Read more
(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)
Đạo – Cổng Vàng – Osho
(Tập 1)
Bài Nói Về Kinh Điển Về Thuần Khiết Của Cát Hồng
Chương 2. Sự Tồn Tại Là Diễn Đạt Của Thượng Đế
Nghe hoặc Tải MP3 'Đạo - Cổng Vàng (Tập 1)' ê
Câu hỏi thứ nhất:
Osho ơi,
Thầy có thể nói cái gì đó về kỉ luật và kìm nén được không?
Anudenya,
Chúng là phân biệt như
đất và trời. Khoảng cách giữa hai điều này là lớn tới mức không thể bắc cầu qua
được. Kìm nén chính là cái đối lập của kỉ luật, nhưng trong hàng nghìn năm kìm
nén đã bị hiểu lầm và bị coi dường như nó là kỉ luật. Nó cho hình tướng giả của
kỉ luật.
Và nhớ một điều rất nền
tảng: rằng cái thực không bao giờ bị nguy hiểm từ cái không thực; cái thực bao giờ
cũng bị nguy hiểm từ cái giả. Cái không thực không thể làm hại nó được, nhưng
cái giả có thể làm hại nó vì cái giả trông giống nó. Cái giả không phải là nó
và vậy mà cái giả có mặt nạ của nó, hình tướng của nó.
Kìm nén là rẻ mạt. Bất
kì người ngu nào cũng có thể làm được điều đó - kìm nén không cần thông minh. Kỉ
luật cần thông minh lớn lao. Kỉ luật nghĩa là nhận biết. Kỉ luật tới từ cốt lõi
bên trong nhất của bạn; nó không phải là điều áp đặt từ bên ngoài. Không ai có
thể lập kỉ luật cho bạn được.
Chính từ
"discipline - kỉ luật" là hay: nó nghĩa là nghệ thuật của việc học.
Do đó mới có từ "disciple - đệ tử": người sẵn sàng học, người có khả
năng học. Học là quá trình bên trong. Người ta phải luôn luôn tỉnh táo, chỉ thế
thì người ta mới có thể học được. Người ta phải tỉnh thức, chỉ thế người ta mới
có thể học. Người ta phải quan sát mọi điều vẫn cứ diễn ra xung quanh bạn và
người ta phải làm sâu sắc thêm tính quan sát này để cho bạn có thể thấy được thậm
chí cả các quá trình bên trong của thân thể, tâm trí và trái tim bạn. Bạn phải
trở thành tấm gương. Bạn phải chứng kiến mọi thứ bên trong bản thân bạn, chỉ thế
thì bạn mới học từ nó, và việc học đó đem tới kỉ luật. Thế thì hài hoà sâu sắc
nảy sinh bên trong bạn, bởi vì bất kì cái gì là sai đều bắt đầu rơi đi khỏi bạn
theo cách riêng của nó. Bạn không vứt bỏ nó. Nếu bạn phải vứt nó qua nỗ lực, thế
thì nó là kìm nén; nếu nó rơi tựa lá khô rụng khỏi cây, thế thì nó là kỉ luật.
Kỉ luật phải là vô nỗ lực;
nó phải là từ hiểu biết vô cùng. Kìm nén chẳng liên quan gì tới hiểu biết, với
việc học. Người khác bảo bạn điều phải làm và điều không làm; người khác cho bạn
mười lời răn. Bạn đơn giản phải tuân theo, bạn phải vâng lời. Và những người
khác này là ai? Họ là những người có quyền lực - quyền lực chính trị, quyền lực
tôn giáo. Họ có thể là người giầu, những người sở hữu quốc gia hay nhà thờ, những
người chi phối. Họ có những quyền lợi được đầu tư; để che chắn cho những quyền
lợi được đầu tư đó họ tạo ra một loại nô lệ nào đó, nô lệ tinh thần. Họ muốn mọi
người vâng lời, họ không muốn mọi người có tính nổi dậy; do đó họ không thể cho
phép thông minh.
Thông minh về căn bản
có tính nổi dậy; nó là triệt để, nó là cách mạng. Là thông minh là điều nguy hiểm
nhất cho những người đang nắm quyền lực. Do đó mọi đứa trẻ đều phải bị làm cho
què quặt và tê liệt; không đứa trẻ nào có thể được phép sống cuộc sống của nó
theo ánh sáng của nó. Mọi đứa trẻ được sinh ra đều thông minh, nhưng hai mươi
nhăm năm của ước định từ trường tiểu học tới đại học tạo ra người ngu từ đứa trẻ
thông minh - ước định nhiều tới mức thông minh biến mất. Nó trở nên sợ nói
không với bất kì cái gì, nó trở nên sợ, kinh hãi đám đông tới mức nó đơn giản
tuân theo như con cừu; nó không còn là người nữa. Cách duy nhất để làm điều đó
là dạy cho nó cách kìm nén bản thân mình. Đầu tiên nó phải kìm nén thông minh của
nó, thế rồi nó phải kìm nén mọi điều có thể là nguy hiểm cho nguyên trạng.
Chẳng hạn, mọi xã hội đều
nói về hoà bình nhưng sống vì chiến tranh. Do đó dục phải bị kìm nén bởi vì người
kìm nén dục có thể được đổi thành lính rất dễ dàng; không có vấn đề gì về điều
đó. Người kìm nén dục bao giờ cũng sẵn sàng đánh nhau, người đó bao giờ cũng
trên bờ của bạo hành. Dục của người đó trở thành bạo hành, người đó làm mất đi
mọi tính nhân bản, mọi phẩm chất đáng yêu, và bản năng về yêu trở nên bị suy đồi;
nó trở thành bản năng cho hận thù. Mãi cho tới giờ mọi xã hội về căn bản đều là
xã hội chiến tranh, bao giờ cũng chuẩn bị cho chiến tranh; họ không thể cho
phép tự do dục được. Nếu xã hội là tự do về dục và một người được phép sống
tính dục của mình một cách toàn bộ, thế thì bạo hành của người đó sẽ biến mất.
Thế thì người đó sẽ không sẵn sàng làm những điều ngu xuẩn xấu xí như đi giết
người khác mà chẳng có lí do nào cả; điều đó sẽ là không thể được cho người đó
ngay cả để quan niệm. Người đó sẽ hỏi, "Tại sao? Tại sao tôi phải đi giết
hại? Dường nhưng không có lí do nào cả. Chỉ bởi vì vài kẻ điên quyền lực muốn
chi phối toàn thế giới mà chúng tôi phải là nạn nhân và chúng tôi phải biến
toàn thế giới thành mớ hỗn độn sao?"
Người tự do về dục sẽ
đáng yêu, trìu mến; chiến tranh sẽ trở thành không thể được. Chừng nào dục còn
chưa tự do, chiến tranh không thể biến mất khỏi thế gian.
Mọi nghiên cứu tâm lí đều
chỉ ra một điều rất có tính kết luận: rằng vũ khí không là gì ngoài biểu tượng
dương vật. Do đó các xã hội đang chuẩn bị cho chiến tranh nhất định đều có tính
kìm nén. Thông minh phải bị làm cho què quặt, dục phải bị kìm nén. Mọi điều có
thể làm cho bạn có khả năng là một cá nhân phải bị cắt bỏ. Bạn phải bị ép buộc
là người Ki tô giáo hay người Hindu hay người Mô ha mét giáo hay người Jaina
hay Phật tử bởi lẽ đơn giản là nếu bạn là một phần của đám đông bạn mất đi tính
cá nhân của bạn, bạn bắt đầu vận hành tương ứng với tâm trí tập thể - và tâm
trí tập thể nghĩa là tâm trí thấp nhất. Tâm trí tập thể vận hành qua mẫu số
chung nhỏ nhất.
Người ta nói rằng giáo
viên giỏi nhất trong trường phổ thông, trong cao đẳng, trong đại học, là người
có thể làm cho bản thân ông ấy được hiểu, người có thể giúp cho sinh viên hiểu
họ theo cách mà sinh viên xoàng nhất cũng có khả năng hiểu được thầy. Nếu chỉ
sinh viên hạng nhất hiểu thầy thì thầy không phải là thầy giỏi. Sinh viên hạng
ba phải có khả năng hiểu thầy, thế thì thầy là thầy giỏi. Nhưng để làm cho bản
thân thầy được hiểu bởi sinh viên hạng ba, thầy phải tụt xuống chỗ thấp đó. Thầy
phải nói ngôn ngữ của quần chúng, của đám đông. Và đám đông bao gồm những người
xoàng.
Chính bởi vì hàng thế kỉ
ước định, bằng không nó đã không như vậy; đó là thảm hoạ nhân tạo. Cho nên nhiều
người không cần xoàng xĩnh và ngu xuẩn thế. Họ không được sinh ra theo cách đó,
họ được chế tạo. Tính cá nhân phải bị xoá đi, xoá đi đầy đủ, bởi vì cá nhân dường
như là nguy hiểm cho những người nắm quyền vì cá nhân sẽ nghĩ, và họ sẽ nói có
chỉ nếu họ đồng ý với điều đó, bằng không họ sẽ nói không.
Tôi đã nghe:
Chuyện xảy ra trong thế
chiến thứ hai. Nhiều người được cần vào quân đội cho nên đủ loại người đã được
tuyển mộ. Mọi người đều được yêu cầu hi sinh cho đất nước, cho đất mẹ, cho đất
cha và cho mọi thứ vô nghĩa đó. Một giáo sư triết học cũng được tuyển mộ.
Ngày đầu tiên viên hạ
sĩ gọi những người mới tuyển vào huấn luyện đầu tiên của họ và bắt đầu hô,
"Trung đội, nghiêm! Trung đội, nghỉ! Trung đội, nghiêm! Trung đội, quay!
Trung đội, nghỉ! Trung đội, quay phải!"
Ông giáo sư bước ra khỏi
đội ngũ và bắt đầu bước đi.
"Này! Anh!"
viên hạ sĩ hô lên. "Anh đi đâu?"
"Tới quán rượu,"
giáo sư nói, "tôi sẽ quay lại khi các anh quyết định xong."
Một cách tự nhiên, người
nghĩ sẽ thấy toàn thể cái vô nghĩa của nó. Phỏng có ích gì về nó? Tại sao người
ta phải làm mọi thứ này? Nhưng họ có lập luận nào đó đằng sau nó: đây là cách
thông minh của bạn bị giết chết, đây là cách bạn bị biến đổi dần thành robot,
thành máy. Người này bị giết dần; thế thì bạn bắt đầu vận hành như cái máy.
"Quay phải!" và bạn không cần nghĩ, bạn đơn giản quay phải. Không phải
là bạn nghĩ tại sao - không có vấn đề tại sao - không câu hỏi nào nảy sinh
trong bạn. Thực ra, thân thể bạn vận hành gần như một cách máy móc. Cũng như bạn
nhấn nút và đèn bật sáng hay máy bắt đầu chạy. Cho nên khi người lính nghe thấy
"Quay phải!" người đó đơn giản quay phải mà không để ý cái gì được
người đó thực hiện; nó đơn giản xảy ra.
Tôi đã nghe nói về
William James - một trong những nhà tâm lí học có ý nghĩa nhất mà nước Mĩ đã
đóng góp cho thế giới. Ông ấy đang ngồi với người bạn trong nhà hàng nói chuyện
về ước định. Đó là câu chuyện trên khắp thế giới vì chỉ mới gần đây nhà tâm lí
học người Nga Pavlov đã khám phá ra phản xạ có điều kiện: rằng con người có thể
bị ước định sâu tới mức người đó bắt đầu vận hành như cái máy.
Và Pavlov đã trở thành
người cha của tâm lí học Nga và người cộng sản đã theo ý tưởng của ông ấy trong
suốt sáu mươi năm này.
William James đang nói
chuyện với bạn của ông ấy, nhưng người bạn không sẵn lòng chấp nhận ý tưởng này
dễ dàng thế - nó mới thế.
Vào đúng khoảnh khắc đó
một người lính về hưu đi qua dọc theo phố với một rổ đầy trứng. Để chứng minh,
William James hô, "Nghiêm!" và anh lính già đáng thương đơn giản vào
luôn thái độ nghiêm. Cái túi rơi bịch xuống đất; trứng vỡ tan. Ông ta rất bực.
Ông ta nói, "Ai làm điều này?"
William James nói,
"Nhưng chúng tôi không nói rằng ông phải tuân theo!"
Ông ta nói, "Vấn đề
không phải là tuân theo, nó đã trở thành bản tính của tôi rồi. Nghiêm nghĩa là
chú ý! Tôi đã trong quân đội hai mươi nhăm năm rồi: nghiêm nghĩa là chú ý; nó
không ngụ ý cái gì khác. Và vấn đề không phải là quyết định của tôi liệu có
theo hay không theo; nó đã trở thành tự động."
Đây là điều mọi xã hội
đã từng làm và mọi cái gọi là tôn giáo đã từng làm: họ đã làm tự động hoá bạn.
Và điều này được thực hiện qua quá trình kìm nén - kìm nén mọi thứ mà có thể
nguy hiểm cho thể chế.
Đó là lí do tại sao
Jesus bị đóng đinh và Socrates bị đầu độc và Al-Hillaj Mansoor bị giết, bởi lẽ
đơn giản là những người này đem tới nổi dậy, những người này thả người khác ra
khỏi tù túng của họ, ra khỏi sự nô lệ tinh thần của họ. Họ đang bảo mọi người
hãy thông minh, là cá nhân, là ánh sáng lên bản thân mình. Đó là thông điệp của
Phật Gautam: Là ánh sáng lên bản thân mình. Đi theo ánh sáng riêng của bạn, đi
theo thông minh riêng của bạn. Đừng nghe những người có quyền lợi được đầu tư
vì họ đang làm việc cho mục đích riêng của họ. Họ chẳng liên quan gì tới phúc lợi
của bạn, họ không quan tâm về nó.
Và một khi bạn kìm nén
bất kì cái gì, năng lượng bị kìm nén đó bắt đầu lên men trong bạn. Cùng năng lượng
mà đáng trở thành hoa thì trở thành gai. Cùng năng lượng đáng ra giúp cho bạn
trưởng thành thì trở nên tù đọng, bắt đầu bốc mùi. Năng lượng cần vẫn còn trong
trạng thái tuôn chảy; kìm nén làm cho cuộc sống của bạn thành tù đọng.
Tuổi tinh thần của mọi
người không nhiều hơn mười hai. Điều đó nghĩa là vào tuổi mười hai họ dừng phát
triển về mặt tâm lí. Họ có thể tám mươi tuổi, nhưng tâm trí của họ vẫn trẻ con
- nhớ lấy, không phải như trẻ con mà chỉ trẻ con. Như trẻ con là hay nhưng trẻ
con thì lại xấu.
Và tại sao họ đã dừng lại
ở tuổi mười hai? Vì lí do gì? Nó xảy ra thế nào? Và đây là trung bình trên khắp
thế giới. Nó là như nhau ở phương Đông, ở phương Tây; nó là như nhau cho người
Hindu và cho người Ki tô giáo. Mọi xã hội theo cách riêng của họ đã từng có khả
năng kìm nén mọi người trước tuổi mười hai - tại sao? Bởi vì tuổi mười ba là tuổi
nguy hiểm. Vào lúc đó người ta trở thành chín muồi về dục; trước đó thì mọi trưởng
thành của người đó phải bị dừng lại. Một khi người đó trở nên chín muồi về dục
thì sẽ rất khó kìm nén người đó. Người đó sẽ có nhiều năng lượng tới mức mọi biện
pháp của bạn để kìm nén nhất định thất bại. Cho nên kìm nén phải xảy ra trước
mười ba tuổi.
Mọi loại vô nghĩa phải
được đưa vào tâm trí mọi người trước khi họ mười ba tuổi; đến lúc họ đạt tới mười
hai tuổi công việc phải được kết thúc. Thế thì họ sẽ chỉ già đi nhưng không trưởng
thành.
Trong kì thi miệng về
sinh học thầy giáo hỏi học sinh, "Cơ quan nào trong thân thể con người một
khi bị kích thích có thể tăng lên tới ba trăm lần kích cỡ của nó?"
Cô gái đáp, "Em sẽ
không trả lời câu hỏi như vậy!" và cô ta bước ra.
Thế là thầy giáo hỏi
cùng câu hỏi đó với học sinh khác, người này trả lời, "Con ngươi của mắt."
"Rất tốt!" thầy
giáo đáp. "Bây giờ đi và nói cho cô bạn anh điều đó cô ấy sẽ vỡ mộng!"
Đây là công việc của
kìm nén: nếu bạn kìm nén cái gì đó tâm trí bạn dần dần dần dần trở nên bị nhuốm
màu bởi nó; mọi thứ trở thành bị tô mầu bởi nó. Người bị kìm nén dục thường
xuyên đề cập tới dục. Người đó có thể nói về vô dục, người đó có thể cố gắng là
vô dục, nhưng toàn thể tâm trí người đó đầy dục vọng; người đó mơ về dục và
không gì khác. Và điều đó không như vậy chỉ khi bạn còn trẻ...
Mahatma Gandhi viết
trong tiểu sử của ông ấy rằng ngay cả ở tuổi bẩy mươi ông ấy vẫn chịu đựng những
giấc mơ dục. Điều đó nhất định xảy ra - đó là kìm nén bẩy mươi năm; bằng không,
đến lúc người ta bẩy mươi tuổi người ta phải đủ chín muồi để vứt bỏ mọi đồ chơi
này. Kìm nén giữ mọi thứ treo trong không trung. Người bị kìm nén, ngay cả khi
người đó sắp chết, sẽ nghĩ về điều người đó đã kìm nén cả đời mình.
Tôi chống lại kìm nén,
tôi ủng hộ cho biểu lộ.
Biểu lộ bản thân bạn đi. Sự tồn tại là cách biểu lộ của Thượng đế - đó là điều tính sáng tạo tất cả là gì. Biểu lộ bản thân bạn, và đừng kết án cái gì. Không cái gì sai với bạn; mọi thứ đều đẹp. Nó có thể cần biến đổi, nhưng nó không sai. Nó phải không bị vứt bỏ, nó phải được biến đổi. Và biến đổi xảy ra qua kỉ luật; kỉ luật tới qua thiền. Trở nên nhận biết hơn, có tính quan sát. Nhưng đừng mang kết luận, kết luận tiên thiên.
Nếu bạn đã bị thuyết phục
rằng dục là sai thế thì bạn không thể quan sát được tâm trí bạn. Làm sao bạn có
thể quan sát được nếu bạn đã kết luận rồi? Bất kì khi nào một ý nghĩ dục nảy
sinh bạn sẽ co lại; bạn sẽ muốn ném ý tưởng đó ra khỏi bản thể bạn. Bạn sẽ lập
tức nhảy lên nó, bạn sẽ bắt đầu vật lộn và tranh đấu. Bạn không thể đơn giản
quan sát; bạn sẽ bắt đầu đánh giá.
Thiền nhân phải tuyệt đối
không định kiến, không kết luận. Người đó phải là người quan sát hoàn toàn khoa
học. Người đó đơn giản quan sát, chú ý tới bất kì cái gì xảy ra trong tâm trí
mình. Để ý, không để bất kì cái gì đi qua mà không được để ý, có vậy thôi. Và
cái đẹp của tính quan sát là ở chỗ bất kì cái gì vô nghĩa bắt đầu biến mất theo
cách riêng của nó và bất kì cái gì có nghĩa bắt đầu phát triển. Năng lượng của
bạn bắt đầu thu thập xung quanh điều có nghĩa và chúng bắt đầu rời bỏ điều vô
nghĩa. Thế thì một kỉ luật nào đó được sinh ra, không bị áp đặt bởi bất kì ai từ
bên ngoài.
Nhiều người, đặc biệt
người Ấn Độ, viết cho tôi hỏi tại sao tôi không cho kỉ luật nào đó cho các
sannyasin của tôi. Tôi không thể cho được - tôi không là kẻ thù của họ. Tôi
không ở đây theo bất kì cách nào để chi phối bất kì ai, tôi không ở đây để ra lệnh.
Tôi có thể giúp bạn hiểu, thế rồi điều đó là tuỳ ở bạn. Từ hiểu biết của bạn nếu
cái gì đó xảy ra trong cuộc sống của bạn, tốt, nhưng nếu nó xảy ra bởi vì tôi
đã nói điều đó thì nó là xấu. Thế thì sớm hay muộn bạn sẽ hối hận, thế thì sớm
hay muộn bạn sẽ trả thù tôi.
Tôi là bạn của bạn. Tôi
có thể giúp bạn tỉnh táo hơn; đó là toàn thể chức năng của tôi. Và thế thì bất
kì cái gì là tốt sẽ theo sau im lặng thế, hệt như cái bóng của bạn. Nó không
gây tiếng ồn và nó không cho bạn bản ngã nào. Khi bạn trở nên nhận biết hơn, mọi
bản ngã biến mất. Bạn trở nên ngày một khiêm tốn, ngày một đơn giản, ngày một
bình thường. Và cái bình thường đó là thiêng liêng, sự đơn giản đó là linh
thiêng. Nhưng kỉ luật phải nảy sinh trong bạn. Tôi có thể giao cảm với bạn về
hiểu biết của tôi, tôi có thể chia sẻ với bạn kinh nghiệm của tôi, có vậy thôi;
thế rồi chính bạn quyết định cái gì cần làm và cái gì không cần làm.
Các sannyasin của tôi
phải học cách sống trong tự do. Tôi biết điều đó là rất khó cho bạn nữa - ngay
cả các sannyasin của tôi cũng hỏi: "Nếu thầy cho chúng tôi các qui tắc xác
định, việc tuân theo chúng sẽ là dễ. Tôi biết điều đó sẽ dễ dàng hơn bởi vì đó
là điều bạn đã từng làm cả đời bạn. Ai đó đã cho bạn mệnh lệnh và bạn đã từng
tuân theo; điều đó đã trở thành thói quen của bạn. Bạn muốn tôi cũng là hình ảnh
người bố, chỉ bảo bạn rằng điều này phải được làm và điều này phải không được
làm. Điều đó làm mọi sự thành rẻ và đơn giản, bạn không cần bận tâm, bạn đơn giản
có thể phụ thuộc vào tôi. Nhưng điều đó tạo ra phụ thuộc và bạn đánh mất cái gì
đó cực kì có giá trị: bạn đánh mất tự do của bạn, bạn đánh mất độc lập của bạn,
bạn đánh mất tính cá nhân của bạn, bạn đánh mất bản thân bạn. Và đó không phải
là chủ định của tôi ở đây.
Chủ định của tôi ở đây
là làm cho bạn thành các cá nhân ngày càng duy nhất, các cá nhân ngày càng đích
thực. Tôi muốn bạn nhận trách nhiệm về cuộc sống của bạn lên vai bạn một cách
toàn bộ để cho bạn trở nên hoàn toàn tự do với mọi loại hình ảnh người bố. Điều
đó mang tới ân huệ lớn lao và phúc lành lớn lao.
Câu hỏi thứ hai:
Osho ơi,
Xin thầy nói cho chúng tôi cái gì đó về cái chết hôm qua của
Swami Prem Chinmaya.
Prem Samadhi,
Điều đầu tiên về cái chết
của Prem Chinmaya là ở chỗ nó không phải là cái chết chút nào. Anh ấy đã chết rất
có ý thức. Anh ấy chết đẹp thế! Điều đó là hiếm hoi. Mười năm trước khi anh ấy
tới tôi, tôi đã sợ là anh ấy có thể chết trước khi anh ấy có thể nếm trải cái
gì đó của bất tử, bởi vì anh ấy đã chịu đựng từ bệnh tật thế... nó là không chữa
được.
Nhưng anh ấy là cá nhân
hiếm hoi. Anh ấy đã sống mười năm này bằng sức mạnh đơn giản của tính cá nhân của
anh ấy. Thân thể anh ấy không có khả năng sống. Các bác sĩ phân vân, các bác sĩ
trị liệu không tin được, nhưng tôi biết bí mật này. Anh ấy không sợ chết, nhưng
anh ấy muốn trưởng thành tới điểm nào đó trước khi cái chết xảy ra. Và anh ấy
đã kiểm soát được điều đó!
Và khoảnh khắc anh ấy sẵn
sàng tôi đã cho phép anh ấy đi. Tôi phải nói với anh ấy, "Bây giờ bạn có
thể vứt bỏ thân thể bạn."
Một giao cảm sâu sắc đã
bắt đầu giữa tôi và anh ấy. Bởi vì bệnh tật anh ấy không có khả năng tới gặp
tôi - và đó là cách thỉnh thoảng ân huệ tới dưới dạng trá hình. Bởi vì anh ấy
không có khả năng gặp tôi về mặt vật lí, dần dần dần dần giao cảm bên trong đã
được thiết lập.
Ngày trước ngày hôm qua
tôi đã gọi Sheela tới phòng của tôi chỉ để bảo cô ấy, "Bây giờ đến lúc rồi.
Chinmaya có thể đi - anh ấy đã sẵn sàng. Bây giờ không có nhu cầu cho anh ấy chịu
đựng thêm nữa trong thân thể. Anh ấy đã làm bất kì cái gì được cần, anh ấy đã đạt
tới tính toàn vẹn nào đó. Vâng, anh ấy sẽ được sinh ra thêm một lần nữa, nhưng
đó là thành tựu lớn."
Anh ấy đã chết từ trung
tâm thứ sáu của anh ấy. Đạt tới trung tâm thứ bẩy sẽ gần như là không thể được
trong hoàn cảnh như vậy; cho dù đạt tới điều này gần như là phép màu - chết từ
chiều cao như vậy.
Khoảnh khắc Sheela tới
phòng của Chinmaya, anh ấy lập tức nói, "Osho có gọi bạn tới phòng thầy
không?" Cô ấy ngạc nhiên vì rất hiếm khi tôi gọi bất kì ai vào phòng tôi.
Trong sáu năm này tôi có thể đã gọi Sheela chỉ ba lần, cho nên đó không phải là
việc mọi ngày. Và Sheela có thể là người duy nhất bên cạnh Vivek và Laxmi những
người đã từng được gọi tới phòng tôi sao? Nhưng lập tức anh ấy hỏi, "Osho
có gọi bạn tới phòng thầy không? Thầy đã nói gì? Thông điệp của thầy là
gì?"
Một giao cảm sâu sắc đã
bắt đầu xảy ra về sau. Và khi Sheela bảo anh ấy, "Bây giờ Osho đã nói rằng
anh phải nghỉ ngơi, thảnh thơi, đi sâu vào bản thân mình và quên về thân thể
đi"... Rất khó quên được thân thể bởi vì thân thể anh ấy đã trong đau đớn
mênh mông; nó không phải là đau đớn thường. Không thuốc giảm đau nào là có ích
gì. Những liều lớn thuốc giảm đau đã được cho anh ấy, nhưng chẳng cái gì giúp
cho anh ấy cả. Nó thậm chí không có khả năng giúp cho anh ấy đi vào giấc ngủ;
cái đau là lớn tới mức nó giữ anh ấy tỉnh thức.
Anh ấy cười và anh ấy
nói, "Vâng, tôi sẽ làm điều đó!"
Ba lần trong đêm, lặp
đi lặp lại anh ấy hỏi Sheela, "Xin nói lại cho tôi thông điệp của thầy tôi
là gì? Tôi không muốn quên thông điệp của thầy vào khoảnh khắc cuối."
Và bất kì khi nào cô ấy
nói, "Thầy đã nói chỉ ba từ: 'Nghỉ ngơi, thảnh thơi, đi sâu vào trong bản
thân mình,'" anh ấy sẽ nói, "Vâng bây giờ tôi nhớ," và lại rơi
vào giấc ngủ.
Anh ấy bảo Sheela rằng
anh ấy muốn nghe loạt bài này - rằng anh ấy hi vọng ít nhất anh ấy cũng có khả
năng nghe bài thứ nhất. Và anh ấy đã xoay xở! Hôm qua anh ấy đã nghe cả bài -
và có ý thức đầy đủ. Với mọi cái đau đó anh ấy đã nghe bài nói. Thế rồi anh ấy
hỏi lần cuối về thông điệp, và thế rồi nhắm mắt lại và biến mất.
Đây không phải là chết,
đây là cái gì đó đẹp hơn rất nhiều. Đây là buông bỏ. Đây là buông xuôi. Đây là
tình yêu! Anh ấy đã tin cậy tôi toàn bộ thế. Anh ấy đã chết đẹp, im lặng, trong
thảnh thơi hoàn toàn. Tôi hạnh phúc về anh ấy.
Tôi đã sợ rằng anh ấy
có thể không có khả năng sống sót ngay trong những năm này, nhưng chính là qua
quyết tâm vô cùng của anh ấy, sức mạnh ý chí vô cùng của anh ấy mà anh ấy đã sống
sót. Thân thể đã chết ít nhất từ sáu năm trước; trong sáu năm anh ấy đã sống
trong một loại sự tồn tại sau khi chết. Anh ấy chắc đã vẫn sống - anh ấy có thể
đã xoay xở ít nhất trong ba tháng - nhưng tôi không thấy vấn đề nào trong nó bởi
vì không thể nào đạt tới trong thân thể này nhiều hơn bất kì cái gì anh ấy đã đạt
tới. Thân thể đã mục nát, tuyệt đối mục nát, và anh ấy đang ở không gian tốt tới
mức tôi không muốn anh ấy bị quấy rối khi có liên quan tới không gian bên trong
của anh ấy; tôi muốn anh ấy ra đi.
Có những khoảnh khắc mà
người ta nên ra đi. Anh ấy đang trong tâm trạng tích cực trong một thân thể
tiêu cực thế, anh ta đã trong tâm trạng mạnh khoẻ trong một thân thể không mạnh
khoẻ thế.
Mới hôm nọ khi tôi đang
kể chuyện đùa cho bạn về Jesus và người đang bị bệnh ung thư tôi đã nhớ tới
Chinmaya và anh ấy đã nghe! Và anh ấy phải đã cười vì anh ấy thích chuyện đùa.
Các thiên thần phải
mang anh ấy đi phải phân vân lắm vì anh ấy đến muộn ít nhất sáu năm.
Ba người Italy tới
thiên đường. Thánh Peter hỏi người thứ nhất, "Ông là ai?"
"Tôi là-a Carletto
từ Milano."
'Rất tốt, ông tới đúng
giờ - vào đi," thánh Peter nói. Thế rồi ông ấy hỏi người thứ hai,
"Còn ông, ông là ai?"
"Tôi là-a Genaro từ
Roma."
"Ông tới muộn sáu
giờ. Ông tới thế nào?" Thánh Peter hỏi.
"Thế này-a, San
Pietro, từ Roma tới đây nó là-a cuộc hành trình dài-a. Tôi dừng-a để nghỉ-a một
chút trên đường."
"Còn ông, ông là
ai?" thánh Peter hỏi người thứ ba.
"Tôi là-a Pasquale
từ Napoli."
"Pasquale,"
thánh Peter nói, "điều này thì quá lắm! Ông muộn hai tháng!"
"Đừng-a nổi-a giận,
San Pietro. Tôi đã-a bị-a ốm trên giường-a."
Tôi không biết Chinmaya
định nói gì vì sáu năm thực sự là quá nhiều! Họ có thể quên hoàn toàn về ông ấy.
Họ sẽ phải nhìn vào hồ sơ - sẽ mất nhiều ngày cho họ tìm ra người này là ai!
Nhưng tôi nghĩ đến giờ họ phải trở nên quen với người cam rồi - rằng những người
này là không tin cậy được. Họ đến vào mọi giờ kì lạ, họ không bận tâm tới thời
gian, họ không theo qui tắc nào, họ không biết gì về kỉ luật!
Anh ấy thường thích
chuyện đùa. Anh ấy thường viết cho tôi những chuyện đùa hay. Để tưởng nhớ anh ấy
tôi sẽ kể vài chuyện đùa cho bạn.
Một người vào đồn cảnh
sát và nói rằng vợ anh ta đã biến mất.
"Cô ấy biến mất
khi nào?" cảnh sát hỏi.
"Năm hay sáu năm
trước," anh ta trả lời.
"Năm hay sáu năm
trước!" viên cảnh sát kêu lên. "Sao anh không tới sớm hơn?"
"Thế này, ông thấy
đấy," người này nói, "Tôi không thể tin được vào điều đó!"
Ở Moscow một lãnh đạo cộng
sản thấy một ông già đang quì trước một thần tượng. Ông ta dừng lại và hỏi ông
này, "Ông cầu nguyện à, ông già?"
"Vâng, tôi đang cầu
nguyện," ông già trả lời.
"Ông cầu nguyện
cho chúng tôi, phải không?"
"Tất nhiên rồi."
"Và ông cầu nguyện
cho chúng tôi bây giờ cũng như ngày xưa ông đã cầu nguyện cho Sa hoàng?"
"Điều đó
đúng," ông già đáp.
"Bây giờ nói cho
tôi, lời cầu nguyện cũ của ông có hữu dụng gì không?"
"Ồ, có chứ, chúng
đã giết chết Sa hoàng, chẳng phải thế sao?"
Và đây là một chuyện
anh ấy sẽ thích nhất:
Đó là cuộc họp của ngân
hàng. Ông chủ tịch, nóng ruột bởi thảo luận, đứng dậy và bắt đầu bước tới bước
lui. Thư kí của ông ấy để ý rằng vạt cúc quần của ông ấy bị hở nên cô ta thì thảo
với ông ấy, "Ông chủ tịch, ga ra bị hở. Người ta có thể thấy mọi thứ."
"A vâng, cô có thể
thấy gì? - chiếc Mercedes mới cứng của tôi à?"
"Không," cô
thư kí đáp, "chiếc Fiat xịt lốp!"
Samadhi, hôm qua bạn
làm giỗ ngày ra đi của anh ấy. Bao giờ cũng nhớ anh ấy. Anh ấy nên là ánh sáng
lên tất cả các bạn. Anh ấy yêu sâu sắc, anh ấy cười sâu sắc. Anh ấy là người biết
cách mở hội. Tất nhiên thân thể không sẵng lòng chút nào, nhưng anh ấy chưa bao
giờ bận tâm về thân thể.
Hôm qua anh ấy muốn tới
bài nói. Tôi phải ngăn anh ấy, nhưng dầu vậy anh ấy đã nghe cả bài nói. Và anh ấy
nói với Sheela, "Tôi muốn nghe cả loạt bài, nhưng khi Osho nói rằng tôi phải
đi thế thì tôi phải đi thôi. Thế thì đây là lúc, thế thì đây là đúng lúc, và
tôi không muốn bỏ lỡ nó." Anh ấy chưa bao giờ muốn hạ tôi xuống. Anh ấy
yêu tôi vô cùng.
Tên của anh ấy, Prem
Chinmaya, nghĩa là tình yêu và ý thức. Anh ấy là cả hai. Anh ấy là tình yêu và
anh ấy trở thành ý thức. Anh ấy chết với tình yêu lớn và ý thức lớn.
Đó không phải là cái chết
chút nào, Samadhi - đó là siêu việt trên cái chết.
Chẳng mấy chốc anh ấy sẽ
quay lại, và bất kì khi nào anh ấy tới bạn sẽ biết bởi vì bất kì khi nào tôi thấy
rằng anh ấy quay lại trong bụng mẹ của sannyasin nào đó của tôi, tôi sẽ gọi anh
ấy là Cát Hồng để kỉ niệm cho loạt bài này mà anh ấy muốn nghe toàn bộ nhưng chỉ
có thể xoay xở nghe được bài đầu. Cho nên bất kì khi nào tôi gọi bất kì đứa trẻ
nào là Cát Hồng bạn sẽ biết rằng Prem Chinmaya quay lại để đùa quanh đây!
Câu hỏi thứ ba:
Osho ơi,
Chồng tôi yêu tôi toàn bộ tới mức anh ấy chưa bao giờ nghĩ về
người đàn bà khác trong đời anh ấy, và chúng tôi đã sống với nhau gần hai mươi
nhăm năm. Tôi không thể tin được điều đó mặc dầu nó là đúng. Thầy nói gì về điều
đó?
Niharika,
Tôi cũng không thể tin
được điều đó!
Ngày xưa có một người
có tên là Không thể tin được. Anh ta lấy một người đàn bà rất xinh và hai người
là một đôi rất thoả mãn.
Một hôm Không thể tin
được ốm tới mức anh ta biết anh ta sắp chết, cho nên anh ta gọi vợ tới và nói với
cô ấy, "Cưng ơi. Anh đã dàng cả đời anh để được gọi theo cái tên ngu ngốc
này. Bây giờ anh sắp chết xin hứa với anh một điều - đừng để cái tên Không thể
tin được này lên bia mộ của anh. Em có thể để một câu nói hay bức tranh, bất kì
cái gì, nhưng không phải là tên anh. Anh không muốn mang nó vào vĩnh hằng."
Thế là người vợ đồng ý.
Khi anh ấy chết cô ấy đặt một lời nói lên bia mộ của anh ta viết là "Ở đây
yên nghỉ người chồng trung thành chưa bao giờ phản bội vợ mình."
Từ hôm đó mọi người đi
qua và đọc bia mộ đều nói, "Điều đó không thể tin được!"
Niharika, hoặc chồng bạn
chết hoặc điên - hay có thể bạn loạng choạng vớ phải vị Phật rồi! Nhưng anh
chàng giống Phật đó là gì với bạn?
Tại chỗ nghỉ bãi biển
hai bà bạn đang nói chuyện. "Tất nhiên, bọn trẻ này, con gái gần trần truồng
là cám dỗ thường xuyên cho các ông chồng chúng ta..." một người nói.
"Có thể," người
kia đáp, "nhưng tôi tin cậy vào chồng tôi tuyệt đối. Anh ấy điên vì tình với
tôi."
"Ồ," người thứ
nhất đáp, "và anh ấy không bao giờ có những khoảnh khắc lành mạnh
sao?"
Nếu người đàn ông yêu
người đàn bà anh ta nhất định yêu nhiều người khác nữa, hay nếu người đàn bà
yêu người đàn ông cô ấy nhất định yêu nhiều người khác nữa, bởi vì tình yêu
không thể bị giới hạn vào một người được. Nếu nó tồn tại chút ít nó không thể bị
giới hạn; nếu nó không tồn tại chút nào, thế thì không có vấn đề gì.
Yêu giống như thở. Nếu
một người đàn ông nói, "Anh thở chỉ khi anh ở cùng em và thời gian còn lại
anh không bao giờ thở," bạn sẽ không tin cậy anh ta. Làm sao bạn có thể tin
cậy anh ta được? Anh ta sẽ chết nếu anh ta không thở khi anh ta không ở cùng bạn.
Tình yêu là hơi thở của linh hồn bạn.
Nhưng đó là điều chúng
ta đã làm: trong hàng thế kỉ chúng ta đã ước định mọi người với những ý tưởng
ngu xuẩn thế và đã tạo ra nhiều khổ thế trên thế giới và nhiều ghen tuông thế
và nhiều sở hữu thế và nhiều hận thù thế mà chẳng có lí do gì cả. Chúng ta đã ước
định mọi người bằng ý tưởng ngu xuẩn này rằng tình yêu chỉ có thể có giữa một
người này và một người khác, một với một: nếu điều đó là đúng thế thì nó là một
với một, bằng không nó là không đúng. Chính điều đối lập mới là chân lí: nếu nó
là một với một thì nó không thể là đúng được. Thế thì nó là giả, rởm; thế thì
nó chỉ là giả bộ.
Thế thì mọi người đều
đang giả vờ và họ là không thực với bản thân họ - không chỉ với người khác mà với
bản thân họ nữa.
Nếu một người quan tâm
tới cái đẹp làm sao người đó có thể tránh không nhìn người đàn bà đẹp và làm
sao người đó có thể tránh không quan tâm tới họ được? Cách duy nhất là giết chết
mối quan tâm về cái đẹp của người đó một cách toàn bộ - nhưng thế thì người đó
sẽ không còn quan tâm ngay cả tới vợ riêng của mình nữa. Đó là điều đã xảy ra:
bởi vì ý tưởng ngu ngốc này rằng tình yêu phải là một với một, tình yêu đã biến
mất khỏi thế gian. Cách có thể duy nhất để xoay xở điều đó là ở chỗ chồng phải
không yêu vợ. Anh ta phải giết chết chính bản năng yêu, anh ta phải kìm nén
chính ý tưởng về cái đẹp, anh ta phải quên rằng cái đẹp tồn tại trên thế giới.
Nhưng thế thì, nhớ lấy, anh ta không thể yêu được vợ mình nữa. Thế thì anh ta sẽ
giả vờ, thế thì anh ta sẽ cứ hành động - những cử chỉ trống rỗng không có nội
dung. Nếu người đàn bà được bảo "Cô phải sống chỉ trong tình yêu với chồng
cô và cô thậm chí không thể cảm thấy quan tâm tới người khác," cô ấy nhất
định đánh mất mối quan tâm tới người chồng.
Đó là lí do tại sao chồng
và vợ đánh mất mối quan tâm tới nhau. Họ thường xuyên cãi lộn; họ cứ tìm đủ mọi
cớ để cãi lộn. Hiện tượng thực là ở chỗ họ đang cãi nhau vì năng lượng yêu của
họ không được phép nở hoa, nhưng họ đã quên mất về nó bởi vì ước định là cổ đại
thế. Bố mẹ họ đã bị ước định theo cùng cách như bố mẹ của bố mẹ họ; nó tới từ
thời Adam và Eve. Nó đã trở thành một phần nhiều thế của chúng ta, gần như một
phần của máu, xương và tuỷ chúng ta, tới mức chúng ta thậm chí không nhận biết
về nó; nó đã đi sâu vào trong vô ý thức.
Cho nên chồng và vợ thường
xuyên giận nhau - khi hơn, khi kém - và bao giờ cũng tìm cớ để giận. Và họ có vẻ
buồn. Họ nhất định là buồn, họ nhất định là giận, bởi lí do đơn giản này. Mọi cớ
khác đều là giả. Tôi không nói rằng họ làm giả một cách có chủ ý - họ vô nhận
biết về toàn thể hiện tượng này.
Chân lí đơn giản là ở
chỗ người đàn ông quan tâm tới cái đẹp sẽ vẫn còn quan tâm tới nhiều đàn bà;
người đàn bà quan tâm tới cái đẹp sẽ vẫn còn quan tâm tới nhiều đàn ông. Có thể
cô ấy quan tâm nhiều hơn tới một người - điều đó là có thể - có thể cô ấy quan
tâm nhiều tới một người tới mức cô ấy muốn sống cùng người đó, nhưng điều đó
không có nghĩa là mối quan tâm của cô ấy với người khác đơn giản biến mất; nó vẫn
còn chứ. Nhưng nếu bạn đi cùng chồng bạn hay vợ bạn đi dạo buổi sáng và chồng bạn
nói với bạn, "Nhìn người đàn bà kia. Cô ấy đẹp làm sao!" lập tức có vấn
đề ngay - anh ấy không thể nói điều đó được! Không có gì sai trong điều đó; thực
ra bạn nên hạnh phúc rằng chồng bạn vẫn sống động và lành mạnh, rằng lốp của
anh ấy chưa xịt! Bạn nên hạnh phúc rằng anh ấy đáng yêu, trẻ trung, rằng mắt
anh ấy vẫn có thể nhạy cảm với mọi điều là đẹp. Không cần phải cảm thấy ghen
tuông.
Nhưng chồng không thể
nói được điều đó; thực ra anh ấy sẽ giả vờ rằng anh ấy đã không nhìn chút nào
vào người đàn bà khác. Anh ấy đã nhìn rồi, anh ấy đang nhìn - anh ấy có thể
dùng kính râm chỉ cho mục đích đó! Anh ấy sẽ tìm cớ để nhìn vào người đàn bà
đó: anh ấy có thể bắt đầu nói về cây đẹp. Anh ấy không quan tâm tới cây nhưng
quan tâm tới người đàn bà ngồi dưới gốc cây! Và vợ biết hoàn toàn rõ tại sao
anh ấy đột nhiên quan tâm tới cây; bằng không anh ấy không bao giờ quan tâm tới
cây cả.
Vợ không thể nói với chồng,
"Người đàn ông này đẹp thế!" Chồng sẽ cảm thấy khó chịu - bản ngã của
anh ta bị tổn thương. Mọi người đều đem ý tưởng này rằng "Không ai đẹp hơn
mình." Bây giờ mọi người biết rằng điều này là cực kì vô nghĩa. Mọi người
là duy nhất, điều đó đúng, nhưng mọi người đều có vài điều mà không ai khác có.
Có thể người đàn ông này có đôi mắt đẹp hơn mắt bạn; bạn có thể có mũi đẹp hơn
và mũi anh ta xấu, nhưng về mắt thì sao? Bạn có thể có khuôn mặt đẹp, nhưng về
thân thể cân đối của anh ta thì sao?
Mọi người nên thông
minh hơn và họ nên hiểu rõ giá trị; họ nên giúp lẫn nhau để hiểu rõ giá trị. Họ
nên nói với nhau, "Bạn là phải rồi. Người đàn bà kia trông đẹp, người đàn
ông kia trông đẹp." Và không có gì sai trong điều đó. Và điều đó sẽ không
phá huỷ tình yêu của bạn; thực sự nó tôn cao tình yêu, làm mạnh thêm tình yêu.
Trao đổi với nhau một cách đích thực thế bao giờ cũng là việc nuôi dưỡng cho
tình yêu. Bất kì khi nào bạn bắt đầu giả vờ, bất kì khi nào bạn bị buộc phải
nói cái gì đó mà bạn không muốn nói và bạn không được phép nói điều gì đó bạn
muốn nói thế thì tình yêu bắt đầu biến mất, thế thì khoảng cách được tạo ra.
Niharika, xin bạn giúp
cho chồng bạn sống động lại đi, giúp anh ấy lành mạnh trở lại, giúp anh ấy nhạy
cảm lại. Bạn phải đã đóng góp nhiều cho sự đờ đẫn của anh ấy. Điều này là không
tốt, điều này là không lành mạnh. Đây là trạng thái bệnh hoạn. Nếu anh ấy nói rằng
anh ấy chưa bao giờ nghĩ tới người đàn bà khác trong đời mình, thế thì nhớ hoàn
toàn rõ rằng bạn cũng là đàn bà - không nhiều hơn, không ít hơn. Chỉ bởi việc
trở thành vợ, bạn không nhiều hơn người đàn bà. Và nếu anh ấy không có nhiều
quan tâm tới bất kì đàn bà nào - và trái đất này đầy đàn bà đẹp - thế thì anh ấy
chẳng liên quan gì tới bạn nữa; thế thì anh ấy được kết thúc với bạn rồi - hay
có thể bạn đã buộc anh ấy bị kết thúc với bạn.
Đó là lí do tại sao bạn
nói: Tôi không thể tin được điều đó mặc dầu nó là đúng.
Bạn không thể tin được
điều đó bởi vì bạn phải nghĩ về người đàn ông khác - làm sao bạn có thể tin được
điều đó? Nếu bạn vẫn nghĩ tới người đàn ông khác, làm sao bạn có thể tin được rằng
chồng bạn không nghĩ tới người đàn bà khác?
Thực ra bất kì khi nào
một người đàn ông hay người đàn bà, đặc biệt chồng và vợ, đang làm tình, thế
thì trong giường không bao giờ chỉ có hai người, bao giờ cũng có bốn. Anh ta
đang nghĩ về người đàn bà nào đó khác và người đàn bà đang nghĩ về người đàn
ông khác nào đó. Người đàn bà nghĩ về Mohammed Ali, anh ta đang nghĩ tới Sophia
Loren, và thế thì mọi sự diễn ra tốt đẹp!
Điều bao giờ cũng tốt
cho vợ và chồng không làm tình ban ngày và ngay cả trong đêm bao giờ cũng tắt
đèn đi để cho bạn có thể có tưởng tượng tự do; bạn có thể nghĩ về bất kì người
nào bạn muốn nghĩ. Thực ra, chẳng có mấy khác biệt - về căn bản không có mấy
khác biệt đâu. Mô đen khác, khác biệt chút ít ở cái mũ, vân vân, nhưng về căn bản
không có mấy khác biệt. Khi bạn đi tới nền tảng nó là như nhau - và khi bạn làm
tình với người đàn bà hay người đàn ông bạn đã đi tới điều nền tảng, bạn đã đi
tới chính tảng đá đáy; bây giờ không đi thêm được nữa. Và điều này là tốt về bản
chất: rằng về điều nền tảng nó là rất cộng sản; không có nhiều khác biệt. Mọi
khác biệt đều trên bề mặt.
Nhưng không cái gì sai
trong việc quan tâm. Giúp đỡ anh ấy đi - anh ấy cần sự giúp đỡ của bạn, bởi vì
kinh nghiệm riêng của tôi về hàng nghìn đôi là ở chỗ bao giờ cũng là việc đàn
bà là người phá huỷ đàn ông. Đàn ông giả vờ là người chủ, nhưng anh ta không là
chủ. Và đàn bà hoàn toàn tự tin về quyền làm chủ của mình tới mức họ cho phép
anh ta nói về quyền làm chủ của anh ta, nhưng họ không bận tâm về điều đó.
Họ nói, "Anh có thể
nói điều đó. Điều đó là phân chia tốt: anh nói về điều đó - tự do đó được trao
cho anh - nhưng chúng tôi mới là người chủ thực."
Một hôm tôi tới gặp
Mulla Nasruddin. Anh ấy đang ngồi dưới gầm giường. Tôi hỏi Nasruddin, "Có
chuyện gì vậy? Sao anh ngồi dưới gầm giường?"
Anh ấy nói, "Sao
không? Tôi là chủ nhà, tôi ngồi đâu cũng được!"
Và thế rồi vợ anh ta tới
và cô ấy nói "Anh hèn thì có! Anh ra đi và em sẽ cho anh biết ai là chủ!"
Anh ta nói, "Không
ai có thể buộc tôi ra được! Tôi là chủ cho nên tôi thích đâu ngồi đấy!"
Bây giờ chị vợ rất béo
và chị ấy không thể chui vào gầm giường được, cho nên tôi hỏi chị vợ, "Chị
định làm cái gì bây giờ?"
Chị ta nói, "Ông đợi
đấy! Giờ ăn trưa tới gần hơn rồi - anh ấy sẽ phải chui ra thôi! Và dưới gầm giường
anh ấy cứ nói về quyền làm chủ của anh ấy; trên giường tôi biết ai là chủ!"
Giúp người chồng đáng
thương của bạn đi. Bạn phải đã phá huỷ anh ấy rồi - không biết, không chủ tâm;
chiến lược nữ tính là rất tinh vi. Làm anh ấy sống lại đi, đem anh ấy trở lại từ
nấm mồ của anh ấy. Và chỉ thế thì anh ấy mới quan tâm tới bạn. Và anh ấy sẽ biết
ơn bạn đấy.
Mọi đôi nên nhớ điều
đó: rằng bằng việc trở thành một đôi các bạn đang không trở thành người chủ của
nhau đâu - chỉ là bạn đồng hành, người bạn thôi. Và đừng coi mối quan hệ của bạn
là đương nhiên; nó chẳng liên quan gì tới sở hữu cả. Đàn ông hay đàn bà không
là đồ vật để sở hữu, họ là người; họ phải được kính trọng. Họ không là phương
tiện để được dùng. Chồng đang dùng vợ như phương tiện, vợ đang dùng chồng như
phương tiện, và đó là lí do tại sao cả thế giới dường như xấu thế và điên thế
và mọi người dường như khổ thế.
Không cần khổ nhiều thế
- chín mươi chín phần trăm của nó là bịa đặt của chúng ta. Một phần trăm tất
nhiên sẽ còn lại bởi vì có các giới hạn của thân thể. Thân thể phải trở nên
già, thỉnh thoảng nó sẽ bị ốm, một ngày nào đó nó phải chết, nhưng điều đó chỉ
là một phần trăm thôi. Và nếu chín mươi chín phần trăm khổ có thể biến mất, một
phần trăm kia có thể được chấp nhận, chấp nhận một cách vui sướng; không có vấn
đề về nó.
Câu hỏi cuối cùng:
Osho ơi,
Tôi đã nghe từ nhiều sannyasin rằng chúng tôi cần không làm gì hết
cả; "Để Osho làm nó." Gurdjieff đã dạy rằng chỉ qua nỗ lực riêng của
người ta, xuất phát từ ước muốn sâu sắc, mà nhận biết về bản thể mới phát triển.
Xin thầy nói về điều này cho một một sannyasin đang chịu đựng
đau đớn trưởng thành.
Anubhuti,
Tôi biết bạn không khổ
nỗi đau trưởng thành, không khổ chút nào, bởi vì bạn không trưởng thành!
Anubhuti đã từng ở
trong công việc của Gurdjieff trong nhiều năm - không phải với bản thân
Gurdjieff mà với ai đó đã từng ở với Gurdjieff. Bây giờ, ở cùng với thầy là
chuyện khác toàn bộ. Nếu bạn đã từng ở với Gurdjieff hiểu biết của bạn về
Gurdjieff sẽ khác toàn bộ. Nhưng bạn chưa bao giờ ở cùng với một Gurdjieff sống,
bạn đã từng ở cùng với ai đó người đã ở với Gurdjieff - và người đó còn chưa chứng
ngộ, người đó vẫn trong cùng con thuyền như bạn ở. Nhưng cô ấy - người mà
Anubhuti đã ở cùng - đã ước định tâm trí bạn theo cách nào đó: hiểu biết riêng
của cô ấy về Gurdjieff.
Gurdjieff thường nói rằng
ngay cả những người đã hiểu ông ấy, phần lớn đã không hiểu ông ấy - ngay cả người
như P.D. Ouspensky đã bị Gurdjieff bác bỏ. Thực ra, toàn thể công lao thuộc về
P.D. Ouspensky để làm cho Gurdjieff nổi tiếng thế giới; không ai đã biết tới
ông ấy nếu không có Ouspensky. Chính là qua cuốn sách của Ouspensky mà
Gurdjieff đã trở nên nổi tiếng – ông ấy có thể đã chết như nhà huyền môn vô
danh. Chính Ouspensky và năng lực lớn lao của ông ấy để triết lí hoá, để tranh
cãi, để viết, điều làm cho Gurdjieff thành một trong những thầy nổi tiếng vĩ đại
nhất của thế giới.
Nhưng Gurdjieff không hạnh
phúc cho dù với hiểu biết của Ouspensky về ông ấy: ông ấy thường nói rằng
Ouspensky đã hiểu lầm ông ấy toàn bộ. Ouspensky tất nhiên rất bực, và chung cuộc
ông này đã rời khỏi Gurdjieff và trở thành đối kháng. Ngay cả nhắc tới tên của
Gurdjieff trong sự hiện diện của Ouspensky cũng là xúc phạm. Không đệ tử nào của
Ouspensky được phép nhắc tới tên của Gurdjieff mặc dầu điều Ouspensky dạy là
giáo huấn của Gurdjieff theo ông này. Và nếu bạn đọc Ouspensky và Gurdjieff bạn
sẽ bị thuyết phục bởi Ouspensky nhiều hơn bởi Gurdjieff bởi vì Gurdjieff không
phải là triết gia. Ông ấy cũng không phải là nhà văn giỏi - việc viết của ông ấy
tẻ nhạt, chán ngắt tới mức nếu bạn có thể đọc hết toàn thể cuốn sách của ông ấy
điều đó sẽ chỉ ra sức mạnh ý chí lớn lao. Tôi đã bắt gặp nhiều người đã từng
quan tâm sâu sắc tới Gurdjieff, nhưng họ đã không đọc sách của ông ấy; tất cả họ
đều đọc Ouspensky, Nicoll và những người khác.
Anubhuti, bất kì điều
gì bạn biết về Gurdjieff đều không phải về Gurdjieff đâu; bạn không biết gì về
ông ấy cả. Ngay cả những người đã sống cùng ông ấy trong nhiều năm cũng không
có khả năng hiểu ông ấy - ông ấy là một người rất huyền bí. Và với từng đệ tử
ông ấy nói những điều khác nhau bởi vì nhu cầu của từng đệ tử là khác. Ông ấy
nói điều này cho Ouspensky và điều khác cho Nicoll, chính điều đối lập nó bởi
vì nhu cầu của họ là khác nhau tới mức cùng một điều không thể được nói cho họ.
Với vài người ông ấy
nói, "Buông xuôi mọi thứ cho ta..."
Có lần chuyện xảy ra:
Một quí bà Nga rất giầu
tới gặp ông ấy là điều đầu tiên ông ấy yêu cầu là: "Bà bỏ mọi đồ trang sức
giá trị của bà cho tôi ngay lập tức. Nếu bà muốn là đệ tử của tôi, đưa tất cả
kim cương và trang sức của bà ra đây." Và bà ấy có những thứ thực sự đẹp
mang theo mình; bà ấy là một trong những người đàn bà giầu nhất trong những
ngày đó. Bà ấy trở nên rất sợ - cũng là tự nhiên. Bà ấy trở về phòng mình và
nghĩ về điều đó, "Làm gì đây? Có đúng là phải buông bỏ mọi thứ
không?"
Bà ấy ở chung phòng với
một người đàn bà khác là người quen cũ của bà ấy; bà này cũng giầu. Bà ấy hỏi về
chuyện này - phải làm gì.
Người đàn bà kia nói,
"Không có vấn đề gì - cùng điều đó đã xảy ra cho tôi. Khi tôi tới ông ấy
đã yêu cầu tôi, "Đưa mọi đồ có giá trị của bà cho tôi trước hết. Nếu bà
không thể hi sinh được chừng nấy thì quên mọi điều về tôi và công việc của tôi
đi; thế thì tìm kiếm của bà là không chân thực. Bà phải trả tiền cho nó.' Và
tôi lập tức buông bỏ ở đó mọi thứ trang sức. Và chị có biết điều gì xảy ra
không?" người đàn bà này nói. "Sáng hôm sau ông ấy tới phòng tôi và
trả lại mọi thứ cho tôi!"
Thế là người đàn bà mới
rất sung sướng. Bà ấy tới và buông bỏ mọi thứ - và Gurdjieff không bao giờ tới
lại! Bà ấy chờ đợi và chờ đợi, và bà ấy hỏi người đàn bà kia, "Có chuyện
gì nhỉ? Ông ấy đã không quay lại!"
Người đàn bà này nói,
"Tôi không biết có chuyện gì, nhưng đó là điều đã xảy ra với tôi. Tôi
không biết tại sao ông ấy không tới."
Người đàn bà này trở
nên rất nghi ngờ, bỏ Gurdjieff và bắt đầu lan truyền tin đồn về ông ấy:
"Ông ta là kẻ bịp bợm. Ông ta bóc lột mọi người."
Người đàn bà kia hỏi
Gurdjieff, "Sao thầy đã trả mọi thứ cho tôi mà không trả cho bà ấy?"
Gurdjieff nói, 'Bạn
buông xuôi ngay lập tức thế, không một suy nghĩ, do đó không cần giữ nó. Bà ấy
đắn đo về điều đó, bà ấy đã hỏi bạn về điều đó. Chỉ khi bà ấy chắc chắn rằng
các đồ của bà ấy sẽ được trả lại cho bà ấy thì bà ấy mới trao chúng cho tôi. Đó
không phải là buông xuôi chút nào, đó là tính toán. Và tôi không muốn người
tính toán ở quanh tôi. Nếu tôi trả lại các thứ đồ đó cho bà ấy, bà ấy sẽ ở lại
đây. Cho nên tôi đã giết hai con chim bằng một hòn đá: chúng ta có tiền đó -
chúng ta cần nó cho công việc - và chúng ta gạt bỏ người đàn bà ngu xuẩn đó. Và
bây giờ bà ấy đang lan truyền tin đồn về tôi, cho nên những người ngu khác sẽ
không tới tôi."
Anubhuti, bạn không trải
qua đau đớn trưởng thành, bạn đơn giản trong lẫn lộn vì công việc của tôi là
khác toàn bộ với công việc của Gurdjieff; nó nhất định là như vậy. Vấn đề của bạn
bây giờ là phải làm gì?
Anubhuti đã vào nhiều
nhóm và đã bỏ mọi nhóm bởi vì họ không khớp với hiểu biết về công việc của cô ấy;
họ ở dưới cô ấy. Cô ấy biết rõ hơn nhiều - cô ấy đã làm việc trong nhiều năm.
Nhưng công việc của tôi là khác toàn bộ.
Gurdjieff tuỳ thuộc vào
việc kết tinh hoá và công việc của tôi là làm tan biến; bạn phải tan biến đi,
không kết tinh lại. Cả hai đều là những phương tiện hợp thức; qua cả hai cánh cửa
bạn có thể đi vào điều tối thượng. Hoặc là bạn phải đi vào qua sức mạnh - và đó
là công việc của Gurdjieff, hoặc bạn phải đi vào qua buông xuôi - đó là công việc
của tôi.
Bạn hỏi: Xin thầy nói về
điều này cho một sannyasin đang chịu đựng đau đớn trưởng thành.
Bạn đang cố hiểu tôi bằng
cách nói của người theo Gurdjieff của bạn. Điều đó sẽ không có tác dụng. Nếu bạn
muốn hiểu tôi bạn sẽ phải gạt Gurdjieff sang bên. Tôi yêu con người này, tôi
yêu ông ấy vô cùng, tôi kính trọng con người này, nhưng con đường của tôi là
khác toàn bộ.
Nhưng thói quen cũ khó
chết...
Một cô giáo Mĩ mệt mỏi
thấy học sinh da trắng đánh nhau với học sinh da đen, học sinh da đen bị cấm
dùng xe bus của trường. Cho nên một hôm cô ấy gọi họ lại và nói, "Các em,
mọi thứ phân biệt này là gì vậy? Cô không muốn có thêm những điều này! Nhớ lấy,
chúng ta tất cả đều bình đẳng. Mọi người đều bình đẳng dù đen hay trắng! Cho
nên từ giờ trở đi chúng ta có thể nghĩ về chúng ta là mầu lam! Các em có hiểu
không? Chúng ta tất cả đều mầu lam!
"Và bây giờ, mầu
lam sáng sẽ đi xe bus còn mầu lam đậm sẽ đi bộ về nhà!"
Những thói quen cũ...
Cõi trời bị vào cảnh
điêu tàn. Thượng đế hỏi thánh Peter lí do cho điều đó và thánh Peter đáp,
"Thế này, chính là do người kia, Adolf Hitler. Ông ta là không thể chấp nhận
được. Ông ta cứ quát tháo mọi người, 'Người Do Thái! Người Do Thái!' Nhưng đừng
lo, đích thân tôi sẽ xử trí hắn ta! "
Sau một chốc an bình và
hài hoà lại ngự trên cõi trời. Tò mò, Thượng đế hỏi thánh Peter, "Ông làm
điều đó thế nào? "
"Thế này, dễ
thôi," thánh Peter nói. "Tôi đưa cho ông ta cái chổi vẽ và bây giờ,
thay vì hô "Do Thái! Do Thái!" ông ta bận rộn viết 'Do Thái' lên mọi
đám mây!"
Những thói quen cũ...
Bạn đã tới đây, bạn đã chờ
đợi tới đây trong nhiều tháng, bạn đã khao khát ở đây, bạn đã thất vọng với cái
gọi là thầy giáo của bạn, bạn đã thất vọng với cả nhóm, nhưng bạn cũng không ở
đây. Bạn không ở kia không ở đây; bạn ở trong tình trạng lấp lửng.
Nếu bạn muốn làm việc
theo Gurdjieff, trốn khỏi đây nhanh nhất có thể được. Nếu bạn muốn làm việc
theo tôi thế thì bạn sẽ phải học cách khác.
Bạn hỏi: Tôi đã nghe từ
nhiều sannyasin rằng chúng tôi cần không làm gì hết cả...
Đó là điều khó nhất
trên thế giới - không làm gì chút nào. Đừng coi nó là cách dễ hơn; nó là điều
khó nhất, không làm gì. Bạn có thể làm bất kì cái gì; vấn đề nảy sinh khi bạn
được bảo không làm gì cả.
Ngồi im lặng,
không làm gì,
xuân tới,
và cỏ tự nó mọc lên.
Công việc của Gurdjieff
là làm việc; công việc của tôi không phải là công việc, nó là chơi đùa. Và có
khác biệt lớn giữa hai điều này. Gurdjieff muốn bạn buộc bản thân bạn vào cực
đoan; ông ấy là đốc công khắc nghiệt. Tôi không muốn bạn là người cực đoan, tôi
muốn bạn đích xác ở giữa. Tôi muốn bạn đích xác ở giữa, nhớ điều đó, bởi vì chỉ
qua điều đó mà cân bằng có thể của nó mới là thăng bằng có thể. Bạn không được
yêu cầu làm bất kì cái gì chút nào.
Bạn nói: Và các
sannyasin của thầy nói, "Để Osho làm điều đó." Tôi chẳng làm gì hết cả
- đấy chỉ là cách nói thôi. Tôi không làm gì và tôi muốn các sannyasin của tôi
cũng không làm gì cả. Nhưng thói quen cũ của họ có đó cho nên tôi bảo họ,
"Để nó cho tôi. Tôi sẽ làm nó!" Tôi không làm cái gì chút nào đâu -
tôi chưa bao giờ làm cái gì trong đời tôi. Tôi là người lười nhất mà bạn có thể
tìm được trên thế gian! Bạn không thể thấy được sao? - tôi thậm chí không bước
một trăm thước! Và tôi đã bảo Laxmi, "Ở chỗ mới xa phải đi tới đỉnh sân khấu!"
Tôi là người lười nhất thế giới - sao bận tâm với những bậc này? Tôi không làm
gì cả.
Nhưng các sannyasin của
tôi bị quen với làm rồi, cho nên để giúp họ tôi nói, "Đừng lo, tôi sẽ làm
nó. Để nó cho tôi." Đó chỉ là cái cớ cho họ bỏ làm - và thế thì mọi sự bắt
đầu xảy ra theo cách riêng của chúng. Tôi muốn bạn tự nhiên.
Công việc của Gurdjieff
là cực đoan: nó tạo ra căng thẳng trong bạn. Nó tuỳ thuộc vào sự cọ sát: nó tạo
ra cọ sát trong bạn. Công việc của tôi không phải là làm việc; nó là thảnh
thơi, nó là nghỉ ngơi, nó là việc trở nên ngày một im lặng hơn, hoàn toàn im lặng.
Cho dù bạn đang làm cái gì đó bạn không phải là người làm nó; bạn không phải
coi nó là nghiêm chỉnh. Việc làm của Gurdjieff là nghiêm chỉnh. Việc làm của
tôi là không nghiêm chỉnh chút nào; nó là chơi đùa, nó là vui, nó là điệu vũ,
nó là bài ca. Tôi không gọi nó là làm việc. Làm việc là từ bẩn thỉu, từ tục tĩu
ở đây!
Nhưng bạn đang hiểu lầm
tôi bởi lẽ đơn giản là bạn có hiểu biết riêng của bạn. Hoặc bạn sẽ phải vứt bỏ
hiểu biết mà bạn đang mang theo mình, hoặc bạn sẽ phải vứt bỏ tôi. Bạn sẽ phải
chọn. Bạn không thể cưỡi lên hai con ngựa này cùng lúc được.
Một con mèo đực đẹp
dáng đang đi chơi trên đường. Trên đường đi ra công viên, nó gặp một con mèo đực
trắng nhỏ.
"Này, Tommy, anh
đi đâu đấy?" mèo nhỏ hỏi.
"Tớ đi ra công
viên đéo đây!" Tommy lớn đáp,
"Cái đó là gì vậy?
Cái gì như cá à?" mèo nhỏ hỏi.
"Đi cùng tớ và cậu
sẽ biết!" Tommy nói.
Chẳng mấy chốc hai con
mèo đực đi tới vòi phun nước lớn trong công viên, và ở đó chị mèo Jolly đang ngồi,
con mèo cái đẹp nhất thị trấn, lông vàng của nó lấp lánh ánh mặt trời. Nó nhìn
thấy con mèo đực lớn tới gần cùng nụ cười tinh quái trên mặt. "Rắc rối rồi!"
nó kêu lên, nhảy lên, và bắt đầu chạy quanh đài phun nước.
"Lại đây, anh bạn!"
Tommy kêu lên và nó bắt đầu đuổi theo mèo cái. Một vòng, hai vòng, ba vòng.
"Lại đây, nhanh hơn!" Tommy kêu lên. Chúng chạy quanh hết vòng nọ tới
vòng kia quanh đài phun nước.
Mèo trắng con, khó theo
kịp Tommy, kiệt sức, thở hồn hển, run trên đôi chân nhỏ, kêu lên: "Này,
Tommy, nghe đây - tớ đéo một vòng nữa và thế là đủ cho tớ!"
Bạn nói: Gurdjieff đã dạy
rằng chỉ qua nỗ lực riêng của người ta, xuất phát từ ước muốn sâu sắc, mà nhận
biết về bản thể mới phát triển.
Điều đó là đúng, nhưng
thế thì bạn phải tuân theo toàn thể phương pháp của Gurdjieff, và vì điều đó bạn
sẽ cần một Gurdjieff; không có Gurdjieff không thể nào làm được điều đó. Không
có thầy sống không phương pháp nào, dù hay đến đâu, có tác dụng. Thực ra đấy là
thầy, sự hiện diện của thầy, cái là điều thực, không phải phương pháp. Với một
thầy sống mọi thứ có tác dụng; với một thầy chết không cái gì có tác dụng. Để
điều đó được lắng đọng mãi mãi trong tâm thức bạn.
Đó là lí do tại sao
phương pháp hay về sau được tìm ra là hư huyễn. Vấn đề không phải là phương
pháp, vấn đề là thầy, vấn đề là con người đằng sau chúng, vấn đề là cái chạm
vàng, cái chạm thần của thầy, vấn đề là cái duyên của thầy có tác dụng.
Khi tôi qua rồi, thế
thì vũ điệu Sufi sẽ tiếp tục và sẽ có Kundalini và sẽ có Thiền hỗn độn, và mọi
thứ sẽ tiếp tục theo cách thường lệ, nhưng cái gì đó sẽ thiếu - cái gì đó là
chính linh hồn của chúng. Thế thì chúng sẽ chỉ là nghi lễ.
Đó là cách nhà thờ Ki
tô giáo cứ diễn ra, nhà thờ Hindu giáo tiếp diễn, nhà thờ Mô ha mét giáo tiếp
diễn, đền chùa Phật giáo cứ tiếp diễn. Và những phương pháp này đã có thời có
tác dụng. Chúng có tác dụng khi Jesus còn sống, chúng có tác dụng khi Krishna
còn sống, chúng có tác dụng khi Phật còn sống. Sống cùng thầy sống là điều có
tác dụng; vấn đề không phải là phương pháp.
Đó là khác biệt giữa
khoa học và tôn giáo: tôn giáo là phép thần. Khoa học tuỳ thuộc vào phương
pháp; tôn giáo tuỳ thuộc vào thầy, vào sự hiện diện của những người đã trở nên
thức tỉnh.
Chỉ nếu bạn có thể được
hài hoà với tôi ở đây thì cái gì đó mới là có thể - ngay cả điều không thể cũng
là có thể. Nhưng bạn sẽ phải được hài hoà với tôi. Gurdjieff sẽ là cản trở.
Nếu bạn chọn Gurdjieff,
thì chọn Gurdjieff đi, nhưng nhớ bạn đang chọn một thầy chết. Bạn có thể cứ lặp
lại phương pháp của ông ấy cả đời bạn - chẳng cái gì sẽ xảy ra qua chúng.
Xem Tiếp Chương 3 – Quay Về Mục Lục Tập 1
0 Đánh giá