Chương 4. Khám Phá Thượng Đế Riêng Của Bạn

Chương 4. Khám Phá Thượng Đế Riêng Của Bạn

Price:

Read more

Thiền Osho by Vô Ngã

Sách Osho

(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)

Đạo – Cổng Vàng – Osho

(Tập 1)

Bài Nói Về Kinh Điển Về Thuần Khiết Của Cát Hồng

Chương 4. Khám Phá Thượng Đế Riêng Của Bạn









Nghe hoặc Tải MP3 'Đạo - Cổng Vàng (Tập 1)' ê


Câu hỏi thứ nhất:

Osho ơi,

Xin thầy nói về những người như Bertolt Brecht người bác bỏ tôn giáo và tâm linh và vậy mà tình yêu sáng tạo mạnh mẽ của họ chói ngời như ánh sáng giận dữ trong thế kỉ hai mươi.

Tim Green,

Tôn giáo trong nhiều thế kỉ đã trở nên được liên kết với thái độ phủ định cuộc sống, và hiển nhiên bất kì thái độ phủ định cuộc sống nào cũng không thể có tính sáng tạo được; mang tính sáng tạo trở thành điều không thể được cố hữu. Tính sáng tạo cần triết lí khẳng định cuộc sống, tính sáng tạo cần tình yêu vô cùng vì sự tồn tại, và cái gọi là tôn giáo đã từng dạy cho mọi người từ bỏ cuộc sống, trốn khỏi cuộc sống; họ đã từng chống lại cuộc sống.

Bởi vì điều này, không người sáng tạo nào có thể quan tâm tới tôn giáo như vậy. Nếu người đó trở nên quan tâm người đó sẽ mất tính sáng tạo của mình; nếu người đó muốn vẫn còn sáng tạo người đó sẽ phải hi sinh tính tôn giáo của mình. Tôn giáo đã không để lại bất kì chọn lựa nào khác. Bởi vì điều này, chỉ người không sáng tạo mới trở nên quan tâm tới tôn giáo.

Tôi không nói về Phật Gautam, Lão Tử, Zarathustra, Jesus, Mohammed, Mahavira, Krishna, Kabir, Nanak; để vài cái tên này sang bên đi. Họ có tính sáng tạo mênh mông, họ là nhà thơ của sự tồn tại. Họ là những nhà thơ còn vĩ đại hơn cái gọi là nhà thơ của bạn - toàn thể cuộc sống của họ là thơ ca. Họ là những nhạc sĩ lớn. Họ có thể chưa bao giờ chơi bất kì nhạc cụ nào, nhưng trái tim của họ đầy hài hoà, âm nhạc, giai điệu. Chính nhịp tim đập của họ là nhịp đập của nhịp điệu, của âm nhạc. Cuộc sống của họ là điệu vũ, nó là bài ca, nó là lễ hội. Do đó, xin để những người này sang bên.

Nhưng các tôn giáo không có liên quan gì tới họ. Ki tô giáo, Hindu giáo, Jaina giáo, Phật giáo, Mô ha mét giáo, những tôn giáo có tổ chức này chẳng có liên quan gì tới người sáng lập riêng của họ. Nếu bạn nhìn sâu, nếu bạn thiền về vấn đề này, bạn sẽ ngạc nhiên. Đây là quan sát của tôi: rằng những người tự gọi họ là người Ki tô giáo chẳng quan tâm chút nào tới Christ và thông điệp của ông ấy; thực ra, họ chống lại mọi điều mà Christ đại diện và hi sinh cả đời ông ấy. Những người tự gọi mình là người Hindu chẳng liên quan gì tới Krishna; mặc dầu họ tôn thờ ông ấy, việc tôn thờ không tạo ra khác biệt gì trong các kiếp sống của họ. Họ đã không học được nghệ thuật mà Krishna đại diện; thực ra, họ đã diễn giải Krishna theo ý tưởng riêng của họ. Và cùng điều đó là trường hợp với Phật tử và người Jaina và các tôn giáo khác. Tất cả họ đều đi ngược lại với người sáng lập nguyên thuỷ. Họ đã sa ngã thành nạn nhân của các tu sĩ - và các tu sĩ chẳng liên quan gì tới tôn giáo chút nào.

Tu sĩ và chính khách là trong cùng mưu đồ để khai thác con người, và cách tốt nhất để khai thác con người là phá huỷ thông minh của họ. Tất nhiên, những người như Bertolt Brecht không thể hỗ trợ cho tôn giáo như vậy được. Những tôn giáo này đã làm nhân loại thành nô lệ. Họ đã không giúp mọi người được tự do, được độc lập, được là cái ta riêng của họ; ngược lại, họ đã thu con người thành nô lệ; nhân danh tôn giáo họ đã tạo ra nhà tù lớn. Và chiến lược là tinh vi - rất tinh vi, rất tinh ranh. Chiến lược cơ bản là như nhau được dùng trên khắp thế giới bởi mọi tôn giáo.

Nguyên lí đầu tiên và nền tảng nhất của chiến lược đó là: phá huỷ tình yêu của mọi người về cuộc sống, tình yêu về niềm vui, tình yêu về lễ hội. Một khi gốc rễ của mọi người bị chặt khỏi sự tồn tại họ bắt đầu co lại trong bản thân họ, họ bắt đầu mất đi cội nguồn của nuôi dưỡng. Toàn thể bản thể của họ trở nên bị đầu độc.

Họ thực sự không thể thoát được khỏi cuộc sống - không ai có thể thực sự thoát khỏi cuộc sống. Ngay cả những người trốn lên núi cũng phải phụ thuộc vào những người làm việc ở bãi chợ. Không ai có thể thực sự thoát khỏi cuộc sống. Những người đã đi vào các tu viện là phụ thuộc vào những người sống ở bên ngoài; họ phụ thuộc vào sự hỗ trợ của người bên ngoài.

Nếu khắp thế giới, nếu toàn thể nhân loại từ bỏ cuộc sống, đó sẽ là tự tử toàn cầu. Sư Phật giáo phải đi ăn xin từ những người còn chưa là sư. Sư Ki tô giáo phải sống trên những cúng dường của những người vẫn trong thế giới. Không ai thực sự trốn khỏi cuộc sống trong khi người đó vẫn sống; điều đó là không thể được. Nhưng cội nguồn của bạn có thể bị đầu độc. Bạn không thể trốn khỏi cuộc sống và bạn không thể sống cuộc sống của bạn một cách toàn bộ. Bạn bắt đầu cảm thấy mặc cảm về việc sống động: bạn bắt đầu cảm thấy dường như sống động là tội lỗi. Bạn bắt đầu chặt bớt cuộc sống của bạn nhiều nhất có thể được; bạn bắt đầu sống ở mức tối thiểu. Điều đó nữa bạn chấp nhận chỉ như điều xấu cần thiết.

Đó là lí do tại sao tiếng cười đã biến mất, tính toàn thể đã biến mất. Mọi người trông buồn; sự tồn tại của họ đã trở thành vô nghĩa. Họ không sáng tạo; họ là một loại lấp lửng, không ở đây không ở kia. Đây là điều các tôn giáo của bạn đã làm.

Tôi đồng ý với những người như Bertolt Brecht. Tôi cũng không ủng hộ cho cái gọi là tôn giáo và tâm linh. Nhưng tôi không thể đồng ý toàn bộ với Bertolt Brecht bởi lẽ đơn giản là bất kì cái gì tôn giáo đã từng làm, đó không phải là công việc của tôn giáo thực. Tôn giáo thực còn chưa tới, tôn giáo thực còn chưa được sinh ra. Chống lại Ki tô giáo, chống lại Hindu giáo, chống lại Mô ha mét giáo, chống lại Phật giáo - tôi có thể đồng ý - nhưng không chống lại tính tôn giáo vì điều đó nghĩa là bạn đã làm cho tôn giáo có tổ chức thành đồng nghĩa với tính tôn giáo; nó không phải vậy. Kết án các tu sĩ, kết án giáo hoàng, kết án Shankaracharya, nhưng không kết án Phật và Lão Tử và Jesus và Mohammed. Họ đã đóng góp mênh mông cho trưởng thành bên trong của con người; họ là tuyệt đối sáng tạo. Tất nhiên, họ đã từng bị diễn giải bởi những người sai, nhưng họ có thể làm gì được về điều đó? Họ cần những người như Bertolt Brecht diễn giải họ.

Cho nên tôi có thể đồng ý với Bertolt Brecht tới điểm nào đó và thế rồi chúng tôi xa lìa. Cái gọi là tôn giáo phải bị trừ tiệt khỏi trái đất vì đó là cách duy nhất cho tôn giáo thực tới, cho cái đích thực tới, nhưng tính tôn giáo đích thực không thể bị kết án. Nếu bạn kết án nó, thế thì kết quả sẽ là thế này... Bản thân Tim Green nói trong câu hỏi của anh ấy:

...vậy mà tình yêu sáng tạo mạnh mẽ chói ngời của họ như ánh sáng giận dữ trong thế kỉ hai mươi.

Bây giờ, yêu không thể là giận được. Giận có tính phá huỷ, yêu có tính sáng tạo. Giận là một phần của hận thù; nó chưa bao giờ là một phần của yêu. Đó là chỗ Bertolt Brecht đã bỏ lỡ vấn đề. Nếu bạn chống lại tính tôn giáo thế thì bạn sẽ sáng tạo, nhưng tính sáng tạo của bạn sẽ bệnh hoạn. Nó sẽ là ốm yếu dễ dàng, nó sẽ không đẹp.

Và bạn có thể thấy điều đó. Toàn thể nghệ thuật hiện đại là xấu bởi lẽ đơn giản là nó không có nguồn gốc tâm linh, nó không có phẩm chất thiền trong nó. Bạn có thể nhìn vào các tranh của Picasso: chúng chỉ ra cái gì đó không lành mạnh trong con người. Picasso là một thiên tài - chỉ với chút ít tâm linh ông ấy chắc đã vượt qua Michelangelo. Ông ấy có năng lực, ông ấy có tài năng, ông ấy có thông minh, nhưng cái gì đó bị thiếu. Ông ấy trong hỗn độn, ông ấy không có kỉ luật bên trong.

Đó là lí do tại sao Michelangelo tạo ra nghệ thuật đẹp, Picasso tạo ra nghệ thuật xấu. Nhìn tranh của Picasso người ta nhất định bị đập vào bởi sự kiện là có dấu vết gì đó không lành mạnh trong nó.

Có nhiều câu chuyện về Picasso...

Một triệu phú Mĩ tới Picasso. Ông ấy muốn có hai bức tranh và ông ấy muốn có chúng ngay lập tức. Và ông ấy sẵn sàng trả bất kì giá nào - tiền không thành vấn đề. Picasso có chút phân vân vì ông ấy chỉ có một bức tranh còn lại. Ông ấy đòi một giá mà ông ấy nghĩ nhà triệu phú này sẽ nói, "Tôi sẽ mua chỉ một tranh thôi."

Nhưng ông này nói, "Được, tôi sẽ trả giá đó. Tranh đâu? Đem tranh ra, và đây là séc! "

Ông ấy đi vào, cắt bức tranh ra làm đôi và ông ấy đưa cho nhà triệu phú hai bức tranh.

Thực ra, bạn thậm chí có thể cắt tranh ra làm bốn; nó sẽ không tạo ra mấy khác biệt.

Tôi đã nghe một câu chuyện khác:

Một bà giầu có muốn ông ấy vẽ chân dung bà ấy; ông ấy đã vẽ nó. Khi bà ấy tới, bà ấy nhìn vào nó và bà ấy nói, "Mọi sự đều được, chỉ mỗi điều tôi không thích cái mũi. Ông sẽ phải vẽ lại mũi."

Picasso nói, "Điều đó là không thể được."

Bà ấy nói, "Sao lại không thể được? Tôi sẵn sàng trả tiền cho điều đó. Nếu ông cần nhiều tiền hơn cho điều đó tôi sẵn sàng trả cho nó."

Ông ấy nói, "Tiền không thành vấn đề. Tôi không biết cái mũi ở đâu cả!"

Một người đàn ông đi tìm vợ. Ông ta hỏi một nhân viên mai mối. Ông mối này nói, "Tôi có một người đàn bà đẹp dành cho ông, một bà goá rất giầu. Tất nhiên, bà ấy có già hơn ông chút ít, nhưng có nhiều tiền tới mức tôi nghĩ ông chắc sẽ không bỏ lỡ cơ hội này. Và bà ấy đẹp! Đi cùng tôi đi. Tôi sẽ chỉ cho ông xem người đàn bà đó."

Người này đi tới xem người đàn bà này. Nhìn bà ấy, ông ta không thể tin được vào mắt mình - ông ta chưa bao giờ thấy người đàn bà nào xấu thế. Một mắt nhìn hướng này, mắt kia nhìn hướng khác. Mũi khoằm, răng vẩu, tóc giả, chân này dài hơn chân kia. Thật là kinh tởm mà nhìn bà ấy!

Ông ta thì thào vào tai ông mối, "Ông gọi người đàn bà này là đẹp sao?"

Ông mối nói, "Không cần phải thì thào - bà ấy điếc nữa! Ông có thể nói to bất kì điều gì ông muốn nói. Và tôi không giúp gì được cho ông nếu ông không thích Picasso. Đó không phải là lỗi của tôi!"

Nghệ thuật hiện đại là xấu bởi lẽ đơn giản là nó không có tính tâm linh trong nó. Thơ hiện đại là xấu. Nhạc hiện đại chỉ là tiếng ồn - rất dục vọng, bởi vì khi tính tâm linh không hiện diện, mọi cái còn lại là dục vọng. Tính tâm linh là cùng năng lượng như dục nhưng ở đỉnh cao nhất, ở đỉnh hoàn thiện nhất. Dục cũng là cùng năng lượng nhưng rất thô, ở điểm thấp nhất. Dục là năng lượng con vật; cùng năng lượng đó đi qua nghệ thuật của tâm linh trở thành tính tâm linh, trở thành samadhi, trở thành siêu tâm thức; nó trở thành năng lượng thiêng liêng.

Do đó Bertolt Brecht giận dữ. Cái giận đó có thể được hiểu. Nhưng giận dữ không thể có tính sáng tạo được; cho dù nó sáng tạo, tính sáng tạo đó sẽ mang cái gì đó phá huỷ trong nó.

Bạn sẽ ngạc nhiên mà biết rằng Adolf Hitler khi còn trẻ, đã muốn trở thành hoạ sĩ. Ông ta đã bị từ chối không được vào viện hàn lâm nghệ thuật. Thế rồi ông ta muốn trở thành kiến trúc sư, nhưng ông ta lại bị từ chối. Và cùng người này đã trở thành người huỷ diệt nhất mà thế kỉ này đã biết tới - không chỉ thế kỉ này đã biết tới mà toàn thể lịch sử biết tới. Nếu như ông ấy đã được nhận vào viện hàn lâm nghệ thuật ông ta chắc đã trở thành Picasso khác; tranh của ông ta chắc đã có tính huỷ diệt.

Ông ta đã vẽ vài thứ - những tranh đó vẫn còn lại. Chúng nói nhiều về ông ta. Ông ta dùng mầu đỏ máu theo mọi tỉ lệ. Mầu yêu thích nhất của ông ta là đỏ máu và đen; với hai mầu này ông ta đã làm việc, ông ta đã vẽ. Ông ta đã để lại vài bức tranh, ý tưởng kiến trúc của ông ta; chúng trông không như Taj Mahal, chúng trông giống nhà thương điên! Nhưng người này đã trở nên có quyền lực, ông ta đã trở thành chính khách, và ông ta thực sự đã làm bức tranh và kiến trúc và công trình nghệ thuật của ông bằng nhân loại sống, trên vải vẽ bao la của nhân loại. Nhưng hai mầu này vẫn còn là mầu của ông ấy: đem sẫm, mầu của cái chết, và đỏ máu, mầu của sát hại, giận dữ và điên khùng.

Bertolt Brecht đáng ra là vị Phật, cũng như Friedrich Nietzsche đáng ra đã là vị Phật. Nhưng họ trở nên quá bị ám ảnh với cái gọi là tôn giáo. Và đi ngược lại cái gọi là tôn giáo, họ đi ngược lại tôn giáo theo nghĩa thực. Đó là chỗ họ bỏ lỡ, họ đi sai.

Tôi chống lại cái gọi là tôn giáo, nhưng tôi ủng hộ cho tôn giáo hiểu theo nghĩa thực. Thực ra, tôi chống lại cái gọi là tôn giáo bởi vì tôi thiên về, bởi vì tôi ủng hộ cho, tôn giáo thực.

Tôn giáo thực bị nguy hiểm không phải bởi vì tính phi tôn giáo, nhớ lấy. Tôn giáo thực chưa bao giờ bị nguy hiểm từ cái không thực; nó bao giờ cũng bị lâm nguy từ cái giả làm thực vì cái giả cho hình tướng của việc là cái thực. Chúng ta phải thay đổi toàn thể hình mẫu này mà đã chi phối nhân loại trong hàng thế kỉ.

Cách tiếp cận của tôi là cách tiếp cận khẳng định cuộc sống. Tôi dạy các sannyasin của tôi để có yêu thương, để có vui vẻ, để có sáng tạo, để có thẩm mĩ. Cái gọi là tôn giáo cổ tất cả đều đã là buồn bã và nghiêm chỉnh. Tôi dạy các sannyasin của tôi yêu và cười và mở hội. Mở hội là lời cầu nguyện thực duy nhất; nó là cách duy nhất chúng ta có thể biểu lộ lòng biết ơn với Thượng đế. Từ bỏ cuộc sống là phàn nàn chống lại Thượng đế. Thượng đế cho bạn cuộc sống như món quà và bạn từ bỏ nó! Cuộc sống là món quà lớn; bạn phải cám ơn về điều đó. Và việc cám ơn đó đem tới tính tâm linh.

Những người thích Bertolt Brecht đều là những người hay. Họ chắc đã trở nên cực kì có giá trị nếu họ đã có khả năng thấy cái gì là giả trong tôn giáo và cái gì là thực, nếu như họ có khả năng phân biệt. Họ kết án mà không có phân biệt nào.

Đó là chỗ toàn thể trâm trí phương tây sai. Trong một trăm năm sau Friedrich Nietzsche, mọi nhà trí thức phương Tây đều đã kết án tôn giáo. Nietzsche tuyên bố: "Thượng đế chết và con người được tự do," và kể từ khoảnh khắc đó điều này đã là khẩu hiệu thường xuyên của mọi nhà trí thức. Và tôi có thể hiểu được tại sao. Nhưng Nietzsche phải đã nói, "Thượng đế của các tu sĩ..." Giá như ông ấy đã để nó trong dấu ngoặc vuông "[của các tu sĩ]" mọi sự chắc đã tuyệt đối rõ ràng - bởi vì Thượng đế của tu sĩ không phải là Thượng đế của nhà huyền môn. Và Thượng đế của các tu sĩ không cần chết - ông ấy bao giờ cũng chết rồi! Thượng đế của các tu sĩ chưa bao giờ sống động cả. Thượng đế sống là Thượng đế của nhà huyền môn.

Tôi dạy bạn Thượng đế của nhà huyền môn.


Thượng đế của nhà huyền môn có thể được tìm thấy không phải bởi việc tin mà bởi việc đi sâu vào bên trong. Nó không có liên quan gì tới thượng đế học; nó có cái gì đó liên quan tới việc tìm kiếm bên trong, cái nhìn rõ ràng vào bản thể riêng của bạn. Khoảnh khắc bạn biết bạn là ai, bạn đã tìm thấy Thượng đế, và trong chính việc tìm thấy đó bạn tìm thấy tự do. Điều tốt là Thượng đế của các tu sĩ phải chết rồi, phải bị vứt đi để cho bạn có thể khám phá ra Thượng đế riêng của bạn. Thượng đế riêng của bạn là tự do của bạn, chân lí của bạn.





Không có chân lí của bạn, bạn nhất định vẫn còn giận dữ và cuộc sống của bạn nhất định vẫn còn trống rỗng, vô nghĩa. Và bất kì cái gì bạn tạo ra sẽ không phải là sáng tạo đẹp; nó sẽ không giống như hoa hồng và tiếng hót của chim chóc và mặt trời lặn và các vì sao, nó sẽ là cái gì đó bắt nguồn từ tâm trí điên khùng. Nó có thể giúp bạn theo cách nào đó bởi vì điên khùng riêng của bạn sẽ được tống lên vải vẽ hay lên đá và bạn sẽ được giảm nhẹ từ nó - nó sẽ là cái gì đó như thanh tâm - nhưng nó sẽ tốt cho người khác. Những người sẽ xem công trình nghệ thuật của bạn sẽ bị lây nhiễm; nó sẽ có tính lây nhiễm.

Nhìn tượng vị Phật mà xem. Cứ ngồi trước bức tượng vị Phật, im lặng quan sát nó, và bạn sẽ ngạc nhiên: cái gì đó trong bạn cũng bắt đầu lắng đọng; cái gì đó trong bạn cũng trở nên yên tĩnh, tĩnh lặng, im lặng.

Gurdjieff hay gọi điều này là "nghệ thuật khách quan", bởi vì người đã tạo ra bức tượng này đã tạo ra nó từ việc thiền riêng của người đó; nó là công trình của thiền. Nó có thể không biểu thị đích xác sinh lí của Phật Gautam - nó không biểu thị thực điều đó; nó là biểu tượng. Nó biểu thị cho thiền của ông ấy, không phải thân thể ông ấy; không phải tâm trí của ông ấy mà chính bản thể của ông ấy. Nó biểu thị cho cái tĩnh lặng của ông ấy.

"Ngồi im lặng, không làm gì, xuân tới và cỏ tự nó mọc lên." Nó biểu thị cho im lặng đó. Ông ấy không làm gì cả. Ngồi trước tượng Phật bạn sẽ rơi vào trong im lặng sâu sắc. Ngồi trước bức tranh của Picasso bạn sẽ trong rối loạn; bạn sẽ bắt đầu bực tức, bạn sẽ bắt đầu trở nên bất ổn. Bạn không thể đi vào trong thiền được; điều đó là không thể được. Nếu bạn cứ nhìn vào tranh của Picasso trong phòng ngủ của bạn, bạn sẽ có ác mộng!

Câu hỏi thứ hai:

Osho ơi,

Tại sao tôi không thể hiểu được triết học của thầy?

Virama,

Bạn đang nói tới triết học nào vậy? Nó không phải là triết học chút nào, nó là chân lí sống! Tôi không dạy bạn học thuyết nào cả; tôi đơn giản chia sẻ niềm vui của tôi, sáng suốt của tôi, tình yêu của tôi, ánh sáng của tôi với bạn. Triết học là cái gì đó của tâm trí và tôi đã vứt bỏ tâm trí từ lâu trước đây rồi. Nó là giao cảm đang xảy ra ở đây; nó là giao cảm của trái tim. Tôi đang dùng lời bởi vì bạn sẽ không hiểu im lặng, nhưng mọi lời của tôi đều là để giúp bạn hiểu im lặng của tôi một ngày nào đó. Lời chỉ là ngón tay chỉ trăng. Nhìn lên trăng đi; đừng bắt đầu gặm ngón tay tôi!

Nó không phải là triết học chút nào. Triết học là điều rất bình thường; nó là nghĩ về chân lí. Nó giống như người mù nghĩ về ánh sáng: người đó có thể cứ nghĩ, nhưng bạn có cho rằng người đó đã bao giờ đi tới kết luận nào về ánh sáng không? Người đó có kinh nghiệm nào về ánh sáng qua suy nghĩ lâu, thời gian lâu về ánh sáng không? Người đó có thể đi tới biết mọi điều về ánh sáng, nhưng biết về ánh sáng không phải là biết ánh sáng; biết ánh sáng là hiện tượng khác toàn bộ. Nó cần mắt, không phải là nghĩ.

Tôi không phải là triết gia, tôi là thầy chữa. Tôi muốn giúp bạn mở mắt ra. Bạn đã giữ chúng khép lại trong nhiều nhiều kiếp sống rồi và bạn đã trở nên nghiện mắt nhắm; bạn đã quên rằng bạn có thể mở chúng ra. Tôi ở đây chỉ để nhắc nhở bạn rằng không cái gì sai với mắt bạn - chỉ mở chúng ra thôi! Và bất kì cái gì bạn sẽ đi tới biết, đó là Thượng đế. Thượng đế không phải là niềm tin mà là kinh nghiệm.

Triết gia đã dành cả đời của họ trong việc định nghĩa triết học của họ.

Jean-Paul Sartre nói, "Hiện hữu là làm."

Albert Camus nói, "Làm là hiện hữu."

Và thế rồi tới Frank Sinatra người nói, "Làm-hiện hữu-làm-hiện hữu-làm."

Đây là vô triết học của tôi: "Hiện hữu chỉ là hiện hữu."

Không có cái gì để được làm về nó. Không có vấn đề về làm, nó là vấn đề của hiện hữu. Bạn không cần cố hiểu nó.

Đó là chỗ bạn đi sai, Virama. Nếu bạn cố hiểu nó bạn nhất định hiểu lầm nó bởi vì hiểu nghĩa là nỗ lực của tâm trí.

Và tâm trí bạn là lẫn lộn, tâm trí bạn là hỗn độn. Tâm trí bạn đầy cả nghìn lẻ một ý thức hệ. Tâm trí bạn hoàn toàn bị làm hư hỏng!

Hai kẻ hippies, cùng trong một ổ, đang bước đi trên phố. Đột nhiên một xe cảnh sát chạy qua với tốc độ sáu mươi dặm một giờ với đèn đỏ chớp nhoáng và còi hụ vang phố.

Kẻ hippie này chậm rãi quay sang kẻ kia và nói, "Ôi, tớ cứ tưởng rằng cảnh sát sẽ không bao giờ chạy đi!"

Tâm trí là một loại ma tuý; nó giữ bạn bị mê mẩn. Bạn phải gạt bỏ tâm trí; bạn phải gạt nó sang bên. Thế thì không có vấn đề về việc hiểu; bạn đơn giản thấy chân lí của nó. Đó là vấn đề về thấy, không về hiểu.

Tôi đang đưa bạn tới trạng thái của không tâm trí và bạn đang cố hiểu nó qua tâm trí; điều đó là không thể được. Tâm trí không có năng lực của vô trí - vô trí là không thể nào hiểu thấu được, hiển nhiên, tâm trí không thể hiểu thấu nó được, tâm trí chỉ có thể phủ nhận vô trí.

Gạt tâm trí sang bên đi. Trong khi nghe tôi, đừng cố hiểu, chỉ lắng nghe một cách im lặng. Đừng hình dung ra liệu điều tôi đang nói là đúng hay không đúng. Đừng bận tâm tới cái thực hay không thực của nó. Tôi không đòi hỏi bạn tin vào nó cho nên không cần nghĩ về cái thực hay không thực của nó. Lắng nghe tôi hệt như bạn lắng nghe chim hót hay tiếng gió thoảng qua rặng thông hay tiếng nước chảy.

Nhưng bạn vẫn còn bị treo trong đầu. Cái đầu giữ bạn gần như say sưa với ý nghĩ, ý tưởng, cách diễn giải.

Mọi lần bị say, Mario đều không thể tìm được nhà mình, cho nên bạn anh ta bảo anh ta để một chiếc đèn bên ngoài cửa nhà anh ta. Mario đã làm như vậy và đêm đó, khi về nhà bị say, anh ta thấy chiếc đèn và nói, "Đây phải là nhà mình rồi!"

Thế rồi cầm chiếc đèn, anh ta trèo lên cầu thang, đi vào phòng ngủ và nói, "Đúng - đây là giường của mình, kia là vợ mình và ở đó mình ngủ cạnh cô ấy! Nhưng đây là cái thằng chết tiệt nào mà cầm đèn trong tay?"

Thận trọng về tâm trí bạn đi! Bạn chưa bao giờ nghĩ về nó như ma tuý - nó là ma tuý rất tinh vi. Và xã hội cứ chuốc ma tuý cho bạn từ chính thời thơ ấu của bạn. Điều đó trở thành một phần của cuộc sống của bạn và nó tô mầu cho mọi thứ. Bất kì cái gì bạn nhìn, bạn nhìn qua nó; bất kì cái gì bạn nghe, bạn nghe qua nó - và nó nhanh chóng diễn giải ủng hộ hay chống đối.

Nghe tôi, nếu bạn nghĩ về ủng hộ hay chống đối, bạn sẽ cứ bỏ lỡ tôi.

Một người say ngẫu nhiên tìm thấy đường tới câu lạc bộ bơi xa hoa và đứng cạnh bể bơi khi người quản lí tiến tới anh ta.

"Xin lỗi, thưa ông, nhưng chúng tôi bị buộc phải yêu cầu ông đi," người quản lí bảo anh ta.

"Sao tôi phải đi?" người say hỏi.

"Vì ông đái vào bể bơi!" người quản lí kêu lên.

"Ông bảo tôi là tôi là người duy nhất trong câu lạc bộ này đã từng đái vào bể bơi sao?" người say hỏi.

"Từ bàn nhảy xuống nước, vâng!" người quản lí trả lời.

Bạn không biết bạn đang đứng đâu, bạn đang làm gì, bạn là ai. Toàn thể nỗ lực của tôi là mang bạn về ý thức của bạn - từ tâm trí tới ý thức của bạn.

Tâm trí giữ cho bạn trong một loại điên khùng. Tâm trí là điên khùng; khác biệt chỉ ở mức độ. Người điên đã đi lên trước một chút so với bạn, có vậy thôi.

Có thể bạn đang trong tâm trí quãng chín mươi độ, ai đó khác chín mươi chín độ, và ai đó khác đã đi qua đường biên của một trăm độ; thế thì người đó điên.

Nhưng người lành mạnh duy nhất là người đã đi ra khỏi tâm trí bởi vì thế thì cái nhìn của bạn là rõ ràng, không bị che mờ; tâm thức của bạn là thuần khiết, tựa gương không có bụi nào trên nó.

Hai người điên đang trèo trên cành cây thì đột nhiên một người bị ngã xuống.

"Nhưng cậu làm gì thế?" người ngồi trên cành cây kêu lên.

"Ồ, tớ phải rụng thôi - tớ chín rồi!"

Một người đang đi dạo trong công viên. Đột nhiên một người đi tới anh ta và chẳng nói lời nào tát luôn vào mặt anh ta.

"Tại sao!" người này kêu lên. "Ông điên à!"

Người kia nói một cách rất thanh thản, "Vâng - ông có bận tâm không?"

Tâm trí bạn cứ mơ - hết ngày nọ tới ngày kia, nó cứ mơ. Ban ngày, mơ được biết là ý nghĩ; chúng là mơ nói ra lời. Ban đêm, ý nghĩ được biết như mơ; chúng là ý nghĩ bằng hình ảnh. Nhưng không có khác biệt. Và ngay cả khi bạn thức, nếu bạn chỉ nhắm mắt lại và nhìn vào bên trong, bạn sẽ thấy một luồng tinh tế các giấc mơ hình ảnh tiếp diễn như dòng chảy ngầm.

Thiền nghĩa là vứt bỏ dòng suối này: không nghĩ không mơ, chỉ hiện hữu. Và thế rồi, đột nhiên bạn sẽ thấy điều tôi đang nói. Đó sẽ không phải là vấn đề bị thuyết phục bởi chân lí của nó; đó sẽ là việc nhận ra. Và chân lí chưa bao giờ là kết luận; nó bao giờ cũng là việc nhận ra, việc khải lộ.

"Mọi đêm tôi đều có cùng ác mộng kinh hoàng," một người đàn ông nói với bạn anh ta. "Tôi mơ thấy rằng Sophia Loren vào phòng tôi... hoàn toàn trần truồng!"

"Cái gì! Anh gọi điều này là ác mộng à?"

"Tất nhiên rồi! Mọi lần cô ấy tới cô ấy đều đóng sầm cửa mạnh tới mức tôi thức dậy!"

Một người Mĩ da đỏ và một người hippie đang ngồi cạnh nhau trong quán rượu. Sau vài khoảnh khắc người hippie quay sang người da đỏ và nói, "Nghe này, ông - ông đã nhìn tôi hơn một giờ rồi! Để tâm vào việc của ông đi!"

Và người da đỏ đáp, "Nhiều tháng trước tôi nằm với một kẻ đáng khinh... tôi cứ nghĩ anh có thể là con tôi!"

Khi bạn ở cùng tôi, dừng mọi loại vô nghĩa này lại đi! Tôi không ở đây để giúp bạn nghĩ rõ ràng hơn, nghĩ logic hơn, nghĩ theo cách phức tạp và triết lí hơn. Toàn thể nỗ lực của tôi là để làm cho bạn nhận biết về cái ngu xuẩn của mọi việc suy nghĩ hiểu theo nghĩa thực. Thế thì im lặng tới, và với im lặng việc thấy tới. Khi tất cả đều tĩnh lặng bên trong bạn, khi không cái gì khuấy động bên trong bạn, bạn sẽ có khả năng biết điều tôi đang nói, điều Phật đã nói hai mươi nhăm thế kỉ trước, điều Cát Hồng đã nói hai nghìn năm trước. Bạn sẽ không chỉ hiểu tôi, bạn sẽ hiểu mọi người đã thức tỉnh của mọi thời đại, quá khứ, hiện tại và tương lai nữa, bởi vì bạn sẽ có khả năng nhận ra bản thân bạn, bạn sẽ có khả năng tự mình nếm trải nó. Đó là vấn đề nếm trải nó.

Câu hỏi thứ ba:

Osho ơi,

Thầy không có đủ đệ tử sao? Nhu cầu về băng video về thầy và công xã của thầy là gì?

Devesh,

Tôi mới chỉ có một trăm năm mươi nghìn sannyasin trên thế giới - đó chỉ là giọt nước trong đại dương nhân loại. Và nếu bạn muốn biến đổi tâm thức con người nó không là gì cả; nó chỉ mới là bắt đầu, nó chỉ mới là hạt mầm. Chúng ta phải cứ lan toả thông điệp mới này - mới theo một nghĩa nào đó, bởi vì cái gọi là các tôn giáo, và vậy mà cổ đại nhất, bởi vì bất kì khi nào bất kì ai đã biết, người đó đều biết cùng chân lí.

Chân lí chưa bao giờ thay đổi; nó bao giờ cũng là một. Ai biết nó không tạo ra khác biệt, khi nào người ta biết nó không tạo ra khác biệt. Thời gian và không gian không thành vấn đề.

Và đây là chính khoảnh khắc đặc biệt trong lịch sử nhân loại: hoặc con người sẽ phá huỷ bản thân mình một cách toàn bộ hoặc con người mới sẽ được sinh ra. Chưa bao giờ điều quan trọng thế là biến đổi tâm thức con người, đem tới một thay đổi triệt để trong chính cách nhìn của con người như nó đang trong ngày nay. Và chúng ta phải làm điều đó một cách nhanh chóng bởi vì thời gian là ngắn ngủi. Các chính khách đang chồng chất bom nguyên tử, bom khinh khí và mọi thứ linh tinh. Chỉ trong vòng mười năm sức mạnh phá huỷ con người đã tăng lên bẩy trăm lần. Mười năm trước nó đã đủ để phá huỷ nhân loại; bây giờ nó đủ để phá huỷ bẩy trăm trái đất cùng kích cỡ. Dường như đơn giản điên khùng. Phỏng có ích gì? - bởi vì chúng ta chưa biết bất kì trái đất nào khác. Vâng, các nhà khoa học nói có năm mươi nghìn hành tinh có sự sống, nhưng đó chỉ là giả thiết. Chúng ta có thể chẳng bao giờ tới được chúng - chúng ta mới chỉ tới được mặt trăng.

Và những hành tinh đó ở xa, xa lắm. Hành tinh gần nhất là xa bốn năm ánh sáng; điều đó nghĩa là nếu con tầu không gian đi với tốc độ ánh sáng - điều là không thể được hay gần như không thể được bởi vì tốc độ của ánh sáng là vô cùng... Ánh sáng chuyển với tốc độ một trăm tám mươi sáu nghìn dặm một giây. Nếu chúng ta có thể tạo ra một con tầu không gian mà có thể đi với tốc độ này, thế thì sẽ mất bốn măn để tới đó và bốn năm để quay về. Nhưng dường như là không thể tạo ra được con tầu không gian như vậy bởi vì khi bất kì cái gì đi với tốc độ như vậy nó đều trở thành ánh sáng; nó tan ra và trở thành ánh sáng. Con tầu không gian sẽ tan ra và trở thành ánh sáng và người du hành trong nó sẽ trở thành ánh sáng; họ sẽ biến mất. Với tốc độ như thế nhiệt được tạo ra làm cho mọi thứ thành ánh sáng. Chúng ta không biết về kim loại nào, còn chưa biết, có thể chống lại được nhiệt ở tốc độ như thế.

Và những hành tinh đó mà các nhà khoa học nghĩ có sự sống là ở xa hàng nghìn năm ánh sáng cho nên dường như không có khả năng nào để phá huỷ được chúng. Thế thì tại sao cứ chồng chất ngày càng nhiều bom nguyên tử, bom khinh khí, siêu bom, tia chết? Để làm gì? Bạn muốn giết từng người bẩy trăm lần sao? Con người chết chỉ một lần thôi. Họ không phải là Jesus Christs mà sẽ phục sinh cho nên bạn phải giết họ lần nữa và họ sẽ phục sinh và bạn phải giết họ lần nữa - bẩy trăm lần. Nhưng chính khách làm các thu xếp ngay cả trường hợp đó!

Trong một thế giới điên khùng thế nơi các chính khách điên có quyền lực thế, thiền có thể là cách duy nhất để bảo vệ cuộc sống trên trái đất.

Devesh, cách mạng bên trong phải được lan toả nhanh chóng và nhanh nhất có thể được. Hơn nữa, tôi là con người của thế kỉ hai mươi - tôi không tin vào xe bò kéo. Bạn có thể xem những chiếc Rolls Royce của tôi!

Nhưng ngay cả Phật cũng cố gắng theo mọi cách để đạt tới nhiều người nhất mà ông ấy có thể làm được. Tất nhiên, không có cách khác cho nên ông ấy đã du hành từ làng này sang làng khác; đó là cách có thể duy nhất để đạt tới mọi người. Nhưng ông ấy có thể đạt tới được bao nhiêu người? Ông ấy không bao giờ có thể đi ra ngoài mỗi một tỉnh, Bihar. Thực ra cái tên "Bihar" bắt nguồn từ sự kiện là ông ấy đã du hành ở đó; cái tên "Bihar" nghĩa là chỗ Phật du hành, chỗ người thức tỉnh đã du hành. Các biên giới của tỉnh này là biên giới của du hành của ông ấy. Nhưng ông ấy không thể đi tới mọi phần của Bihar được; ông ấy chỉ có thể đi tới chỗ quan trọng và các làng trên đường.

Bốn mươi hai năm ông ấy đã du hành; già cả, ốm yếu, nhưng ông ấy đã du hành. Ông ấy già thế - ông ấy chết khi ông ấy tám mươi hai - và liên tục du hành trong bầu khí hậu nóng bức của Bihar, một thầy chữa phải liên tục đi theo ông ấy để giữ sức khoẻ cho ông ấy, để chăm sóc ông ấy. Tại sao ông ấy đã du hành? Để làm gì? - để đi tới nhiều người nhất có thể được.

Mahavira đã làm cùng điều đó. Từng người họ đã cố gắng theo cách riêng của họ.

Hai sư đang nói chuyện với nhau.

"Ông có biết tại sao Jesus, sau khi phục sinh, đã xuất hiện cho đàn bà không?"

"Không, tôi không biết," người kia đáp.

"Để cho tin tức về phục sinh của ông ấy có thể được lan truyền nhanh chóng hơn!"

Tôi không đi đâu cả; bây giờ không có nhu cầu - điều đó là lạc hậu rồi. Tôi không thể đi tới nhiều người bằng du hành được, nhưng bây giờ chúng ta có phương tiện sẵn có. Lời của tôi có thể đi tới những góc xa xôi nhất của trái đất - nó đã đi tới rồi. Sách cũng là cách cổ để đi tới mọi người; thời của chúng cũng qua rồi. Phương pháp mới đã tiến hoá.

Băng video là tốt hơn nhiều để đạt tới mọi người bởi vì họ có thể nghe tôi theo cùng cách như bạn đang nghe tôi. Và chỉ nghe lời mà không nhìn người là một điều; thấy người cũng tạo ra nhiều khác biệt. Nó là khác toàn bộ bởi vì bạn đang nghe tôi trên băng ghi âm hay trên máy ghi âm bạn sẽ không có khả năng thấy tay tôi, điều nói nhiều hơn tôi có thể nói bằng lời. Bạn sẽ không nhìn vào mắt tôi, điều có nhiều điều để nói hơn lời có thể truyền đạt. Cái gì đó sẽ thiếu, cái gì đó có giá trị mênh mông - người đó sẽ bỏ lỡ người. Bạn sẽ nghe chỉ tiếng nói ma.

Tôi sẽ dùng phim, truyền hình, băng video, băng âm thanh, mọi kĩ thuật hiện đại để lan toả thông điệp. Tôi thuộc về thế kỉ hai mươi một cách toàn bộ, toàn tâm. Và tôi yêu thế kỉ này; tôi không chống lại nó. Tôi yêu khoa học và công nghệ của nó. Nó đang ở trong những bàn tay sai, nhưng điều đó bao giờ cũng xảy ra. Bất kì khi nào cái gì đó có ý nghĩa được khám phá ra nó bao giờ cũng rơi vào những bàn tay sai trước bởi lẽ đơn giản là họ là những người rất nhanh, người tinh ranh.

Ngay cả phát minh ra năng lượng nguyên tử cũng có thể là phúc lành cho thế giới. Nhưng nó đã rơi vào bàn tay của các chính khách. Nó đáng phải ở trong tay của các nhà huyền môn; thế thì sẽ không có nhu cầu sợ thế chiến thứ ba. Thế thì chúng ta có thể rót đầy cả trái đất bằng sự sung túc; thế thì nghèo nàn có thể biến mất khỏi toàn thể trái đất lần đầu tiên. Nghèo nàn có thể trở thành một thứ của quá khứ. Nhiều bệnh có thể biến mất. Cuộc sống của con người có thể được kéo dài tới gần như giới hạn không thể được. Ba trăm năm sẽ không phải là mục tiêu khó khăn; từng người có thể sống ba trăm năm rất dễ dàng bởi vì các nhà khoa học nói thân thể có khả năng sống lâu nhiều hơn nó đang sống.

Mọi người chết ở tuổi bẩy mươi chỉ bởi vì họ bao giờ cũng chết ở tuổi đó. Nó đã trở thành một ý tưởng cố định trong tâm trí - trong tâm trí tập thể nó đã trở thành ý tưởng cố định; nó là một loại tự thôi miên. Nó có thể được thay đổi.

Ngay cả chính chương trình trong tế bào của bạn cũng có thể được thay đổi; chúng có chương trình. Khi đứa trẻ được sinh ra các tế bào của nó có chương trình nó sẽ sống được bao lâu, nhưng chương trình đó có thể được thay đổi. Nếu chúng ta có thể chia chẻ nguyên tử ra, chúng ta có thể chia chẻ tế bào sống ra và thay đổi chương trình bên trong của nó; chúng ta có thể cho nó một chương trình mới, chúng ta có thể làm cho nó sống ba trăm, bốn trăm, năm trăm năm; chúng ta có thể cho nó một chương trình mà sẽ giữ cho nó mạnh khoẻ mãi mãi, trẻ mãi mãi. Tuổi già cũng có thể biến mất. Điều này là có thể bây giờ.

Khoa học đã làm thoát ra năng lượng lớn vô cùng, nhưng nó đã rơi vào trong những bài tay sai và bàn tay đúng không có đó. Chúng ta phải tạo ra những bàn tay đúng; chúng ta phải tạo ra tâm thức đúng cho điều đó.

Do đó, Devesh này, tôi sẽ cứ làm việc với mọi phương tiện hiện đại để đạt tới nhiều người nhất có thể được. Tôi đang đạt tới rồi. Bạn có thể thấy ở đây mọi người từ gần như mọi nước. Không có một nước nào trên thế giới bây giờ mà không có sannyasin của tôi. Và họ đang tạo ra khuấy động ở mọi nơi. Họ nhất định tạo ra khuấy động, họ nhất định tạo ra một loại cách mạng mới - cách mạng thực.

Cách mạng chính trị không phải là cách mạng; chỉ cách mạng tâm linh mới là cách mạng bởi vì chừng nào bản thể bên trong còn chưa thay đổi, không thay đổi bên ngoài nào sẽ có ích.

Và, nhớ điều đó, tôi không là kiểu thánh cổ: "Sao bận tâm về đệ tử và về việc đạt tới nhiều người? Đấy không phải là vấn đề bận tâm chút nào - tôi đang tận hưởng nó vô cùng! Nó không phải là công việc với tôi theo bất kì cách nào; nó là trò chơi. Và nó được cần khẩn thiết nữa.

Tôi có thể hiểu câu hỏi của Devesh bởi vì anh ấy làm việc trong bộ phận làm phim trong công xã. Anh ấy ngồi đó ngay sau máy quay video. Anh ấy phải đâm ra phân vân - tại sao? Anh ấy đã viết nhiều câu hỏi cùng kiểu.

Mới hai ngày trước đây khi Prem Chinmaya rời khỏi thân thể, anh ấy lập tức viết một câu hỏi cho tôi: "Osho ơi, ngay cả việc ra đi của Prem Chinmaya và lễ hội cũng được quay video. Một sannyasin không thể chết đi trong an bình được sao?"

Nhưng anh ấy đã chết rồi! Bây giờ bạn có thể làm bất kì cái gì bạn muốn - băng video về anh ấy, phim về anh ấy... Và K.B. đã thu xếp đầu anh ấy ở tư thế đúng - bạn có thể làm bất kì cái gì bây giờ! Chinmaya phải đã ở quanh đây cười to, thích thú. Anh ấy phải tự nói với mình, "Kì quái chưa, giá mà tôi biết điều đó từ trước tôi chắc đã chết sớm hơn rồi! Họ làm tốt đấy!" Anh ấy phải đã tận hưởng điều đó.

Và anh ấy đã chết trong an bình hoàn toàn, anh ấy đã chết trong an bình tuyệt đối. Và băng video của bạn không thể quấy rối anh ấy được. Ung thư của anh ấy không quấy rối anh ấy, làm sao băng video của bạn có thể quấy rối anh ấy được? Anh ấy trong đau đớn mênh mông, nhưng anh ấy vẫn còn là nhân chứng. Anh ấy chết cái chết đẹp. Đó là cách một sannyasin nên chết.

Bây giờ Nartan đã tới. Mới hôm qua anh ấy đã viết một bức thư cho tôi: "Tôi may mắn tới và gặp việc ra đi của Chinmaya và lễ hội bởi vì tôi cũng bị đau bởi ung thư; bác sĩ đã nói, 'Anh chỉ còn lại hai năm thôi.' Và tôi đã tới ở ở mãi mãi ở đây." Nartan đã hạnh phúc thấy cách Chinmaya chết và cách mọi người mở hội cái chết của anh ấy.

Tôi dạy bạn không chỉ mở hội cuộc sống mà cái chết nữa, bởi vì chết là cực đỉnh của sống, cao trào. Nếu bạn đã sống cuộc sống của bạn một cách thực sự bạn sẽ mở hội cái chết của bạn nữa.

Và anh ấy đã chết đẹp thế, trong buông xuôi sâu sắc thế. Ngay cả Nartan cũng thấy hạnh phúc mênh mông được hiện diện. Bây giờ nỗi sợ chết của anh ấy qua rồi. Thực ra, anh ấy đang trông chờ nó.

Cho nên, Devesh này, sẵn sàng đi!

Câu hỏi thứ tư:

Osho ơi,

Tại sao và làm sao Thượng đế đã tạo ra người Italy?

Sanjayo,

Bạn có đang trong tình yêu với anh chàng Italy nào không? Bằng không tại sao có câu hỏi này? Và đây thực sự là câu hỏi lớn! Khi tôi đọc câu hỏi của bạn tôi phải tra cứu hồ sơ Akashic bởi vì Kinh Thánh không nói gì về điều đó, Koran không nói, Veda không nói! Và thực sự nó là cái gì đó rất quan trọng. Người giữ hồ sơ Akashic là thầy Kuthumi, được biết tới với các nhà thượng đế học như thầy K.H. Ông ấy là người giữ hồ sơ - tôi phải hỏi xin phép ông ấy. "Cho tôi xem chỉ một điều nhỏ bé, bởi vì tôi không biết câu trả lời: tại sao và làm sao Thượng đế đã tạo ra người Italy?"

Ông ấy cũng phân vân. Ông ấy nói, "Không ai đã bao giờ hỏi điều này, cả Blavatsky lẫn Annie Besant đều không hỏi. Sanjayo này là ai vậy? Dường như là rất bí truyền!"

Tôi nói, "Sannyasin của tôi là rất bí truyền, rất siêu hình! Họ hỏi những câu hỏi mà nếu họ định hỏi bất kì thánh nhân nào, hoặc thánh nhân đó sẽ trốn mất hoặc họ sẽ bị tống ra! Nhưng họ có thể hỏi tôi từng và mọi thứ."

Tôi đã phải tìm khá vất vả, thế rồi tôi bắt gặp một đoạn nhỏ. Nó nói: "Lúc ban đầu đã có bóng tối và mì ống. Và Thượng đế thích mì ống. Một hôm, trong bóng tối, ngài ăn mì ống và một ý tưởng xuất hiện cho ngài. Ngài lấy một sợi mì nhỏ trong tay này và sợi mì nhỏ trong tay kia và vỗ hai tay với nhau và nói, 'Wop!' và người Italy đầu tiên xuất hiện." Đó là lí do tại sao họ được gọi là wop.

Câu hỏi duy nhất còn lại - xin đừng đổ nó vào tôi - ai đã làm món mì ống lúc ban đầu? Tôi không thể tìm được câu trả lời ngay cả trong hồ sơ Akashic. Và khi tôi hỏi đi hỏi lại Kuthumi, ông ấy nói, "Câm đi! Câu hỏi như thế không được viết ra và câu trả lời như thế không được cho. Và Thượng đế có thể làm bất kì cái gì, ngài có thể làm bất kì phép màu nào. Sao ngài không thể làm ra món mì ống?"

Tôi nói, "Điều đó dường như là khó. Không có người Italy ở đó ngay chỗ đầu tiên ai sẽ làm mì ống?"

Và bạn hỏi, "Tại sao..."

Trong hồ sơ Akashic có nói: Ngày Thượng đế tạo ra nước Italy là ngày của ân huệ. Ngay cả Thượng đế đã dừng suy tư về công việc của ông ấy với sự thoả mãn lớn lao.

"Ta cừ thật! Ngạc nhiên làm sao! Nhìn cảnh đẹp kia! Nó là nước được ân huệ!" Thượng đế tự nhủ.

Và thế rồi, để cân bằng mọi sự, Thượng đế tạo ra người Italy.

Một điều là chắc chắn: không có người Italy thế giới chắc đã không bao giờ đẹp thế, chắc đã không bao giờ thú vị thế. Người Italy đã đóng góp nhiều. Điều khác là tuyệt đối chắc chắn: không có người Italy sẽ không có công xã ở đây - không thể được. Tôi thì có thể bỏ qua được, nhưng Deeksha thì không! Cho dù tôi không ở đây bạn vẫn có thể ngồi trong im lặng, nhưng không có Deeksha bạn có thể ngồi trong im lặng được bao lâu?

Một quí bà đi làm điều tra dân số ở nhà hàng xóm Italy tầng lớp trung gian. Khi bà ấy rung chuông, một ông khoả thân mở cửa ra. Bà ấy là kiểu người rất chuyên nghiệp, cho nên bà ấy làm cho tin rằng bà ấy không để ý. Nhưng anh chàng này đã tự giải thích.

"Tôi hi vọng bà hiểu tôi - tôi thuộc vào câu lạc bộ khoả thân."

"Không có vấn đề gì," quí bà nói, "Tôi chỉ cần vài thông tin, thưa ông. Ông lấy vợ chưa?"

"Rồi, lần thứ ba."

"Ông có con không?"

"Có," ông khoả thân nói. "Tôi có bẩy đứa với vợ thứ nhất, mười hai đứa với bà thứ hai và mười lăm đứa với bà thứ ba."

"Tốt," quí bà nói, "dường như ông không phải là người khoả thân, ông chỉ không có thời gian mặc quần áo!"

Người Italy thực sự đã đóng góp những điều lớn lao cho thế giới!

Một hoạ sĩ rất nhút nhát gặp một người đàn bà Italy đẹp ở quán rượu và hỏi liệu cô ấy có đồng ý làm mẫu vẽ cho ông ấy không. Cô ấy đồng ý nếu ông ấy trả cho cô ấy một trăm đô la.

Thế là hoạ sĩ vay tiền từ mọi bạn bè và đặt buổi hẹn. Khi họ ở cùng nhau ông ấy nói, "Thưa cô, điều tôi thực sự muốn làm là vẽ chân dung cô với vú để trần."

Cô ấy đồng ý với giá hai trăm đô la. Thế là anh ta bán mọi thứ anh ta có thể có và cuối cùng thu được số tiền này.

Khi cô ấy tới phòng vẽ của anh ta và phô ra đôi vú để trần, anh ta trở nên bị kích động tới mức anh ta không thể cưỡng được việc đề nghị cô ấy cởi hết mọi thứ ra khoả thân. Cô ấy đồng ý, nhưng đòi bốn trăm đô la.

Thất vọng, anh ta bán những bức tranh ưa thích của mình và ngay cả tiền trợ cấp nghệ thuật để nâng số tiền lớn lên.

Cuối cùng cô ấy tới phòng vẽ và cởi hết mọi quần áo ra. Hoạ sĩ trở nên kích động thế, anh ta nói "Ôi! Đam mê! Tôi đến chết với ham muốn về cô! Điều tôi thực sự muốn là làm tình với cô! Nói đi bao nhiêu... bao nhiêu?"

"A!" cô ấy kêu lên. "Cùng giá như với mọi người khác - mười đô la."

Maria có sáu con trai, toàn tóc mầu sẫm. Tuy nhiên đứa thứ bẩy được sinh ra là tóc đỏ.

Giovanni điên tiết.

"Anh biết em đã phản bội anh!" anh ta quát lên trong giận dữ. "Thú nhận rằng đây không phải là con anh đi!"

"Em thề, Giovanni, nó là con anh. Em thề điều đó - em thề điều đó!"

Nhưng Giovanni, trong cơn rồ dại mù quáng, bắn cô ấy. Trước khi chết, người đàn bà yêu cầu anh ta lại gần và thì thào, "Em phải thú nhận cái gì đó với anh,

Giovanni. Nó là con anh - chính các đứa khác kia mới không phải là con anh!"

Roberto rời đi Mĩ với lời hứa mời Maria tới một khi anh ta đã định cư. Trước khi ra đi họ làm một thoả ước trung thành với nhau.

Hai năm sau Roberto mời Maria. Vào ngày cô ấy tới anh ta nói với cô ấy, "Chu chao, em trông đáng yêu thế!"

"Còn anh, Roberto, anh đẹp trai thế!" Maria nói.

Chẳng mấy chốc họ chia sẻ niềm tin về hai năm đã qua.

"Em có biết không, Maria," Roberto nói, "hai năm này đã là hi sinh lớn lao, nhưng anh đã trung thành với thoả ước của chúng ta. Mỗi lần anh đi với một người đàn bà anh đều nhớ tới lời nguyện của chúng ta và sẽ dậy từ trên người cô ấy. Về em thì sao? Em có hoàn thành thoả ước của chúng ta không?"

Và Maria trả lời, "Anh biết đấy, Roberto, thoát ra từ bên dưới là khó hơn nhiều!"

Bốn người đàn ông trong quán rượu nói chuyện về nghề nghiệp của họ.

Người thứ nhất, người Đức, nói, "Tôi là người nhặt than cốc tại bãi than. Tôi nhét đầy túi bằng than cốc."

Người thứ hai, người Pháp, nói, "Tôi là người gập tất ở nhà kho quần áo. Tôi gập tất để vào các gói."

Người thứ ba, người Hà Lan, nói, "Tôi là người ngâm nút chai ở xưởng làm thùng rượu. Tôi ngâm nút để cho họ làm nút khớp."

Người thứ tư, người Italy, nói, "Tôi là thứ thực."

Không có người Italy thế giới chắc đã không thế này; họ là những người trần tục nhất. Và tôi yêu người trần tục; họ là những người được bắt rễ nhất vào đất. Họ không phải là người trừu tượng, như người Ấn Độ; họ không phải là người siêu hình. Đó là cái đẹp của họ.

Và công việc của tôi ở đây là tạo ra sự tổng hợp của người trời và người đất. Tôi muốn các sannyasin của tôi có tính phàm trần như người Italy và có tính siêu phàm như người Ấn Độ, bởi vì chừng nào gốc rễ của bạn còn chưa ăn sâu vào trong đất, cành của bạn không thể vươn tới các vì sao được. Rễ càng ăn sâu vào trong đất, cành của bạn càng vươn cao hơn. Thế thì bạn có thể thì thào với sao.

Mãi cho tới giờ đã có chia chẻ. Người phàm trần đã bị kết án bởi người tôn giáo là người duy vật và người duy vật đã bị người duy linh kết án là mánh khoé. Cả hai đều đúng theo một cách nào đó, nhưng cả hai đều là một nửa. Và chân lí một nửa còn nguy hiểm hơn nhiều so với dối trá vì nó trông giống như chân lí.

Chân lí toàn thể là ở chỗ con người thực, đích thực, con người toàn thể, sẽ chứa mâu thuẫn. Người đó sẽ đủ bao la để chứa các mâu thuẫn. Người đó sẽ là đàn ông và đàn bà cùng nhau. Người đó sẽ là phàm trần và siêu phàm cùng nhau. Người đó sẽ là người duy vật và duy linh cùng nhau, không xung đột. Chừng nào sự tổng hợp này còn chưa xảy ra thì thế giới sẽ vẫn còn tinh thần phân liệt.

Các sannyasin của tôi không phải là người siêu phàm, họ không chỉ là người phàm trần nữa; họ phải là cả hai. Tôi đang cho họ nhiệm vụ khó khăn nhất đã từng có: họ phải là người duy vật và người duy linh, duy linh và duy vật. Họ phải vứt bỏ toàn thể phân chia của thế giới này và nọ, của bờ bên này và bên kia, của cái này và cái kia. Họ phải làm cây cầu giữa cả hai. Và một khi cây cầu đó được tạo ra, con người sẽ là toàn thể lần đầu tiên. Và con người toàn thể là linh thiêng. Duy linh không là linh thiêng mà phàm nhân không là linh thiêng vì cả hai còn chưa là toàn thể. Họ là không linh thiêng vì họ là một nửa, và bất kì người nào là một nửa đều nhất định khổ. Người đó không thể hân hoan, người đó không thể mở hội, người đó không thể biết cuộc sống phúc lạc là gì.

Bạn phải biết rằng ngay cả bụi cũng thiêng liêng, rằng thân thể bạn là ngôi đền. Bạn phải trở thành Phật Zorba!

Xem Tiếp Chương 5Quay Về Mục Lục Tập 1

Quay Về Mục Lục Toàn Tập


Đọc Miễn Phí Sách Osho - Download Sách Osho PDF

Nghe Miễn Phí Sách Nói Osho Hoặc Download ê

0 Đánh giá

Ads Belove Post