Read more
(Đọc hoặc download miễn phí hàng trăm quyển sách của Osho tại đây)
Nam Tuyền (Nansen)
Điểm Khởi Hành – Osho
Bài Nói Về Thiền
Chương 5. Ngồi Ở Trung Tâm Vòng Tròn
Nghe hoặc Tải MP3 'Nam Tuyền (Nansen) – Điểm Khởi Hành' ê
Osho ơi,
Có lần, Nam Tuyền bảo với hai đệ tử của ông ấy rằng ông ấy định
đưa họ cùng đi thăm Quốc Sư.
Nhưng trước khi họ bắt đầu khởi hành cuộc hành trình, Nam Tuyền
vẽ ra một vòng tròn trên đường và nói, "Ngay khi các ông đưa ra câu trả lời
đúng, chúng ta sẽ đi."
Vào lúc đó, một trong các đệ tử ngồi vào bên trong vòng tròn và
người kia cúi mình như đàn bà.
Nam Tuyền nói, "Xét từ đáp ứng này, sẽ không cần đi."
Một lần khác, Nam Tuyền đang giặt quần áo thì một sư bắt gặp ông
ấy.
Thấy ông ấy đang làm việc như vậy, sư than, "Thưa thầy, thầy
vẫn không thoát khỏi 'cái này' sao?"
Nam Tuyền, giơ quần áo ướt lên, bình luận "Ông có thể làm
gì về 'cái này'?"
Maneesha, trước khi
tôi thảo luận về lời kinh của bạn, tôi phải nói lời khai mạc cho những kẻ mới tới
của Avirbhava về Bảo tàng các Thần. Bảo tàng này sẽ chỉ cho thế giới cách con
người đã mất trí thế nào. Con người đã tôn thờ con vật và giết con người. Điều
đó ngu ngốc tới mức các thế hệ tương lai đơn giản sẽ cười lớn. Họ có thể không
hiểu.
Tại Australia người
da trắng đã giết gần hết người bản xứ của Australia. Họ thường gọi điều đó là
đi săn; cũng như bạn đi săn con vật, họ thường đi săn con người. Và đến tối họ
sẽ hỏi lẫn nhau họ đã giết được bao nhiêu. Và họ chưa bao giờ nghĩ một khoảnh
khắc rằng điều họ đã làm là tuyệt đối mất trí.
Họ đã làm cùng điều
đó với con vật. Họ đã tôn thờ con vật một đằng và họ đã giết và phá huỷ nhiều
loài. Đã có hàng nghìn loài động vật; nhiều loài thậm chí không còn để lại dấu
vết đằng sau. Con người đã săn bắt chúng, giết chúng. Thế giới này trước đây sống
động hơn, mầu sắc hơn. Nó đã trở thành gần như chết bởi bàn tay chúng ta; bàn
tay chúng ta đầy máu.
Mới hai mươi năm trước
đây chỉ có bốn con sư tử trắng còn lại trên thế giới. Tại một thị trấn nhỏ,
Rewa, ở Ấn Độ, nơi Narendra là giáo sư - bởi vì Narendra là giáo sư ở đó, ông ấy
đã mời tôi tới nói chuyện - ở đó đã từng có hàng nghìn con sư tử trắng, thuần
trắng; sự oai nghiên đường bệ của chúng là bao la lắm. Chỉ bốn con còn lại, và
bây giờ tôi nghe nói hai con trong số đó đã chết. Hai con còn lại có thể chết
vào bất kì ngày nào. Bởi vì hai con còn lại cả hai đều là con đực, cho nên
không có khả năng có con cái gì cả. Dần dần nhiều loài đơn giản đã biến mất.
Sư tử thường được coi
là con vật tượng trưng quốc gia ở Ấn Độ, nhưng chúng ta đã giết chúng nhiều tới
mức chúng gần như hết. Nghị viện Ấn Độ phải thay đổi điều đó; bây giờ hổ là con
vật tượng trưng quốc gia. Hổ không thể so sánh được với sư tử. Chẳng bao giờ có
con vật nào sánh được với sư tử, oai nghiêm của nó, sức mạnh của nó. Nhưng
chúng ta đã giết chúng. Chúng chẳng làm gì hại cho chúng ta cả. Chúng sống ở
vùng núi non, rừng rậm.
Avirbhava đã mang tới
một con hổ và một con sư tử. Tôi sẽ nêu cho các bạn chút ít ghi chép về từng
con.
"Hổ.
"Ở Hà Nội hổ được
tôn thờ như thần. Ở Sumatra hổ là đại diện cho nơi cư ngụ của linh hồn người chết.
"Tại nhiều nước,
có những điều mê tín và tin tưởng bao quanh hổ. Ở Mirzapur, Bagheshwar, thần hổ
được cho là ở trong cây bira và tương truyền thường lấy dạng người vào ban đêm
và gọi mọi người theo tên. Phải cẩn thận với những người trả lời lời gọi: họ bị
ốm ngay. Ở Hi Lạp, xe của Dionysius được vẽ hổ. Ở Nhật Bản, hổ biểu thị cho
lòng dũng cảm. Ở Nepal, có lễ hội hổ, được biết là Bagh Jatra, trong đó những
người tôn thờ nhảy múa ăn mặc trá hình là hổ. Ở Ấn Độ, Durga, nữ thần mẹ huỷ diệt,
cưỡi trên hổ, và Shiva, người huỷ diệt, đôi khi cũng mặc áo da hổ.
"Có niềm tin ở Ấn
Độ rằng khu vườn mà hổ đã từng bị giết mất đi sự mầu mỡ của nó. Răng, vuốt và
ria hổ được dùng làm bùa yêu, và như phương tiện chống lại sự khống chế của các
ác linh.
"Ở Trung Quốc, hổ
là vua các loài vật và là chúa vương quốc loài vật. Đôi khi nó mô tả cho quyền
uy, lòng dũng cảm, sức mạnh quân sự và sự dữ tợn cần để bảo vệ."
Nếu bạn nhìn điều này
về mặt tâm lí, thì hổ và sư tử thực sự là được tôn thờ một cách biểu tượng. Việc
tôn thờ hổ và sư tử đơn giản nói rằng bạn tôn thờ sức mạnh - cũng như những người
tôn thờ tiền. Ở Ấn Độ mỗi năm lại có một lễ hội - đặc biệt vào Deepavali, lễ hội
ánh sáng - tiền được tôn thờ như thần… chỉ bạc giấy và đồng xu! Và chúng ta gọi
những người này là thông minh! Những người tầm thường đó đã tôn thờ tiền... bởi
vì nếu bạn tôn thờ tiền, nữ thần của giàu sang, Laxmi, sẽ đổ tiền vào nhà bạn.
Điều đó chẳng bao giờ xảy ra cả. Tiền không mọc ra từ cây, mà cũng chẳng rơi xuống
từ mái nhà bạn. Nhưng dầu vậy lễ hội vẫn cứ tiếp diễn.
Vào thời thơ ấu của
mình tôi đã từ chối ngồi đấy khi họ tôn thờ tiền. Tôi nói điều đó mất trí đến mức
ngay cả đứa trẻ cũng không thể xem được nó. Tiền là thứ chết, chỉ là phương
pháp trao đổi mọi thứ; nó không có chân giá trị. Nhưng nỗi sợ là ở chỗ nếu bạn
không tôn thờ, thế thì Laxmi có thể quay lưng lại nhà bạn. Bà ấy có thể tới chỉ
để làm mưa tiền xuống còn bạn lại không tôn thờ; bà ấy có thể quay đi.
Tôi hỏi bố tôi,
"Bố đã bao giờ nghe nói rằng bà ấy làm mưa tiền xuống không? Chỉ cần một
trường hợp thôi sẽ đủ để thuyết phục con."
Ông ấy nói, "Về
điểm đó thì bố chẳng thể nói được điều gì vì điều đó chưa bao giờ xảy ra cả."
Nhưng thèm khát, ham
muốn tiền, nhiều tiền, thậm chí đã làm cho tiền thành thần - một thứ chết, chẳng
có nghĩa gì. Cũng điều ấy là trường hợp đối với sư tử và hổ, bởi vì chúng đại
diện cho sức mạnh và quyền lực. Mọi người đều khao khát quyền lực: quyền lực để
chi phối người khác, để trở thành thủ tướng, trở thành tổng thống, trở thành
vua hay nữ hoàng. Ham muốn sâu sắc trong mọi người là chinh phục cả thế giới.
Không chỉ Alexander Đại
đế ốm yếu, mọi người đều ốm yếu. Alexander đủ ngu để đem ốm yếu của mình vào hoạt
động. Phần lớn các Alexanders giữ điều đó bên trong mình; nhưng ham muốn chinh
phục thế giới vẫn có đó.
Khi Alexander tới Ấn
Độ, ông ta gặp trên đường một người đẹp nhất mà Hi Lạp đã từng tạo ra,
Diogenes. Diogenes hỏi Alexander, "Ông sẽ làm gì nếu ông chinh phục xong
thế giới? Cứ giả thiết làm làm được điều đó đi, chỉ để biện luận. Cho dù ông có
chinh phục được cả thế giới, ông sẽ làm gì tiếp?"
Alexander nói,
"Ta chưa bao giờ nghĩ tới điều đó, nhưng ta cứ giả sử thế, ta sẽ thảnh
thơi và nghỉ ngơi."
Diogenes đang nằm nghỉ
bên bờ sông, tắm nắng trần. Ông ấy cười to và ông ấy nói, "Nếu sau khi
chinh phục cả thế giới, tàn sát hàng triệu người, ông mới thảnh thơi, thì sao
không thảnh thơi ngay bây giờ đi? Bờ sông này đủ lớn. Cả hai chúng ta có thể ở
đó được. Đó sẽ là việc đồng hành tốt đấy."
Alexander ban đầu bị
sốc bởi vì không ai đã từng nói với ông ấy theo như cách Diogenes đã nói. Nhưng
ông ấy phải nhân nhượng rằng, "Ông phải đấy. Nếu sau khi chinh phục thế giới
người ta chỉ thảnh thơi và nghỉ ngơi, thì sao không nghỉ ngơi và thảnh thơi
ngay bây giờ? Ai biết liệu mình sẽ có khả năng chinh phục được thế giới hay
không?"
Và đó là điều đã xảy
ra. Ông ấy đã không thể hoàn thành được cuộc chinh phục thế giới của mình. Ông ấy
quay về từ biên giới Ấn Độ bên bờ sông Sindhu. Ông ấy đã đánh nhau với vị vua
tên là Poras, một người cực kì dũng cảm và chân thực, đại diện cho những ngày
vàng của nhân loại.
Alexander giở trò
tinh ranh với Poras. Ông ta biết rất rõ không dễ chinh phục con người đó. Đấy
là tháng sawan, khi những người chị em Ấn Độ buộc chỉ vào tay người anh. Điều
đó được gọi là raksha bandhan. Sợi chỉ đó nhắc nhở người anh rằng anh ta phải bảo
vệ người em mình trong mọi hoàn cảnh; cho dù người đó phải liều thân mình, người
đó cũng sẽ làm; đó là lời hứa. Và sau khi buộc chỉ vào tay Poras cô ấy nói,
"Anh có biết em là ai không? Em là vợ của kẻ thù của anh, Alexander, người
đang cắm trại ở bên kia sông Sindhu. Bây giờ anh nhớ và giữ lấy sợi chỉ trên
tay anh. Làm bất kì điều gì anh muốn làm, nhưng đừng giết chồng em."
Poras hứa. Đây là một
chiến lược kì lạ. Nhưng khi đánh nhau, Poras đã có cơ hội, khi ông ta đã giết
chết ngựa của Alexander và Alexander ngã xuống đất và Poras nhảy lên ông ta từ
con voi của mình với cái giáo. Nhưng khi ông ta chĩa mũi giáo vào ngực
Alexander, ông ta thấy sợi chỉ. Ông ta đơn giản dừng lại. Alexander hỏi,
"Có chuyện gì vậy?"
Ông ta nói, "Ta
đã có lời hứa với vợ ông. Cô ấy đã trở thành em gái ta. Ta không thể giết ông
được."
Theo cách đó
Alexander đã trở thành kẻ chinh phục. Đây không phải là chinh phục. Đây là tinh
ranh thuần tuý. Và từ đó ông ta đã quay về. Thấy cách Poras đối xử, ông ta đã
không còn bạo dạn để đi vào sâu trong Ấn Độ, bởi vì ông ta sẽ phải đối mặt với
nhiều chiến binh vĩ đại, dũng cảm, và có cả lục địa cần chinh phục. Cho nên ông
ta quay về, thế giới vẫn còn không bị chinh phục và ông ta chết trùng với ngày
Diogenes chết.
Bây giờ đây mới là
câu chuyện hay. Nó không thể được nói là sự kiện, nhưng nó chắc chắn đúng. Và bạn
bao giò cũng phải có phân biệt rõ giữa sự kiện và chân lí. Chân lí không nhất
thiết là sự kiện, ngay cả hư cấu cũng có thể có chân lí.
Câu chuyện là, họ cả
hai lại gặp nhau trên biên giới của thế giới này và thiên đường. Có một con
sông làm đường biên. Phía trước là Alexander, trần trụi, bởi vì bạn không thể
đem cái gì theo cùng mình được cả, chỉ bộ xương. Bỗng nhiên ông ta nghe thấy một
tiếng cười ha hả đằng sau mình. Ông ta ngoái lại và ông ta không thể tin được
điều đó. Ông ta nghĩ, "Lạy trời, đây là Diogenes."
Nhưng để giữ thể diện,
ông ta nói với Diogenes, "Một sự trùng hợp lớn lao là hoàng để gặp ăn xin
bên sông này, nơi biên giới của thế giới và thiên đường." Ông ta đang nói
rằng, "Ta là hoàng đế còn ông là ăn xin."
Diogenes nói,
"Ông tuyệt đối đúng. Nhưng có sự hiểu lầm nào đó. Ăn xin đang đi trước tôi
còn hoàng đế đi sau ông. Tôi tự do khi tôi còn ở trái đất. Tôi không có của cải,
không quyền lực, không danh vọng. Tôi đơn giản tận hưởng cuộc sống của mình
trong tự do hoàn toàn chẳng bận tâm về điều mọi người nói. Ông quan tâm tới việc
chinh phục thế giới, cho nên ông đã có lời hứa. Ông phải thoả hiệp đủ mọi loại,
ông phải tinh ranh, ngoại giao. Ông đã là kẻ ăn xin tại đó nữa, và ở đây bây giờ
ông vẫn là ăn xin. Tôi là hoàng đế ở đó nữa. Không ai đã từng thách thức tính
chất hoàng đế của tôi và tôi đã bảo ông - ông đã quên chưa? - rằng cuộc chinh
phục của ông có thể không được hoàn tất và ông có thể không có thời gian để nghỉ
ngơi và thảnh thơi. Bây giờ ông phải nói gì về điều đó?"
Alexander nói,
"Xin ông thứ lỗi, tôi quá bản ngã. Giá mà tôi nghe ông và nằm nghỉ lại bên
ông, thì ít nhất đã có vài năm vui sướng, im lặng, thiền, an bình, yêu đương.
Nhưng tôi đã không nghe lời ông."
Có hàng nghìn con đường
đi vào cuộc hành trình của quyền lực, chính trị, tiền bạc, tri thức, bất kì cái
gì nơi con người bắt đầu khoe khoang về bản thân bạn như một thứ đặc biệt.
Tâm lí đằng sau tôn
thờ này với hổ và sư tử biểu trưng cho tôn thờ quyền lực. Cho nên con người một
mặt tôn thờ chúng và mặt khác giết hại chúng. Tôi đã là khách của ông Maharaja
vùng Bhavnagar. Ông ấy đưa tôi đi thăm quanh lâu đài của ông ấy. Và tôi đã thấy
trên khắp lâu đài có hàng trăm cái đầu sư tử treo trên tường hay cả con sư tử
nhồi đang đứng trong hành lang. Tôi nói, "Ai đã làm điều này?"
Ông ấy nói, "Bố
tôi là thợ săn lớn. Ông ấy đã giết nhiều sư tử hơn bất kì ai khác ở Ấn Độ."
Tôi nói, "Ông gọi
điều đó là đi săn. Và nếu một con sư tử giết chết bố ông, ông sẽ gọi điều đó là
gì? Một thảm hoạ. Ông sẽ không gọi điều đó là đi săn. Và việc đi săn này là gì?
Từ chỗ xa, ngồi trên cây với khẩu súng máy, một con vật đáng thương không vũ
khí tự bảo vệ mình hay để đánh nhau... giết chết nó và sung sướng trong việc giết
chết này!"
Tôi bảo ông Maharaja,
"Bố ông phải đã điên rồi. Ông có còn tiếp tục cái điên khùng này không? Những
điều này tới như đồ thừa kế. Tôi thấy trong mắt ông khi ông trưng bầy cho tôi tất
cả những thứ vô nghĩa này với niềm tự hào lớn, cứ dường như bố ông đã làm điều
gì đó tốt cho nhân loại. Ông nên thấy xấu hổ về việc là con của người đã huỷ diệt
không cần thiết những con vật đẹp thế."
Một ghi chép về sư tử.
"Một cách phổ biến
sư tử nổi tiếng là vua của loài vật, và ở nhiều nước nó được tôn thờ như biểu
tượng của mặt trời, và biểu tượng của kẻ phá huỷ. Ở Baalbek, sư tử được tôn thờ
như thần. Bê được dâng tặng cho sư tử và trong khi sư tử ăn ngấu nghiến con bê,
thì những khán giả ngưỡng mộ sẽ ca lên những bài hát ca ngợi sư tử. Ở vùng
Persia, Mythras, thần ánh sáng của người Persian, bao giờ cũng đi kèm với sư tử,
còn người Arabs có thần sư tử, Yaghuth. Ở Ai cập, có nữ thần đầu sư tử,
Sekhmet. Và thần Ai cập cổ đại, Ammit, một phần là sư tử và người ta tin là ăn
linh hồn của những kẻ có tội.
"Ở châu Phi hiện
đại có tượng thần sư tử trong những người Balondas. Nó được làm bằng cỏ được
bao phủ bằng đất sét và được đặt trong rừng. Trong trường hợp có bệnh tật, lời
cầu nguyện được cúng dường và trống được đánh lên trước nó.
"Ở Ấn Độ, hoá
thân thứ tư của Vishnu, là người-sư tử, tên là Narsinha - nửa người, nửa sư tử."
Điều tốt là ý thức về
cách thức nhân loại đang hành xử vô ý thức thế nào. Điều tốt là biết những điểm
xấu của hành vi con người bởi vì thế thì bạn có thể tránh nhiều điều xấu trong
cuộc sống của mình, và năng lượng của bạn có thể di chuyển theo cách duyên dáng
hơn, theo cách đáng yêu hơn, theo cách từ bi hơn.
Avirbhava, đưa hổ và
sư tử của bạn lên đây. (Avirbhava tới trong trang phục sư tử, còn Anando trong
trang phục hổ, nhảy múa quanh bục)
Lời kinh:
Thầy kính yêu,
Có lần, Nam Tuyền bảo với hai đệ tử của ông ấy rằng ông ấy định
đưa họ cùng đi thăm Quốc Sư.
Vào những ngày đó, đặc
biệt là ở Nhật Bản, một thiền sư nào đó được công bố là Quốc Sư về thiền. Có
nhiều thầy thế, nhưng Quốc Sư được gắn bó với cung điện của vua. Và tất cả các
thầy khác thường hay tới gặp Quốc Sư. Có lẽ nhất là ông ấy già rồi và được rất
kính trọng, một người đã giúp nhiều người khác trở nên chứng ngộ. Nam Tuyền đã
chứng ngộ, với hai đệ tử của mình ông ấy định tới thăm Quốc Sư.
Nhưng trước khi họ bắt
đầu khởi hành cuộc hành trình - đây là cách Nam Tuyền làm việc. Ông ấy là duy
nhất theo phương cách của mình. Nhưng trước khi họ bắt đầu khởi hành cuộc hành
trình, Nam Tuyền vẽ ra một vòng tròn trên đường và nói, "Ngay khi các ông
đưa ra câu trả lời đúng, chúng ta sẽ đi." Bây giờ, vẽ một vòng tròn trên
đường, bạn có thể đưa ra câu trảlời gì?
Nhưng đệ tử này chắc
chắn là người giỏi nhất có thể có. Vào lúc đó, một trong các đệ tử ngồi vào bên
trong vòng tròn và người kia cúi mình như đàn bà. Nam Tuyền nói, "Xét từ đáp
ứng này, sẽ không cần đi." Trong thực tế ông ấy chẳng định đi đâu cả, đây
chỉ là cách thức làm việc kì lạ của ông ấy. Nhưng câu trả lời mà các đệ tử đã
xoay xở, là cực kì hay.
Trước hết, một đệ tử
ngồi vào tâm của vòng tròn. Đó là toàn bộ nỗ lực của mọi tôn giáo, ở tại trung
tâm con người bạn. Tại trung tâm của con người mình bạn ở tại trung tâm của
toàn thể vũ trụ. Đó là điện thờ duy nhất, ngôi đền duy nhất. Cánh cửa là ở
chính trung tâm của con người bạn; bạn chỉ là chu vi.
Và người kia cúi mình xuống trước người đệ tử đang ngồi ở trung tâm. Tại Nhật Bản đàn bà hành xử theo cách rất duyên dáng. Đàn ông không được trông đợi có nhiều duyên dáng thế. Nhưng đàn bà được trông đợi rất duyên dáng. Cho nên người kia cúi mình như đàn bà; với duyên dáng lớn anh ta cúi mình trước đệ tử đang ngồi tại trung tâm. Anh ta cũng biểu lộ sáng suốt rằng, chừng nào bạn còn chưa cúi mình trước ai đó đang ở trung tâm của con người mình, với khiêm tốn lớn lao, với an bình lớn lao, với tính toàn bộ, với tình yêu, với cảm nhận, tất cả đều là phẩm chất của đàn bà, bạn chẳng bao giờ có thể đạt tới trung tâm riêng của bạn.
Thấy điều này Nam Tuyền
nói, "Xét từ đáp ứng này, sẽ không cần đi." Cuộc hành trình bị xoá bỏ
vì cả hai con đều hiểu đích xác chính tiến trình để người ta trở nên mang tính
tôn giáo.
Một lần khác, Nam Tuyền
đang giặt quần áo thì một sư bắt gặp ông ấy. Thấy ông ấy đang làm việc như vậy,
sư than, "Thưa thầy, thầy vẫn không thoát khỏi 'cái này' sao?" Từ
'cái này' có ý nghĩa đặc biệt đối với lữ khách của Phật Gautam.
Phật Gautam nhấn mạnh
vào 'tính cái này' của mọi sự. Bạn trở nên già và bạn phàn nàn, và Phật sẽ nói,
"Không cần phải phàn nàn. Đây là cách thức tự nhiên làm việc."
Ngay cả nếu bạn sắp
chết, ông ấy cũng sẽ không biểu lộ thông cảm nào. Ngược lại ông ấy sẽ biểu lộ
hiểu biết của ông ấy. Ông ấy sẽ bảo bạn, "Đừng lo nhé. Chết cho an bình; mọi
thứ được sinh ra một ngày nào đó sẽ chết đi. Đón nhận chết với cảm nhận duyên
dáng, không ác cảm và không phàn nàn. Sống phải không ác cảm nào và không phàn
nàn gì; chết cũng phải như vậy. Từ mà ông ấy dùng là tathata. Nó có thể được dịch
sang tiếng Anh thành như thế này hay tính như thế. Như thế là cách sống, hay
cái này là cách sống; chẳng có gì để phàn nàn cả; bạn không thể đi ngược lại
dòng chảy, nổi cùng nó đi. Đây là con đường đúng: như thế là con đường của những
người biết.
Mặc dầu Nam Tuyền
đang giặt quần áo của mình khi sư này bắt gặp, thấy ông ấy làm hoạt động bình
thường như vậy - một thầy vĩ đại với hàng nghìn đệ tử mà lại đi giặt quần áo
sao? - sư than, "Thưa thầy, thầy vẫn không thoát khỏi 'cái này' sao?"
Nam Tuyền bao giờ cũng sẵn sàng dùng bất kì tình huống nào để đưa sáng suốt lớn
lao vào trong mọi việc. Sư này đang trỏ vào việc giặt giũ bằng cách nói,
"Đây là lúc thầy nên thoát khỏi mọi việc vặt vãnh này, bất kì ai khác cũng
có thể làm điều đó." Nhưng Nam Tuyền đã biến đổi từ 'cái này' ngay lập tức.
Nam Tuyền, giơ quần
áo ướt lên, bình luận "Ông có thể làm gì về 'cái này'?" Toàn bộ tình tiết
về việc giặt giũ quần áo thay đổi ngay màu sắc của nó, ngay ý nghĩa của nó. Nó
trở thành vấn đề về tính cái này. Bạn không thể làm gì về cái này. 'Cái này'
nghĩa là khoảnh khắc hiện tại. Bạn có thể nghĩ về quá khứ, rằng nó có thể đã là
cái gì đó khác; bạn có thể nghĩ về tương lai, nó phải như thế nào; nhưng bạn có
thể làm gì về khoảnh khắc hiện tại? Bạn có thể làm gì về cái này? Trong khoảnh
khắc hiện tại người ta chỉ có thể làm một thứ, chỉ một thứ: người ta có thể đơn
giản im lặng và chứng kiến. Nhiều hơn điều đó... không đủ chỗ trong khoảnh khắc
hiện tại.
Nhưng nhân chứng hoàn
toàn khớp. Bạn có thể quan sát. Thầy đang nói, "Ta đang giặt quần áo và
quan sát. Còn cái gì nữa có thể được làm với cái này?" Thứ nữa ông ấy cũng
đang chỉ ra.... Và đây là một trong những điều mới mà ông ấy đã đưa vào - tôi
đã gọi nó là điểm khởi hành vĩ đại - ông ấy đã làm cho các thiền sư phải làm việc.
"Nếu các ông không làm việc ngày này, thì ngày khác các ông đừng ăn. Làm
việc hôm nay, chỉ thế thì các ông mới được phép ăn ngày mai."
Đó đã là điều rất mới
và xã hội đã rất giận với Nam Tuyền bởi vì các sư bao giờ cũng được xã hội cho
thức ăn, quần áo và những thứ tiện nghi khác. Nam Tuyền đã bảo các sư rằng các
ông không được là kẻ ăn xin. Ông ấy có tính cách rất cách mạng. Các sư phật
giáo mang bình bát khất thực; Nam Tuyền buộc các sư của mình vứt mọi bình bát
khất thực đi. Trong đạo tràng của ông ấy không có bình bát khất thực, bởi vì
trong đạo tràng của ông ấy chỉ có các hoàng đế, không có ăn xin!
"Chúng ta sẽ làm
việc từ nó ra, nhu cầu của chúng ta rất đơn giản: một hay hai chén trà, chỉ gạo
làm thức ăn, và chúng ta có đủ đất quanh đạo tràng; chỉ ba hay bốn giờ làm việc
và biến công việc thành thiền. Trong khi làm việc, làm việc toàn bộ tới mức các
ông quên cả thế giới, để cho chỉ mỗi công việc còn lại, thậm chí không có cả
các ông; các ông cũng mất rồi, bị quên mất rồi. Cho nên sâu bên dưới các ông
tham gia vào công việc tới mức công việc trở thành việc thiền lớn, biến đổi lớn."
Vậy là ông ấy đã đưa
vào một điều mới. Phật đã đưa vào thiền ngồi và thiền đi, bởi vì bạn không thể
ngồi cả ngày và thiền; xương bạn sẽ bắt đầu đau. Cho nên ông ấy đã cho thiền một
giờ ngồi và một giờ đi, để có thể duy trì được cân bằng và lành mạnh của thiền
nhân.
Nam Tuyền nói,
"Vài giờ thiền ngồi và vài giờ thiền làm." Ông ấy vứt bỏ thiền đi.
Khi bạn có thể làm việc thì cần gì bước đi? Làm việc sẽ là đủ luyện tập cho bạn,
nó cũng sẽ có hiệu suất và nó sẽ làm thay đổi khuôn mặt các sannyasin. Anh ta
không nên là kẻ ăn bám vào xã hội; anh nên trở thành độc lập.
Ông ấy đã thấy rằng
xa xăm trong tương lai vấn đề này sẽ thành lớn. Chỉ mới vài năm trước ở Thái
lan chính phủ đã phải làm luật rằng không ai được trở thành sư mà không được
phép của chính phủ. Số sư đã tăng lên theo qui mô lớn đến mức cứ bốn người thì
một người là sư. Bây giờ ba người kia phải mang toàn bộ gánh nặng cho một người,
và bản thân ba người này cũng bên lề chết đói. Thái lan là nước nghèo, thế mà
người này chẳng làm gì, chẳng đóng góp gì cho xã hội và lại đòi hỏi mọi thứ, đòi
cả kính trọng, tôn kính.
Nam Tuyền phải rất rõ
ràng rằng với cách sư tăng lên ở Viễn Đông, chẳng mấy chốc họ sẽ tràn ngập xã hội
thông thường. Sẽ không thể nào nuôi họ được; họ sẽ làm mất mọi kính trọng và trở
thành gần như ăn xin. Việc nhìn xa thấy trước của ông ấy là tuyệt đối đúng. Đó
là tình huống trong nhiều nước phật giáo.
Cho nên sự việc nhỏ
này không chỉ làm lộ ra ý tưởng về tính cái này. Nó cũng còn chỉ ra rằng,
"Ta phải làm việc chứ.
Ta chứng ngộ chẳng
thành vấn đề, ta phải giặt quần áo của mình và ta phải làm việc trên cánh đồng
vì thức ăn của mình."
Khi ông ấy trở nên rất
già, ông ấy vẫn khăng khăng làm việc. Và ông ấy già và mảnh mai thế, các đệ tử
trở nên rất bận tâm. Vào lúc nào đó họ đánh cắp hết công cụ làm việc của ông ấy.
Nam Tuyền tìm công cụ của mình những chẳng thể tìm được. Ông ấy không ăn hôm
đó; các đệ tử đáng thương phải trả lại cho ông ấy công cụ. Ông ấy làm việc đến
tận khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời mình. Ông ấy đã nêu ra giá trị của công
việc, ông ấy đã nêu ra sự kính trọng về sannyasin. Ông ấy đã đem tới nhiều ý tưởng
mới chống lại, đối lập lại với toàn bộ truyền thống.
Cuối cùng ông ấy là
người chiến thắng bởi vì ông ấy đã thấy trước tương lai. Con người của chứng ngộ
có cảm nhận, sáng tỏ để có thể nhìn xa vào tương lai. Và nếu bạn muốn chuẩn bị
cho tương lai, bạn phải bắt đầu từ bây giờ.
Tôi nhớ tới một nhà
huyền môn Sufi người hay làm việc trong vườn và ông ấy đã trở nên rất già, gần
cổ đại, một trăm hai mươi tuổi; nhưng ông ấy vẫn quen làm việc trong vườn. Nhà
vua thường tới hàng ngày khắp thành phố đi vi hành để xem liệu mọi sự có ổn thoả
không. Ông ấy rất quan tâm khi thấy ông già này, người già nhất vương quốc
mình, vẫn làm việc trên đồng, trong vườn.
Ông ấy không thể cưỡng
lại được sự cám dỗ. Ông già này có khu vườn thực đẹp với những cây tuyết tùng lớn,
dễ đến bốn trăm tuổi và ông ấy còn lập kế hoạch trồng cây tuyết tùng mới, chỉ
là cây con. Nhà vua không thể cưỡng lại được cám dỗ; ông ta xuống ngựa, đi tới
ông già và hỏi ông ấy, "Ông bao nhiêu tuổi rồi?"
Người này nói,
"Tuổi á? Mọi người nói rằng tôi phải quãng một trăm hai mươi tuổi. Nhưng
tôi chưa bao giờ đếm cả. Có thế nhiều hơn chút ít, có thể ít hơn chút ít. Nhưng
sao ông lại hỏi?"
Nhà vua nói, "Ta
hỏi điều này bởi vì ông là người trồng cây. Ông sẽ không có khả năng thấy những
cây này lớn lên. Ông đang trồng cây ăn quả sẽ có quả sau bốn mươi hay năm mươi
năm nữa. Ông sẽ không còn ở đây. Và ông làm việc cả ngày. Ta không thể hiểu được
logic của ông."
Ông già nói,
"Ông sẽ hiểu. Nếu bố mẹ tôi mà không trồng cây, những cây mà họ sẽ không
thấy việc nở hoa hoàn toàn của chúng, thì tôi đã không thấy được chúng. Tôi sẽ
không hưởng quả của những cây đó. Tôi sẽ không thấy những cây tuyết tùng bốn
trăm năm tuổi này gần như vươn tới các vì sao, vẻ đẹp và sức mạnh của chúng. Nếu
ông cha tôi từ bốn trăm năm trước đây mà không trồng chúng, tôi đã không có khả
năng tận hưởng bóng mát của chúng, vẻ đẹp của chúng, vĩ đại của chúng. Tôi có
phải trả lời thêm hay ông đã hiểu?"
Nhà vua nói một cách
khiên tốn, "Ta hiểu rồi. Nếu ông thấy tương lai một cách rõ ràng, thế thì
đây là khoảnh khắc để bắt đầu, bây giờ hay không bao giờ."
Một bài thơ của
Sekiso:
Trong những thôn làng núi non này
và những thị trấn hải cảng
tôi sung sướng đã tìm ra
người đồng hành tốt,
đám đông ngư dân
vào và ra lều tôi mọi lúc.
Vì tôi chưa bao giờ đưa ra cái gì nhỏ nhất
theo kiểu con mồi
tôi đã đảm đương được không lừa dối
cá đang bơi tới
bất chấp cả hiểm nguy mạng chúng.
Người ta nói về Sekiso
là ông ấy sống trong một túp lều ở một làng chài lưới. Ông ấy có chiếc lều ngay
bên cạnh hồ, và bất kì khi nào ông ấy tới hồ, hàng trăm con cá bơi tới đón mừng
ông ấy. Cũng hệt như người ta nói về thánh Francis ở Assisi, cũng có điều như vậy
với Sekiso.
Và trong bài thơ này
ông ấy đang nói, Vì tôi chưa bao giờ đưa ra cái gì nhỏ nhất theo kiểu con mồi
tôi đã đảm đương được không lừa dối cá đang bơi tới bất chấp cả hiểm nguy mạng
chúng. Cá hay bơi tới ông ấy cũng là đang tiến tới mối nguy hiểm cho mạng chúng.
Nhưng điều đó xảy ra nếu trái tim bạn tràn đầy tình yêu. Nếu toàn thể con người
bạn không bạo hành thì bạn thậm chí không thể hình dung ra được việc giết hại vật
sống, ngay cả cây cối cũng hiểu điều đó, ngay cả chim chóc cũng hiểu điều đó,
con vật cũng hiểu điều đó.
Và theo nghĩa sâu sắc
hơn, nếu bạn làm cho điều đó thành cách diễn đạt biểu dụ, thì mọi thầy đều được
hàng nghìn đệ tử tới gần bất chấp nguy hiểm tới mạng họ. Điều đó là có thể chỉ
nếu thầy toả ra sự tin cậy, nếu thầy toả ra tình yêu, nếu bạn có thể thấy trong
mắt thầy không cái gì khác ngoài nhân chứng thuần khiết, tấm gương. Bằng không
bạn không thể tới quá gần thầy được; bạn sẽ giữ khoảng cách, bởi vì, ai mà biết
được, ông ấy có thể lừa bạn, ông ấy có thể dối bạn.
Nhưng với thầy đích
thực thì đấy không phải là vấn đề phân biệt tinh thần. Nó chỉ là việc đột nhiên
khi bạn tới gần thầy đích thực, cái gì đó trong tim bạn bắt đầu nhảy múa. Không
ai sẽ thấy điều đó; duy nhất bạn sẽ thấy rằng trái tim bạn đã đi vào trong một
loại năng lượng khác, rằng trái tim bạn đã đi vào trong một bầu khí hậu khác,
hương thơm mới hấp dẫn bạn như nan châm.
Đúng là bạn càng tới
gần thầy hơn, thì cái gọi là nhân cách riêng của bạn sẽ ngày càng biến mất dần
đi. Chỉ cái đích thực, và tự nhiên, cái bạn đã mang từ lúc sinh thành của mình,
mới còn lại, không phải là cái đã được xã hội trao cho bạn.
Đúng là thầy là cái
chết và phục sinh. Đi ngang qua thầy, bạn đang đi ngang qua ngọn lửa; chỉ vàng
ròng mới được giữ lại. Tất cả mọi cái giả tạo trong bạn sẽ bị thiêu cháy. Cho
nên chỉ những người rất dũng cảm mới chọn bước tới gần thầy.
Maneesha đã hỏi một
câu hỏi:
Osho ơi,
Có thể quan niệm được rằng thầy đích thực có thể phản bội đệ tử
mình không?
Maneesha, điều đó có
thể quan niệm được đấy. Nếu thầy đích thực cảm thấy rằng bằng việc phản bội đệ
tử mà ông ấy sẽ giúp được cho họ, thầy sẽ phản bội. Thầy thực có thể làm bất kì
điều gì để giúp đệ tử. Có chút ít khó khăn để quan niệm về điều đó - và trong
khi Maneesha đang viết ra câu hỏi này, cô ấy có thể đã không nghĩ rằng đây sẽ
là câu trả lời của tôi - nhưng thầy đích thực có thể làm bất kì điều gì. Thầy
có thể phản bội nếu thầy cảm thấy rằng việc phản bội sẽ giúp cho sự trưởng
thành tâm linh của bạn. Bằng không thì không có vấn đề về phản bội.
Ngay chỗ đầu tiên thầy
chẳng cam kết gì với bạn cả. Trước khi có phản bội thì phải có cam kết. Thầy
đích thực không bao giờ tự mình cam kết với bạn và không bao giờ buộc bạn cam kết,
bởi vì mọi cam kết đều là nô lệ tâm linh. Cả đệ tử không bị buộc vào cam kết mà
thầy cũng không bị buộc vào; họ tới gần như những bạn đồng hành trên cùng con
đường. Có lẽ thầy đi trước hơn một chút, nhưng điều đó không có nghĩa là bạn thấp
hơn còn thầy cao hơn.
Bất kì ai nghĩ dưới dạng
cao siêu và thấp kém đều không phải là thầy chút nào. Người đó chỉ chơi cùng
trò chơi bản ngã vẫn đang được chơi ở mọi chỗ trên khắp thế giới theo những
cách thức khác nhau. Thầy đích thực đứng ngoài trò chơi của bản ngã. Cho nên
không có vấn đề buông xuôi theo ông ấy, không có vấn đề cam kết với ông ấy.
Bạn đang hỏi,
"Thầy đích thực có thể phản bội đệ tử không?" và tôi thậm chí đang
nói rằng đệ tử không thể phản bội được thầy đích thực bởi vì không có cam kết.
Chúng ta đi cùng nhau trên con đường.
Tại điểm nào đó bạn cảm
thấy cần đi theo hướng khác. Thầy đích thực sẽ đơn giản ban phúc lành cho bạn
và sẽ cho bạn đảm bảo rằng nếu bạn thấy bất kì khó khăn nào, "Ta bao giờ
cũng sẵn có đây. Ông có thể thám hiểm theo mọi hướng, toàn bộ vũ trụ này là của
chúng ta. Và có hàng nghìn cách để đạt tới chân lí. Cho nên nếu một ham muốn đã
nảy sinh trong ông để đi theo hướng nào đó, thì ông có thể rời bỏ ta. Đừng nghĩ
cho dù một khoảnh khắc rằng ông đang phản bội ta. Đừng cảm thấy mặc cảm bởi vì
đã không có cam kết gì ngay chỗ đầu tiên."
Và khi có liên quan tới
thầy, thì hiển nhiên, sao thầy phải cam kết với đệ tử? Vì lí do gì? Thầy có điều
đó rồi. Đệ tử đang tìm kiếm, thầy đã có nó rồi.
Điều đó làm tôi nhớ tới
một câu chuyện rất hay trong cuộc đời của Phật Gautam.
Một đệ tử nào đó của
Phật Gautam, tên là Manjushree, bao giờ cũng ngồi dưới một gốc cây. Phật có thể
sắp nói nhưng ông ấy sẽ không đi từ cây đó tới phòng hội. Và mọi người cứ hỏi
ông ấy mãi, "Manjushree, ông là con người của thông minh. Nếu ông đã từ bỏ
thế giới để sống cùng Phật Gautam, thì cam kết của ông là với Phật Gautam hay với
cái cây này? Thầy đang nói còn ông lại ngồi ở đây." Thường thì ông ấy chỉ
cười và sẽ chẳng nói gì. Cuối cùng ông ấy nói, "Sao các ông không hỏi đích
thân Phật Gautam ấy? Ta biết, thầy biết."
Những người hỏi chẳng
thể thấy điều bí ẩn về việc đó. Họ hỏi Phật Gautam, "Sao Manjushree cứ ngồi
dưới gốc cây đó thế? Thầy đi, thầy tới các chỗ khác, mà ông ấy cứ ở đó."
Phật nói, "Ông ấy
đã tìm thấy rồi. Bây giờ không có vấn đề đi đâu cả. Mọi thứ đã trở thành tĩnh lặng
trong ông ấy và điều hoàn toàn đẹp. Các ông chỉ thấy ông ấy từ bên ngoài ngồi
dưới gốc cây. Các ông chưa thầy hàng nghìn hoa đang rơi xuống từ cây phủ khắp
người Manjushree, cùng vui về chứng ngộ của ông ấy.
"Và các ông chưa
bao giờ tự hỏi tại sao Phật không hỏi ông ấy. Các ông nên nghĩ về điều đó. tỉnh
táo hơn chút ít. Ta cũng nhận biết rằng ông ấy đang ngồi dưới gốc cây, rằng ông
ấy không tới hội chúng. Không có nhu cầu; ông ấy đã tìm thấy nó. Bây giờ ông ấy
tự do; ông ấy có thể ngồi dưới gốc cây hay ông ấy có thể đi bất kì đâu. Không
có cam kết."
Thầy đích thực không
có cam kết bất kì loại gì cả từ phía đệ tử cũng như từ phía thầy. Đó là chín
mươi chín chấm chín phần trăm của câu trả lời; chấm một phần trăm, tôi nói một
thầy đích thực trong tình huống nào đó có thể phản bội đệ tử mình nếu ông ấy cảm
thấy, nếu ông ấy thấy rằng sự phản bội của mình có thể giúp cho sự trưởng
thành, có thể làm cho đệ tử tự do hơn, độc lập hơn. Khả năng có đó; điều đó
không phải là không quan niệm nổi. Nhưng nó bao giờ cũng là vì ích lợi của đệ tử.
Bây giờ điều gì đó
nghiêm chỉnh để tôn vinh sư tử và hổ...
Ông già Gronk, người
gù, sắp sửa về hưu. Ông ấy làm việc rung chiếc chuông khổng lồ ở nhà thờ Tam thể
trong bốn mươi năm nay, và ông ấy đã quá già không thể trèo lên các bậc tháp
chuông được.
Ông ấy đăng quảng cáo
tìm người thay thế trên báo chí, và ngày hôm sau một người gù khác xuất hiện.
"Tôi đã tới rồi,"
anh gù trẻ nói, "để nhận công việc này."
Cả hai người gù cùng
trèo lên tháp chuông.
"Đó là công việc
khó khăn," ông già Gronk thở hổn hển, phì phò. "Nhìn đây!"
Rồi ông già chạy ngược
lại, quay mình, và chạy về phía cái dây chuông. Ông ấy nhảy lên không trung chừng
quá nửa mét, tóm lấy chiếc dây thừng, và đung đưa điên cuồng trên nó, rung chiếc
chuông khổng lồ, vang như sấm - Boong! Boong! Boong!
Anh gù trẻ nhìn điều
đó và hăm hở thử. Anh ta quay lại, chạy nước rút tới chiếc dây chuông, nhảy lên
không trung quá nửa mét, tóm hụt chiếc dây, và đập mạnh mặt mình và mặt chuông,
tạo ra một âm thanh nhỏ 'Boong'.
"Khoan đã! Khoan
đã!" chàng gù trẻ nói, tự phủi bụi người mình. "Để tôi thử lần nữa
xem sao."
Anh ta chạy, nhảy lên
không trung quãng nửa mét, tóm hụt sợi dây chuông, và lại đập mạnh mặt mình vào
chuông - Boong!
"Khoan đã! Thử lần
nữa này!" anh chàng gù mặt mày nhăn nhó lắp bắp.
Anh ta chạy tít tận
vào góc tháp chuông, và mở tốc độ hết mức, nhào tới chiếc dây chuông. Anh ta nhảy
lên gần một mét trong không trung, lại tuột mất chiếc dây, tuột luôn chiếc
chuông, và lao ra ngoài cửa sổ, quãng sáu mươi mét cao trên phố phía dưới.
Ông già Gronk nhìn xuống
đám đông nhỏ đang vây lấy chỗ bẩn tí hon trên đất.
"Này, ông trên
kia!" viên cảnh sát quát lên. "Có ai biết anh chàng này không?"
"Không, tôi
không biết anh ta là ai cả!" Gronk quát lại, "nhưng mặt anh ta rung
chuông đấy!"
"Làm sao em có
thể nói rằng anh đãng trí được?" Ronald Reagan nháy mắt với Nancy Reagan
qua bàn ăn, trong khi ông ta làm dính bơ vào chiếc cà vạt, và nhìn vào miếng
bánh của mình.
"Thế này,
Ronnie," Nancy truy lại, "anh có thể giải thích cho em tại sao anh lại
quên mặc quần lót hôm qua, trước khi anh tới gặp ông Gorbachev?"
"Gặp ông nào?
Anh có gặp à?" Reagan hỏi, vừa gãi đầu. "Kì lạ thật! Anh không nhớ đã
làm việc đó chút nào.
"Thực tế, chỉ có
ba điều anh không thể nhớ được. Anh không thể nhớ được tên, anh không thể nhớ
được mặt... và anh không thể nhớ được điều thứ ba là gì!"
Bà Wimple, hiệu trưởng
đại học Bedding Down, trường con gái, đang đọc bài diễn văn nhân khai giảng năm
học mới.
"Các em nhớ,"
bà Wimple nói, một cách kiên quyết, "giữ thân thể và tinh thần lành mạnh
và sạch sẽ. Các em có trách nhiệm mới khi các em vào thời phụ nữ. Tình yêu là
cơ sở để trên đó gia đình được xây dựng nên, cho nên đừng tự buông thả mình
phóng đãng và bừa bãi dục. Từ đó chỉ có nguy hiểm tới, mà nó cũng chỉ là thú
vui nhất thời. Trong khi các em làm mất đi sự duyên dáng và kính trọng, các em
có thể lại bị bệnh và mang thai… và tất cả những cái đó để làm gì cơ chứ? Cái
giá của một giờ vui thú!"
Bỗng nhiên, một tiếng
nói từ hàng cuối cất lên, "Cô làm thế nào để kéo dài điều đó được một giờ?"
Nivedano...
(tiếng trống)
(nói lắp bắp)
(tiếng trống)
Im lặng. Nhắm mắt lại
và cảm thấy thân thể bạn trở nên đông cứng hoàn toàn. Bây giờ nhìn vào bên
trong với sự khẩn thiết sâu sắc, dường như đây là khoảnh khắc cuối cùng của cuộc
đời bạn. Sự khẩn thiết này là tuyệt đối cần thiết bởi vì chỉ thế thì bạn mới có
thể đạt tới trung tâm của con người mình.
Đi ngày một sâu như
chiếc giáo vào trung tâm con người bạn. Đó là cội nguồn của cuộc sống. Tại
trung tâm con người bạn, mọi người đều là phật. Và khoảnh khắc bạn đạt tới
trung tâm và bạn cảm thấy phật tính tràn đầy tâm thức bạn một cách hoàn toàn,
niềm vui vô biên nảy sinh. Hàng nghìn đoá hoa bắt đầu mưa rào lên bạn. Thanh thản,
im lặng, phúc lạc, cực lạc sâu sắc… chỉ quan sát mọi thứ. Bạn đang đi vào trong
chính bí ẩn của cuộc sống.
Để làm cho điều đó rõ
ràng hơn,
Nivedano...
(tiếng trống)
Thảnh thơi đi. Bạn
không là thân thể, bạn không là tâm trí, bạn chỉ là nhân chứng. Nhân chứng này
là điểm khởi hành. Từ nhân chứng này bạn có thể đi vào trong vũ trụ, và cái vĩnh
hằng. Đây là cánh cửa mở tới tất cả những điều vĩ đại - chân lí, cái thiện -
satyam, shivam, sunderam.
Thu lấy thật nhiều
hoa, thật nhiều hương thơm, thật nhiều vàng nhất có thể được, bởi vì bạn phải
đem phật đi cùng mình. Dần dần, bạn phải hành động suốt hai mươi tư tiếng như
phật; không phải như, mà đích thực là phật, nhớ tới duyên dáng, tình yêu, từ
bi, nhớ tới cân bằng của mọi thứ và bao giờ cũng vẫn còn ở giữa, chỗ giữa vàng.
Việc chứng kiến làm cho mọi điều này thành có thể.
Buổi tối nay đẹp theo
cách riêng của nó, nhưng hiện diện của bạn, im lặng của bạn, chứng kiến của bạn,
tan chảy của bạn vào lẫn nhau... Thính phòng Phật này không còn đầy mười nghìn
người nữa. Nó đã trở thành cái hồ tâm thức.
Làm mất đi các biên
giới là niềm vui lớn lao nhất; tan chảy vào trong vũ trụ là sự huy hoàng vĩ đại
nhất.
Trước khi tôi gọi các
bạn quay lại, nhìn cho rõ vào không gian này nơi bạn đang hiện hữu, bởi vì bạn
phải tới thăm nơi này nhiều lần.
Nhìn cho rõ vào con
đường bạn đã đi theo để đạt tới trung tâm của mình từ chu vi. Cùng con đường
này, bạn sẽ đi lại lần nữa. Nó là con đường nhỏ, chỉ một bước thôi. Nhưng phép
màu kì diệu làm sao trong một bước này! Người thường trở thành phi thường, người
không ai cả trở thành phật.
Nivedano...
(tiếng trống)
Quay lại, nhưng quay
lại như chư phật không sợ hãi và không hoài nghi gì. Phật là cái ta tinh tuý của
bạn. Ngồi im lặng trong vài khoảnh khắc chỉ để hồi tưởng lại kinh nghiệm bạn đã
trải qua. Và sống nó trong các điệu bộ của bạn, trong các hoạt động của bạn,
trong lời của bạn, trong im lặng của bạn.
Được chứ, Maneesha?
Vâng, thưa Osho.
Chúng ta có thể mở hội
mười nghìn chư phật chứ?
Vâng, thưa Osho.
Xem Tiếp Chương 6 –
Quay Về Mục Lục
Đọc Miễn Phí Sách Thiền - Download Sách Thiền PDF
Nghe Miễn Phí Sách Nói Thiền Hoặc Download ê
0 Đánh giá