Read more
(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)
Đạo Nguyên Thiền Sư (Dogel)
Tìm Kiếm Và Hoàn Thành – Osho
Bài Nói Về Thiền
Chương 3. Đại Dương Không Núi
Nghe hoặc Tải MP3 'Đạo Nguyên Thiền Sư (Dogel) - Tìm Kiếm Và Hoàn Thành' ê
Thưa Thầy kính yêu của chúng tôi,
Đạo Nguyên tiếp tục:
Khi chúng ta nhìn quanh con thuyền trên đại dương không núi,
chúng ta không thấy gì ngoài hình dạng tròn của đại dương. Nhưng đại dương lớn
này không tròn hay vuông; hình dạng và chuyển động khác của nó là không kể được.
Với cá nó giống như lâu đài. Với sinh linh trên trời nó giống
như chuỗi hạt. Chỉ ở xa mà mắt có thể nhìn tới, thì nó mới tạm thời có vẻ tròn.
Đây cũng là trường hợp với mọi thứ. Tất cả mọi thứ trên thế gian
và không trên thế gian đều có những khía cạnh khác nhau, nhưng chúng ta có thể
thấy và nhận ra chúng chỉ qua hiểu biết thực hành...
Dù cá bơi xa đến đâu trong nước, vẫn không có kết thúc của nước.
Dù chim bay xa đến đâu trên bầu trời, vẫn không có kết thúc của bầu trời. Nhưng
tất cả chúng đều chưa bao giờ rời khỏi nước hay bầu trời.
Khi nhu cầu của chúng lớn, có hoạt động lớn; khi nhu cầu của
chúng nhỏ, có hoạt động nhỏ. Do vậy chúng chưa bao giờ không diễn đạt được khả
năng đầy đủ của mình trong từng thứ, và chưa bao giờ dùng hết hoạt động tự do của
mình tại từng chỗ.
Nhưng ngay khi chim rời khỏi bầu trời, nó chết. Hoàn cảnh cũng vậy
khi cá rời khỏi nước. Chúng ta có thể nhận ra rằng nước là cuộc sống của cá; rằng
bầu trời là cuộc sống của chim; rằng chim là cuộc sống của bầu trời; cá là cuộc
sống của nước; rằng cuộc sống là chim, hay rằng cuộc sống là cá. Về điều này có
thể có nhiều cách diễn đạt khác nhau.
Trong thế giới con người, có công phu và chứng ngộ, hay cuộc đời
dài và cuộc đời ngắn. Điều này cũng là trạng thái thực của mọi vật. Dẫu sao đi
chăng nữa, nếu chim hay cá cố đi qua bầu trời hay nước sau khi biết nó hoàn
toàn, chúng vẫn sẽ không tìm ra cách nào để đi hay không tìm ra chỗ nào để đạt
tới.
Maneesha, huyền môn
phương Đông đã chấp nhận các tầng của thực tại. Khoa học phương Tây chỉ biết một
thực tại thôi - thực tại của vật chất. Nó nghèo nàn, nó thiếu sự đa dạng. Huyền
môn phương Đông, trong đó Thiền là đỉnh tối thượng, chấp nhận thực tại của cái
ta bên trong của bạn, điều bạn không thể thấy được, không thể hiểu được, nhưng
lại chính là bạn. Bạn có thể được thức tỉnh về nó hay bạn có thể vẫn còn ngủ,
điều đó không tạo ra khác biệt gì cho phẩm chất bên trong của con người bạn. Đó
là thực tại tối thượng của bạn.
Thế rồi có thân thể
này, cái chỉ là một dáng vẻ - một dáng vẻ theo nghĩa nó thường xuyên thay đổi.
Bạn thấy người đàn bà đẹp hay người đàn ông đẹp và họ đang trở nên già đi rồi.
Khoảnh khắc bạn hân hoan trong cái đẹp của bông hồng, thời gian cho nó biến trở
lại vào trong đất không còn xa xôi nữa. Loại thực tại này cũng có chỗ của nó
trong tầm nhìn phương Đông. Họ gọi nó là hình tướng, dáng vẻ, sự thay đổi khoảnh
khắc qua khoảnh khắc. Có thời điểm được sinh ra và có thời điểm chết đi. Mùa vụ
sẽ lại tới, và hoa sẽ lại nở. Đó là hành trình vòng tròn của sự tồn tại mà
trong đó - ngoại trừ con người bạn, trung tâm bạn - mọi thứ đều cứ thay đổi
hoài. Thế giới thay đổi này là thực tại tương đối.
Và có những thực tại
khác nữa - như mơ. Bạn biết chúng không hiện hữu, nhưng dầu vậy bạn vẫn thấy
chúng. Mà không chỉ bạn thấy chúng, chúng còn ảnh hưởng lên bạn. Nếu bạn có ác
mộng và bạn tỉnh dậy, bạn sẽ thấy tim mình đập thình thịch, hơi thở của bạn bị
cơn ác mộng làm thay đổi. Bạn thậm chí có thể vã mồ hôi vì sợ. Bạn không thể
nói rằng cơn ác mộng không có đó; bằng không thì từ đâu mà mồ hôi này tới, và
nhịp tim, nhịp thở này bị thay đổi?
Huyền môn phương Đông
chấp nhận tầng thứ ba này của thực tại: mơ, đường chân trời mà bạn thấy khắp
xung quanh, cái chẳng tồn tại ở đâu cả... nhưng bạn có thể thấy nó từ mọi nơi.
Trước khi tôi giải
thích Đạo Nguyên cho bạn, để điều này thành việc giới thiệu, bởi vì đây là điều
ông ấy đang cố gắng nói: rằng mọi thứ trôi qua và vậy mà vẫn có cái gì đó không
bao giờ trôi qua; rằng mọi thứ được sinh ra và chết đi vậy mà vẫn có cái gì đó
không bao giờ được sinh ra và không bao giờ chết đi. Và chừng nào bạn còn chưa
được định tâm vào trong cội nguồn vĩnh hằng đó, bạn sẽ không tìm thấy an bình,
bạn sẽ không tìm thấy thanh thản, bạn sẽ không tìm thấy phúc lạc, bạn sẽ không
tìm thấy sự mãn nguyện. Bạn sẽ không cảm thấy như ở nhà, thoải mái trong vũ trụ.
Bạn sẽ vẫn còn như sự ngẫu nhiên, bạn sẽ chẳng bao giờ trở thành bản chất.
Và toàn thể nỗ lực của
Thiền, hay của bất kì phương pháp thiền nào, là để mang bạn lại gần hơn với cái
không bao giờ thay đổi, cái bao giờ cũng hiện hữu. Nó không biết tới thời
gian... Nếu không có thay đổi, làm sao có thể có quá khứ, tương lai, hiện tại?
Thế giới biết tới quá khứ, tương lai và hiện tại chỉ có thể là thực tương đối -
hôm nay nó có đó, ngày mai nó mất. Thân thể, cái bạn đã tin vào nhiều thế, một
ngày nào đó sẽ chết. Tâm trí, cái bạn đã tin vào nhiều thế, không còn theo bạn
nữa, nó chết cùng thân thể. Nó đã là một phần của cơ chế thân thể.
Cái bay ra khỏi thân thể
trong chết là con chim vô hình bay vào trong bầu trời vô hình. Nhưng nếu bạn nhận
biết, bạn sẽ nhảy múa, bởi vì lần đầu tiên bạn sẽ biết tự do là gì. Nó không phải
là tự do chính trị hay tự do kinh tế; nó là tự do mang tính tồn tại, cơ bản
hơn. Và bất kì cái gì trưởng thành từ tự do này đều đẹp đẽ, duyên dáng. Mắt bạn
vẫn thế, nhưng cái nhìn của bạn đã thay đổi. Yêu của bạn có đó nhưng nó không
còn là thèm khát nữa, nó không còn là sở hữu nữa. Nó biến đổi nó thành từ bi. Bạn
vẫn chia sẻ niềm vui của mình trong bài ca, trong điệu vũ, trong thơ ca, trong
âm nhạc - nhưng chỉ vì niềm vui tột đỉnh của chúng.
Đã có tranh luận hàng
thế kỉ: Nghệ thuật vì cái gì? Đã có những người theo thuyết vụ lợi thực dụng
nói rằng nghệ thuật nên phục vụ cho chủ định nào đó, bằng không thì nó là vô dụng.
Nhưng những người này không biết nghệ thuật. Nghệ thuật chỉ có thể vì mục đích
riêng của nó. Nó là niềm vui tột đỉnh của con chim cu cu đơn độc, của tiếng tre
đứng trong im lặng, của chim bay trên trời. Chính chuyến bay đó, chính cảm giác
tự do đó, là đủ cho chính nó. Nó không cần phục vụ bất kì cái gì khác.
Nhưng điều đó là có thể
chỉ nếu bạn đã biết tới sự tồn tại nền tảng của mình. Bạn đã quen với tâm trí,
cái vốn được vay mượn, cái được nuôi dưỡng, giáo dục. Bạn đã quen với thân thể
mình một cách rất hời hợt. Bạn không biết nó vận hành ra sao, mặc dầu nó là
thân thể của bạn. Bạn không biết cách nó biến thức ăn thành máu, cách nó phân
phối ô xi cho các phần khác nhau của thân thể.
Thân thể có trí huệ
riêng của nó. Tự nhiên đã không để cho bạn phải nhớ tới việc thở, bởi vì bạn có
thể quên. Bạn còn ngủ thế, tự nhiên không thể mạo hiểm được. Nếu bạn phải nhớ tới
việc thở, tôi cho rằng bạn đã không ở đây rồi. Bạn đã bị quên lãng từ lâu trước
đây rồi.
Nhưng dù bạn có nhớ hay
không, dù bạn thức hay ngủ, việc thở vẫn tiếp tục theo cách riêng của nó, tim vẫn
làm việc theo cách riêng của nó, dạ dầy vẫn tiêu hoá theo cách riêng của nó. Nó
không hỏi lời khuyên của bạn, nó chẳng cần giáo dục y tế nào, nó cũng chẳng cần
lời khuyên nào. Nó đơn giản có trí huệ bẩm sinh của riêng nó.
Nhưng nó chỉ là ngôi
nhà của bạn - bạn không phải là nó. Ngôi nhà này một ngày nào đó sẽ trở nên cũ
kĩ. Ngày nào đó tường của nó sẽ bắt đầu rơi rụng đi, cửa long ra. Ngày nào đó sẽ
thậm chí không có tới một dấu vết của ngôi nhà này nữa - tất cả sẽ mất đi.
Nhưng điều gì đã xảy ra cho người đã từng sống trong ngôi nhà này?
Bạn phải hiểu nguyên tắc
đó. Bạn có thể gọi nó là nhận biết, chứng ngộ, tâm thức, phật tính - không
thành vấn đề bạn cho nó cái tên gì. Nhưng trách nhiệm tuyệt đối của mọi con người
là đừng bỏ phí thời gian trong những chuyện trần tục. Điều quan trọng phải giải
quyết trước tất cả. Và điều đầu tiên là hiện hữu và biết hiện hữu này là gì. Đừng
đuổi theo bướm. Đừng cứ nhìn ra đường chân trời, cái chỉ dường như xuất hiện mà
thực lại không có.
Tôi nhớ tới... Hai mươi
ba thế kỉ trước đây, Alexander Đại Đế đã tới Ấn Độ. Thầy của ông ấy là một triết
gia lớn, cha đẻ của logic học, Aristotle. Và khi ông ấy sắp sang Ấn Độ,
Aristotle đã yêu cầu ông ấy, "Nhà vua có thể đem cái gì đó về làm quà cho
ta được không?"
Alexander nói, "Bất
kì cái gì - nói nó ra."
Aristotle nói, "Điều
đó không dễ vậy, nhưng ta sẽ đợi. Đem về cho ta một sannyasin khi nhà vua quay
lại, một người đã hiểu bản thân mình. Bởi vì chúng ta không biết điều này nghĩa
là gì... là phật nghĩa là gì. Bắt lấy một phật và đem ông ta về cùng nhà vua."
Alexander đã không nhận
biết về điều mình hứa. Ông ta nói, "Đừng lo. Nếu Alexander muốn dời núi
Himalayas, chúng sẽ phải dời. Và thầy đang yêu cầu về mỗi một con người. Đợi đấy
- trong vòng vài tháng ta sẽ quay lại."
Và đã có quá nhiều việc
phải làm đến mức chỉ vào lúc cuối ông ấy mới nhớ rằng mình đã quên không bắt giữ
phật, người biết thực tại bên trong. Ông ấy hỏi ở biên giới Ấn Độ khi ông ấy
quay về. Mọi người đều cười vào ngay chính cái ý tưởng này. Họ nói, "Ngay
chỗ đầu tiên, rất khó nhận ra ai đó là phật. Rồi thứ nữa, nếu tình cờ mà ông đủ
cởi mở để nhận ra sự rạng ngời của phật, thì ông sẽ sụp lạy dưới chân người đó.
Ông sẽ quên hết về việc đưa người đó đi cùng ông. Chúng tôi hi vọng là ông
không tìm ra phật - về nhà đi."
Alexander không thể nào
hiểu nổi... Phật là cái loại người gì mà ông ta không thể bị bắt đem đi bằng vũ
lực? Cuối cùng, ông ta nói: "Hãy phái sứ giả đi khắp nơi, tìm cho ra liệu
có ai đó tuyên bố rằng mình đã về nhà."
Và mọi người tới, và họ
nói, "Vâng có, một sannyasin trần trụi đứng bên sông nói, 'Ta có thể ở đâu
khác được? - ta ở đây. Và ta có thể là ai khác được? - ta là phật.'"
Alexander đích thân tới
gặp người này. Cuộc đối thoại cực kì hay, nhưng rất gây chấn động cho Alexander
Đại Đế. Ông ta chưa bao giờ bắt gặp một người như vậy trước đây vì trước khi
ông ta nói - ông ta đã cầm lăm lăm chiếc kiếm tuốt trần trong tay - ông già
này, trần trụi, nghèo nàn, đã nói, "Cất kiếm vào bao đi, nó chẳng cần gì ở
đây cả. Con người của thông minh mà mang kiếm sao? Ta sẽ đánh ông đấy! Cất kiếm
vào bao đi."
Alexander lần đầu tiên
thấy ai đó dám ra lệnh cho mình, và ông ta phải tuân theo. Mặc cho bản thân
mình ông ta phải tuân theo. Và ông ta nói, "Ta đã tới với lời nguyện: Đi
cùng ta, về đất nước ta. Thầy ta muốn gặp phật. Ở phương Tây chúng ta không biết
gì về cái ta bên trong nghĩa là gì."
Ông già cười to. Ông ấy
nói, "Điều này buồn cười quá. Nếu thầy ông không biết, thì ông ấy thậm chí
không phải là thầy giáo. Còn nếu ông ấy muốn gặp phật, thì ông ấy phải đi tới
phật chứ; phật không thể bị mang tới ông ấy được. Nói với thầy của ông, 'Nếu
ông khát, đi tới giếng; giếng không định đi tới ông đâu.'"
"Còn đối với ông,
Alexander," ông già nói, "ít nhất học là con người đi đã. Ông tự giới
thiệu mình là Alexander Đại Đế. Đây là bản ngã đang ngăn cản ông không cho biết
phật của ông. Ông đang mang nó bên trong mình, nhưng cái "đại' này, cái
ham muốn chinh phục thế giới này... Ông sẽ làm gì với việc chinh phục thế giới
này? Chẳng mấy chốc cái chết sẽ lấy đi mọi thứ. Ông sẽ chết trần trụi, ông sẽ bị
chôn vào đất. Chẳng ai sẽ băn khoăn để không dẫm lên ông, và ông thậm chí sẽ
không thể phản đối được, 'Tránh ra đi. Ta là Alexander Đại Đế.' Xin vứt cái ý
tưởng về vĩ đại này đi. Và cũng nhớ rằng từ 'Alexander' không phải là tên
ông."
Alexander nói, "Trời!
Đấy là tên ta - làm sao ta có thể thuyết phục được ông?"
Ông ấy nói, "Không
có vấn đề thuyết phục ta. Không ai tới thế giới này với tên cả. Tất cả các tên
được trao cho - đều là nhãn được dán vào, dính vào - và ông trở thành cái nhãn
đó. Ông quên mất hoàn toàn rằng ông đã tới mà không tên tuổi, không danh tính.
Và ông sẽ chết đi theo cùng cách đó.
"Bảo thầy ông tới
đây mà đối diện với sư tử. Nếu ông ấy có khả năng đi vào bên trong, chỉ thế thì
ông ấy mới có khả năng biết là phật nghĩa là gì; trở nên chứng ngộ nghĩa là gì.
Bởi ai đó khác trở nên chứng ngộ, ông không thể hiểu được nó - điều đó cũng giống
như khi ai đó khác uống nước việc này không thể làm dịu cơn khát của ông được."
Alexander chạm chân ông
già và nói, "Ta rất tiếc đã quấy rầy ông. Có lẽ chúng ta không hiểu được
ngôn ngữ của nhau chút nào."
Và điều đó vẫn còn đúng
thậm chí cho tới ngày nay: tâm trí phương Tây và tâm trí được giáo dục của
phương Tây - nó có thể đã được sinh ra ở phương Đông - đã quên mất ngôn ngữ mà
Đạo Nguyên định dùng. Bạn phải rất ý thức, rất tỉnh táo, để bạn không hiểu lầm.
Một thế giới khác, một bầu khí hậu khác đã có ở đây, điều đã làm cho thế giới
này thành cuộc hành hương tìm và kiếm tuyệt đẹp... Bây giờ nó chỉ là bãi chợ để
mua bán vũ khí, và đánh nhau và giết người và chiến tranh. Ai bận tâm về thiền?
Dường như nó là tiếng vọng rất xa xôi. Dường như nó chẳng liên quan gì tới
chúng ta theo bất kì cách nào. Nhưng chừng nào bạn còn chưa cởi mở cho tiếng vọng
xa xăm này, bạn sẽ không hiểu được điều Đạo Nguyên đang nói đâu.
Đạo Nguyên nói:
Khi chúng ta nhìn quanh
con thuyền trên đại dương không núi, chúng ta không thấy gì ngoài hình dạng
tròn của đại dương. Nhưng đại dương lớn này không tròn hay vuông; hình dạng và
chuyển động khác của nó là không kể được.
Với cá nó giống như lâu
đài. Với sinh linh trên trời nó giống như chuỗi hạt. Chỉ ở xa mà mắt có thể
nhìn tới, thì nó mới tạm thời có vẻ tròn.
Tính tròn của nó chỉ là
dáng vẻ. Mặc dầu khi bạn thấy nó, nó có đó, nhưng bạn biết rằng nó không phải
là thực tại. Nếu bạn đi tới nó bạn sẽ chẳng bao giờ đạt tới nó cả; nó cứ lùi
mãi ra... nó là đường chân trời. Nhưng nó có thực tại nào đó của riêng mình, mặc
dầu nó không phải là thực tại tối thượng. Thân thể chúng ta là chu vi của chúng
ta, đường chân trời của chúng ta. Nó xuất hiện, nó sống, nó thở, vậy mà nó
không phải là chính cái ta của chúng ta.
Đây cũng là trường hợp
với mọi thứ. Tất cả mọi thứ trên thế gian và không trên thế gian đều có những
khía cạnh khác nhau, nhưng chúng ta có thể thấy và nhận ra chúng chỉ qua hiểu
biết thực hành...
Với người mù, không có
ánh sáng.
Chuyện xảy ra... Một học
giả rất có học thức bị mù, vào thời của Phật Gautam. Và ông ta lại là người giỏi
lí sự đến mức cả làng bị ông ta hành hạ, bởi vì mọi người đều thử, "Ông
mù, đó là lí do tại sao ánh sáng không trong tầm với của ông."
Nhưng ông ấy nói,
"Thế thì làm cho nó thành có ở các nguồn khác đi. Tôi có thể nghe - đánh
nó như cái trống xem sao." Bạn không thể đánh ánh sáng như cái trống được.
Và người mù này nói,
"Tôi có thể sờ, ít nhất thì để tôi chạm vào ánh sáng. Tay tôi để mở đây
này - ánh sáng của các ông đâu? Tôi có thể ngửi..." Nhưng tất cả các giác
quan này đều không có khả năng cảm nhận thực tại của ánh sáng.
Cả làng bị hành hạ:
"Phải làm gì với con người này? Ông ta hay lí sự thế... chúng ta tất cả đều
biết ánh sáng là gì, nhưng ông ấy cứ phủ nhận. Và ông ấy có lí do hợp lệ -
chúng ta không thể đưa ra được bằng chứng nào."
Họ nghe nói rằng Phật
Gautam vừa tới làng mình. Họ nghĩ, "Đây là cơ hội tốt để đem người mù này
tới Phật Gautam. Nếu Phật Gautam không thể thuyết phục được ông ta thì có lẽ điều
đó là điều không thể được. Và cách đó sẽ rất chủ chốt; chúng ta có thể thấy Phật
Gautam có thể tranh luận với người này được đến đâu."
Nhưng họ nhầm. Phật
Gautam chẳng tranh luận gì với người này cả. Ông ấy đơn giản nói, "Đừng quấy
rầy ông ấy, việc các ông bảo ông ấy có ánh sáng là điều xấu. Nếu như chúng ta đủ
từ bi với ông ấy thì các ông nên cố gắng tìm ra thầy lang nào đó chữa mắt cho ông
ấy. Ánh sáng không phải là việc cãi lí; các ông cần mắt để thấy nó và thế thì
không có vấn đề hoài nghi gì."
Phật có thầy lang trị
liệu cá nhân riêng của mình. Ông ấy bảo với thầy lang, "Ông ở lại trong
làng này cho tới khi chữa xong mắt cho người này. Ta sẽ đi cùng đoàn lữ
hành."
Sau sáu tháng thầy lang
và người mù tới, nhưng ông ấy không còn mù nữa. Ông ấy vừa tới vừa nhảy múa!
Ông ấy sụp lạy dưới chân Phật Gautam và ông ấy nói, "Tôi biết ơn thầy là
thầy đã không triết lí với tôi, là thầy đã không làm mất mặt tôi. Thay vì tạo
ra cuộc tranh luận lớn, thầy đơn giản làm ra một điều: rằng vấn đề không phải
là ở ánh sáng, vấn đề là ở mắt."
Cùng điều đó cũng đúng
cho cái ta bên trong - vấn đề không phải là ở trí thông minh của bạn, không phải
là sự hợp lí hoá của bạn, không phải là logic của bạn, tri thức khoa học của bạn,
kinh sách của bạn. Vấn đề là sự xuyên thấu trực tiếp bằng mắt nhắm vào trong
con người bạn, ẩn đằng sau xương cốt bạn. Một khi cái đó được biết tới, thì sự
thảnh thơi vô cùng sẽ đi theo sau. Cuộc sống lần đầu tiên trở thành điệu vũ.
Ngay cả cái chết cũng không còn là quấy rối nữa.
Dù cá bơi xa đến đâu
trong nước, vẫn không có kết thúc của nước. Dù chim bay xa đến đâu trên bầu trời,
vẫn không có kết thúc của bầu trời. Nhưng tất cả chúng đều chưa bao giờ rời khỏi
nước hay bầu trời.
Đó là một câu chuyện cổ...
về một con cá con rất tò mò đi hỏi, "Cháu đã nghe nói nhiều về đại dương
mà cháu chẳng thấy nó ở đâu cả…"
Và con cá già nói với
triết gia trẻ này, "Đừng là kẻ ngốc - chúng ta đang trong đại dương, và
chúng ta là đại dương. Chúng ta bắt nguồn từ nó và chúng ta biến mất vào trong
nó. Chúng ta không là gì ngoài con sóng trong đại dương."
Cũng điều đó là đúng đối
với chim. Bạn có cho rằng chúng có thể tìm ra được bầu trời không? Mặc dầu
chúng bay cả ngày - bay tới những chỗ xa xăm - chúng vẫn không thể nào tìm thấy
được bầu trời. Bởi vì chúng được sinh ra từ bầu trời và một ngày nào đó chúng sẽ
biến mất vào trong bầu trời.
Đây là những phát biểu
tượng trưng. Thực tế chúng đang nói rằng bạn là một phần của vũ trụ. Bạn phát
sinh như con sóng trong vũ trụ và bạn biến mất một ngày nào đó trở lại trong vũ
trụ. Vũ trụ này không phải là cái gì đó mang tính khách quan, nó là cái gì đó
mang tính chủ quan. Nó là cái gì đó được nối với cốt lõi bên trong nhất của bạn.
Nếu bạn đã tìm thấy bản thân mình, bạn đã tìm thấy toàn thể đại dương, toàn thể
bầu trời, với mọi ngôi sao của nó, với mọi hoa của nó, với mọi chim của nó. Tìm
thấy bản thân mình là tìm thấy mọi thứ. Và bỏ lỡ bản thân mình... bạn có thể có
cung điện và vương quốc và của cải giầu có - tất cả đều vô tích sự.
Khi nhu cầu của chúng lớn,
có hoạt động lớn; khi nhu cầu của chúng nhỏ, có hoạt động nhỏ.
Cá và chim là những
sinh linh tự phát. Ngoại trừ con người, trong toàn thể vũ trụ này không ai đã
phát điên. Bạn cứ làm việc cho dù không cần phải làm việc - cứ để bận bịu, chẳng
có việc gì, bằng không thì ai đó sẽ trỏ vào bạn, "Anh đang làm gì vậy?"
Và bạn không có dũng cảm để nói, "Tôi chỉ hiện hữu."
Mọi người sẽ cười và họ
sẽ gợi ý, "Làm cái gì đó đi, chỉ hiện hữu sẽ chẳng ích gì. Kiếm việc đi!
Kiếm tiền đi." Nhưng cá sẽ không làm việc nhiều hơn điều tuyệt đối cần thiết.
Henry Ford, trước khi
chết, đã được người ta hỏi, "Ông đã vượt qua giới hạn từ lâu trước đây rồi,
phá mọi kỉ lục về giàu có. Bây giờ chẳng còn kẻ cạnh tranh nào với ông cả. Sao
ông cứ làm việc liên tục thế?"
Và bạn sẽ ngạc nhiên mà
biết rằng ông ấy hay tới văn phòng vào bảy giờ sáng. Người làm công thường tới
lúc mười giờ, thư kí tới lúc mười một giờ, người quản lí lúc mười hai giờ. Người
quản lí sẽ đi về trước bốn giờ, thư kí đi về trước năm giờ, người làm công đi về
lúc sáu giờ, nhưng Henry Ford vẫn làm việc. Và ông ấy là người giầu nhất thời của
ông ấy.
Người hỏi cũng phải mà
hỏi ông ấy, "Sao ông cứ làm mãi thế? Đó là hoạt động không cần thiết. Ông
đã kiếm được nhiều thế, ông có thể làm bất kì cái gì ông muốn."
Và câu trả lời của ông ấy
là câu trả lời của người khôn ngoan, chưa chứng ngộ, nhưng chắc chắn cuộc sống
đã làm cho ông ấy thành khôn ngoan. Ông ấy nói, "Điều đó chỉ trở thành
thói quen thôi. Tôi không thể tự dừng mình trong việc trở nên ngày một giầu hơn.
Tôi biết điều đó chẳng cần thêm chút nào nữa, nhưng rất khó vứt bỏ thói quen
cũ, thói quen cả đời."
Ngoại trừ con người... không cây nào có bất kì thói quen nào, không chim nào, không cá nào. Toàn thể tự nhiên là tự phát. Nó đơn giản vận hành khi nó được cần đến, nó dừng vận hành và vẫn còn đơn giản im lặng khi nó không được cần đến. Thực ra, theo tôi đây mới là lành mạnh: chỉ làm những gì cần thiết. Cho dù đi thêm một li thôi và bạn đã vượt ra ngoài lành mạnh rồi, bạn đã trở thành điên khùng. Và không có chấm hết cho điên khùng.
Khi nhu cầu của chúng lớn,
có hoạt động lớn. Điều này có thể được hiểu từ nhiều khía cạnh. Ngoại trừ con
người, không con vật nào quan tâm tới dục trong suốt cả năm. Có thời vụ, thời
kì giao phối; một khi thời kì đó qua rồi... với phần còn lại của năm chẳng con
vật nào bận tâm tới dục. Bạn sẽ không tìm thấy kẻ điên vì dục trong chim chóc,
mà bạn cũng chẳng thể tìm thấy con chim vô dục nào. Bạn sẽ không tìm thấy, ngay
trong mùa giao cấu của chúng, rằng chúng sung sướng lắm.
Tôi đã quan sát chim
chóc, con vật, và tôi ngạc nhiên là hoạt động dục của chúng dường như là điều bị
ép buộc lên chúng. Chúng không có vẻ sung sướng. Bạn nhìn chó làm tình mà xem.
Nó làm điều đó dưới sự cưỡng bách nào đó, sự cưỡng bách sinh học nào đó, bằng
không thì nó chẳng quan tâm. Và một khi mùa vụ đã qua rồi thì không có sự quan
tâm chút nào. Đó là lí do tại sao hôn nhân đã không xuất hiện trong thế giới
loài vật. Bạn sẽ làm gì với hôn nhân? Một khi mùa giao cấu chấm dứt - chào tạm
biệt nhau nhé!
Nhưng với con người điều
đó lại là thói quen. Con người đã biến ngay cả sự cần thiết sinh học thành thói
quen. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng, theo các nhà tâm lí và những cuộc điều
tra của họ, mọi đàn ông đều nghĩ tới đàn bà cứ tối thiểu bốn phút một lần, và mọi
đàn bà lại nghĩ tới đàn ông cứ tối thiểu bảy phút một lần. Sự chênh lệch này là
nguyên nhân cho những khổ vô cùng.
Đó là lí do tại sao mọi
đêm, khi chồng về nhà... vợ hoàn toàn khoẻ, và bỗng nhiên cô ấy bắt đầu có
khuôn mặt lạnh lùng của người Anh, cô ấy đang bị đau đầu. Anh chồng tài giỏi
đem thuốc aspirin Hi Lạp siêu mạnh về nhà. Nhưng hiếm có những anh chồng tài giỏi
thế lắm, bởi vì nếu bạn tài giỏi thì bạn sẽ không bao giờ là chồng cả. Loại việc
đó là dành cho người chậm phát triển, người tài giỏi vẫn còn tuyệt đối tự do.
Nếu bạn quan sát nhân
loại, bạn sẽ tin rằng nó là nhà thương điên. Ai đó đang hút thuốc... mặc dầu
trên bao thuốc có đề rõ hút thuốc là nguy hiểm cho cuộc sống của bạn.
Và mới ngày hôm nọ, tai
tôi có bị đau chút ít. Anando có đó. Tôi hỏi cô ấy, "Bạn có mang tăm quấn
bông không?"
Cô ấy nói,
"Không."
Bây giờ ngay cả trên
que tăm quấn bông cũng viết cùng phát biểu, "Nó là nguy hiểm cho sức khoẻ
của bạn. Đừng dùng chúng."
Và Anando đã nói với
tôi, "Hasya đáng thương đang nói rằng đây chỉ là sự thích thú của cô ấy,
bây giờ ngay cả điều đó cũng mất rồi." Ngồi im lặng và tận hưởng... Điều
đó chẳng hại gì cho bất kì ai.
Có những người nhai kẹo
cao su. Người ta không thể nghĩ được thứ gì ngu ngốc hơn. Kẹo cao su sao? Cao
su được làm ra để nhai thôi sao?
Mọi người đang làm đủ mọi
thứ, nếu họ quan sát và viết chúng ra, họ sẽ thấy... "Trời, những điều này
mình đang làm, và mọi người cứ nghĩ mình lành mạnh." Nhưng mọi người đều
đeo mặt nạ và cố gắng che giấu mọi thứ điên khùng đằng sau nó. Bạn sẽ thấy ngay
thôi, khi chúng ta thiền... bởi vì trong thiền bạn phải dỡ bỏ mọi mặt nạ và để
cho mọi thứ điên khùng của hàng thế kỉ được bùng ra. Đừng giữ nó lại, bởi vì đó
là việc rửa sạch vô cùng. Và một khi bạn là tâm thức sạch sẽ, trong trẻo thì nhận
biết của bạn về phật tính không còn xa xôi nữa - có lẽ chỉ thêm một bước nữa
thôi.
Đạo Nguyên tiếp tục:
Do vậy chúng chưa bao
giờ không diễn đạt được khả năng đầy đủ của mình trong từng thứ, và chưa bao giờ
dùng hết hoạt động tự do của mình tại từng chỗ.
Nhưng ngay khi chim rời
khỏi bầu trời, nó chết. Hoàn cảnh cũng vậy khi cá rời khỏi nước.
Thế con người thì sao?
Con người đã rời bỏ đại dương của mình từ lâu trước đây rồi. Mối quan hệ đại
dương của con người với sự tồn tại hoàn toàn bị phá vỡ, không cây cầu nào còn lại.
Và đây là điều làm cho con người làm đủ mọi thứ ngu xuẩn. Trong ba nghìn năm,
năm nghìn cuộc chiến tranh. Người ta không thể nào tin được rằng chúng ta ở đây
chỉ để giết lẫn nhau. Không có gì quan trọng hơn vũ khí hạt nhân sao?
Bảy mươi phần trăm thu
nhập của toàn nhân loại đổ vào những nỗ lực chiến tranh. Ngay cả những nước
nghèo, nơi họ không thể đảm đương được thức ăn hai lần một ngày cho dân mình,
nơi họ sống dưới mức nghèo đói, dầu vậy họ vẫn phí hoài bảy mươi phần trăm thu
nhập của mình trong việc tạo ra bom, trong việc mua vũ khí. Bạn có cho rằng cái
gì còn có thể điên khùng hơn chiến tranh không?
Một nước như nước Đức,
một trong những nước văn hoá nhất, đã rơi vào trong tay kẻ điên, Adolf Hitler.
Chẳng ai nghĩ được tại sao điều đó lại xảy ra. Ngay cả một người như Martin
Heidegger, có lẽ là triết gia vĩ đại nhất ở Đức, cũng là tín đồ của Adolf
Hitler. Và Adolf Hitler tuyệt đối điên khùng. Ông ta cần phải được đưa vào bệnh
viện.
Nhưng phải có điều gì
đó trong mọi con người mà theo đó ông ta đã lôi cuốn được. Cả nước Đức - với tất
cả mọi thông minh của nó - đã trở thành nạn nhân. Và bạn có thể thấy cái ngu xuẩn
này. Ông ta nói, "Chính bởi vì người Do Thái mà nước Đức không vươn lên
thành cường quốc thế giới, bằng không thì quyền tập ấm của chúng ta là cai trị
cả thế giới. Chỉ bởi vì người Do Thái thôi."
Tôi đã nghe một giai
thoại nhỏ. Ông giáo sĩ trưởng của Berlin, trong buổi đi dạo buổi sáng, bắt gặp
Adolf Hitler. Đó là cuộc gặp gỡ kì lạ, ngẫu nhiên; cả hai đều đi dạo buổi sáng.
Adolf Hitler nhận ra ông giáo sĩ trưởng và ông ta nói, "Ông có đồng ý với
ta hay không? Điều ông nghĩ là nguyên nhân làm cho người Aryan Na uy Đức không
cai trị được trên khắp thế giới?"
Viên giáo sĩ nói,
"Đấy là tại xe đạp. Ông phá mọi xe đạp đi và ông sẽ cai trị khắp thế giới."
Adolf Hitler nói
"Ông có lành mạnh không đấy?"
Ông này nói, "Tôi
lành mạnh cũng như ông vậy. Ông đã lấy cớ giết sáu triệu người Do Thái, chẳng
lí lẽ gì."
Sao mọi người lại trở
nên bị thuyết phục rằng ông ta là đúng về điều ngu xuẩn là người Do Thái đang
ngăn cản nước Đức không trở thành cường quốc lớn? Người Do Thái đã đóng góp của
cải, thông minh, mọi thứ cho nước Đức. Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng bốn mươi
phần trăm giải thưởng Nobel đều về tay người Do Thái.
Nhưng sao mọi người Đức
còn lại đã trở nên bị thuyết phục? Đó là vì ghen tị. Người Do Thái giầu có, người
Do Thái thông minh, người Do Thái bao giờ cũng ở trên đỉnh trong mọi thứ.
Rất nguy hiểm để thành
công trong một thế giới điên khùng bởi vì mọi người đều muốn giết bạn - trên bất
kì nền tảng nào; phải hay trái cũng chẳng thành vấn đề. Toàn thể nước Đức trở
nên bị thuyết phục, không phải bởi vì có bất kì luận cứ hay lí do nào trong
phát biểu của Adolf Hitler; mà bởi vì mọi người Đức đều ghen tị với trí thông
minh Do Thái, sự thành công của họ, của cải của họ, phong cách sống của họ. Bởi
ghen tị này, Adolf Hitler đã cai quản ngay cả những người Đức thông minh nhất để
hành động như con vật.
Adolf Hitler một mình
đã giết ba mươi triệu người. Và bây giờ vũ khí Adolf Hitler dùng chỉ là đồ chơi
cho trẻ con.
Trong bốn mươi năm qua
công nghệ chiến tranh đã phát triển nhiều thế... và nó vẫn trong tay của những
người như Ronald Reagan. Nó đang trong tay của mọi chính khách, và chính khách
là những người ốm yếu về tâm lí. Chính ham muốn quyền lực là ốm yếu.
Người mạnh khoẻ muốn
yêu - không sở hữu, không chi phối. Người mạnh khoẻ hân hoan trong cuộc sống -
không cầu xin lá phiếu. Chính những người đang chịu chứng tự ti mới là người muốn
có quyền lực nào đó, để chứng tỏ cho mình và những người khác rằng họ là cao
siêu. Người cao siêu thực không bận tâm tới thứ như quyền lực. Người đó biết sự
cao siêu của mình, người đó sống trong sự cao siêu của mình. Trong bài ca của
mình, trong điệu vũ của mình, trong thơ ca của mình, trong tranh vẽ của mình,
trong âm nhạc của mình, người đó sống sự cao siêu của mình. Chỉ người kém cỏi bị
bỏ lại cho chính trị.
Điều Đạo Nguyên đang
nói là, "Đừng bỏ bầu trời của bạn, đừng bỏ nước của bạn, đừng bỏ bản tính
của bạn. Đừng bỏ sự tồn tại. Bởi vì một khi bạn bỏ nó thì bạn chỉ là cái xác đi
quanh."
Trong thế giới con người,
có công phu và chứng ngộ, hay cuộc đời dài và cuộc đời ngắn. Điều này cũng là
trạng thái thực của mọi vật.
Đừng lo nghĩ rằng bạn
không chứng ngộ.
Đạo Nguyên là thiên tài
độc đáo. Ông ấy đang nói, "Các ông có thể nhận biết về phật tính của mình
hay không nhận biết về phật tính của mình - đừng lo. Khi đúng thời điểm và đúng
mùa vụ tới các ông sẽ nở hoa thành phật." Đợi đi... đợi một cách thông
minh, đợi không ham muốn, tận hưởng việc chờ đợi, làm cho bản thân việc chờ đợi
thành im lặng phúc lạc, và bất kì cái gì là quyền tập ấm của bạn thì nhất định
sẽ nở hoa. Không ai có thể ngăn cản chim không cho bay, không ai có thể ngăn cản
chim cu cu hót, không ai có thể ngăn cản hoa hồng nở. Ai ngăn cản bạn không cho
thành phật? Ngoại trừ bạn, không ai chịu trách nhiệm cho điều đó.
Dẫu sao đi chăng nữa, nếu
chim hay cá cố đi qua bầu trời hay nước sau khi biết nó hoàn toàn, chúng vẫn sẽ
không tìm ra cách nào để đi hay không tìm ra chỗ nào để đạt tới.
Nếu bạn đi vào thế giới
bên trong của mình và vào bầu trời bên trong của mình thì bạn sẽ không tìm thấy
con đường nào hay chỗ kết thúc nào. Bạn sẽ thấy cái vĩnh hằng vô tận, cuộc hành
hương không có bắt đầu và không có kết thúc... sự bất tử, việc không chết bỗng
nhiên biến đổi bạn toàn bộ mà chẳng nỗ lực gì, chẳng khổ hạnh gì, chẳng tự hành
hạ mình gì. Bạn đã là cái bạn muốn là, chỉ một điều nhỏ bé bị bỏ lỡ - rất nhỏ
bé. Thức dậy đi! Trong việc thức của mình bạn là phật. Trong giấc ngủ của mình
bạn vẫn còn là phật, nhưng bạn không nhận biết về điều đó.
Khi một người trở thành
phật người đó biết rằng mọi người khác cũng là phật. Ai đó đang ngủ, ai đó đang
ngáy, ai đó đang theo đuổi đàn bà, ai đó đang làm điều ngu xuẩn nào đó khác -
nhưng phật là phật. Cho dù bạn đang hút thuốc, điều đó không có nghĩa là bạn đã
đánh mất điều tinh tuý của mình; nó chỉ biểu lộ giấc ngủ của bạn chứ không gì
khác.
Một nhà thơ đã viết:
Nắm giữ, người ta lạc lối
trong cái không;
Buông bỏ, người ta thu
lại cội nguồn.
Buông bỏ, thảnh thơi, lắng
đọng vào bản thân mình, người ta thu lại cội nguồn.
Từ khi âm nhạc dừng lại
không cái bóng nào
chạm cửa nhà tôi:
Trăng làng lại ở trên
sông.
Thậm chí khi bạn trở
nên chứng ngộ, chỉ cái nhìn của bạn thay đổi, mọi thứ khác vẫn còn như cũ. Tất
nhiên, hoa hồng đẹp hơn nó vẫn vậy. Chỉ bởi vì tất cả bụi bặm trên tấm gương của
bạn bị loại đi, thế giới lại trở thành thiên đường. ... Cửa nhà tôi: trăng làng
lại ở trên sông... phản chiếu trên sông.
Bạn càng trở nên sạch
các ý nghĩ, cái vốn là bụi bặm, thì bạn càng trở nên phản chiếu. Và cái ngày bạn
có thể phản chiếu toàn thể sự tồn tại trong sự thuần khiết của nó thì bạn đã về
tới nhà.
Một bài thơ khác:
Vục nước, và
trăng trong tay;
cầm hoa, và
quần áo đượm hương.
Đây là điều gì đó cực
kì đẹp. Thiền nói ngôn ngữ của thơ ca. Điều nhà thơ đang cố gắng nói là ở chỗ nếu
bạn bắt gặp phật - bạn có thể biết điều đó hay không biết - hương thơm nào đó của
phật và sự hiện diện của ông ấy sẽ bị con người bạn bắt giữ lấy.
Một thực hành thông thường
trong Thiền là người tìm kiếm liên tục đi từ thầy nọ sang thầy kia cho tới một
khoảnh khắc họ tìm thấy một người mà chính sự hiện diện của người đó đáp ứng
cho họ; trong sự hiện diện của người đó tất cả mọi mặt nạ của họ và mọi phòng
thủ đều sụp đổ; trong sự hiện diện của người đó họ đột nhiên trở thành trần trụi,
như mới sinh, hồn nhiên. Thế thì đây là dấu hiệu rằng bạn đã tìm thấy thầy của
mình.
Basho2 đã viết:
Nô đùa
hát cả ngày,
và ngày không dài nữa.
Ông ấy đang nói rằng bạn
làm việc cả ngày, cả đời, chẳng bao giờ biết sự huy hoàng của con người mình bởi
vì công việc của bạn - cái gọi là những hoạt động trần tục - choán hết thời
gian của bạn. Cuộc sống ngắn thế, bảy mươi năm trôi qua nhanh chóng thế... Bạn
thậm chí không biết khi nào thời thơ ấu của mình trở thành thời thanh niên, bạn
không biết khi nào thời thanh niên của mình biến mất và bạn trở thành già, bạn
không biết rằng bạn đang liên tục đi tới nấm mồ. Bất kì điều gì bạn làm, nấm mồ
đang lại gần hơn.
Nhớ lấy, cuộc sống ngắn
ngủi, nhưng nó đã trở thành quá ngắn bởi vì hoạt động không cần thiết của bạn.
Tôi ngạc nhiên với những người chơi cờ hay chơi bài, hay đi xem phim. Và nếu bạn
hỏi họ, "Các bác đang làm gì đấy?" họ nói họ đang giết thời gian. Cứ
dường như quá nhiều thời gian, vô dụng, đã được trao cho họ và họ đang giết nó
đi bằng cách chơi bài. Nhìn những người đang nghiêng mình bên bàn cờ cứ dường
như đó là cuộc sống của họ, đứng sắp hàng trước rạp chiếu phim...
Tôi vẫn biết một người...
người đó là bố của một trong những bạn tôi. Trong làng tôi chỉ có mỗi một phòng
chiếu phim. Tôi thấy ông già đó đi tới rạp chiếu phim hàng ngày, vào đích xác
cùng một giờ. Và bộ phim này được chiếu ít nhất là năm hay bảy ngày, hay nhiều
hơn thế. Nó chẳng phải là chỗ to lớn gì. Nhưng ông ấy đều tới đó hàng ngày
trong cả bảy ngày.
Cuối cùng tôi phải làm
gián đoạn ông ấy. Tôi nói, "Thế này thì quá lắm. Bác có điên không? Bác cứ
đi xem cùng một phim cả bảy ngày."
Ông ấy nói, "Làm
sao để giết thời gian? Bác về hưu rồi, chỉ đợi chết thôi. Bác nghĩ chẳng thành
vấn đề gì cả, thêm một ngày nữa... Đi xem phim. Người ta còn định làm gì khác
khi người ta về hưu?"
"Và đằng nào cũng
vậy," ông ấy nói, "mọi người đều đang làm cùng một việc lặp đi lặp lại
mãi, cho nên đừng cho rằng bác gàn."
Tôi nói, "Không,
bác không gàn, bác chỉ là một hạng người của toàn nhân loại này."
Tôi đã nghe nói về một
người ở California - Avirbhava, chú ý - anh ta đã lấy vợ mười lần. Bởi vì ở California
sự gàn dở của con người đã lên tới đỉnh cao. Mọi cuộc điều tra đều chỉ ra rằng
mọi thứ ở California đều kéo dài nhiều nhất là ba năm. Mọi thứ đều theo mốt:
hôn nhân, công việc, thành phố, nhà cửa, xe cộ - mọi thứ. Trong vòng ba năm người
ta phát chán, muốn đổi sang cái gì đó khác.
Và người này đã lấy vợ
mười lần. Lần thứ mười, sau hai ngày, người đó nhận ra, "Người đàn bà này
hình như là người mình đã lấy trước đây."
Thực ra tất cả mọi đàn
bà đều chỉ là các nhãn hiệu xe khác nhau - chỉ là nắp đậy ô tô khác nhau. Ai đó
có mũi lõ hơn, ai đó có mũi tẹt hơn... Nhưng điều kì lạ là mọi người cứ thám hiểm
đi thám hiểm lại cùng một lãnh thổ mãi. Và dầu vậy họ cứ cho là mình lành mạnh.
Một bài thơ Thiền khác:
Gió ngớt,
Hoa rụng;
chim kêu,
núi lặng
sâu lắng.
Đây là kinh nghiệm về
thiền, đã trở nên được cô đọng trong bài cú.
Gió ngớt,
Hoa rụng;
chim kêu,
núi lặng
sâu lắng.
Đây phải là con người của
thiền... ngồi im lặng bên cạnh núi, ngắm nhìn bất kì cái gì đang xảy ra. Về bản
chất, thiền là trở thành người quan sát trên núi.
Maneesha đã hỏi:
Thưa Thầy kính yêu của
chúng tôi,
Cũng đủ dễ để cảm thấy
sự hài lòng toàn bộ trong sự hiện diện của Thầy và tận hưởng chứng ngộ của Thầy;
cũng đủ dễ để tự mình làm việc trong trạng thái hoảng hốt về điều chúng tôi phải
làm để nhận ra chứng ngộ riêng của mình.
Liệu có nghệ thuật sống
cùng thầy để có sự mãn nguyện và niềm khát khao đồng thời chạy như dòng chảy ngầm
qua người ta không?
Maneesha, một kinh nghiệm
thôi là đủ, nó kéo dài vĩnh viễn. Tôi không nói tới kinh nghiệm trí tuệ. Bạn có
thể cảm thấy về mặt trí tuệ rằng bạn đã thảnh thơi. Khi tôi đưa bạn vào bên
trong, chắc chắn bạn nhắm mắt lại. Nhưng khi tôi nói với bạn, "Im lặng,"
tâm trí bạn vẫn cứ tiếp tục, vẩn vơ cả nghìn lẻ một thứ. Bạn cảm thấy im lặng
nào đó... nhưng nó sẽ bị mất. Và khi tôi nói với bạn, "buông bỏ," bạn
cố gắng, nhưng bạn cố gắng rất cẩn thận. Bạn nhìn cả hai bên, bạn đang ngã vào
ai, liệu có đáng ngã không. Bạn thật cẩn thận để đừng làm gãy xương. Nhưng
chính trong cẩn thận này bạn bỏ lỡ vấn đề buông bỏ.
Chứng ngộ đáng hơn việc
gãy xương nhiều. Khi bạn buông bỏ, buông bỏ đi. Khi bạn cười, thế thì trở thành
tiếng cười. Khi bạn im lặng, là im lặng. Khi tôi nói, "Đi vào" - tìm
việc đi vào. Quên thân thể và quên thế giới đi.
Tôi thậm chí còn bảo bạn
chết đi. Bạn làm mọi nỗ lực, nhưng để chết đi thì không cần tới nỗ lực nào cả.
Bạn chỉ nằm ra đó đợi tiếng trống của Nivedano để cho bạn có thể dậy lần nữa. Không
một người nào vẫn còn chết chỉ một chốc lát nữa, mọi người ngay lập tức... đó tất
cả là trí tuệ. Nếu đó không phải là trí tuệ, thì mọi ngày chúng ta sẽ phải gọi
xe cứu thương bởi vì chỗ này sẽ trở thành nấm mồ. Nhưng không ai chết cả. Trên
toàn thế giới mọi người đang chết, ngoại trừ trong Phòng Phật này nơi chúng ta
đang cố gắng chết đi mọi ngày. Ngược lại, bạn trở lại mạnh khoẻ hơn, cường
tráng hơn.
Maneesha, điều bạn cảm
thấy vẫn là trí tuệ. Bạn đủ thông minh để cảm thấy nó, nhưng trí tuệ không định
cho bạn kinh nghiệm đúng; nó phong toả. Bạn không cần cố gắng dùng tâm trí,
theo bất kì cách nào. Để cho nó xảy ra một cách tự phát đi. Bạn đơn giản liều
mình một cách toàn bộ. Thế thì cho dù bạn chết, điều đó có thành vấn đề gì? Một
ngày nào đó bạn sẽ đi tới chết, và hôm nay điều đó là hoàn toàn tốt. Chỉ có bảy
ngày. Bạn sẽ phải chết vào thứ hai, vào thứ ba, vào thứ bảy, vào chủ nhật... Có
thành vấn đề gì?
Nhưng nếu bạn chết thực,
bỏ lại tâm trí và thân thân thể một bên, bạn sẽ đi tới biết cái bất tử của
mình; bạn sẽ thấy sự hư huyễn của cái chết. Cái chết chưa bao giờ xảy ra cả, bạn
chỉ thay hình dạng của mình. Và vài người đã nhận ra điều đó thì thậm chí không
đi vào hình dạng khác, họ đã đi vào trong đại dương vĩnh hằng, vào chính bản
thân sự tồn tại, đánh mất mình hoàn toàn. Đó là cực lạc tối thượng.
Trước khi ai đó chết...
đặc biệt Sardar Gurudayal Singh đang sẵn sàng rồi. Anh ấy đã bỏ lỡ mọi ngày, có
lẽ hôm nay anh ấy sẽ chết. Chúng ta hứa với anh ấy chúng ta sẽ mở hội... đừng
lo nghĩ.
Gorgeous Gloria rất
kích động khi cô ấy lập kế hoạch cho đám cưới sắp tới của mình, với bạn cô ấy,
Sherry Cherry.
"Cậu có biết bí mật
kích dục của Ấn Độ không?" Sherry hỏi.
"Sao, không biết,"
Gloria nói. "Nó là gì vậy?"
"Nó được gọi là
'bhindi cháy,'" Sherry nói. "Và nếu cậu muốn có một đêm tân hôn không
thể quên, thì cho anh ấy ăn một tá bhindis cháy sau buổi lễ."
Một tuần sau, Gloria gặps
Sherry trong siêu thị. "Đêm tân hôn thế nào?" Sherry hỏi.
"Ồ, tốt lắm tớ cho
là vậy," Gloria nói. "Nhưng chỉ tám bhindis là có tác dụng!"
Trong một thị trấn nhỏ ở
Miền Tây hoang dã của Mĩ, Polly Peekin, một khách du lịch trẻ xinh, bị mê mẩn bởi
một người Ấn Độ có vẻ đại trượng phu to lớn. Cô ấy quan sát anh ta và đã để ý rằng
anh ta nói, "May nhé!" cho mọi phụ nữ đi ngang qua.
Cuối cùng, tính tò mò của
Polly nổi lên mạnh hơn cô ấy và cô ấy bước tới anh ta và nói, "Chào
anh."
Anh ta trả lời,
"May nhé!"
"Hay đấy,"
Polly nói. "Tôi cứ nghĩ mọi người Ấn Độ đều nói, 'Thế nào!'"
"Tôi biết thế
nào," anh ta đáp. "Chỉ muốn may!"
Swami Deva Coconut tới
sân bay Bombay cùng con vẹt thân đậu trên vai. Anh ta bị viên hải quan Ấn Độ chặn
lại, ông này nói, "Này, dừng lại! Anh phải trả tiền thuế nhập khẩu con vẹt
kia!"
"Bao nhiêu?"
Coconut hỏi.
"Để tôi xem,"
viên hải quan nói, lật các trang cuốn sổ nhập khẩu của mình ra. "Đây rồi,"
ông ta tiếp tục. "Năm trăm ru pi cho con vẹt sống, một trăm ru pi cho con
vẹt nhồi."
"Này,
Coconut," con vẹt la lên. "Chớ có nhận ý tưởng gàn dở nhé!"
Swami Bharti Barfi, một
trong những đệ tử Ấn Độ của Shree Rajneesh, đang ngồi trên chiếc máy bay của
hãng Air India cùng Shankaracharya của vùng Puri và một số người giúp ông ấy. Họ
bay tại độ cao ba mươi nhăm nghìn bộ qua tiểu lục địa Ấn Độ, thì shankaracharya
bỗng nhiên cảm thấy rất hào phóng.
"Nếu tôi ném tờ một
trăm ru pi này ra ngoài cửa sổ," ông ta nói, "tôi sẽ làm cho một người
harijan rất hạnh phúc."
Một trong những người
giúp việc của ông ấy thêm vào, "Nhưng nếu ông ném ra hai tờ năm mươi ru pi
thì ông sẽ làm cho hai người hạnh phúc."
Và người giúp việc khác
nói, "Thế này, sao không ném ra một trăm tờ một ru pi và làm cho một trăm
người hạnh phúc?"
Đến điểm đó Swami
Bharti Barfi đứng dậy và nói, "Sao các ông không làm cho chín trăm triệu
người hạnh phúc và tự ném mình ra ngoài cửa sổ?"
Được rồi Nivedano... cho
tiếng trống đầu tiên đi, và mọi người sẽ phát cuồng.
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)
Nivedano...
(tiếng trống)
Im lặng... nhắm mắt lại...
không chuyển động thân thể - Cảm thấy đông cứng. Đi vào bên trong, sâu hơn...
và sâu hơn, giống như mũi tên. Xuyên thấu qua mọi tầng và đâm vào trung tâm của
sự tồn tại của bạn. Im lặng này... An bình này... Bắt đầu khám phá phật bên
trong bạn. Bạn chỉ là hòn đá... những phần không bản chất phải bị tước bỏ đi,
và tượng phật tự nó sẽ lộ ra.
Nivedano...
(tiếng trống)
Thảnh thơi... buông bỏ...
chết đi! Trong khoảnh khắc này, tại chính trung tâm con người bạn, bạn là phật
bất tử. Bạn không phải cầu nguyện. Bạn không phải tôn thờ. Bạn không phải đi tới
bất kì đền chùa nào. Bởi vì bạn là ngôi chùa của phật. Nhận ra điều đó và diễn
đạt điều đó trong mọi hành động - duyên dáng của điều đó, cái đẹp của điều đó,
phúc lạc của điều đó, cực lạc của điều đó. Và toàn thể cuộc sống của bạn trở
thành ngọn lửa nhảy múa của niềm vui bất tử. Đây là chiều hướng toàn thể phương
Đông đã tự mình cống hiến trong hàng triệu năm: để khám phá và điểm bất động,
là chính tâm cơn xoáy lốc. Hân hoan trong điều đó, và nhớ tới con đường, cách bạn
đã đạt tới điều đó, để cho bất kì khi nào bạn muốn, bạn nhắm mắt lại và ngay lập
tức phật có đó.
Nivedano...
(tiếng trống)
Quay lại từ cái chết của
bạn... về cuộc sống vĩnh hằng. Ngồi xuống vài khoảnh khắc như phật, trong mọi
huy hoàng và rực rỡ. Những khoảnh khắc này làm cho chỗ này thành nơi quí giá nhất
trên toàn thế giới.
Mười nghìn chư phật tan
chảy và hội nhập vào nhau, như sóng của đại dương. Thế giới đã quên mất ngôn ngữ
này... nó phải được nhắc lại. Mọi người phải trở thành một thông điệp, không phải
nhà truyền giáo. Làm lộ ra phật tính riêng của bạn là đủ để đánh thức mọi người
quanh bạn. Niềm vui của bạn, phúc lạc của bạn, phúc lành của bạn phải được chia
sẻ. Bạn càng chia sẻ nó nhiều, bạn càng có nó nhiều.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Thầy kính
yêu.
Chúng ta có thể mở hội
hội ngộ của mười nghìn chư phật được chứ?
Vâng, thưa Thầy kính
yêu.
Xem Tiếp Chương 4 –
Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá