. Ông ấy
là một người tuyệt đối một mình trong đám đông. Ông ấy đã quên mất tên riêng của
mình - năm mươi năm là một khoảng thời gian dài.
Nếu không ai dùng tên bạn,
bạn cũng sẽ quên, hay bạn có thể nghĩ, "Có lẽ mình đã nghe thấy cái tên này
ở đâu đó xa xôi rồi, xa lâu rồi, như tiếng vọng, nhưng mình không thể đảm bảo
được điều đó. Mình phải tìm nhân chứng."
Bây giờ, nếu cái tên của
bạn không được những người khác dùng do sự kính trọng và tình yêu, thì chính bản
thân bạn cũng sẽ không dùng nó. Một cách tự nhiên, không được dùng tới trong
năm mươi năm - và tên là một phương thức tuỳ tiện - Edison đã quên mất tên
mình.
Nhưng bạn đã quên mất bản
thể bên trong nhất của mình. Mất mát của ông ấy không hẳn đã là mất mát, chỉ là
cái nhãn. Mất mát của bạn còn sâu sắc và lớn lao hơn nhiều. Hàng thế kỉ bạn đã
sống, nhưng bạn không biết mình là ai.
Bùng nổ của chứng ngộ
là: Bỗng nhiên bạn trở nên nhận biết về bản thể vĩnh hằng của mình.
Về sau, khi Ngưỡng Sơn
Huệ Tịch tự mình đã trở thành thầy, Qui Sơn Linh Hựu gửi cho ông ấy một tấm
gương làm quà tặng. Khi ông ấy vào phòng các sư đang tụ hội, Ngưỡng Sơn Huệ Tịch
giơ chiếc gương lên và nói với hội chúng, "nói cho ta biết liệu đây là
gương của Qui Sơn Linh Hựu hay gương của Kyizan. Nếu người nào nêu câu trả lời
đúng, thì ta sẽ không đập vỡ chiếc gương này."
Đây là cách thức trong
Thiền những vấn đề rất tinh tế và rắc rối trở thành quan trọng vô biên. Với người
ngoài nó có vẻ là câu hỏi ngu xuẩn.
Ngay chỗ đầu tiên, bạn
nên nhớ rằng gửi gương như món quà - ông ấy mới khai trương thiền viện mới, ông
ấy sẽ là thầy - việc gửi tấm gương cho ông ấy là để nhắc ông ấy: "Chớ quên
nhé. Gương này sẽ nhắc nhở ông rằng bất kì điều gì gương phản chiếu đều không
phải là ông. Nhưng bất kì ai chứng kiến sự phản chiếu trong tấm gương, đó là phật
tính của ông."
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch đã
vươn tới những đỉnh cao này. Ông ấy nói với hội chúng các sư:
"nói cho ta biết
liệu đây là gương của Qui Sơn Linh Hựu hay gương của Kyizan. Nếu người nào nêu
câu trả lời đúng, thì ta sẽ không đập vỡ chiếc gương này."
Chẳng ai trả lời, và
Ngưỡng Sơn Huệ Tịch đập vỡ chiếc gương.
Để trả lời câu hỏi này
cần có con người của chứng ngộ. Một cách tự phát ông ấy sẽ đáp ứng - hàng nghìn
cách thức được mở ra - nhưng vẫn còn im lặng, câm bặt, đơn giản bầy tỏ dốt nát
của bạn, vô nhận biết của bạn. Và việc đập vỡ gương của Ngưỡng Sơn Huệ Tịch chỉ
để làm ra việc bắt đầu cho điều sẽ xảy ra trong thiền viện của ông ấy.
Nếu bất kì ai đã chứng
ngộ, người đó có thể đã làm bất kì điều gì. Người đó có thể tới và tát Ngưỡng
Sơn Huệ Tịch và giằng lấy tấm gương từ ông ấy, và nói với hội chúng,
"Gương này là của ta! Không cần phải đập vỡ nó." Hay bất kì cái gì!
Gương không của ai cả.
Và việc dùng món quà của thầy vào ngày đầu tiên của buổi lễ khai trương... việc
đập vỡ tấm gương là điều không hay. Cần có ai đó đập vào mặt Ngưỡng Sơn Huệ Tịch,
điều sẽ cứu được tấm gương! Nhưng không ai đủ chứng ngộ cả.
Bạn sẽ bắt gặp nhiều sự
vụ, và khi bạn nghe nói về chúng, nghĩ rằng bạn đã ở đó; nhắm mắt lại và cảm thấy
năng lượng đã tụ hội trong thiền viện của Ngưỡng Sơn Huệ Tịch; bạn đã làm gì?
Điều đó làm tôi nhớ tới:
Một thiền sư vĩ đại có
hai cánh trong thiền viện của mình, và ông ấy có một con mèo đẹp. Mọi người đều
yêu con mèo đó, và mọi người đều công bố rằng, "Tất nhiên thầy không thể sở
hữu thứ gì được, cho nên nó phải thuộc về cánh phải," hay "nó thuộc về
cánh trái."
Mọi sự trở nên nóng bỏng
đến mức một hôm thầy phải gọi toàn thể hội chúng của cả hai cánh, để nói, vừa
chỉ vào con mèo và chiếc kiếm, "Các ông có thấy con mèo này và chiếc kiếm
này không? Nếu bất kì ai có thể trả lời được - đây là câu hỏi về con mèo này và
chiếc kiếm này - nếu bất kì ai có thể trả lời được, thì con mèo sẽ thuộc về người
đó. Nếu không ai trả lời thế thì chỉ có một khả năng cho ta giải quyết sự tranh
cãi và tranh chấp nóng bỏng này là chặt con mèo làm đôi và chia nó cho cánh phải
và cánh trái."
Sự ớn lạnh lớn len vào
mọi người, nhưng câu trả lời đúng là gì?
Thấy sự im lặng của họ,
thầy chặt con mèo làm đôi. Thầy đem nửa con mèo đầy máu cho mỗi bên. Vừa lúc đó
Liệt Tử, người sẽ là người kế tục của của thầy và vừa đi làm vài việc từ chợ về,
đi vào và tát thầy, và nói với thầy, "Lão già ngu xuẩn! Lão đã giết con
mèo đẹp một cách không cần thiết."
Thầy cười và nói,
"Liệt Tử, nếu như ông mà ở đây thì con mèo đáng thương này vẫn còn sống."
Thiền có ngôn ngữ riêng
của nó. Đặc biệt nhất, nó cần dũng cảm, tự phát, sáng tỏ, và rồi từ sáng tỏ đó
bất kì điều gì bạn làm cũng đều phải cả.
Isa đã viết:
Cây mận nở hoa:
Mùa xuân của ta
là cực lạc
Bạn quán tưởng.
Cây mận nở hoa:
Mùa xuân của ta
là cực lạc
Nếu bạn bắt đầu nhìn một
cách im lặng vào mọi thứ, hoa hồng sẽ trở thành cực lạc của bạn, núi non sẽ trở
thành cực lạc của bạn, cây trần trụi không lá sẽ trở thành cực lạc của bạn. Cực
lạc là im lặng hoàn toàn, quan sát, chứng kiến cái đẹp vô biên bao quanh bạn.
Cái đẹp này mang chất rượu. Trải nghiệm cái đẹp này quanh mình, bạn quên mất những
điều nhỏ bé. Cuộc sống của bạn trở thành cuộc sống vàng.
Maneesha đã hỏi:
Thưa Thầy kính yêu của
chúng tôi,
Mặt nguyên thuỷ của
chúng tôi có phải là mặt của nhân chứng không? Có phải là chúng tôi sống như kẻ
quên lãng, quên mất rằng chúng tôi đã chấp nhận một cách tuỳ tiện thân thể và
tâm trí, và rằng chứng ngộ đơn giản là việc lấy lại kí ức của chúng tôi không?
Đúng đấy, Maneesha. Bạn
đã cô đọng trong câu hỏi của mình toàn bộ câu trả lời.
Nhưng cô ấy lại viết tiếp:
T.b Sao Thầy gọi tôi là
Maneesha "nghèo nàn"?
Thạch Đầu Niskriya, cho
Maneesha nghèo nàn một cú đánh ra trò.
(Niskriya gõ nhẹ lên đầu
Maneesha bằng chiếc thiền trượng của mình.)
Tôi gọi bạn là
"Maneesha nghèo nàn" bởi vì có nghèo của thế giới bên ngoài, và có
nghèo của thế giới bên trong. Tôi chống lại nghèo của thế giới bên ngoài, nhưng
tôi không chống lại nghèo của thế giới bên trong. Nghèo của thế giới bên trong
nghĩa là: không bản ngã, không tự hào, không kiêu ngạo, khiêm tốn thuần khiết,
cứ dường như bạn không có đó. Và điều bắt đầu 'dường như' chẳng mấy chốc bạn sẽ
thấy nó là vậy. Không có nhu cầu gọi nó là 'dường như'.
Bất kì khi nào tôi gọi
bạn, Maneesha, "Maneesha nghèo nàn," đó là để đánh thức trong bạn im
lặng, an bình, nở hoa, mùa xuân.
Bởi vì điều này, Phật
hay gọi các sannyasins của mình - ngược với toàn thể truyền thống của Ấn Độ -
là bhikkshu - khất sĩ, người ăn xin. Nhưng người đó là kẻ ăn xin ở bên ngoài.
Người đó càng trở thành mang tính ăn xin ở bên ngoài, bản thể bên trong của người
đó càng trở nên phong phú.
Cái nghèo của người
khiêm tốn, cái nghèo nàn của người hồn nhiên, cái nghèo nàn của thiền nhân im lặng
không phải là nghèo nàn. Qua cái nghèo này bạn đang hấp dẫn toàn thể thế giới.
Toàn thể bầu trời xanh trở thành nhỏ hơn bạn.
Bây giờ là lúc cho
Sardar Gurudayal Singh.
Vào ngày định mệnh đó
trên Đồi Calvary, Jesus đã bị treo trên cây thánh giá bốn tiếng rồi, và ông ấy
ngày một yếu hơn.
Bỗng nhiên ông ấy thấy
Moseki, đệ tử người Ba Lan của mình, trong số những khuôn mặt trong đám đông ở
dưới.
"Moseki,
Moseki," Jesus hổn hển nói với người Polack. "Moseki, lại đây; ta có
thông điệp cho ông và dân tộc ông."
Moseki nhảy điệu simmi
tới cây thánh giá, đưa tai lên sát cạnh Jesus và nói, "Dạ vâng, thưa ngài,
thông điệp cho chúng tôi người Polacks là gì?"
"Thời nay là nguy
hiểm cho các đệ tử Ba Lan của ta," Jesus thì thào, "cho nên chừng nào
ta còn chưa quay lại, thì cứ câm đi!"
Bé Ernie bước vào phòng
ngủ của bố mẹ và thấy bố nó đang đeo bao cao su.
"Này, bố," Bé
Ernie nói. "Bố làm gì thế?"
"Úi, e hèm... Bố
đang định đi săn thỏ đây," ông bố ngượng ngùng lắp bắp.
"Thật à?"
Ernie nói. "Bố định làm gì khi tới chúng, Bố? Đéo chúng à?"
Bé Ernie và Bé Sally
đang thảo luận con trai lớn và con gái lớn làm gì với nhau khi họ một mình
trong đêm.
"Đằng ấy nghĩ họ
làm gì?" Sally hỏi.
"Tớ không chắc,"
Ernie đáp. "Nhưng tớ biết cách để tìm ra. Đêm nay, khi chị tớ Suzy đem bạn
trai vào phòng khách, tớ sẽ trốn sau rèm và xem họ."
"Ý hay đấy!"
Bé Sally nói. "Rồi mai cậu kể lại cho tớ về điều đó nhé." Sáng hôm
sau, hai đứa bé gặp nhau.
"Sally!" Bé
Ernie kêu lên đầy kích động. "Cậu không thể tin được điều đã xảy ra đêm
qua đâu. Tớ đang chơi sau tràng kỉ, thì chị tớ, Suzy, và bạn trai của chị,
Herbert, về nhà. Họ ngồi lên ghế tràng kỉ và không biết tớ có đó.
"Họ nói một lúc, rồi
Herbert tắt gần hết đèn. Suzy phải bị lạnh, bởi vì anh ấy quàng tay quanh lưng
chị ấy và thổi hơi thở nóng lên cổ chị ấy.
"Tớ đoán chị ấy phải
đã cảm thấy ốm, bởi vì mặt chị ấy trong buồn cười lắm. Anh ấy phải cũng nghĩ
như vậy nữa, bởi vì anh ấy cho tay vào trong áo lót của chị ấy để xem tim - hệt
như bác sĩ ấy. Trừ mỗi việc anh ấy thì không thạo như bác sĩ, vì anh ấy dường
như khó tìm thấy nó!
"Tớ đoán anh ấy
cũng bị ốm nữa, vì ngay khi đó cả hai bắt đầu thở hổn hển và thở hết sức. Tay
kia của anh ấy phải khá lạnh bởi vì anh ấy đặt nó vào dưới quần lót của chị ấy.
"Vào lúc này, Suzy
lại còn trầm trọng hơn và bắt đầu rên rỉ và bắt đầu quằn quại và trượt dần đến
đầu tràng kỉ.
"Đây là lúc cơn sốt
bắt đầu! Tớ biết nó là cơn sốt bởi vì Suzy bảo Herbert chị ấy đang thực sự
nóng.
"Cuối cùng, tớ thấy
điều làm cho họ bị ốm. Một con rắn lớn nhảy ra từ quần của Herbert, và đứng đó
- nó phải dài tới ba mươi centimet! Không thể nào tin nổi! Suzy thực sự sợ. Mắt
chị ấy mở to và mồm chị ấy há ra và chị ấy bắt đầu kêu, 'Lạy Chúa!' hay cái gì
như vậy. Chị ấy nói nó là cái lớn nhất mà chị ấy đã từng trông thấy!
"Dẫu sao đi chăng
nữa, Suzy cũng mạnh bạo hơn và cố gắng giết nó bằng việc cắn đứt đầu nó! Tớ
đoán nó cắn vào lưng chị ấy, bởi vì bỗng nhiên chị ấy làm tiếng động và bỏ ra.
Thế rồi chị ấy nắm lấy nó bằng cả hai tay và giữ chặt nó trong khi Herbert lấy
cái bịt mõm bằng nhựa từ túi quần và trùm lên đầu con rắn để giữ cho nó khỏi cắn
lần nữa.
"Thế rồi Suzy và
Herbert nằm lên tràng kỉ và cố gắng kẹp con rắn ở giữa họ. Nhưng con rắn tạo
nên một cuộc vật lộn dữ dội. Họ cả hai bắt đầu rên rỉ và kêu ré và gần như lật
cả chiếc tràng kỉ! Và sau trận vật lộn lâu dài họ cuối cùng đã dừng lại và thở
dài.
"Khi Herbert đứng
dậy, tớ có thể nói rằng con rắn đã chết. Nó mềm rũ và chỉ treo ở đó.
"Cậu biết đấy,
Sally, tớ nghĩ họ là những người bạo dạn nhất mà tớ biết."
"Sao lại thế?"
Sally hỏi.
"Bởi vì,"
Ernie đáp, "khi Herbert ra về, anh ấy và Sally quyết định lại làm cùng việc
đó vào tuần sau!"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)
Nivedano...
(tiếng trống)
Im lặng. Nhắm mắt lại.
Cảm thấy thân thể bạn hoàn toàn đông cứng. Bây giờ nhìn vào bên trong bằng toàn
bộ tâm thức của bạn, với sự khẩn thiết dường như đây là khoảnh khắc cuối cùng,
và xuyên vào chính trung tâm của bản thể bạn.
Trung tâm của bạn cũng
là trung tâm của vũ trụ. Chúng ta tất cả đều được nối ở trung tâm. Trên chu vi
chúng ta là những nhân cách khác nhau.
Đi ngày một sâu hơn.
Đây là chính cội nguồn
cuộc sống của bạn. Đi sâu vào trong nó, nó sẽ làm tươi lại bạn, làm trẻ trung lại
bạn. Nó sẽ đem tự do tới cho bạn thoát khỏi mọi cái vô nghĩa mà xã hội đã rót
vào tâm trí bạn.
Khoảnh khắc này bạn là
phật. Chỉ chứng kiến, không làm gì - cùng chiếc gương mà Qui Sơn Linh Hựu đã gửi
cho Ngưỡng Sơn Huệ Tịch làm quà tặng. Gương chỉ chứng kiến.
Để làm điều đó được rõ
ràng,
Nivedano...
(tiếng trống)
Thảnh thơi và chứng kiến
thân thể tách rời khỏi bạn, tâm trí tách rời khỏi bạn. Sự đồng nhất duy nhất của
bạn là việc chứng kiến. Từ tiếng Phạn cho chứng kiến là phật.
Các bạn là vài người được
ân huệ trên trái đất hôm nay, người đang đi vào con đường vàng cổ đại dẫn bạn tới
cái vĩnh hằng, cái bất tử. Dần dần các bạn bắt đầu tan chảy, và Thính phòng Phật
Gautam trở thành cái hồ tâm thức thuần khiết: tất cả các bạn chia sẻ một phật.
Các bạn có thấy thay đổi
trong bầu khí hậu bên trong của mình không?
Mùa xuân chưa tới sao?
Hoa của niềm vui còn
chưa mưa rào lên bạn sao?
Khoảnh khắc này không
phải là khoảnh khắc quí báu nhất sao, bởi vì bạn đang ở nhà? Là phật đơn giản
nghĩa là ở nhà.
Chẳng mấy chốc Nivedano
sẽ gọi các bạn dậy. Trước khi anh ấy đánh tiếng trống, thu lấy thật nhiều nhất
kinh nghiệm này. Đem tất cả những hoa đó ra chu vi của bạn.
Điều tối thượng trong
việc tìm kiếm chân lí là đem phật ẩn kín vào những hành động thường ngày của bạn,
các cử chỉ, lời nói, im lặng.
Nivedano...
(tiếng trống)
Quay lại, nhưng nhớ bạn
đang tới với duyên dáng của phật, với im lặng và niềm vui của phật.
Ngồi vài khoảnh khắc chỉ
để hồi tưởng, để nhớ lại nơi bạn đã ở, con đường vàng bạn đã đi; và bạn đã quay
lại trên cùng con đường đó. Người ta phải cứ lặp lại - đi vào, đi ra, đi vào,
đi ra - và dần dần việc đi này trở thành sâu sắc tới mức bạn không cần quay lại,
bạn có thể vẫn còn là phật trong thế giới.
Tôi chống lại mọi sự từ
bỏ. Triết lí của tôi là sống trong thế giới đẹp đẽ này với duyên dáng và tình
yêu và phúc lạc.
Đó là cơ hội lớn cho việc
nở hoa. Đừng bỏ lỡ nó.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy kính yêu.
Xem Tiếp Chương 2 –
Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá