Read more
(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)
Thiền - Truyền Trao Đặc Biệt – Osho
Bài Nói Về Thiền
Chương 3. Cửa Trống Là Mở Rộng
Nghe hoặc Tải MP3 'Thiền - Truyền Trao Đặc Biệt' ê
Thiền sư Shen Tsan được
chứng ngộ qua Bách Trượng. Thế rồi ông ấy trở về tu viện nơi ông ấy đã được
phong phẩm vị bởi "thầy giáo đầu tiên", nhà sư đã nuôi nấng ông ấy lớn
lên từ thời thơ ấu và, vào lúc đó, đã là một người rất già.
Một hôm Shen Tsan
giúp thầy giáo già tắm. Trong khi kì lưng cho cụ già, ông ấy nói với cụ,
"Đây là ngôi đền đẹp thế, nhưng Phật ở trong nó không linh thiêng chút
nào!"
Thầy già quay lại và
nhìn ông ấy, và rồi Shen Tsan bình luận, "Mặc dầu phật không linh thiêng,
ông ấy vẫn có thể toả sáng."
Lần nữa, một hôm,
trong khi ông già này đang đọc kinh gần cửa sổ được dán giấy, một con ong cố gắng
tuyệt vọng, với mọi sức lực của nó, để bay ra khỏi căn phòng qua giấy dán đó
nhưng không thể nào qua được. Shen Tsan, nhìn thấy điều này, nói, "Thế giới
bao la và rộng tới mức mày có thể dễ dàng để bản thân mày tự do trong nó. Vậy
thế tại sao mày cứ cố một cách ngu xuẩn để lách qua giấy cũ mục thế?"
"Trong khi cửa trống
đang mở rộng thật ngu xuẩn làm sao mà đi cố gắng và thoát ra bởi việc chui qua
cửa sổ đó!
Hỡi ôi! Làm sao thầy,
thưa thầy, có thể ngẩng đầu trên bãi lầy bằng việc chúi mũi vào những tờ giấy
cũ kĩ mục nát đã cả trăm năm rồi?"
Nghe thấy nhận xét
này, ông già đặt cuốn sách xuống và nói với Shen Tsan, "Mới vài lần tới giờ,
ông đã nên ra những nhận xét bất thường. Ông đã thu nhận tri thức từ ai trong
khi ông ở xa nhà?"
Shen Tsan đáp,
"Tôi đã đạt tới trạng thái của nghỉ ngơi an bình qua ân huệ của thầy Bách
Trượng. Giờ tôi đã trở về nhà để báo đáp công ơn thầy."
Thầy giáo già tiếp đó
chuẩn bị một lễ hội lớn để tôn vinh đệ tử trẻ của mình, triệu các sư trong tu
viện tới phòng hội họp, và đề nghị Shen Tsan giảng pháp cho mọi người. Và rồi
Shen Tsan đi lên chỗ ngồi cao nhất và, theo truyền thống của Bách Trượng, đã giảng
như sau:
"Việc toả sáng
khác thường là ánh sáng đẹp lạ lùng tự do khỏi tù túng của vật chất và giác
quan.
Không bị gắn bởi lời
và chữ, điều bản chất được phơi bày trần trụi trong tính vĩnh hằng thuần khiết
của nó.
Không bao giờ bị ô uế
là bản tính-tâm; nó tồn tại trong sự hoàn hảo từ chính lúc bắt đầu.
Bằng việc đơn thuần vứt
đi ảo tưởng của các ông, tính như vậy của phật tính được nhận ra."
Ngay khi thầy giáo
già nghe đoạn thơ này, ông ấy lập tức thức tỉnh.
Một người gọi điện tới
bệnh viện tâm thần và hỏi, "Ông có thể nói cho tôi ai đang ở trong phòng số
12 được không, làm ơn đi?"
"Không có ai
trong phòng đó, thưa ngài," lời đáp đưa tới.
"A tốt quá, điều
đó có nghĩa là tôi đã thoát rồi!"
Con người là tuyệt đối
vô nhận biết về bản thể riêng của mình. Người đó biết mọi thứ khác, người đó cố
gắng biết mọi thứ khác - ngoại trừ cái ta riêng của mình, bởi lẽ đơn giản rằng
người đói tự coi mình là đương nhiên có đó. Người đó nghĩ dường như người đó biết
bản thân mình. Và có lỗi lầm nền tảng, sai lầm nền tảng nhất mà người ta có thể
phạm phải.
Chúng ta hiện hữu,
nhưng chúng ta không biết chúng ta là ai. Tên của chúng ta lừa chúng ta: chúng
cho chúng ta cảm giác chắc chắn nào đó dường như đây là điều chúng ta là vậy.
Thân thể của chúng ta, được phản ánh trong gương, mặt chúng ta, được phản ánh
trong mắt mọi người, liên tụ cho chúng ta ý tưởng nào đó về căn cước của mình.
Dần dần, dần dần chúng ta thu thập mọi thông tin này và tạo ra hình ảnh của bản
thân mình điều hoàn toàn là giả. Đây không phải là cách để biết bản thân mình.
Người ta không thể biết tới bản thân mình bằng việc nhìn vào gương vì gương chỉ
có thể phản xạ thân thể bạn - và bạn không phải là thân thể. Bạn ở trong thân
thể, nhưng bạn không là thân thể. Hành vi của bạn, tính cách của bạn, hành động
của bạn có thể chỉ ra tâm trí bạn, nhưng không chỉ ra bạn.
Có một trường phái
tâm lí học, một trong những trường phái quan trọng nhất, có tên là trường phái
hành vi chủ nghĩa. Họ nghĩ con người là hành vi của mình: bạn không là gì ngoài
tính toàn bộ của hành động của bạn, cho nên nếu hành động của bạn có thể được
hiểu thì bạn được hiểu. Con người là nhiều hơn, nhiều hơn nhiều việc là tổng cộng
các hành động của mình; con người không chỉ là hành vi của mình. Con người là
tâm thức bên trong nhất của thân thể mình, của tâm trí mình, của hành động của
mình.
Chừng nào bạn chưa trở
nên có ý thức về tâm thức của bạn, chừng nào bạn chưa trở nên nhận biết về ánh
sáng bên trong của bạn, bạn liên tục sống trong ảo tưởng. Và chúng ta nhớ mãi
các ảo tưởng vì chúng là rẻ, dễ dàng có sẵn; chúng chẳng tốn kém gì, và chúng
có thể được người khác trao tay lại cho chúng ta.
Khám phá bản thân
mình là gian truân: nó là việc đi vào cuộc thám hiểm lớn lao nhất. Đi lên mặt
trăng là dễ hơn, đi lên đỉnh Everest là dễ hơn. Đi vào trung tâm riêng của người
ta là khó hơn nhiều - bởi lẽ đơn giản là bạn sẽ phải du hành một mình, tất cả một
mình. Như một trong những nhà huyền môn Hi Lạp vĩ đại, Plotinus, nói, "Đó
là chuyến bay của một mình tới một mình."
Đó là lí do tại sao rất
ít người đã trở nên chứng ngộ, trong khi việc trở nên được chứng ngộ thực sự là
quyền tập ấm của mọi người. Và ngay cả đôi khi, bởi ngẫu nhiên nào đó, mọi người
trở nên quan tâm tới việc biết về bản thân họ, họ lập tức trở thành nạn nhân của
lời - các lí thuyết, triết lí, ý thức hệ. Họ trở thành nạn nhân của kinh sách,
học thuyết, giáo điều; lần nữa họ bị lạc trong rừng rậm các lời. Vâng, bạn sẽ
thấy những lời nói hay có đó, hàm chứa mênh mông với nghĩa, nhưng nghĩa đó sẽ vẫn
còn bị giấu kín với bạn; bạn sẽ không có khả năng khám phá nó. Bạn đã không có
khả năng khám phá ra bản thân bạn; bạn không thể khám phá ra nghĩa của lời của
Phật Gautam hay Jesus Christ hay Mahavira Jaina - không thể được. Bạn có thể hiểu
chỉ chừng nấy điều bạn đã kinh qua; việc hiểu không bao giờ đi ra ngoài kinh
nghiệm của bạn. Lời bạn có thể tích luỹ, bạn có thể trở thành học giả, học giả
lớn. Và lần nữa bạn sẽ ở trong một loại ảo tưởng mới: ảo tưởng mà thông tin tạo
ra. Bạn càng có nhiều thông tin, bạn càng bắt đầu cảm thấy bạn biết.
Thông tin được coi là
đồng nghĩa với việc biết - nó không phải vậy. Việc biết là chuyện khác toàn bộ.
Việc biết là việc kinh nghiệm; thông tin chỉ tích luỹ trong hệ thống bộ nhớ.
Máy tính có thể làm được điều đó, không có gì đặc biệt về nó; không có gì đặc
biệt có tính người về nó.
Một hôm hai con chuột
to bước đi trong rạp chiếu phim và đi thẳng với phòng chiếu phim. Một khi ở bên
trong chúng ăn toàn bộ cuộn phim. Sau khi ăn, con chuột này nhìn con chuột kia
và hỏi, "Mày có thích phim không?"
Với câu hỏi đó con
kia đáp, "Không, tao thích sách hơn."
Đây là các học giả -
chuột! Họ liên tục ăn lời, họ liên tục tích trữ lời. Họ có thể có hàng núi lời
và họ trở nên rất thạo nói về lời. Họ có thể lừa người khác; điều đó không tệ
thế vì họ có thể lừa chỉ những người đã bị lừa; bạn không thể gây hại nhiều hơn
cho họ. Nhưng bằng việc lừa người khác dần dần, dần dần bản thân họ trở nên bị
thuyết phục, và đó là vấn đề lớn nhất.
Chín mươi chín phần
trăm cái gọi là những người tôn giáo - thánh nhân, mahatmas - chỉ là học giả.
Khi có liên quan tới lời họ rất tài giỏi, nhưng nếu bạn nhìn sâu vào trong mắt
họ bạn sẽ thấy chỉ cùng những người ngu xuẩn. Không cái gì đã thay đổi.
Hôm nọ tôi đã đọc một
phát biểu của Abdul Ghaffar Khan; ông ta nổi tiếng là người Gandhi tiên phong.
Ông ấy được coi là một trong những đệ tử thân cận nhất của Mahatma Gandhi. Ông
ta chín mươi tư tuổi. Ông ta đã cống hiến cả đời mình cho triết lí bất bạo hành
- và phát biểu mà ông ta đã nêu là bạo hành tới mức ngay cả tôi cũng bị giật
lùi lại. Tôi không nghĩ rằng ông ta sẽ làm điều ngu xuẩn thế ở tuổi già thế. Và
phát biểu này được đưa ra trước Vinoba Bhave; họ đã gặp gỡ và đã có cuộc họp
báo. Bây giờ cả hai là những người đi theo lớn nhất của Mahatma Gandhi và những
người thuyết giảng về bất bạo hành trên thế giới.
Người Gandhi tiên
phong được một nhà báo hỏi, "Ông nói gì về Z.A. Bhutto người đã bị xử tử
hình? Ông đã không cố gắng cứu ông ấy sao? - vì ông tin vào bất bạo hành?"
Ông ta trở nên bực bội.
Mắt ông ta trở nên đỏ với giận dữ và ông ta nói, "Thằng đó là kẻ tội nhân!
Nó cần phải bị thiêu sống chỗ công cộng!"
Ông ta đã hoàn toàn
quên mất về triết lí của bất bạo hành. Ông ta không hài lòng chỉ bằng việc giết
ông ấy; ông ta muốn ông ấy phải bị thiêu sống, chỗ công cộng. Không bị giết
trên giá treo cổ hay bị bắt - điều đó là quá nhân từ - mà thiêu sống, vì ông ấy
là tội nhân.
Bây giờ, người này có
phải là con người của bất bạo hành không? Thế thì Jesus phải đã sai khi ông ấy
cầu nguyện Thượng đế: "Cha ơi xin tha thứ cho tất cả những người này, người
đang đóng đinh con, vì họ không biết họ đang làm gì. Họ là những người vô ý thức;
họ đang làm điều đó một cách rất vô ý thức."
Jesus là con người của
bất bạo hành, không phải Abdul Ghaffar Khan. Ông ta đã bỏ lỡ ở đâu? Ông ta đã
trở thành đầy những lời hay ho, nhưng chúng đã không biến đổi tâm thức của ông
ta. Và Vinoba Bhave đã không phản đối chút nào; điều đó nghĩa là đồng ý. Ông ấy
đã hiện diện ở đó; ông ấy có thể đã nói, "Ông nói gì vậy? Ít nhất đấy
không phải là tính chất Gandhi." Ông ấy đã không phản đối điều đó. Im lặng
của ông ấy chỉ ra sự đồng ý của ông ấy.
Đây là điều đã xảy ra
cho hàng triệu người trên khắp thế giới. Người Ki tô giáo đã từng giết hàng
nghìn người nhân danh Christ, với Kinh Thánh trong tay, sát hại, tàn sát. Người
Mô ha mét giáo đã từng làm cùng điều đó, người Hindu đã làm cùng điều đó.
Khó mà biết bao nhiêu
sư Phật giáo đã bị người Hindu thiêu ở Ấn Độ vì lịch sử Ấn Độ không tồn tại
chút nào, không ai đã bận tâm viết sử. Nhưng hàng nghìn sư Phật giáo đã bị
thiêu sống, theo cách Abdul Ghaffar Khan muốn thiêu Z.A. Bhutto. Hàng nghìn Phật
tử đã bị thiêu sống - bằng không làm sao tất cả họ đã biết mất khỏi nước này?
Tác động của Phật lớn thế, hàng triệu người đã chuyển thành Phật tử. Thế thì
cái gì đã xảy ra cho tất cả họ? Thế thì tại sao họ chạy khỏi nước này? Và bất
kì ai còn lại sau đều bị giết.
Và người Hindu nói về
bất bạo hành, tình yêu, tình bạn, tình yêu vũ trụ, tình yêu thiêng liêng. Khi
có liên quan tới lời, mọi người đều rất tài giỏi và họ có thể liên tục soạn ra
trên những lời này, triết lí hoá. Họ có thể đi vào những điều tinh vi sâu; họ
có thể làm những phân biệt rất tinh vi, nhưng tâm thức của họ vẫn còn không bị ảnh
hưởng.
Một ni cô trẻ tới nữ
tu viện, thở hổn hển và khóc, "Mẹ ơi, Mẹ ơi, cái gì đó khủng khiếp đã xảy
ra!"
"Cái gì vậy, con
ta?" Mẹ bề trên hỏi, thấy quan tâm.
"Một kẻ điên, Mẹ
ơi - một kẻ điên về dục đã cưỡng hiếp con!"
"A không, con
gái, a không! Điều đó xảy ra khi nào?"
"Hôm qua, hôm
kia, và lại hôm nay!"
Bạn có thể áp đặt
tính cách lên mọi người, nhưng bạn không thể tưởng tượng được tâm thức. Tâm thức
phải được khám phá. Những người này thậm chí có thể đạt tới cõi trời, nhưng họ
sẽ tạo ra cõi trời của riêng họ, họ sẽ sống trong thế giới riêng của họ. Họ sẽ
lặp lại cùng thế giới này ở đó. Nếu những người này - người Hindu, người Mô ha
mét giáo, người Ki tô giáo, những sư và ni này và những mahatma này và các
thánh nhân, người Cơ đốc giáo và người Tin lành - nếu đây là những người sẽ lên
cõi trời, cõi trời không thể là cái gì khác với thế gian này. Cùng những cuộc
thảm sát, cùng những cuộc chiến tranh, mọi loại ngu xuẩn sẽ tiếp diễn, sẽ tiếp
tục. Nó sẽ chỉ là việc lặp lại, có thể trên qui mô rộng hơn, qui mô lớn hơn, phức
tạp hơn, nhưng nó không thể khác về chất được.
Anh thanh niên
Barrington-Smythe vừa mới tới Ngọc Môn. Thánh Peter đón chào anh ta và nói cho
anh ta về cuộc sống xã hội của cõi trời. "Chúng tôi chơi nhiều kiểu thể
thao ở đây, anh bạn trẻ" thánh Peter nói. "Thứ hai và thứ năm đó là
môn polo, còn thứ ba và thứ sáu thì cricket."
"Tốt, thực tại vậy,
thưa ngài," anh thanh niên trả lời, "tôi không thích thể thao mấy."
"Được, thế thì
có lẽ anh sẽ tận hưởng đêm thứ tư," thánh Peter gợi ý. "Có bữa tối thịnh
soạn. Sau bữa ăn khi đã qua tuần rượu vài vòng, chúng ta thực sự để xoã tóc xuống,
ta có thể nói với anh như vậy!"
"Thực tại thưa
ngài, tôi không thích uống rượu," anh thanh niên đáp.
"À," thánh
Peter nói. Thế rồi sau im lặng ngắn ông ấy gợi ý, "Thế thì anh sẽ tận hưởng
đêm thứ bẩy. Chúng tôi có khiêu vũ với nhiều bà trẻ từ quanh đây. Nhiều cách xử
sự, nếu anh biết ta ngụ ý gì!"
"Thực tại thưa
ngài," anh thanh niên nói, "tôi không thực sự thích thú bầu bạn với
các bà trẻ."
Sau khi dừng hồi lâu
thánh Peter hỏi, "Barrington-Smythe, anh không ngẫu nhiên là đồng dục chứ?"
"Ồ không thưa
ngài!"
"Đáng
thương," thánh Peter nói, "anh sẽ không tận hưởng được đêm chủ nhật nữa!"
Cùng người đó sẽ được
đưa tới cõi trời, tới thiên đường; nó sẽ không khác biệt gì chút nào. Vấn đề
không phải là đi tới cõi trời, vấn đề là không tìm Thượng đế chút nào. Vấn đề
là biết "Ta là ai?" Từ đó tiến hoá thực bắt đầu - chỉ từ đó và không
từ chỗ nào khác cả.
Thiền là phương pháp
hay nhất đã từng được khám phá để đi vào trong cốt lõi bên trong nhất của bản
thể bạn. Nó không tin vào tính cách, nó chỉ tin vào tâm thức. Bằng việc thay đổi
tâm thức của bạn, tính cách của bạn đang bị đổi một cách tự động, nhưng bằng việc
đổi tính cách của bạn, tâm thức của bạn không được thay đổi theo cùng cách. Thực
ra, tâm thức của bạn trở nên bị kìm nén nếu bạn thay đổi tính cách của bạn. Do
đó nhị nguyên, chia chẻ được tạo ra. Tâm thức của bạn vẫn còn là một kiểu, tính
cách của bạn thuộc kiểu khác, và chúng trở thành không được bắc cầu. Bạn trở
thành hai người hay nhiều người, thậm chí vậy. Bạn trở thành đa linh hồn, bạn
trở thành đám đông. Thay vì đi tới nghỉ ngơi, thay vì đi tới im lặng sâu sắc,
thay vì trải nghiệm an bình, bạn trở nên thần kinh hơn, ồn ào hơn. Bạn đánh mất
mọi hài hoà bên trong, mọi hoà hợp.
Đó là điều xảy ra cho
cái gọi là nhà đạo đức: họ đơn giản liên tục làm việc vá víu từ bên ngoài; họ
liên tục quét vôi trắng mọi người. Jesus đã gọi việc quét vôi trắng này là
'quét vôi trắng nấm mồ'. Bên trong là cái xác bốc mùi và bên ngoài bạn đã quét
vôi trắng nó. Từ bên ngoài nấm mồ có vẻ đẹp; bạn thậm chí có thể để hoa hồng
lên nó, bạn có thể trồng hoa trên nấm mồ, cỏ nữa. Bạn có thể làm cho nó có vẻ đẹp,
nhưng bên trong nó chỉ là nấm mồ.
Và đó là tình huống của
con người. Và toàn thể việc này đã xảy ra vì chúng ta đã tin quá nhiều vào tính
cách. Chúng ta có thể biết, chúng ta có thể không biết. Chín mươi chín phẩy
chín phần trăm mọi người của thế gian này đều là những người theo hành vi chủ
nghĩa - bất kì cái gì họ nói đều không thành vấn đề. Nếu bạn nhìn sâu xuống họ
thuộc vào trường phái của Pavlov và Skinner; tất cả họ đều tin vào chủ nghĩa
hành vi. Tất cả họ đều tin rằng khi hành vi của bạn có thể được thay đổi, thế
thì bạn được thay đổi vì bạn không là gì ngoài hành vi của bạn. Họ có thể không
nói vậy, họ thậm chí có thể không nhận biết về niềm tin nền tảng của họ, nhưng
đó là cách xã hội đã sống mãi cho tới giờ. Xã hội này không có tính tôn giáo.
Con người tôn giáo còn chưa tới, xã hội tôn giáo còn chưa xảy ra, nền văn hoá tôn giáo còn chưa có trong tương lai - đang ở đường chân trời, nhưng chúng ta phải mang nó tới; nó đã không xảy ra. Nó đã xảy ra trong vài hoàn cảnh cá nhân đây đó, nhưng những người đó có thể được đếm trên đầu ngón tay.
Đây là câu chuyện cực
kì hay. Đi vào trong nó một cách rất có tính thiền đi vì từng câu đều hàm chứa
những kho báu lớn lao.
Thiền sư Shen Tsan được
chứng ngộ qua Bách Trượng.
Điều đầu tiên là biết
tới khác biệt giữa thầy và thầy giáo. Thiền làm phân biệt rất rõ ràng: thầy
giáo là người dạy bạn; thầy giáo có thể đã không biết tới bản thân ông ấy nhưng
ông ấy đã nghiên cứu. Ông ấy là học giả, ông ấy biết kinh sách. Ông ấy có thể
giúp bạn đi vào trong thế giới sách vở; ông ấy có thể giới thiệu bạn vào trong
tính rắc rối của triết lí, ý thức hệ, học thuyết. Ông ấy có thể cho bạn giáo dục,
thông tin, nhưng ông ấy không thể đem biến đổi tới cho bạn được.
Thầy là người đem tới
biến đổi cho bản thể bạn, người giúp bạn tìm ra ánh sáng riêng của bạn. Công việc
của thầy giáo là trực tiếp; thầy giáo đơn giản truyền bất kì cái gì ông ấy biết
cho bạn. Tri thức là truyền được, trí huệ là không truyền được. Do đó công việc
của thầy là gián tiếp, nó không bao giờ có thể là trực tiếp. Thầy vận hành như
tác nhân xúc tác - sự hiện diện của thầy giúp đỡ. Nó giống như mặt trời lên vào
buổi sáng, và chim bắt đầu hót. Chúng thức dậy, bay quanh, tận hưởng ngày mới,
đón chào ngày mới bằng tiếng hót. Mặt trời đã không làm cái gì trực tiếp với
chúng, nhưng cái gì đó đã xảy ra; một môi trường đã được tạo ra bởi mặt trời
trong đó chim cảm thấy tươi tắn, trẻ trung, sống động. Hoa bắt đầu nở ra. Mặt
trời không đi tới từng hoa và ép buộc nó nở ra - không theo cách trực tiếp đó,
nhưng các tia sáng của nó đang nhảy múa quanh hoa. Nó cho hơi ấm cho hoa, nó
khuyến khích hoa, nhưng theo cách rất tinh tế. Hoa phải đã được xử lí theo cách
thức tinh tế; nếu bạn ép buộc cánh hoa mở ra, bạn sẽ phá huy chúng. Bạn có thể
có khả năng mở chúng ra, nhưng trong chính việc mở này bạn đã giết chết chúng;
chúng sẽ không sống động. Mặt trời đơn giản tạo ra bầu khí hậu trong đó chúng
có thể mở ra, trong đó chúng cảm thấy thích việc mở ra. Một cảm giác bên trong
nảy sinh trong chúng; bản năng bên trong nào đó đồng bộ hoá với hơi ấm của mặt
trời. Và hoa mở ra và chúng bắt đầu toả ra hương thơm.
Đích xác đó là công việc
của thầy. Thầy không thể trao cho bạn điều thầy biết, nhưng thầy có thể tạo ra
trường năng lượng nào đó trong đó cánh hoa của bạn có thể mở ra, trong đó hạt mầm
của bạn có thể được khuyến khích, trong đó bạn có thể thu lấy đủ dũng cảm để lấy
cú nhảy, trong đó bước nhảy lượng tử là có thể.
Do đó, chứng ngộ
không phải là công việc trực tiếp của thầy. Nó xảy ra qua thầy, qua ân huệ của
thầy nhưng không bởi thầy.
Thiền sư Shen Tsan được
chứng ngộ qua Bách Trượng.
Nhớ từ qua - không phải
là bởi.
Thế rồi ông ấy trở về
tu viện nơi ông ấy đã được phong phẩm vị bởi "thầy giáo đầu tiên"…
Lưu ý sự khác biệt.
Bách Trượng được gọi là "Thầy", Shen Tsan được gọi là "Thầy",
nhưng thầy giáo già của ông ấy không được gọi là "Thầy", chỉ là
"thầy giáo", vì ông ấy đã phong phẩm vị cho Shen Tsan trong thế giới
của kinh sách, lí thuyết - các lí thuyết hay nhưng toàn trống rỗng, không có nội
dung.
Đây là nhà sư đã nuôi
nấng ông ấy lớn lên từ thời thơ ấu và, vào lúc đó, đã là một người rất già.
Một hôm Shen Tsan
giúp thầy giáo già tắm. Trong khi kì lưng cho cụ già, ông ấy nói với cụ,
"Đây là ngôi đền đẹp thế, nhưng Phật ở trong nó không linh thiêng chút
nào!"
Từ "linh
thiêng" không bao giờ được các Thiền nhân dùng theo nghĩa Ki tô giáo hay
Hindu. Nó không được dùng theo nghĩa linh thiêng vì với Thiền không có cái gì
là linh thiêng và không có cái gì trần tục. "Linh thiêng" được dùng
theo nghĩa đen của tính toàn thể. Người là toàn thể là linh thiêng, người sống
cuộc sống của tính toàn bộ là linh thiêng. Người sống theo cách phân mảnh, nửa
vời, bị phân chia, vẩn vơ, tan rã, là không linh thiêng. Nó không liên quan gì
tới tính thuần khiết hay không thuần khiết, nhớ lấy. Nó không liên quan gì tới
đức hạnh hay tội lỗi, nhớ lấy. Thiền dùng từ "linh thiêng" đơn giản
có nghĩa là người là toàn thể, người sống từng khoảnh khắc trong tính toàn thể.
Bất kì cái gì người đó đang làm, người đó đều làm một cách toàn bộ. Nếu người
đó ăn, người đó ăn theo cách linh thiêng; nếu người đó ngủ, người đó ngủ theo
cách linh thiêng. Nếu người đó nói, người đó nói theo cách linh thiêng. Nếu người
đó lắng nghe, người đó lắng nghe theo cách linh thiêng. Bất kì cái gì là hành động,
tâm thức người đó đều được tham gia một cách toàn bộ vào trong nó, được cam kết
với nó. Người đó hiện diện một cách đam mê trong hành động của mình. Nếu người
đó im lặng thế thì người đó thực sự im lặng, không chỉ trên bề mặt. Bạn có thể
liên tục đào ngày càng sâu hơn vào trong người đó, nhưng bạn sẽ chỉ thấy im lặng
và im lặng, hết tầng nọ tới tầng kia. Khi bạn đi sâu hơn bạn sẽ thấy các tầng
im lặng dầy hơn. Khi bạn đạt tới chính cốt lõi bạn sẽ không thấy gì ngoài im lặng.
Hương vị của người đó là một.
Phật thường nói,
"Người linh thiêng mang cùng vị, cũng như đại dương. Ông có thể nếm nó từ
bất kì đâu - từ bờ này hay bờ kia, từ bờ hay từ ở giữa - nó bao giờ cũng mặn.
Người linh thiêng cũng vậy."
Người linh thiêng sống
mà không giữ lại; bất kì cái gì người đó làm người đó đều đi một cách toàn bộ
vào trong nó.
Shen Tsan đang tắm
cho thầy giáo già của mình. Vừa cọ lưng, ông ấy nói:
"Đây là ngôi đền
đẹp thế…"
Mọi thân thể đều là
ngôi đền đẹp, tương ứng theo Thiền. Mọi thân thể đều là điện thờ của Thượng đế;
Thượng đế được cất giữ trong mọi người. Bạn không cần đi bất kì đâu khác để tìm
Thượng đế; nếu bạn có thể tìm thấy bản thân bạn, bạn đã tìm thấy Thượng đế.
Ngài đang ẩn nấp bên trong bạn - ngài là phần bên trong của bạn.
"Đây là ngôi đền
đẹp thế," Shen Tsan nói, "nhưng Phật ở trong nó không linh thiêng
chút nào!"
Có thể ông thầy giáo
già đang tắm và cũng nhẩm đọc kinh nữa. Đó là điều các sư Phật giáo làm; họ sẽ
liên tục tắm và nhẩm đọc kinh. Bác học Hindu làm cùng điều này, sannyasin Hindu
làm cùng điều này. Họ sẽ ra dìm mình trong sông Hằng và họ sẽ nhẩm đọc gayatri
và các mật chú khác. Họ bị phân chia! Nếu bạn muốn nhẩm đọc gayatri, thì nhẩm đọc
gayatri đi - quên chuyện tắm đi. Và khi bạn tắm, thì tắm, quên chuyện gayatri
đi. Thế thì để việc tắm này là mật chú duy nhất của bạn.
Ông ấy phải đã nhẩm đọc
mật chú nào đó vì họ nghĩ, "Sao phí thời gian? Mình có thể làm cả hai điều
này." Họ sẽ liên tục ăn và họ sẽ liên tục nhẩm đọc bên trong một mật chú
thiêng liêng nào đó. Sao phí thời gian? Nhưng thế thì bạn đang bỏ lỡ tính toàn
bộ của việc ăn, thế thì bạn không thưởng thức thức ăn. Làm sao bạn có thể làm
được việc đó? Tâm trí có khả năng làm chỉ một thứ mỗi lúc; nó không thể làm hai
thứ cùng nhau - điều đó là không thể được. Nếu bạn ăn, thế thì để toàn thể tâm
thức của bạn là việc thưởng thức đó, là mùi vị đó. Quên mọi thứ đi! Thế thì
ngay cả bánh mì bình thường cũng có thể có vị như thức ăn ngon nhất có thể có.
Nhưng bạn lại không hiện diện.
Nhìn mọi người ăn mà
xem - họ nói chuyện, có những người còn nghe radio hay xem ti vi. Tôi đã nghe
nói về người Mĩ ngu xuẩn ngay cả làm tình vẫn xem ti vi! - nói gì tới ăn? Tại
sao bỏ lỡ? Bạn có thể làm cả hai thứ - bạn có thể làm tình và bạn có thể liên tục
xem ti vi. Bây giờ, bạn sẽ không xem được ti vi mà bạn cũng sẽ không là việc
làm tình; bạn sẽ không có khả năng tận hưởng cái nào, bạn sẽ bỏ lỡ cả hai. Có
những người không thể ăn được nếu họ không có bạn bè để nói chuyện và tán gẫu
và thảo luận. Khi bạn nói bạn liên tục nuốt - việc nuốt không phải là ăn.
Việc ăn nên có tính
thiền, tính cầu nguyện. Bạn nên kính trọng nhiều hơn với thức ăn vì nó là cuộc
sống, nó là chất nuôi dưỡng. Và thế rồi cả nghìn lẻ một vấn đề nảy sinh ra từ
nó. Vì trong khi bạn ăn bạn còn đọc báo hay cãi nhau với vợ hay nghe radio hay
nhìn vào ti vi hay nói chuyện với người bạn hay cầm điện thoại, bạn sẽ bỏ lỡ niềm
vui của việc ăn. Bạn sẽ ăn nhiều vì gai vị giác của bạn sẽ không cảm thấy được
đáp ứng và mãn nguyện. Thế thì bạn sẽ tích chất mỡ không cần thiết trong thân
thể. Thế thì người ta phải bắt đầu ăn theo chế độ, nhịn ăn, thiên nhiên liệu
pháp và đủ mọi loại thứ vô nghĩa theo sau. Nhưng điều đơn giản phải được làm
ngay chỗ đầu tiên là: chỉ ăn và không làm cái gì khác.
Khi Lâm Tế được hỏi,
"Thiền của thầy là gì?" ông ấy nói, "Khi ta ăn ta đơn giản ăn,
và khi ta ngủ ta đơn giản ngủ. Khi ta bước đi ta đơn giản bước đi."
Người đang hỏi nói,
"Nhưng đây là điều tất cả chúng tôi đều làm."
Lâm Tế nói,
"Không, đấy không phải là điều ông làm. Khi ông ăn, ông liên tục làm cả
nghìn lẻ một thứ khác nữa. Ta biết điều đó vì ta đã từng giống như ông trước
khi ta trở nên chứng ngộ. Ta đã sống theo cùng cách điên khùng và ngu xuẩn, cho
nên ta biết cách các ông đang sống. Đừng nói với ta rằng đây là điều mọi người
làm."
Điều ngu xuẩn nhất
trong cuộc sống là sống nửa vời, vì khoảnh khắc trôi qua rồi là trôi qua mãi
mãi. Nhưng mọi người đang sống một cách vô ý thức tới mức gần như không thể nào
để họ có ý thức về điều họ đang làm.
Một anh chàng đi về
nhà từ chỗ làm việc ở khu ngoại ô gần một thành phố Mĩ điển hình. Khu nhà ở
trong một khu vực lớn được bao quanh bởi thảm cỏ đẹp. Trong khi anh ta đang bước
đi, một cơn đau bụng dâng lên. Lúc đó trời đã tối và còn ba khối nhà nữa phải
đi qua, cho nên anh ta quyết định làm nhẹ cơn đau bụng dưới lùm cây bên canh
nhà gần đó. Anh ta đi xong, đứng dậy, kéo khoá quần và nhìn lại công trình của
mình. Ngạc nhiên làm sao! Chả có cái gì. Cỏ vẫn sạch, rất sạch. Để cho chắc anh
ta bật bật lửa thuốc lá lên nhưng chẳng có gì ở đó, cho nên anh ta về nhà lòng
rất phân vân.
Đêm đó anh ta không
thể nào ngủ được vì nghĩ về điều bí ẩn của việc cứt biến mất và khi anh ta thấy
bật lửa của mình bị mất hôm sau anh ra trở lại khu vườn. Anh ta thấy chiếc ìật
lửa nhưng không có dấu vết của cứt.
Đứng thẳng lên, mắt
anh ta gặp ánh mắt của một bà già đang bực minh. "A!" bà ấy kêu lên.
"Vậy ra anh là người đã ỉa lên con rùa của tôi!"
Nếu bạn quan sát cuộc
sống của bạn, bạn sẽ thấy điều bạn liên tục làm. Và điều đó không phải chỉ là vậy
về người thường, mà cả những người bạn gọi là rất phi thường, các thiên tài; họ
cũng vô ý thức như bạn vậy, hay thậm chí còn vô ý thức hơn thế.
Người ta nói về Karl
Marx, người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản, rằng một hôm đang nghiên cứu ở Bảo
tàng Anh lần đầu tiên ông ấy bắt gặp lí thuyết rằng nếu bạn uống hay hút thuốc,
hay bạn dùng bất kì cái gì, bạn có thể tiết kiệm tiền bằng việc dùng nó nhiều
hơn. Chẳng hạn, nếu bạn hút thuốc lá có thương hiệu rất đắt và bạn bắt đầu dùng
thuốc lá rẻ hơn, từng điếu thuốc lá bạn sẽ tiết kiệm được tiền; bạn càng hút
nhiều thuốc lá, bạn sẽ càng tiết kiệm được nhiều tiền. Ông ta đã xúc động.
Ông ta đi ra chợ -
ông ta là cây hút thuốc lá liên tục - ông ta mua loại thuốc lá rẻ nhất, nhiều
nhất ông ta có thể mang được về nhà. Vợ ông ta không thể tin được vào mắt mình:
"Ông ấy đem về nhiều bao thuốc thế - ông ấy định mở cửa hàng hay cái gì
đó?" Bà ấy hỏi, "Có chuyện gì thế?"
Và ông ấy vui thế,
ông ấy nói, "Đợi đã! Giờ không cần làm việc nữa. Chúng ta có thể tiết kiệm
tiền chỉ bằng việc hút thuốc lá ngày một nhiều hơn. Em cũng bắt đầu hút thuốc
đi, và đừng cấm trẻ con hút thuốc. Và bất kì ai tới nhà, để cho họ hút nhiều
như chúng ta hút - nhiều tiền hơn sẽ được tiết kiệm. Với mỗi điếu thuốc lá bao
nhiêu tiền sẽ được tiết kiệm!" Và ông ấy đóng cửa lại và bắt đầu hút thuốc.
Bà vợ nghĩ, "Ông
ấy đã phát rồ rồi. Làm sao ông có thể tiết kiệm được tiền nếu ông cứ liên tục
hút thuốc, chỉ hút thuốc?" Bà ấy gọi bạn của ông ấy, Friedrich Engels, người
đã cố gắng vất vả để tranh biện với ông ấy rằng, "Ông đang ngu xuẩn đấy!"
Phải mất nhiều giờ để ông này thuyết phục ông ấy rằng "Điều này là vô
nghĩa! Ông sẽ chết vì ung thư hay bệnh nguy hiểm nào đó - và tiền sẽ không được
tiết kiệm đâu! Lí thuyết này là đúng chỉ nếu ông hút mười hai điếu thuốc lá
thương hiệu đắt và mười hai điếu thuốc lá thương hiệu rẻ; thế thì ông sẽ tiết
kiệm tiền. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông liên tục hút thuốc lá cả ngày và
đêm và thế rồi không có nhu cầu làm việc."
Bây giờ những người
như Karl Marx, người được coi là rất logic, có thể hành xử theo cách rất vô ý
thức.
Một hôm chuyện xảy
ra:
Edison đang viết một
số thư từ. Vợ ông ấy tới, và bà ấy biết rằng ông ấy không bao giờ thích bị quấy
rối giữa chừng công việc vì đôi khi ông ấy mất dấu vết lí thuyết của ông ấy. Bà
ấy đã mang bữa sáng tới cho ông ấy, cho nên bà ấy để bữa sáng sang bên cạnh và
đi làm công việc khác.
Trong khi đó một người
bạn tới. Thấy bữa sáng đang nguội đi và ông ấy còn quá chăm chú viết lách, chỉ
để đùa ông ấy, ông này đã ăn bữa sáng đó. Khi ông ấy hoàn thành xong bức thư
ông ấy nhìn quanh. Ông ấy thấy cái đĩa rỗng không, ông ấy nói với người bạn,
"Xin lỗi ông, ông đến hơi chậm mất - tôi đã ăn xong bữa sáng rồi."
Nhìn thấy đĩa rỗng không ông ấy tưởng ông ấy phải đã kết thúc, ông ấy phải đã
ăn xong bữa sáng.
Thậm chí không chỉ
người thường, mà cái gọi là thiên tài của bạn... Edison là một trong những người
tài năng vĩ đại nhất đã từng có: ông ấy đã phát minh ra cả nghìn thứ - một
nghìn thứ là thành tựu hiếm hoi - nhưng vẫn còn vô ý thức trong cả đời ông ấy,
nhiều tới mức có lần ông ấy đã quên mất tên riêng của mình.
Người ta nói về
Immanuel Kant, triết gia vĩ đại người Đức, rằng ông ấy phải được nhắc nhở về mọi
thứ nhỏ bé, ông ấy đã sống một cuộc sống vô ý thức thế. Từng thứ nhỏ đều phải
được nhắc cho ông ấy, ngay cả những thứ như thế này:
Một hôm ông ấy về nhà
sau cuộc đi dạo buổi tối, đứng trong góc phòng, để chiếc gậy lên giường cứ nghĩ
rằng ông ấy đang nằm trên giường và chiếc gậy đang dựng ở góc phòng. Người phục
vụ, thấy đèn bật, nhìn qua lỗ khoá, đâm phân vân - cái gì đang xảy ra? - vì ông
ấy thấy Immanuel Kant đứng trong góc phòng và chiếc gậy nằm trên giường. Ông ấy
gõ cửa.
Immanuel Kant mở cửa
và người phục vụ hỏi, "Có chuyện gì vậy? Ông đang làm gì?"
Ông ấy nói, "Tôi
cũng đang cảm thấy hơi chút kì lạ. Cái gì đó sai, nhưng tôi không chắc chắn
đích xác nó là cái gì. Tôi cảm thấy rất mệt mỏi!"
Mọi người đều có phật
bên trong mình, nhưng phật này là không linh thiêng, là không toàn thể. Chúng
ta đang sống trong các mảnh mẩu. Ai đó đang sống trong đầu, ai đó đang sống
trong thân thể, ai đó đang sống ở đâu đó khác. Ai đó được tập trung vào tiền,
ai đó vào quyền lực, ai đó vào trò khác nào đó, ai đó vào con số khác. Nhưng
không ai nhận biết một cách đầy đủ, toàn thể điều mình đang làm, điều mình đang
là vậy.
"Đây là ngôi đền
đẹp thế, nhưng Phật ở trong nó không linh thiêng chút nào!"
Thầy già quay lại và
nhìn ông ấy, và rồi Shen Tsan bình luận, "Mặc dầu phật không linh thiêng,
ông ấy vẫn có thể toả sáng."
Trong khoảnh khắc đó
khi thầy giáo già ngoái nhìn lại - bị choáng theo một cách nào đó, vì điều Shen
Tsan đã nói là rất gây choáng, theo một cách nào đó là thô lỗ từ một đệ tử, nói
rằng thầy là không linh thiêng! - trong cú choáng đó tâm trí ông ấy phải đã dừng
lại. Và nhìn vào Shen Tsan trong một khoảnh khắc ông ấy phải đã ở trong trạng
thái của vô trí - chỉ một khoảnh khắc. Và đó là khoảnh khắc khi bạn bắt đầu toả
ra vị phật.
…Shen Tsan bình luận,
"Mặc dầu phật không linh thiêng, ông ấy vẫn có thể toả sáng."
Thỉnh thoảng... cho
nên nếu thỉnh thoảng ông ấy có thể toả ra ánh sáng, ông ấy có thể toả ra ánh
sáng mãi mãi. Vấn đề duy nhất là thêm chút nhận biết.
Lần nữa, một hôm,
trong khi ông già này đang đọc kinh gần cửa sổ được dán giấy, một con ong cố gắng
tuyệt vọng, với mọi sức lực của nó, để bay ra khỏi căn phòng qua giấy dán đó
nhưng không thể nào qua được.
Ong dường như có cái
gì đó giống tâm trí con người, đích xác cùng kiểu ngu xuẩn. Cánh cửa có thể mở,
nhưng nếu ong ở bên trong căn phòng, bị mắc bên trong căn phòng... và nó có thể
đã tới từ cửa mở nhưng nó sẽ cố thoát ra từ cửa sổ đóng. Không chỉ ong mà các
chim khác cũng hành xử theo cùng cách. Bất kì chim nào có thể vào phòng bạn; cửa
ra vào để mở, nó tới từ cửa ra vào, nhưng nó không thể đi lại từ cùng cửa đó.
Nó bắt đầu cố thoát ra qua tường, qua trần... và nó càng cố gắng, nó càng trở
nên tuyệt vọng, vì không có cách nào để thoát ra qua trần hay qua tường hay qua
cửa sổ đóng. Và trong tuyệt vọng, thất vọng đó, nó trở nên ngày càng mù hơn, sợ,
hoảng sợ hơn. Nó mất đi mọi thông minh. Và cùng điều đó là hoàn cảnh với con
người.
Một hôm Phật tới với
hội chúng các sư của mình. Hôm đó phải cũng là buổi sáng như thế này. Các
sannyasin của ông ấy đã ngồi và đợi ông ấy. Họ phân vân vì đây là lần đầu tiên
mà Phật đã tới với cái gì đó trong tay ông ấy - một chiếc khăn tay. Tất cả họ đều
nhìn vào chiếc khăn tay. Vấn đề gì thế này? Phải có cái gì đó đặc biệt trong
nó. Và Phật đã ngồi trên sàn và thay vì bắt đầu nói cho hội chúng thì ông ấy lại
nhìn vào chiếc khăn tay, bắt đầu buộc vài nút trong nó, năm nút tất cả. Toàn thể
hội chúng quan sát - cái gì đang diễn ra?
Và thế rồi ông ấy hỏi
hội chúng, "Người nào có thể nói cho ta biết: chiếc khăn tay này có phải
là cùng chiếc khăn tay như nó đã vậy trước khi các nút được thắt lại
không?"
Sariputta nói,
"Đây là câu hỏi mẹo. Theo một cách nào đó chiếc khăn tay này là như chiếc
khăn cũ vì không cái gì đã thay đổi, theo một cách nào đó nó lại không là chiếc
khăn cũ vì năm nút đã xuất hiện, điều không có đó trước đó. Nhưng khi có liên
quan tới bản tính bên trong của chiếc khăn tay - liên quan tới bản tính của nó
- nó là một; nhưng khi có liên quan tới hình dạng nó không còn là một. Hình dạng
đã thay đổi: bản chất là một."
Phật nói, "Phải
rồi. Giờ ta muốn mở các nút này ra." Và ông ấy bắt đầu căng hai đầu của
chiếc khăn ra xa nhau hơn. Ông ấy hỏi Sariputta. "Ông nghĩ sao? Bằng việc
căng xa ra liệu ta có khả năng mở được các nút không?"
Ông này nói, “Thầy sẽ
làm cho các nút thậm chí còn khó mở hơn vì chúng sẽ trở nên ngày càng nhỏ hơn,
càng chặt hơn.”
Phật nói, "Phải
rồi. Thế thì ta muốn hỏi câu hỏi cuối cùng: ta phải làm gì để cho ta có thể mở
được các nút ra, các nút đã bị thắt lại? Làm sao ta có thể tháo được chúng ra lại?"
Sariputta nói,
"Thưa thầy, tôi muốn trước hết lại gần hơn và xem ngay chỗ đầu tiên các nốt
đã bị thắt lại. Chừng nào tôi chưa biết cách chúng đã bị thắt lại thì khó cho
tôi gợi ý được giải pháp nào."
Phật nói, "Phải
rồi, Sariputta. Ông được ân huệ, vì đó là câu hỏi nền tảng nhất để hỏi. Nếu ông
ở trong việc sửa nào đó, điều đầu tiên là làm sao ông xâm nhập vào nó thay vì cố
thoát ra khỏi nó. Không hỏi câu hỏi nền tảng nhất và chính yếu nhất, ông sẽ làm
cho mọi sự thành tồi tệ hơn."
Và đó là điều mọi người
đang làm. Họ hỏi, "Làm sao chúng tôi có thể thoát ra khỏi dâm, tham, giận,
gắn bó, ghen tị, sở hữu, thế này thế nọ?" mà không hỏi, "làm sao ngay
chỗ đầu tiên chúng tôi lâm vào chúng?"
Toàn thể cách tiếp cận
của Phật là, trước hết xem cách bạn lâm vào trong giận. Nếu bạn có thể thấy lối
vào, cùng cánh cửa đó là lối ra; không cần cửa nào khác. Nhưng không biết lối
vào nếu bạn cố tìm lối ra, bạn sẽ không tìm thấy; bạn sẽ tuyệt vọng ngày càng
nhiều hơn. Và đó là điều mọi người liên tục làm.
Trong kinh sách, bạn
đang tìm gì? - giải pháp. Bạn tạo ra vấn đề - và giải pháp là ở trong kinh
sách! Sao bản thân bạn không nhìn vào vấn đề. Bạn đã tạo ra chúng thế nào?
Tại sao bạn không
quan sát khi bạn đang tạo ra vấn đề? Và bạn tạo ra mọi ngày, cho nên vấn đề
không phải là bạn phải đi ngược lại. Hôm nay bạn sẽ giận lần nữa, hôm nay bạn sẽ
lại cảm thấy thôi thúc dục: nhìn cách nó nảy sinh, nhìn cách bạn đi vào trong
nó, cách bạn bị móc vào trong nó, cách nó trở nên lớn thế như mây bao quanh bạn
và bạn bị lạc trong nó. Và thế rồi bạn đi hỏi người khác!
Bạn đang vận hành gần
giống con ong ngu xuẩn. Ong có thể được tha thứ, nhưng bạn không thể được tha
thứ.
Shen Tsan đang dùng mọi
cơ hội để làm cho thầy giáo già của mình nhận biết điều đã xảy ra cho mình. Ông
ấy không muốn nói thẳng vì điều đó không thể được nói thẳng. Sẽ là quá vô lễ mà
nói thẳng rằng, "Tôi đã trở nên chứng ngộ." Điều đó có thể cản trở
thay vì giúp đỡ; bản ngã của thầy giáo già có thể bị tổn thương. Và chứng ngộ
không thể được tuyên bố; bạn phải tạo ra bằng chứng của nó. Bạn phải rất quyến
dũ về nó, và đó là điều ông ấy đang làm. Ông ấy rất quyến dũ; ông ấy đang ném
đây đó vài nhận xét hệt như các mũi tên, đánh từ mọi hướng vào chính trái tim của
thầy giáo già, để làm cho ông này nhận biết rằng Shen Tsan không phải là cùng
người khi ông ấy đã rời khỏi ông này. Một con người mới toàn bộ đã tới với ông ấy,
một tâm thức mới được sinh ra cho ông ấy. Ông ấy được tái sinh.
…trong khi ông già
này đang đọc kinh….
Bây giờ ông này đã trở
nên già, những vẫn đọc kinh. Kinh là tốt khi bạn là trẻ con, kinh là tốt khi bạn
là thanh niên, nhưng có một lúc khi bạn phải trở nên đủ trưởng thành để đi ra
ngoài thông tin và bắt đầu tìm biến đổi. Bây giờ người này đang già đi thế; vẫn
với đôi tay run rẩy ông này phải đang giữ bài kinh cổ, vẫn tìm lối ra nào đó.
Và cơ hội hay đã nảy
sinh vì con ong đã đi vào trong phòng. Bây giờ ong đã vào từ cửa ra vào mở. Nó
sẽ vào từ đâu? Bạn đã đi vào trong thế giới như thế nào? Bạn vào lại trong thế
giới mọi ngày thế nào khi bạn dậy buổi sáng?
Bạn có bao giờ quan
sát không? - khi lần đầu tiên bạn trở nên nhận biết vào buổi sáng rằng giấc ngủ
đã rời đi, có kẽ hở vài giây trong đó tâm trí không tồn tại - chỉ vài giây. Giấc
ngủ không còn nữa và thế giới còn chưa bắt đầu. Tâm trí sẽ cần chút thời gian để
bắt đầu. Có kẽ hở, khoảng hở, vài giây. Nếu bạn đủ tỉnh táo bạn sẽ có khả năng
thấy cách bạn đi vào thế giới mọi ngày. Ý nghĩ đầu tiên của bạn là gì? Bạn có
thể nói ý nghĩ đầu tiên của bạn là gì hôm nay không? Bạn phải đã đi vào, nhưng
bạn không nhận biết chút nào.
Chúng ta sống một
cách máy móc thế. Từng khoảnh khắc đều là cơ hội, nhưng chúng ta liên tục đánh
mất nó trong ngu xuẩn của chúng ta.
…con ong cố gắng tuyệt
vọng … với mọi sức lực của nó… để bay ra khỏi căn phòng qua giấy dán đó.
Đó là điều nhà yoga,
cái gọi là người khổ hạnh đang cố làm với mọi ý chí của họ, với mọi nỗ lực, phấn
đấu của họ, với mọi sức mạnh của họ. Họ đang cố đi qua tường thay vì ngồi im lặng,
trở nên bình thản và yên tĩnh, nhìn quanh tìm cửa mà từ đó họ đã đi vào.
Điều quan trọng nhất,
bất kì khi nào bạn ở trong vấn đề, không phải là bắt đầu ngay lập tức làm cái
gì đó, bằng không bạn sẽ làm cho vấn đề thành tồi tệ hơn. Điều có ý nghĩa nhất
là để thời gian không làm gì chút nào. Chỉ ngồi im lặng, thảnh thơi, nghỉ ngơi,
ở trong buông bỏ. Thay vì cố tìm ra cách thức, quan sát xem bạn đã đi vào từ
đâu, vì từng vấn đề có giải pháp riêng của nó và từng câu hỏi có câu trả lời
riêng của nó trong nó. Nếu bạn đủ cẩn thận, đủ ý thức, bạn sẽ có khả năng tìm
ra nó ở đó, và bạn không thể tìm ra được nó ở bất kì đâu khác. Không kinh sách
nào sẽ giúp ích.
Một con ong cố gắng
tuyệt vọng, với mọi sức lực của nó, để bay ra khỏi căn phòng qua giấy dán đó
nhưng không thể nào qua được.
Shen Tsan, nhìn thấy
điều này, nói, "Thế giới bao la và rộng tới mức mày có thể dễ dàng để bản
thân mày tự do trong nó. Vậy thế tại sao mày cứ cố một cách ngu xuẩn để lách
qua giấy cũ mục thế?"
Bây giờ điều này là
quá nhiều! Thầy đang đọc kinh sách cổ nào đó. Và kinh sách càng cổ, mọi người
nghĩ, nó càng tốt hơn; càng mục nát, họ nghĩ càng quan trọng hơn; càng cổ, họ
nghĩ càng có ý nghĩa hơn.
Thiền tin vào việc đốt
kinh sách. Bức tranh Thiền nổi tiếng nhất là về Bồ đề đạt ma đốt kinh, ném
chúng vào lửa. Điều đó không ngụ ý đúng từng chữ đâu. Có những kẻ ngu...
Tôi có một bức tranh
khi tôi sống ở Jabalpur - một người bạn đem tới bức tranh Bồ đề đạt ma đốt
kinh. Một thanh niên thường tới tôi; anh ta thấy bức tranh, anh ta hỏi tôi về
nghĩa. Tôi nói cho anh ta về nghĩa. Anh ta về nhà, anh ta đốt mọi kinh sách. Và
thế rồi anh ta không thể ngủ được cả đêm vì anh ta trở nên bị rối loạn rất nhiều.
Các thần có thể trở nên giận dữ - anh ta đã làm gì?
Sáng sớm, bốn giờ
sáng, anh ta gõ cửa phòng tôi. Anh ta nói, "Cứu tôi với - tôi phát điên
đây! Điều anh gợi ý tôi đã làm rồi - tôi đã đốt kinh sách. Mẹ tôi điên, bố tôi
điên. Cả gia đình tôi nghĩ rằng tôi phải bị cho vào nhà thương điên vì tôi đã đốt
Srimad Bhagavad Gita, và họ nói đây là hành động báng bổ nhất. Và họ không thể
tin được và tôi đã cố thuyết phục họ về anh và về ý tưởng của anh, và họ nói,
'Người đó điên và con điên!' Tôi nên làm gì bây giờ? Tôi không thể ngủ được được
cả đêm. Bản thân tôi sợ. Krishna phải đã cảm thấy bị xúc phạm. Bây giờ làm sao
tôi có thể được cứu?"
Tôi bảo anh ta,
"Anh đã làm việc đó cho bao nhiêu kinh sách?" Anh ta nói, "Tôi
có Ramayana và Srimad Bhagavad Gita và vài cuốn khác."
Tôi gọi điện cho nhà
sách và đặt những cuốn sách đó và đưa cho anh thanh niên này những cuốn sách đó
và tôi bảo anh ta đừng bao giờ tới tôi lần nữa, "Vì anh không phải là người
cần tới đây - anh là kẻ ngu! Bức tranh đó và bất kì cái gì tôi đã nói đều không
được hiểu theo từng chữ từng lời; nó là biểu dụ. Nó có ý nghĩa như biểu dụ.
Vâng, anh phải đốt mọi kinh sách khỏi tâm trí của anh. Đốt giấy mục, cũ kĩ chẳng
giúp được gì. Nếu nó không giúp ích bởi việc đọc nó, làm sao việc đốt nó sẽ
giúp ích? Đó là cùng giấy mục cũ dù anh đọc nó hay anh đốt nó."
Thầy phải đã cảm thấy
cái gì đó cần được làm bây giờ, và khi thầy cảm thấy điều đó, đệ tử của thầy
không còn như cũ, Shen Tsan đã nói lời kinh hay này:
"Trong khi cửa
trống đang mở rộng thật ngu xuẩn làm sao mà đi cố gắng và thoát ra bởi việc
chui qua cửa sổ đó!
Hỡi ôi! Làm sao thầy,
thưa thầy, có thể ngẩng đầu trên bãi lầy bằng việc chúi mũi vào những tờ giấy
cũ kĩ mục nát đã cả trăm năm rồi?"
Ban đầu ông ấy đã nói
dường như ông ấy đang nói về con ong, bây giờ ông ấy đã nói thẳng với thầy
giáo. Bây giờ ông ấy cảm thấy, "Thời gian chín rồi - bây giờ thầy thực sự
lắng nghe."
Nghe thấy nhận xét
này, ông già đặt cuốn sách xuống và nói với Shen Tsan, "Mới vài lần tới giờ,
ông đã nên ra những nhận xét bất thường.
Chỉ chư phật mới có
thể nêu ra những nhận xét bất thường; họ nhất định nêu ra những nhận xét bất
thường. Chính chỉ qua trí huệ mà ngọn lửa nổi dậy nảy sinh. Tri thức là qui ước,
bác học là truyền thống. Duy nhất người chứng ngộ là vị mặn của đất.
Thầy giáo già nói,
"Mới vài lần tới giờ, ông đã nên ra những nhận xét bất thường. Ông đã thu
nhận tri thức từ ai trong khi ông ở xa nhà?"
Shen Tsan đáp,
"Tôi đã đạt tới trạng thái của nghỉ ngơi an bình.
Đây là thời gian bây
giờ, thời gian đúng. Mọi thứ đều phải được nói vào thời gian đúng nào đó; nếu bạn
nói nó khi thời gian không đúng nó là vô dụng. Do đó thầy phải đợi, đợi đến
đúng mùa vụ, đến khí hậu đúng, đến khoảnh khắc đúng. Người ta không bao giờ biết
khi nào nó sẽ tới, nhưng khi nó tới, chỉ thế thì việc thức tỉnh mới là có thể.
Shen Tsan đáp,
"Tôi đã đạt tới trạng thái của nghỉ ngơi an bình… tôi đã đi tới trung tâm
của tôi… qua ân huệ của thầy Bách Trượng.
Nhớ từ "ân huệ":
không qua nỗ lực mà qua ân huệ.
Giờ tôi đã trở về nhà
để báo đáp công ơn thầy."
"Và tôi đã quay
về nhà vì thầy đã nuôi tôi khôn lớn, thầy đã làm việc vất vả vì tôi. Bất kì cái
gì thầy biết thầy đều đã cố truyền đạt cho tôi. Tất nhiên, thầy đã không chứng
ngộ, nhưng không có thầy có lẽ tôi sẽ không có khả năng tìm ra người đúng, Bách
Trượng."
Và Bách Trượng là người
hiếm hoi. Ông ấy không phải là sư, ông ấy không phải là khất sĩ, sannyasin, ông
ấy đã sống cuộc sống của người thường, phàm nhân. Ông ấy vẫn còn là người thế tục
cả đời mình, ngay cả sau khi ông ấy đã trở nên chứng ngộ. Ông ấy không bao giờ
dừng các hoạt động bình thường của mình. Ông ấy có hàng nghìn người đi theo và
dần dần, nhiều người đã tụ tập quanh ông ấy, nhưng ông ấy tiếp tục làm việc
thông thường của mình. Nhiều người đã mời ông ấy, ngay cả nhà vua, rằng
"Thầy không cần làm việc thêm nữa - chúng tôi có thể làm tu viện lớn cho
thầy. Thầy có nhiều người đi theo thế không cần thầy phải làm việc. Thầy có thể
giúp mọi người."
Ông ấy nói, "Ta
đang giúp đây. Đây là cách duy nhất ta có thể giúp mọi người. Ta muốn vẫn còn ở
bãi chợ."
Thầy giáo già này có
thể đã nổi tiếng hơn nhiều; ông ấy có nhiều đệ tử - Bách Trượng chỉ là một người
thế tục - nhưng bây giờ là đúng lúc để nói cho ông này. Đầu tiên ông này có thể
đã không nghe chút nào, có thể đã cảm thấy bị xúc phạm, nhưng Shen Tsan nói,
"Tôi phải tới thầy để bày tỏ sự kính trọng của tôi, lòng biết ơn của tôi.
Thầy đã làm nhiều điều cho tôi - thầy đã chuẩn bị tôi cho Bách Trượng."
Người tìm kiếm thực
bao giờ cũng cảm thấy biết ơn, với mọi người, bất kì ai đã giúp người đó theo bất
kì cách nào có thể. Người đó cảm thấy biết ơn bố mẹ, người đó cảm thấy biết ơn
mọi thầy giáo của mình; người đó cảm thấy biết ơn ngay cả những người đã lừa
người đó, người đã là rởm, người thậm chí đã không phải là thầy giáo thực, người
là kẻ lừa dối. Nhưng người đó cảm thấy biết ơn ngay cả với họ, vì tất cả họ đều
đã giúp bạn - theo cách tích cực, theo cách tiêu cực, theo cách nào đó này
khác.
Nếu bạn ở đây, bạn ở
đây vì nhiều, nhiều người, tốt và xấu cả hai. Và ngày bạn trở nên được tái
sinh, nhớ điều đó, rằng bạn mang nợ cái gì đó với mọi người, bất kì ai đã giúp
bạn theo bất kì cách nào. Người chồng đã li dị bạn, người vợ đã bỏ bạn và đi với
ai đó khác, các bố mẹ đã bỏ bạn, người đã quên tất cả về bạn, nhiều thầy giáo rởm,
người lang thang khắp thế giới khai thác mọi người, tất cả họ đều đã giúp theo
cách nào đó. Khi bạn trở nên chứng ngộ, bạn sẽ biết tất cả họ đã giúp đỡ thế
nào. Nếu chồng mà không li dị bạn, bạn có thể đã không ở đây chút nào - bạn có
thể vẫn còn treo cùng kẻ ngu đó! Bạn mang nợ sự biết ơn lớn với anh ấy. Người vợ
đã bỏ bạn và đi với ai đó khác, đừng mang bất kì oán giận nào với cô ấy; cô ấy
đã làm việc phục vụ lớn cho bạn, bằng không bạn có thể đã không ở đây. Cô ấy có
thể vẫn còn làm tình làm tội bạn!
Mọi thứ đã xảy ra đều
đã là tốt. Một khi bạn đạt tới việc nghỉ ngơi tối thượng điều đó làm cho mọi thứ
thành vàng. Ngay cả đêm, đêm tối cũng trở thành cội nguồn của sáng đẹp, bình
minh đẹp.
Thầy giáo già tiếp đó
chuẩn bị một lễ hội lớn để tôn vinh đệ tử trẻ của mình, triệu các sư trong tu
viện tới phòng hội họp, và đề nghị Shen Tsan giảng pháp cho mọi người. Và rồi
Shen Tsan bước tới chỗ ngồi cao nhất và, theo truyền thống của Bách Trượng, đã
thuyết giảng như sau…
Thầy giáo già đã hiểu
điều đó ngay lập tức, cho dù ông ấy chỉ đang đọc kinh sách, nhưng phải đã là một
con người của sáng suốt và hiểu biết, không chỉ là học giả ngu xuẩn - là học giả,
nhưng vẫn đang tìm cái gì đó hơn nữa, cố gắng siêu việt lên trên lời và đạt tới
nội dung. Ông ấy ngay lập tức nhận ra ánh sáng đã tới cho mặt của đệ tử của ông
ấy. Ông ấy có thể thấy việc rạng ngời, ông ấy có thể cảm thấy hương thơm. Và thế
rồi ông ấy không khổ theo bất kì cách nào. Ông ấy kính trọng đệ tử của mình,
thu xếp một cuộc liên hoan lớn, một lễ hội lớn để tôn vinh đệ tử, triệu tập
toàn thể hội chúng, mọi học sinh và đệ tử, và đề nghị đệ tử này bước lên và giảng
pháp cho mọi người.
Và rồi Shen Tsan bước
lên chỗ ngồi cao nhất…
Và nói vài lời này,
nhưng chúng cực kì hay:
"Việc toả sáng
khác thường là ánh sáng đẹp lạ lùng tự do khỏi tù túng của vật chất và giác
quan.
Nếu bạn trở nên ý thức
bạn lập tức biết rằng bạn không là thân thể không là tâm trí; bạn là tâm thức
thuần khiết, và tâm thức thuần khiết đó là ánh sáng đẹp lạ lùng. Đó là ánh sáng
Phật đã nói tới: "Là ánh sáng lên bản thân ông."
"Không bị gắn bởi
lời và văn…"
Nó không bị giới hạn
vào bất kì lời nào hay văn nào. Nó ở bên ngoài mọi mô tả, bên ngoài mọi cách diễn
đạt, bên ngoài mọi định nghĩa.
"Điều bản chất
được phơi bày trần trụi trong tính vĩnh hằng thuần khiết của nó."
Nhưng nếu bạn có mắt
để nhìn, nếu bạn có thông minh, nó là sẵn có trong mọi sự trần trụi của nó,
trong mọi sự thuần khiết vĩnh hằng của nó, trong cái đẹp tuyệt đối, tinh tuý nó
là sẵn có. Mọi khoảnh khắc đều sẵn có; chỉ bởi vì ngu si của bạn, tầm thường của
bạn, tâm trí bạn, mà nó vẫn còn bị giấu kín. Nó không bị giấu kín đâu; tâm thức
bạn bị che mờ đấy.
"Không bao giờ bị
ô uế là bản tính-tâm…"
Và nhớ lấy, bất kì
cái gì bạn làm, bất kì cái gì bạn đã từng làm, bạn không thể làm vẩn đục cốt
lõi bên trong nhất của bạn. Trung tâm của bạn vẫn còn không bị ảnh hưởng bởi
chu vi, tâm thức của bạn vẫn còn không bị ảnh hưởng bởi tính cách của bạn. Cơn
xoáy lốc không thể động tới trung tâm được. Bạn là trung tâm của cơn xoáy lốc.
"Nó tồn tại
trong sự hoàn hảo từ chính lúc bắt đầu."
Và bạn không đạt tới
sự hoàn hảo. Đây là khám phá của Thiền: rằng bạn không đạt tới nó, nó đã là
hoàn cảnh rồi. Bạn là hoàn hảo từ chính lúc bắt đầu.
"Bằng việc đơn
thuần vứt đi ảo tưởng của các ông…"
Mọi điều được cần chỉ
là vứt đi ảo tưởng của bạn.
"Tính như vậy của
phật tính được nhận ra."
Và ngay lập tức bạn
nhận ra bạn đã là phật từ lúc bắt đầu. Bạn bao giờ cũng là phật và không ai
khác. Bạn đã là thượng đế từ chính lúc bắt đầu, ban không thể khác được. Tính
thượng đế là điều tinh tuý cố hữu của bạn, nó không phải là cái gì để được đạt
tới. Và không thể nào làm ô uế nó được - không nghiệp nào có thể làm ô uế nó được.
Cho nên bất kì cái gì
bạn đã từng làm chỉ là trong mơ của bạn. Khi bạn thức dậy, dù bạn mơ là tội
nhân hay là thánh nhân cũng không thành vấn đề. Khi bạn thức dậy, cả hai giấc
mơ đều được kết thúc; bạn không bận tâm chút nào. Bạn không cảm thấy mặc cảm rằng
bạn đã là tội nhân trong mơ và bạn không cảm thấy "linh thiêng hơn
ngươi" vì bạn đã là thánh nhân trong mơ. Mơ là mơ, ảo tưởng. Người thức tỉnh
được thoát khỏi mọi mơ.
"Tính như vậy của
phật tính được nhận ra."
Các bạn là chư phật
ngay bây giờ, chính khoảnh khắc này!
Ngay khi thầy giáo
già nghe đoạn thơ này, ông ấy lập tức thức tỉnh.
Đây là tiếng gầm của
sư tử: Các bạn là chư phật chính khoảnh khắc này, ngay bây giờ! Không cái gì phải
được đạt tới, không cái gì phải bị thay đổi. Thức dậy đi! Lắng nghe tiếng gầm của
sư tử này, thầy giáo già lập tức trở nên được thức tỉnh. Mọi điều được cần là
thông minh, mọi điều được cần là hiểu ra vấn đề, năng lực để sẵn có cho thầy.
Ông già này phải đã
là người hiếm hoi. Điều phải được nói về ông ấy là ở chỗ ông ấy thậm chí có
năng lực nhận thông điệp từ đệ tử riêng của mình. Ông ấy phải đã là một người
khiêm tốn; ông ấy phải đã có khả năng gạt bản ngã của mình sang bên. Và đó là ảo
tưởng lớn nhất. Ông ấy lập tức trở nên thức tỉnh.
Trong Thiền điều này
được gọi là việc truyền trao đặc biệt: việc truyền bên ngoài lời, bên ngoài
kinh sách. Điều được nói ra không phải là điều thực, nhưng điều được nghe là điều
thực. Điều được nói, bạn đã nghe nó; nhưng điều người già này nghe bạn còn chưa
nghe được. Ngày bạn nghe thấy nó bạn sẽ biết nó là gì: việc truyền trao đặc biệt.
Điều đó giống như khi
bạn mang một chiếc nến chưa thắp lại gần chiếc nến đã thắp. Đột nhiên từ chiếc
nến đã thắp ngọn lửa nhảy sang chiếc nến chưa thắp. Chiếc nến đã thắp không mất
cái gì cả còn chiếc nên chưa thắp thu được mọi thứ. Đây là truyền trao đặc biệt
- bên ngoài lời, bên ngoài kinh sách. Trong khoảnh khắc đó Shen Tsan kêu lên:
Bằng việc đơn thuần vứt
đi ảo tưởng của các ông, tính như vậy của phật tính được nhận ra."
"... và tự tính
của ông không bao giờ bị ô uế, và ông là hoàn hảo từ chính lúc bắt đầu,"
ông già này lập tức trở nên thức tỉnh. Cũng như tia sét bất thần... và mọi bóng
tối đã biến mất và biến mất mãi mãi. Thực ra, nó chưa bao giờ tồn tại ngay chỗ
đầu tiên; bạn đơn giản tưởng tượng ra nó.
Mọi khổ đều là tưởng
tượng của bạn. Khi khổ tưởng tượng này bị mất đi không cái gì còn lại ngoài
phúc lạc, phúc lành, cực lạc.
Xem Tiếp Chương 4 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá