Chương 3. Siêu Việt Cái Siêu Việt

Chương 3. Siêu Việt Cái Siêu Việt

Price:

Read more

Thiền Osho by Vô Ngã

Sách Osho

(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)

Đạo – Cổng Vàng – Osho

(Tập 2)

Bài Nói Về Kinh Điển Về Thuần Khiết Của Cát Hồng

Chương 3. Siêu Việt Cái Siêu Việt









Nghe hoặc Tải MP3 'Đạo - Cổng Vàng (Tập 2)' ê


Thầy tôn kính nói:

Khi người đó có ý nghĩ sáng tỏ về ba điều này người đó cảm nhận chỉ cái trống rỗng, nhưng khi người đó suy tư về cái trống rỗng, người đó nhận ra rằng cái trống rỗng cũng là trống rỗng và đã trở thành cái không. Cái trống rỗng đã tan biến vào trong cái không, người đó nhận ra rằng cái không của không có gì cũng là không có gì, và khi cái không dưới cùng được đạt tới, có cái thực nhất được tìm thấy là cái tĩnh lặng sâu sắc và không đổi.

Trong tĩnh lặng sâu lắng này làm sao ham muốn có thể được sinh ra? Khi ham muốn không còn được sinh ra, thế thì có cái tĩnh lặng bản chất và không đổi.

Chân lí là không đổi về bản chất.

Mọi thứ trong trời và đất là trong không đổi bản chất.

Phương Đông đã kính trọng thầy vô cùng. Phương Tây tuyệt đối vô nhận biết về hiện tượng thầy. Nó biết thầy giáo, nó hoàn toàn nhận biết về thầy giáo, nhưng không biết về thầy. Ngay cả những người viết về Jesus đều là như thầy giáo vĩ đại - các học giả phương tây viết về Phật như thầy giáo vĩ đại - không biết sự khác biệt. Khác biệt là mênh mông; khác biệt là mênh mông tới mức nó không thể bắc cầu qua được. Thầy là thế giới khác toàn bộ.

Thầy là một phần của sự tồn tại bình thường, ngày qua ngày. Thầy biết nhiều hơn bạn biết: khác biệt là về chất lượng, không về số lượng. Bạn có thể biết nhiều bởi nỗ lực thêm chút ít. Thầy giáo chỉ đi trước bạn chút ít khi có liên quan tới học hành, tri thức, thông tin, nhưng bản thể ông ấy là hệt như bản thể của bạn.

Thầy có thể không biết nhiều hơn bạn, thầy có thể thậm chí không biết nhiều như bạn biết, nhưng thầy hiện hữu hơn - thầy có nhiều hiện hữu hơn. Khác biệt là về chất: thầy tồn tại trên bình diện khác. Thầy đã đi vào một chiều hướng khác toàn bộ mà về điều đó bạn hoàn toàn quên lãng. Thầy chỉ biết một điều, đó là hiện hữu bên trong riêng của thầy. Và việc biết đó không thể được gọi là tri thức bởi lẽ đơn giản vì tri thức cần ba điều: người biết, cái được biết và giữa hai điều này là tri thức. Mối quan hệ giữa người biết và cái được biết: đó là tri thức. Nhưng khi bạn biết bản thân bạn; người biết là cái được biết, người biết là tri thức; không có phân biệt chút nào. Không có chủ thể và không có đối thể. Có sự thống nhất, không phân chia.

Thầy là người đã trở nên được thống nhất theo nghĩa nền tảng của tâm thức tối thượng. Thầy đơn giản là ý thức. Ý thức này cho thầy một thế giới quan khác toàn bộ; với ý thức này mọi thứ khác thay đổi. Thầy nhìn mọi sự trong ánh sáng mới, thầy không bị che mờ. Thầy có sự sáng tỏ, thầy là trong suốt, thầy là tấm gương thuần khiết, trong như pha lê - thậm chí không một ý nghĩ thoáng qua tâm thức thầy. Do đó không có màn che nào, không có chướng ngại nào.

Thầy giáo đầy những ý nghĩ tới mức thầy giáo chính là đầu đối lập của thầy. Đừng bao giờ gọi Phật là thầy giáo hay gọi Jesus là thầy giáo hay gọi Lão Tử là thầy giáo - họ là thầy. Hơn nữa, họ không dạy chút nào - tại sao gọi họ là thầy giáo? Họ không truyền đạt bất kì tri thức nào mới cho thế giới. Albert Einstein có thể được gọi là thầy giáo vĩ đại, Newton có thể là được gọi là thầy giáo vĩ đại. Darwin có thể được gọi là thầy giáo vĩ đại, Marx, Freud - những người này có thể được gọi là thầy giáo vĩ đại: họ đã dạy nhiều thứ. Lão Tử đã dạy cái gì? Phật đã dạy gì? Zarathustra đã dạy gì? Chẳng dạy gì hết cả! Nhưng họ đã truyền đạt cách nhìn mới, phong cách sống mới. Họ đã chạm tới trái tim mọi người, và họ đã biến đổi các trái tim đó. Họ không cho bạn thông tin, họ cho bạn biến đổi. Điều họ nói là không quan trọng, điều họ là mới là quan trọng. Điều họ nói chỉ là phương cách; im lặng của họ là quan trọng.

Nếu bạn muốn hiểu Phật, Lão Tử, Cát Hồng, Kabir, Nanak, bạn sẽ phải học cách đọc giữa các dòng. Bạn sẽ phải học cách hiểu im lặng và âm nhạc của im lặng. Bạn sẽ phải im lặng. Nó là một loại học khác toàn bộ - thực ra, nó là việc dỡ bỏ. Bất kì cái gì bạn biết bạn sẽ phải vứt bỏ. Bạn sẽ phải vứt bỏ mọi niềm tin của bạn, các ý thức hệ, triết lí. Tất cả những điều đã được trao cho bạn bởi thầy giáo của bạn từ mức phổ thông tới mức đại học, bạn sẽ phải gạt bỏ nó, bạn sẽ phải siêu việt lên trên nó. Bạn sẽ phải siêu việt lên trên mọi thầy giáo của bạn, chỉ thế thì bạn mới có khả năng hiểu thầy. Thầy là ngược lại mọi thầy giáo.

Phương Đông đã không kính trọng thầy giáo; toàn bộ kính trọng của nó dồn vào thầy. Thầy giáo là tiện dụng; họ là chuyên gia. Nếu cái gì đó không ổn trong buồng tắm nhà bạn, bạn gọi thợ nước. Ông ấy biết nhiều hơn bạn khi có liên quan tới cấp nước, nhưng đó không phải là lí do để bầy tỏ kính trọng lớn với ông ấy và gọi ông ấy là "tôn kính". Cái gì đó không ổn với thân thể bạn, bạn gọi bác sĩ. Ông ấy là một loại thợ ống nước khác: ông ấy sửa thân thể bạn. Nếu bạn muốn học toán học, bạn đi tới thầy giáo.

Bạn đi tới thầy chỉ khi bạn mệt mỏi với mọi sự tồn tại tiện dụng này. Khi bạn đã đi tới thấy rằng có cái gì đó hơn, khi bạn đã cảm thấy một thôi thúc sâu sắc, khao khát lớn lao, để biết cái không tiện dụng, cái có giá trị bản chất, cái không thể bị bán hay mua, cái không có giá cả mà có giá trị mênh mông, khi bạn đã đi tới cảm thấy sự tồn tại của điều bí ẩn, của điều huyền bí, chỉ thế thì bạn mới có khả năng tiếp xúc với thầy.

Thực ra, kinh sách Ai Cập cổ đại nói: Khi đệ tử sẵn sàng, đích thân thầy xuất hiện. Và khi nào đệ tử sẵn sàng? Khi người đó mệt mỏi với thế giới tiện dụng. Trong thế giới này mọi thứ đều có tiện dụng; nhưng Thượng đế không có tiện dụng, chân lí không có tiện dụng, tình yêu không có tiện dụng, phúc lạc không có tiện dụng, cái đẹp không có tiện dụng. Tiện dụng gì của đoá hoa hồng? Bom nguyên tử có tiện dụng, lưỡi kiếm có tiện dụng. Tiện dụng gì của mặt trời lặn đẹp? Không có tiện dụng trong nó. Chỉ khi bạn bắt đầu cảm thấy khao khát về cái không tiện dụng bạn mới có khả năng ở cùng thầy; bằng không bạn sẽ cứ đi từ thầy này sang thầy khác.

Ở cùng thầy cần việc chuẩn bị vô cùng. Và điều lớn nhất được cần tới là khao khát về cái không biết, khao khát về cái không phải của thế giới này. Khao khát này dường như là điên với những người quan tâm tới tiền, quyền, danh. Họ sẽ nghĩ bạn điên khùng nếu bạn trở nên quan tâm tới thiền, nếu bạn trở nên quan tâm tới im lặng, nếu bạn trở nên quan tâm tới thầy. Nhưng phương Đông đã bày tỏ cực kì kính trọng với thầy.

Cát Hồng bắt đầu từng lời kinh bằng những lời hay này:

Thầy tôn kính nói...

Ông ấy không nhắc tới tên của thầy. Thực ra, các cái tên không hữu dụng khi có liên quan tới thầy bởi vì một thầy đại diện cho mọi thầy của quá khứ, của hiện tại, và của tương lai nữa, bởi vì hương vị của thầy là như nhau. Dù bạn tới gần vị Phật hay gần một Mahavira hay gần một Moses hay Mohammed, điều đó không tạo ra khác biệt. Bạn sẽ có cùng hương vị, cùng cực lạc, cùng hương thơm. Cùng niềm vui đó sẽ tràn ngập khắp bạn; cùng điệu vũ đó sẽ bắt đầu xảy ra trong trái tim bạn.

Phật đã nói đi nói lại rằng bạn có thể nếm biển từ bất kì chỗ nào: bạn bao giờ cũng thấy nó mặn. Thầy cũng vậy - cái tên là không liên quan.

Cát Hồng không nhắc tới tên thầy - tên là thứ tiện dụng. Thầy đại diện cho điều tối thượng, vô danh. Thầy là người phát ngôn của kinh nghiệm vô danh - để thầy cũng là vô danh đi. Đó là thông điệp của ông ấy.

Thầy tôn kính nói...

Nhớ vài điều trước khi chúng ta đi vào lời kinh này. Tại sao phương Đông kính trọng thầy mà không thầy giáo? Tại sao thầy mà không kẻ sĩ? Tại sao thầy mà không bác học? Bởi vì phương Đông đã biết rằng bác học chỉ là vẹt: ông ấy lặp lại điều người khác đã biết; ông ấy đã không kinh nghiệm bản thân mình. Và bởi vì ông ấy đã không đích thân kinh nghiệm nó, nó không có tính hợp thức. Ông ấy có thể có khả năng tranh cãi giỏi, ông ấy có thể có khả năng thuyết phục bạn, ông ấy có thể có khả năng che mặt nạ nhiều bằng chứng về điều ông ấy nói, nhưng dầu vậy điều ông ấy nói vẫn là vay mượn; nó không có gốc rễ trong bản thể riêng của ông ấy. Ông ấy chỉ nói với bạn từ kí ức của ông ấy, không từ tâm thức của ông ấy.

Và chân lí không ở trong kinh sách. Chân lí là chính trung tâm bản thể của bạn, nó là cốt lõi bản chất của bạn. Bạn có thể trở thành rất láu cá với lời - nó không khó - nhưng những lời đó là bất lực, những lời đó là trống rỗng, những lời đó thực sự không có nghĩa nào. Nghĩa tới qua kinh nghiệm.

Khi Jesus nói điều gì đó nó có nghĩa. Bạn có thể nhắc lại cùng lời đó; nó không thể có cùng nghĩa bởi vì kinh nghiệm của bạn không phải là kinh nghiệm ở mức đó, ở bình diện đó. Bạn sẽ cho nghĩa riêng của bạn vào trong nó, bạn sẽ đổ kinh nghiệm riêng của bạn vào trong nó. Bạn sẽ dùng lời của Jesus làm bình chứa, nhưng nội dung sẽ là của bạn. Cái chai sẽ là của Jesus, nhưng rượu sẽ là của bạn.

Và bạn đã được gì? Bạn chẳng biết cái gì quan trọng. Mọi điều bạn biết đơn giản là rác rưởi - có thể hữu dụng trong thế giới, thậm chí có thể được cần tới trong thế giới để kiếm sống, nhưng bạn không biết cuộc sống là gì. Bạn biết cách kiếm tiền và bạn chỉ biết cách làm phí hoài cuộc sống.

Có một giáo sư già của Darjeeling

Đi từ London tới Ealing.

Chữ viết trên cửa,

"Xin đừng nhổ ra sàn,"

Thế là ông ấy cẩn thận nhổ lên trần.

"Triết gia đó thực sự khổ từ niềm tin của ông ta," một hôm Mulla Nasruddin nói với tôi.

"Sao, ông ấy tin vào cái gì?" tôi hỏi anh ta.

"Rằng ông ấy có thể đi giầy cỡ 8 vào chân cỡ 11!"

Mọi niềm tin của bạn đều giống điều đó. Bạn đang mặc quần áo vừa hoàn hảo cho vị Phật nhưng không vừa cho bạn. Bạn đang đi đôi giầy hoàn toàn vừa cho Lão Tử nhưng không vừa cho bạn. Bạn đang sống trong nhà được người khác làm cho một mục đích khác toàn bộ, điều không phải là mục đích của bạn. Toàn thể cuộc đời bạn là nỗi khổ dài, dài bởi lẽ đơn giản là nếu bạn có chân cỡ 11 và bạn đi giầy cỡ 8, dù bạn tin vào bất kì cái gì, niềm tin của bạn sẽ không giúp ích gì được; nó sẽ tạo ra khổ cho bạn.

Nhìn vào kiếp sống của mọi người mà xem - không vui vẻ, không bài ca, không lễ hội. Và đây là người Ki tô giáo: họ tin vào Christ. Và đây là người Hindus: họ tin vào Krishna. Và đây là Phật tử: họ tin vào Phật. Cái gì đó rất nền tảng đã đi sai. Họ có thể nói họ tin vào Phật, nhưng chỉ lời có thể là của Phật. Ai sẽ để nghĩa vào trong những lời đó? Bạn sẽ để nghĩa riêng của bạn vào - và chừng nào kinh nghiệm của bạn chưa thay đổi, nghĩa của bạn sẽ vẫn còn rất bình thường.

Một người và con anh ta đang đi trong xe taxi với một học giả lớn gần Cung điện Madeleine. Họ đi qua phố đầy gái mãi dâm trên hè phố. Xe taxi gần như bị dừng lại bởi giao thông.

"Bố ơi, bố ơi, tất cả những người đàn bà kia đang đứng ở đó làm gì vậy?"

"Hừm... hmm... những đàn bà đó phải đang đợi chồng của họ. Con nhìn đấy, sáu giờ rồi và văn phòng đang đóng cửa."

"Đừng nghe bố cháu! Họ là đĩ cả đấy!" học giả nói, người là người tin nhiệt thành vào việc nói thẳng với trẻ con.

"Bố ơi, đĩ là gì?"

"Hừm,... hmm... con thấy đấy... nó nghĩa là họ có nhiều chồng."

"Bố muốn nói như tài tử điện ảnh chứ gì?"

"Đúng, nhưng nhiều hơn - nhiều, cả trăm, nghìn chồng!"

"Được! Nhưng cả nghìn chồng đó... thế thì họ phải có nhiều con nữa!"

"Điều đó thì rất hiếm, nhưng nó tất nhiên có xảy ra."

"Và những đứa con này, bố ơi, họ trở thành cái gì?"

"Họ trở thành... học giả!"

Phương Đông chưa bao giờ bầy tỏ kính trọng nào với các kẻ sĩ. Họ là người lao động trí thức, họ không phải là giới trí thức thực - phương Tây bao giờ cũng hiểu lầm họ là giới trí thức thực. Họ là trí thức, nhưng họ không là người thông minh. Thỉnh thoảng bạn sẽ thấy cái gọi là người trí thức còn ngu xuẩn hơn nông dân và người làm vườn và người đánh cá, bởi lẽ đơn giản vì nông dân và người làm vườn và người đánh cá và thợ mộc, họ sống gần tự nhiên, gần cuộc sống, gần sự tồn tại. Họ có kinh nghiệm thực hơn nhiều, tiếp xúc thân thiết, gần hơn nhiều với thực tại so với cái gọi là các giáo sư, bác học và học giả. Họ sống được bao quanh bằng lời - những lời đao to búa lớn, những lời khoa trương - nhưng họ sống trong nhà tù của lời. Bạn có thể rất dễ dàng bị họ lừa bởi vì họ nói theo cùng cách như các thầy. Họ là rởm, họ là kẻ giả vờ. Nhận biết về điều đó đi và cảnh giác về cái ngu xuẩn của họ.

Một người Anh đang đi lên núi thì thấy một giáo sư triết học nổi tiếng đi qua trong xe, lái lùi đi lên núi.

"Này, giáo sư!" người Anh kinh ngạc gọi với. "Ông làm gì thế?"

"Thế này," giáo sư trả lời, "Tôi phải chuyển một gói đồ lên núi và tôi được dặn là không thể nào quay đầu xe ở đó được."

Sau việc này cả hai tiếp tục chuyến đi lên núi của mình. Mười lăm phút sau người Anh thấy chiếc xe đi xuống núi nhưng lại đi lùi.

"Này, giáo sư, dừng lại!" ông ta nói, "Có chuyện gì vậy?"

"Ồ!" giáo sư đáp vừa mỉm cười. "Tôi nhầm - đằng nào tôi cũng có thể quay đầu được!"


Thầy là người sống chân lí. Không phải là thầy biết về nó, không phải là thầy đã nghe nói về nó, không phải là thầy triết lí về nó, mà thầy sống nó, thầy biết nó - thầy đã trở thành bản thân chân lí. Hiện hữu của thầy là giáo huấn của thầy; mọi thứ khác chỉ là phương cách để đem thức tỉnh tới cho người ngủ. Nếu thầy dùng lời, nó không phải để truyền đạt chân lí, thầy dùng lời như đồng hồ báo thức để đánh thức bạn. Thầy giáo dùng lời để truyền đạt chân lí. Và chân lí không bao giờ có thể được truyền đạt bằng lời. Thầy cũng dùng lời, nhưng không bao giờ truyền dạt chân lí. Thầy biết hoàn toàn rõ chân lí không thể được truyền đạt; nó là không truyền được. Nó không thể được trao đổi bằng bất kì phương tiện nào, nhưng bạn có thể được thức tỉnh theo nó.





Điều thực là không nói cho bạn chân lí; điều thực là làm cho bạn nhận biết. Khoảnh khắc bạn nhận biết bạn biết chân lí vì chân lí đã ở bên trong bạn rồi. Nó không phải là cái gì đó tới từ bên ngoài; nó là cái gì đó ngủ bên trong bạn và phải được đánh thức.

Thầy dùng lời và vì thầy dùng lời, học giả cứ lặp lại cùng lời trong nhiều thế kỉ, cứ tưởng rằng chúng là những lời quan trọng, những lời rất quan trọng. Chúng phải chứa chân lí bởi vì Phật đã dùng chúng, Cát Hồng đã dùng chúng, Bồ đề đạt ma đã dùng chúng, Rinzai đã dùng chúng, Bahauddin đã dùng chúng. Những thầy vĩ đại đều đã dùng chúng - những lời đó phải chứa cái gì đó có giá trị mênh mông. Chúng không chứa gì cả. Chúng được dùng với mục đích khác toàn bộ. Mục đích là để đánh thức người ngủ.

Brigitte Bardot được cho một con vẹt như món quà và cô ấy để nó trong phòng ngủ của mình. Mọi đêm cô ấy mang người yêu mới tới giường và từ trong chuồng, vẹt ta sẽ khuyến khích việc làm tình của cô ấy với những lời như , "Làm tới đi! Làm tới đi! Bạn đang tới!"

Sau vài ngày Brigitte Bardot thấy bực mình với nó và một sáng, khi cô ấy đang đi dạo khoả thân, con vẹt kêu lên, "Lại đây, người yêu, anh muốn làm tình với em!" cô ấy điên tiết và đập cho con vẹt một cái.

Trong khi rỉa lại lông con vẹt buồn bã nói, "Nhưng em đã không đối xử với các anh chàng khác như thế này!"

Bác học là vẹt. Ông ta nghĩ Phật đã ảnh hưởng tới hàng triệu người bởi những lời này, Krishna đã biến đổi hàng nghìn người bằng những lời này, Bhagavad Gita, và Mohammed đã gây hứng khởi cho hàng nghìn linh hồn trong nhiều thế kỉ bằng Koran và lời nó chứa đựng - những lời này phải có tiềm năng lớn lao. Cho nên ông ấy cứ lặp lại những lời đó. Nhưng những lời đó chẳng chứa gì cả. Ông ấy đơn giản bắt chước một phương cách mà không biết mục đích đích xác của nó.

Một hạ sĩ đang hướng dẫn trung đội của mình. Anh ta gọi một lính mới ra và hỏi, "Anh, Gino! Với anh lá cờ là gì?"

"Cờ," người lính trả lời, "là mảnh vải có mầu sắc khác nhau."

"Cái gì! Anh nói gì? Anh ngốc vừa vừa chứ! Cờ là mọi thứ. Cờ là mẹ anh, nhớ lấy, mẹ anh!"

Thế rồi anh ta quay sang người lính tiếp và hỏi, "Nói cho tôi cờ là gì?"

"Mẹ của Gino," người lính đáp.

Cảnh giác với học giả; họ là những người ngu nhất xung quanh. Nhưng họ nói hay, và nếu bạn không tỉnh táo bạn có thể rất dễ dàng bị họ lừa. Họ trích dẫn Koran, họ trích dẫn Bhagavad Gita, họ trích dẫn Veda, Upanishad, họ bình chú và họ diễn giải, và theo một cách rất logic, theo cách thuyết phục - nó sẽ hấp dẫn tâm trí bạn. Nhưng, thực ra, Phật chưa bao giờ muốn hấp dẫn tâm trí bạn, Krishna không muốn hấp dẫn tâm trí bạn. Họ muốn giúp bạn đi ra ngoài tâm trí. Họ không định thuyết phục tâm trí bạn, bởi vì nếu bạn được thuyết phục về ý tưởng nào đó bạn sẽ vẫn còn trong tâm trí. Họ đã cố gắng làm rối trí bạn từ tâm trí.

Bạn có thể thấy mục đích khác toàn bộ này không? Mục đích của thầy là đẩy bạn ra ngoài biên giới của tâm trí, và mục đích của học giả là thuyết phục bạn về mặt trí tuệ về cái đúng, về cái hợp thức của ý thức hệ, triết lí nào đó. Ông ấy làm cho tâm trí bạn được mạnh hơn, ông ấy cho bạn nhiều tâm trí hơn. Thầy lấy đi tâm trí của bạn, thầy phá huỷ tâm trí của bạn. Thầy giáo nuôi dưỡng tâm trí của bạn. Cho nên nhiều lần thầy giáo sẽ có vẻ hấp dẫn với bạn hơn, thuyết phục với bạn hơn.

Bạn có thể bỏ lỡ thầy rất dễ dàng vì thầy sẽ dường như là người nguy hiểm ở quanh. Thầy giáo dường như rất đáp ứng; ông ấy nâng cao bản ngã của bạn. Không phải ngẫu nhiên mà phương Tây đã kính trọng thầy giáo bởi vì phương Tây đã tin trong hàng nghìn năm rằng bản ngã phải được làm mạnh, rằng bản ngã mạnh là được cần; không có bản ngã mạnh con người không có cá tính. Điều đó là đúng: không có bản ngã mạnh con người không có cá tính; nhưng bản ngã là giả, cá tính cũng vậy.

Từ "personality- cá tính" bắt nguồn từ từ Hi Lạp persona; persona nghĩa là mặt nạ. Trong những ngày cổ đại các diễn viên Hi Lạp thường đeo mặt nạ. Những personas đó, những mặt nạ, tất cả chúng ta đều đeo. Bản ngã mạnh chắc chắn cho bạn cá tính mạnh theo nghĩa nguyên thuỷ của từ này, nhưng cá tính không phải là cá nhân và bản ngã không phải là linh hồn - chính cái ngược lại.

Thầy phá huỷ cá tính của bạn để cho cá nhân tính của bạn có thể được phát hiện ra. Thầy triệt phá cá tính của bạn, thầy lấy đi mọi mặt nạ của bạn, để cho bạn có thể biết khuôn mặt nguyên thuỷ của bạn. Công việc của thầy là khó khăn và chỉ những người rất dũng cảm mới có thể ở cùng thầy vì đó là cuộc giải phẫu. Mặt nạ của bạn phải đã trở thành gần như một phần của sự tồn tại của bạn; lấy nó ra bây giờ cần cuộc giải phẫu. Không dễ mà lấy nó ra được, điều đó gây đau đớn. Duy nhất thầy được cần để lấy nó đi. Dần dần dần dần, từng khoanh một, thầy cứ lấy đi mặt nạ của bạn. Chung cuộc, khi mặt nạ đã hoàn toàn biến mất, bạn khám phá ra thực tại của bạn, khuôn mặt nguyên thuỷ của bạn.

Thầy giáo cho bạn nghĩ nhiều; thầy chỉ cho bạn tính thiền. Thầy giáo cho bạn nhiều thứ để mơ mộng, để ham muốn; thầy nện búa vào mọi giấc mơ của bạn và phá huỷ chúng. Thầy chống lại việc ngủ của bạn; thầy giáo là thuốc giảm đau, thuốc an thần. Thầy không là an ủi, không là vỗ về, không là ru ngủ. Thầy gây đau, vết thương, nhưng thầy biến đổi.

Một người thấy mình ở nơi chuộc tội. Thiên thần chịu trách nhiệm tới đón người đó vào.

"Chưa đến lượt ông hôm nay," thiên thần nói. "Ông vẫn còn nhiều thời gian để đi qua trần thế. Đi cùng ta đi."

Thiên thần đưa ông ấy vào một phòng cực lớn gồm toàn những chai đầy dầu. "Điều này chỉ ra ông đã bỏ lại bao nhiêu cuộc sống," thiên thần nói. Cái chai của ông ấy gần như trống rỗng.

"Tôi có thể xem chai của vợ và con tôi không?" ông ấy hỏi.

"Được chứ," thiên thần nói, vừa trỏ vào ba cái chai ngay cạnh chai của ông ấy. Người này không thể tin được vào mắt mình. Với trẻ con, số lượng dường như bình thường, nhưng vợ ông ấy dường như có số lượng lớn phi thường trong chai của bà ấy.

Bị bỏ lại một mình và suy nghĩ, vì thiên thần đi làm việc với người mới tới, ông ấy chủ định ngoáy ngón tay vào chai của vợ, lấy ra một ít dầu và đưa nó vào trong chai của mình. Ông ấy cứ làm thế cho tới khi hai chai nhiều ít như nhau. Ông ấy muốn làm nữa, nhưng đột nhiên bị thức dậy bởi cái tát đau và giọng bà vợ ông ấy nói, "Lão già dơ dáy, lúc nào ngón tay cũng sờ ngoáy, ngay cả khi tôi ngủ!"

Con người đang ngủ say, mơ, ham muốn, về địa ngục, về cõi trời, về cả nghìn lẻ một thứ. Chức năng của thầy là đánh bạn thật mạnh đến mức bạn không thể tránh được việc thức dậy.

Cát Hồng nói:

Thầy tôn kính nói:

Khi người đó có ý nghĩ sáng tỏ về ba điều này người đó cảm nhận chỉ cái trống rỗng, nhưng khi người đó suy tư về cái trống rỗng, người đó nhận ra rằng cái trống rỗng cũng là trống rỗng và đã trở thành cái không.

Đây là lời kinh rất có ý nghĩa, nhưng vài từ đầu tiên phải được sửa cho đúng. Bản dịch được một học giả làm và hơn nữa lại là một học giả phương tây. Ông ấy nói:

Khi người đó có ý nghĩ sáng tỏ...

Bây giờ bản gốc không thể ngụ ý rằng ông ấy có "ý nghĩ sáng tỏ" được, bởi vì sáng tỏ và ý nghĩ không thể cùng tồn tại được. Điều đó là không thể được; sự cùng tồn tại của chúng là không thể được. Nếu có sáng tỏ sẽ không có ý nghĩ; nếu có suy nghĩ không có sáng tỏ. Nó cũng giống như là nói, "Trời đầy mây và rất sáng rõ. Trời đầy mây và trời rất nắng." Điều đó là không thể được. Hoặc trời nắng và bầu trời sáng tỏ, thế thì không có mây... Nếu có mây, và nhiều mây, thế thì mặt trời sẽ bị che khuất đằng sau mây và không có thể có trời sáng tỏ được. Bạn không thể thấy được trời vì mây.

Sáng tỏ là sản phẩm phụ của tính thiền, không của ý nghĩ. Nhưng đây là điều đang xảy ra khi học giả làm những điều này. Theo cách riêng của họ, họ đang làm việc phục vụ lớn, không biết khác biệt thực. Và người ta không thể mong đợi rằng họ sẽ có khả năng biết được - họ đã không kinh nghiệm sự sáng tỏ. Họ đã nghĩ về nó, nhưng nghĩ về sáng tỏ là một điều; biết sáng tỏ là điều khác toàn bộ.

Tôi biết sự sáng tỏ, nhưng trong sự sáng tỏ không có ý nghĩ chút nào. Và tôi đã biết ý nghĩ: khi có ý nghĩ không có sự sáng tỏ. Do đó, cần đọc câu này theo cách khác đi một chút:

Khi người đó đã thiền một cách sáng tỏ ba điều này người đó cảm nhận chỉ cái trống rỗng...

Trong lời kinh trước chúng ta đã nói về ba điều này: dục vọng... Ở Ấn Độ nó được gọi là kamma; nó là nguồn của mọi ham muốn. Nhớ điều đó: dục vọng không phải là nguồn duy nhất của dục, nó là cội nguồn của mọi ham muốn. Do đó bạn có thể đổi ham muốn của bạn, bạn có thể quên dục hoàn toàn, nhưng nếu ham muốn vẫn còn dai dẳng nó vẫn là dục vọng. Và bạn có thể quan sát nó...

Có những người bị ám ảnh với tiền. Bạn có thể thấy một điều: họ không còn quan tâm tới dục; toàn thể quan tâm của họ đã đi vào trong tiền. Nhưng bây giờ tiền đã trở thành đối thể dục của họ. Khi họ chạm tới tiền họ chạm cứ như họ đang chạm vào người yêu của họ. Tôi đã thấy những người chạm vào tờ một trăm ru pi với sự trìu mến thế - không thể tin nổi.

Tôi có biết một người mà niềm vui duy nhất là tiền, cho dù là tiền của ai đó khác. Cũng như bạn quan tâm tới đàn bà đẹp chả thành vấn đề đó là vợ của ai. Nếu người đàn bà đẹp đi qua, bạn lập tức trở nên quan tâm; một ham muốn lớn nảy sinh trong bạn. Văn minh ngăn cản bạn; cảnh sát có đó, luật pháp có đó, cho nên bạn không làm gì, bạn không hành động - đó là một điều - nhưng ý nghĩ bắt đầu tưởng tượng. Tâm trí bắt đầu xoay vòng, thêu dệt mơ ước.

Cùng điều đó là đúng về người này. Ông ấy là người họ hàng của tôi. Tiền của ai đó khác... nếu ông ấy thấy rằng bạn có nhiều tờ bạc trong túi bạn, ông ấy sẽ lấy tiền ra, sẽ đếm nó, với sự trìu mến thế - và nó không phải là tiền của ông ấy! Ông ấy sẽ trả lại nó cho bạn, nhưng khi ông ấy trả, bạn có thể thấy nỗi buồn nảy sinh trong mắt ông ấy, bạn có thể thấy sự không sẵn lòng.

Ông ấy bao giờ cũng hỏi về tiền, và ông ấy có đủ tiền. Ông ấy bao giờ cũng vay tiền từ người khác.

Tôi hay hỏi ông ấy, "Bác có tiền - sao bác cứ vay thế?"

Và dần dần, dần dần ông ấy trở nên rất thành thực với tôi và ông ấy nói, "Bác không thể dùng được tiền riêng của bác theo bất kì cách nào. Lấy tiền ra từ túi của bác làm đau lắm - nó làm đau. Bác cảm thấy gần như bị tê liệt! Bác có thể vay nó từ ai đó không?"

Và ông ấy không bao giờ trả lại. Ông ấy nổi tiếng khắp thành phố, rằng một khi ông ấy lấy tiền từ bạn ông ấy sẽ không bao giờ trả lại - ông ấy không thể trả được. Mọi người thường cảm thấy thương hại ông ấy. Ông ấy có mười nhà gỗ một tầng, nhưng bản thân ông ấy sống trong một phòng rất nhỏ, trong một trong những khu phố người hầu của khu nhà của ông ấy. Ông ấy có thể đảm đương được việc có xe hơi đẹp, nhưng ông ấy thường đi xe đẹp cổ và cũ tới mức tôi chưa bao giờ thấy cái gì cổ hơn chiếc xe đạp đó.

Và tôi bảo ông ấy, "Ít nhất bác cũng có thể mua một chiếc xe đạp mới chứ!"

Ông ấy nói, "Nhưng xe này đã phục vụ bác lâu thế rồi. Hơn nữa, nó là món quà của bố bác. Bây giờ bố bác mất rồi và xe này bao giờ cũng nhắc nhở bác về bố bác. Và một điều rất tốt về chiếc xe đạp này - không ai khác có thể đi nó được!"

Thực sự là rất khó đi nó; ông ấy là chuyên gia duy nhất đi nó. Nó có những thứ rất bản chất trong nó - không chắn xích, không chắn bùn, không chuông, không cái gì, không phanh - và thường gây tiếng động nghe được từ xa ít nhất là nửa dặm. Và ông ấy sẽ để nó ở bất kì đâu. Ông ấy nói, "Chẳng ai thèm ăn cắp nó. Ai sẽ ăn cắp nó?" - cả thành phố đều biết nó là xe của ai - "Ông sẽ bị bắt ngay lập tức. Và dù ông đi bất kì chỗ nào ông sẽ làm cho toàn thể hàng xóm biết rằng chiếc xe là của ai."

Ông ấy sẽ đi vào rạp chiếu phim, nhưng ông ấy sẽ không để xe đạp ở chỗ để xe vì ở đó ông ấy phải trả mười hay hai mươi xu hay cái gì đó. Ông ấy sẽ để nó ở bất kì chỗ nào bên ngoài rạp chiếu phim và ông ấy bao giờ cũng thấy xe của mình ở chỗ của nó, ông ấy chưa bao giờ mất nó. Đến tận ngày cuối đời mình ông ấy vẫn dùng chiếc xe đạp của ông ấy.

Ông ấy sống cuộc sống của người nghèo, cuộc sống của người rất nghèo - cuộc sống của kẻ ăn xin. Và ông ấy thu thập nhiều tiền thế... Ông ấy không có con trai, không con gái.

Điều gần như bao giờ cũng xảy ra là người keo kiệt không có con; phải có lí do tâm lí nào đó trong nó. Ở Ấn Độ chính người keo kiệt bao giờ cũng nhận con nuôi - họ là người giầu. Người nghèo có nhiều con, quá nhiều, thực ra họ cần kiểm soát sinh đẻ. Và người giầu, rất giầu, những người keo kiệt, không có con. Họ keo kiệt tới mức cái gì đó sâu xảy ra ngay cả cho hoá chất của họ. Toàn thể dục vọng của họ trở nên bị ám ảnh bởi tiền.

Do đó, nhớ lấy, chất độc đầu tiên Cát Hồng gọi là dục vọng. Nó không có nghĩa chỉ là dục, nó có nghĩa là mọi ham muốn.

Một người Scot tới cổng thu tiền qua cầu, đưa ra một xu cho người phục vụ, và đi tiếp.

"Này, anh thanh niên!" người phục vụ kêu lên. "Tiền đi qua là hai xu!"

"Tôi biết, tôi biết," anh thanh niên đáp lại với giọng mệt mỏi, "nhưng tôi sẽ chỉ đi nửa đường thôi và rồi tôi sẽ nhảy!"

Coroner: "Lời cuối cùng của chồng bà là gì, bà Boccafucci?"

Bà Boccafucci: "Emilio nói, 'Tôi không thấy làm sao họ kiếm được lời về rượu vang này với giá một đô la một thùng.'"

Lời cuối cùng! Lời cuối cùng bao giờ cũng rất quan trọng; chúng là bản chất của cả đời bạn. Có những người thậm chí vào chính lúc cuối của cuộc đời của họ vẫn chỉ nghĩ về tiền.

Khi Thượng đế tạo ra nước Thuỵ Sĩ, ngài hỏi người Thuỵ Sĩ, "Con muốn gì?"

Không chần chừ người Thuỵ Sĩ đáp, "Con muốn nhiều sữa!"

Và Thuỵ Sĩ được vậy.

Sau vài ngày, Thượng đế tò mò hỏi người Thuỵ Sĩ, "Sữa của con có tốt không?"

"Dạ tốt nhất ạ, thưa Trời," người Thuỵ Sĩ đáp. "Ngài thử xem sao!"

Thượng đế nếm nó và thấy thực sự ngon. Thế rồi ngài hỏi người Thuỵ Sĩ, "Con có muốn cái gì khác không?"

Lần nữa, không ngần ngại, người Thuỵ Sĩ đáp, "Dạ có ạ, thưa Trời. Bốn francs cho chỗ sữa ngài uống!"

Cho dù bạn có bắt gặp Thượng đế, nếu bạn bị ám ảnh bởi tiền bạn sẽ không thấy Thượng đế chút nào; bạn sẽ làm điều bạn đã từng làm cả đời bạn. Bạn sẽ không thay đổi chỉ bởi việc thấy Thượng đế - chẳng cái gì có thể thay đổi được bạn trừ phi tự bản thân bạn vứt bỏ chất độc này. Và việc này xảy ra chỉ khi một người trở thành có tính thiền thực sự, khi mọi ý nghĩ biến mất và người đó có sáng tỏ để thấy, khi người đó trở thành người thấy.

Chất độc thứ nhất là dục vọng. Và khi bạn nghĩ dưới dạng dục vọng, bất kì hình dạng nào mà dục vọng của bạn lấy - nó có thể đã trở thành ám ảnh tiền, nó có thể đã trở thành ám ảnh quyền, không thành vấn đề - khi bạn nghĩ dưới dạng dục vọng, mọi thứ sâu bên trong bạn trở thành dục. Cả đời bạn vận hành như cái máy biến đổi mọi thứ, để tạo ra ngày một nhiều dục vọng hơn. Bất kì cái gì bạn nhìn, bạn nhìn dục vọng riêng của bạn được phóng chiếu ra - bạn không thể thấy được cái gì khác. Bạn mất mọi sáng tỏ. Bạn trở nên được bao quanh bởi những chất độc bên trong riêng của bạn; nó cứ bốc lên như khói quanh bạn và bạn có thể thấy chỉ qua làn khói đó, và khổ bóp méo mọi thứ mà bạn nhìn.

Một binh nhì da đen và một trung sĩ da trắng sẵn sàng đi phép thì vào phút cuối, mệnh lệnh đưa tới rằng việc đi phép của binh nhì bị cắt bỏ. Người da đen nói với người da trắng, "Trung sĩ ơi, xin anh nói với cô bạn gái của tôi điều đã xảy ra để cô ấy không nghĩ là tôi chạy theo quí bà khác được không? Cô ấy sẽ tin anh vì anh là trung sĩ của tôi."

Viên trung sĩ đồng ý và lấy địa chỉ. Khi anh ta tới thị trấn anh ta nhìn vào số nhà và hoá ra đấy là nhà thổ trong khu nhà thổ của thị trấn. Anh ta lên nhà và gõ cửa.

Một bà da đen to lớn ra mở cửa. Bà ta ngó nhìn viên trung sĩ và nói, "Tôi cực kì tiếc thưa trung sĩ, nhưng chúng tôi không phục vụ đàn ông da trắng ở đây, chỉ đàn ông da đen thôi."

Viên trung sĩ trả lời, "Bà không hiểu, thưa bà! Bà thấy đấy, tôi có lời nhờ của anh binh nhì da đen..."

Bà này mỉm cười và nói, "Vậy à, anh không phải là người khác thường đấy chứ."

Chất độc thứ hai, giận, nảy sinh bất kì khi nào dục vọng của bạn bị ngăn cản. Bất kì cái gì tới như một chướng ngại cho ham muốn của bạn đều tạo nên giận dữ. Bạn không thể vứt bỏ giận dữ được chừng nào ham muốn chưa biến mất.

Nhiều người đã hỏi tôi cách vứt bỏ giận dữ, và họ không hiểu rằng họ đang nói về vứt bỏ triệu chứng. Giận chỉ là triệu chứng. Nó đơn giản nói ở đâu đó ham muốn của bạn đã bị cản trở: cái gì đó len vào giữa bạn, ham muốn của bạn, và đối thể của ham muốn của bạn - do đó mới có giận. Giận nghĩa là, "Mình sẽ phá huỷ vật cản!" Bạn không thể vứt bỏ được giận dữ trừ phi dục vọng của bạn biến mất.

Không phải ngẫu nhiên mà chồng và vợ liên tục cãi nhau, bởi lẽ đơn giản... dục vọng. Họ là đối thể dục của nhau, và bất kì khi nào có dục vọng đều có giận. Giận giống như khói. Nhà logic nói, "Hễ có khói ắt có lửa." Bạn cũng có thể nói, "Hễ có giận ắt có dục vọng." Khi giận biến mất, điều đó nghĩa là dục vọng đã biến mất.

Biến mất của giận chỉ xảy ra, là có thể chỉ khi gốc rễ không còn đó. Bạn không thể bỏ được giận của bạn; bạn sẽ phải đi tới chính gốc rễ. Cố vứt bỏ giận sẽ chỉ tạo ra loại giận mới: bạn sẽ kìm nén nó từ phía bên này, nó sẽ tới từ phía bên kia.

Chính bởi vì sự kiện nổi tiếng này mà trong nhiều thế kỉ không nước nào đã cho phép quân nhân được có dục vọng tự do, bởi vì nếu người lính được phép có tự do về dục vọng của họ, nếu dục của họ không bị cản trở, thế thì họ mất tính phá huỷ, thế thì họ mất giận dữ, thế thì họ không còn giận nữa.

Dục của họ phải bị cản trở theo nhiều cách. Họ phải bị tách rời vợ họ, họ phải bị giữ xa khỏi vợ họ. Không chỉ điều đó: họ phải được phép xem mọi loại phim khiêu dâm, mọi loại tạp chí khiêu dâm; họ phải được phép có tiếp xúc với các nữ nghệ sĩ. Khi hai nước lâm chiến, các nữ nghệ sĩ đi tới gặp gỡ và thăm lính tráng để động viên họ. Và động viên của họ là gì? Động viên là thế này: rằng khi một nữ nghệ sĩ tới, một Sophia Loren tới, mọi lính đều trở nên bị khuấy động về dục. Tất nhiên, họ không thể làm gì được về điều đó; năng lượng bị khuấy động đó biến thành giận dữ, nó trở thành cuồng nộ. Thế thì họ bắt đầu tiêu diệt kẻ thù, thế thì họ điên lên trong huỷ diệt. Nếu họ được phép có vợ của họ đi cùng họ ở mặt trận, bạn gái của họ, thế thì họ sẽ mất mối quan tâm vào chiến tranh.

Đó là một trong các lí do tại sao người Mĩ cứ thua mọi cuộc chiến: lính của họ là những người ít kìm nén dục nhất; họ sẽ không thắng cuộc chiến nào. Kìm nén dục là điều phải có - nó tạo ra giận. Và khi có nhiều giận thế và không có lối ra khác, thế thì lối ra duy nhất có thể là tiêu diệt kẻ thù.

Và bạn có quan sát không? Bao giờ chuyện cũng xảy ra bất kì khi nào một quân đội chinh phục một nước: nạn nhân đầu tiên là đàn bà của nước đó; họ bị hiếp ngay lập tức. Bạn không thể thấy ra mối quan hệ sao? Lính có đánh nhau vì đàn bà không? Tại sao ngay lập tức, khoảnh khắc người lính vào một thành phố như kẻ chinh phục, họ bắt đầu hãm hiếp quanh đó cứ dường như họ chỉ chờ đợi cơ hội? Đã không có cơ hội nào sẵn có; bây giờ nó sẵn có. Điều đầu tiên là: hiếp đàn bà. Và điều thứ hai là: cướp tiền của mọi người. Điều thứ nhất bắt nguồn từ giận và điều thứ hai bắt nguồn từ tham, nhưng nguyên nhân của cả hai nằm ở điều thứ nhất. Dục bị kìm nén sẽ tạo ra giận và tham.

Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng bất kì tôn giáo nào đã từng dạy cho các tín đồ của nó một loại kìm nén nào đó bao giờ cũng giúp cho tín đồ của nó trở nên giầu. Ở Ấn Độ, người Jain đã trở nên rất giầu; họ là những người kìm nén nhất. Và cái gì đó có ý nghĩa phải được hiểu về tâm lí của họ. Tôn giáo của họ nói: Kìm nén dục; brahmacharya, vô dục là mục đích của họ. Và điều thứ hai: Không bạo hành; cho nên giận không được phép. Dục không được phép, giận không được phép. Bây giờ năng lượng này đi đâu? Bây giờ chỉ khả năng thứ ba còn lại - tham. Cho nên mọi người Jain đã trở thành những người tham nhất trên nước này. Họ là cộng đồng nhỏ, cộng đồng rất nhỏ - trong một nước bao la, lớn thế, họ không là gì - nhưng dầu vậy họ rất mạnh vì họ có mọi tiền bạc. Bạn sẽ không bắt gặp một người ăn xin Jain đâu; không cái gì giống như điều đó tồn tại. Họ không phải là người nghèo - họ không thể nghèo được; tôn giáo của họ đã làm cho họ tuyệt đối chắc chắn rằng họ sẽ giầu. Dục phải bị kìm nén và giận phải bị kìm nén. Bây giờ chỉ một lối ra còn lại - tham. Trở nên tham đi.

Bạn có biết không? Từ tiếng Anh "love" bắt nguồn từ gốc tiếng Phạn lobha. Lobha nghĩa là tham; nó là tham thân thể người khác. Cho nên bất kì khi nào một người nhìn một cách dâm dục vào ai đó khác bạn có thể thấy tham trong mắt người đó: người đó muốn sở hữu thân thể của người khác. Đó là lí do tại sao mọi nền văn minh đều cho phép chỉ một giới hạn thời gian nào đó để nhìn; nhiều hơn điều đó bị coi là xúc phạm. Bằng cách nào đó một thoả thuận tinh vi đã xảy ra, một hợp đồng sâu sắc: ba giây là được phép. Nếu bạn quan sát người đàn bà trong ba giây, không xúc phạm nào sẽ xảy ra; điều đó được coi là tình cờ. Nhưng nếu bạn nhìn nhiều hơn, thế thì cô ấy sẽ trở nên bực mình. Nếu bạn cứ nhìn vào cô ấy, thế thì cô ấy sẽ giận; thế thì bạn đang cư xử theo cách vô văn minh. Bạn đang nhìn vào thân thể cô ấy với tham lam để sở hữu, để khai thác, để dùng như một phương tiện. Và tất nhiên, không ai muốn bị thu lại thành phương tiện, thành đồ vật, thành tài sản.

Từ tiếng Anh "greed-tham" cũng bắt nguồn từ từ tiếng Phạn, griddha; griddha nghĩa là chim kền kền. Người tham có phẩm chất tựa chim kền kền, dường như người đó muốn ăn người khác. Và cách diễn đạt đó đã đi vào nhiều ngôn ngữ, đặc biệt là tiếng Pháp.

Tôi đã nghe:

Một con tầu bị đắm, và một người đàn bà Pháp bơi lên một hòn đảo. Cô ấy tuyệt đối trần truồng; mọi quần áo của cô ấy đã mất trong biển. Nhưng bờ biển đẹp, và cô ấy nằm trên bãi biển trần truồng, tắm nắng, vừa nghĩ "Làm gì tiếp đây?" - liệu có ai sống trên hòn đảo này hay không. Dường như chẳng có dấu hiệu có ai sống...

Và thế rồi bất ngờ cô ấy nghe thấy tiếng động; ai đó đang tới, một người đàn ông rất to lớn, gần như con khỉ đột khổng lồ. Một bộ lạc rất nhỏ sống ở đó. Bộ lạc này là gồm những kẻ ăn thịt người, do đó rất nhỏ, vì kẻ ăn thịt người không thể tăng trưởng được - họ bắt đầu ăn lẫn nhau. Và kẻ ăn thịt người này rất sung sướng khi thấy thức ăn mới - cô ấy trông ngon lành thế!

Anh ta tới, nhìn cô ấy và nói, "Tôi muốn ăn cô!"

Và người đàn bà Pháp nói, "Thế thì anh còn đợi gì nữa?"

Kẻ ăn thịt đâm phân vân. Đây là lần đầu tiên ai đó đã nói, "Sao anh còn đợi? Để làm gì? Bắt đầu đi!" - bởi vì trong tiếng Pháp "ăn" nghĩa là "Tôi muốn làm tình với cô."

Ngôn ngữ cho chỉ dẫn lớn lao. Thực ra, khi bạn nhìn vào người đàn bà với con mắt tham lam bạn muốn ăn cô ấy - hay đàn bà nhìn vào đàn ông... Bình thường họ không nhìn vì họ đã được dạy trong nhiều thế kỉ không nhìn vào đàn ông; điều đó đã trở thành cái duyên dáng nữ tính của họ. Khi ai đó nói với người đàn bà, "Anh yêu em," cô ấy nhìn xuống - chỉ để chắc chắn liệu anh ta có thực ngụ ý điều đó hay chỉ nói điều vô nghĩa! Cô ấy không tin vào lời, cô ấy tin vào thân thể, cô ấy tin vào sinh lí - và thân thể không bao giờ nói dối.

Khi người ta đã đi tới thiền sâu, có sáng tỏ. Trong sáng tỏ này cả ba chất độc này biến mất không để lại dấu vết nào đằng sau. Và thế thì người đó cảm nhận chỉ cái trống rỗng.

Kinh nghiệm đầu tiên về thiền là kinh nghiệm về cái trống rỗng, nhưng nhớ nó là kinh nghiệm đầu tiên, satory - tỏ ngộ đầu tiên: người ta kinh nghiệm cái trống rỗng. Nhưng nhớ, kinh nghiệm này vẫn có đó; đó là lí do tại sao nó ở chỗ bắt đầu, không ở chỗ cuối. Bạn kinh nghiệm cái trống rỗng, nhưng bản thân cái trống rỗng được kinh nghiệm trở thành cái gì đó; nó không phải là cái không.

Đó là lí do tại sao bạn sẽ bắt gặp nhiều chuyện Thiền...

Đệ tử tới thầy và nói, "Tôi đã kinh nghiệm được cái không," và thầy đánh anh ta và nói, "Vậy quay về và thiền lại đi! Ông lỡ rồi!"

"Nhưng," anh ta nói, "tôi đã kinh nghiệm cái không! Và đó là điều thầy đã nói - rằng kinh nghiệm cái không là điều thiền tất cả là gì. Và tôi đã kinh nghiệm nó!"

Nhưng thầy vẫn kiên trì: "Ông đi và thiền lại đi - ông đã lỡ rồi." Bởi vì nếu cái không trở thành kinh nghiệm, thế thì nó là cái gì đó. Bạn có thể kinh nghiệm chỉ vật nào đó. Bạn đã kinh nghiệm cái không, nhưng một khi được kinh nghiệm, nó trở thành đối thể, và có phân chia: người biết và cái được biết. Do đó nó là satory - tỏ ngộ đầu tiên.

Lời kinh của Cát Hồng là cực kì hay. Ông ấy nói:

... người đó cảm nhận chỉ cái trống rỗng, nhưng khi người đó suy tư về cái trống rỗng,

nhưng khi người đó đi sâu hơn vào trong thiền.

... người đó nhận ra rằng cái trống rỗng cũng là trống rỗng và đã trở thành cái không.

Khi người đó đi sâu hơn, tỏ ngộ thứ hai mở ra. Đi sâu hơn, người đó biến mất như người kinh nghiệm. Đâu tiên đối thể biến mất, cái trống rỗng có đó; nhưng vì thói quen cũ mà cái trống rỗng trở thành đối thể. Bây giờ người kinh nghiệm cũng đã mất rồi. Bây giờ chỉ còn cái không - không ai kinh nghiệm, không cái gì được kinh nghiệm. Đây là tỏ ngộ thứ hai.

Cái trống rỗng đã tan biến vào trong cái không, người đó nhận ra rằng cái không của không có gì cũng là không có gì...

Đây là khả năng cuối cùng của việc vẫn bị móc vào trong kinh nghiệm. Bạn có thể bắt đầu hân hoan, rẳng "Mình đã kinh nghiệm cái không;" thế thì bạn vẫn còn bị móc với tỏ ngộ thứ nhất. Bạn có thể bắt đầu hân hoan, rằng "Mình đã kinh nghiệm rằng không có kinh nghiệm và không có người kinh nghiệm. Mình đã kinh nghiệm cả hai cái đó là trống rỗng." Điều đó là tốt hơn kinh nghiệm đầu, nhưng bằng cách nào đó người kinh nghiệm vẫn tự cứu mình theo cách tinh vi. Nó đã đi sâu hơn chút ít - bây giờ nó nói, "Mình đã kinh nghiệm rằng không có kinh nghiệm và không có người kinh nghiệm." Bạn sẽ bị móc vào tỏ ngộ thứ hai.

Tỏ ngộ thứ ba xảy ra khi:

...người đó nhận ra rằng tính không của không có gì cũng là không có gì, và khi tính không dưới cùng được đạt tới...

Và đây là tính không tối thượng; thế thì người đó không tuyên bố chút nào. Bây giờ nếu bạn hỏi người đó, "Ông đã kinh nghiệm cái gì?" người đó sẽ mỉm cười. Người đó không thể nói, "Tôi đã kinh nghiệm cái không." Đây là samadhi - tỏ ngộ thứ ba, việc nở hoa tối thượng. Bây giờ chẳng cái gì còn lại, không như đối thể không như chủ thể không như chủ thể siêu việt mà siêu việt lên trên cả hai. Chẳng cái gì còn lại. Phật đã gọi nó là anata, vô ngã - trạng thái của tính không toàn bộ, tính không tuyệt đối. Do đó, người đó có thể nói được gì về nó?

Bất kì khi nào bất kì ai hỏi Phật về kinh nghiệm tối thượng ông ấy sẽ nói, "Đừng hỏi câu hỏi ngớ ngẩn, hỏi câu hỏi thực tế vào. Hỏi cách đạt tới nó, đừng hỏi cái gì đã xảy ra. Cái đó không thể truyền đạt được."

Lão Tử nói: Chân lí được nói ra trở thành giả. Chân lí không được nói ra vẫn còn thật: được thốt ra, trở thành giả.

Upanishads nói: Những người nói rằng "Chúng tôi biết," đều không biết.

Socrates trong giai đoạn cuối cùng của cuộc đời đã nói, "Tôi chỉ biết một điều, rằng tôi không biết gì cả." Nhưng Cát Hồng thậm chí sẽ nói điều đó là không đúng: đó là tỏ ngộ thứ hai thôi, bởi vì ông ấy vẫn nói, "Tôi chỉ biết một điều, rằng tôi không biết gì cả." Dầu vậy phát biểu này vẫn có đó, người biết vẫn có đó. Theo Cát Hồng, ít nhất, phát biểu này là sai. Socrates đã đạt tới samadhi tối thượng, nhưng Socrates là người Hi Lạp, ông ấy không là người Trung Quốc - ông ấy nói theo cách người Hi Lạp có thể đã hiểu. Ông ấy không thể nói theo kiểu ngược đời, ông ấy nói một cách logic. Do đó ông ấy nói, "Tôi chỉ biết một điều, rằng tôi không biết gì cả."

Cát Hồng thậm chí sẽ không nói điều đó; Phật thậm chí sẽ không nói điều đó; Lão Tử thậm chí sẽ không nói điều đó.

khi tính không dưới cùng được đạt tới, có cái thực nhất được tìm thấy là cái tĩnh lặng sâu sắc và không đổi.

Bây giờ lần đầu tiên cái tĩnh lặng sâu sắc, không đổi ngự trị. Vĩnh hằng đã mở cánh cửa của nó cho bạn. Bây giờ không còn rơi lại nữa. Bạn đã đi ra ngoài cõi bên kia. Bạn đã siêu việt lên trên ngay cả điều siêu việt.

Trong tĩnh lặng sâu lắng này làm sao ham muốn có thể được sinh ra? Khi ham muốn không còn được sinh ra, thế thì có cái tĩnh lặng bản chất và không đổi.

Chân lí là không đổi về bản chất.

Mọi thứ trong trời và đất là trong không đổi bản chất.

Cho nên bất kì cái gì thay đổi đều chỉ là hình tướng, điều ở Ấn Độ các nhà huyền môn đã gọi mà maya. Nó chỉ là hình tướng.

Hình dạng thay đổi; chân lí bản chất vẫn còn như vậy. Sóng thay đổi; đại dương vẫn còn như vậy mãi mãi. Một khi bạn đã thấy điều này bạn không còn trong khổ nào bởi vì bạn không còn trong bất kì ham muốn nào, không còn trong bất kì mơ nào. Một khi bạn đã kinh nghiệm điều này bạn đã trở thành một phần của cái toàn thể hữu cơ. Bạn đã biến mất; bạn đã trở thành chính đại dương. Bạn không còn là một con sóng nữa, bạn không còn là một giọt sương, bạn là đại dương.

Kinh nghiệm tính bao la đại dương này là kinh nghiệm về Đạo. Và bí mật là trong thiền. Và người ta phải trải qua ba giai đoạn: tỏ ngộ thứ nhất, kinh nghiệm về trống rỗng; tỏ ngộ thứ hai, kinh nghiệm rằng cái trống rỗng là trống rỗng; và tỏ ngộ thứ ba... bây giờ không cái gì có thể được nói thêm nữa. Bây giờ mọi thứ đều là im lặng và tĩnh lặng, tuyệt đối im lặng và tĩnh lặng.

Thầy là người đã đạt tới cái thứ ba này, người đã siêu việt lên trên cái siêu việt, người đã đi ra ngoài cõi bên kia. Thế thì thầy có bản thể của cái toàn thể. Trong hoà điệu với thầy là trong hoà điệu với Thượng đế, với Đạo, với chân lí. Trong hoà điệu với thầy là trong hoà điệu với phúc lạc, với cái đẹp, với phúc lành.

Xem Tiếp Chương 4Quay Về Mục Lục Tập 2

Quay Về Mục Lục Toàn Tập


Đọc Miễn Phí Sách Osho - Download Sách Osho PDF

Nghe Miễn Phí Sách Nói Osho Hoặc Download ê

0 Đánh giá

Ads Belove Post