Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Giảng Luận Duy Biểu Học
Biết Rõ Sự Vận Hành Của Tâm
Chương 1. Thức Thứ Tám (Tàng Thức)
Bài Kệ 2. Các Loại Hạt Giống
Hạt giống có nhiều loại
Mê ngộ và khổ vui
Sanh tử và Niết Bàn
Danh xưng và Tướng trạng
Hạt giống có đủ loại:
đủ loại có nghĩa là không có loại hạt giống nào mà không có trong ta. Dù nó yếu
hay mạnh, quan trọng hay không quan trọng đều có đủ hết. Hôm trước tôi có nói rằng
chúng ta có hạt giống của sự trung kiên; điều đó không có nghĩa là không có hạt
giống của sự phản bội, sinh tử và Niết Bàn, mê và ngộ và khổ vui. Tức là ta có
hạt giống của sinh tử và Niết Bàn. Sinh tử ở đây có nghĩa là trôi lăn, ngụp lặn
trong khổ đau chứ không có nghĩa là sinh ra rồi chết đi. Đây có nghĩa là luân hồi
là khổ cách này rồi khổ cách khác. Nói theo con nít Việt Nam: “Giờ là khổ dài
dài” không thoát ra được. Trôi lăn trong sinh tử.
Chúng ta không phải đợi
năm sáu chục năm mới sinh tử một lần đâu. Mỗi ngày chúng ta có thể sinh tử hàng
triệu lần. Sinh tử trong thân, sinh tử trong tâm, đau khổ lắm. Trong một giờ mà
ta có thể sinh tử biết bao nhiêu kiếp. Chết rất nhiều lần trong một giờ đồng hồ,
khổ đau vô lượng. Thành ra sinh tử là khía cạnh khổ đau của sự sống, trong đó
có sự sợ hãi, căm thù, buồn khổ thì gọi là sinh tử. Niết Bàn là cái ngược lại
là sự chấm dứt sinh tử, sự mát mẽ, sự không sợ hãi, sự vững chải. Chúng ta có đủ
hạt giống của sinh tử, đủ hạt giống của Niết Bàn. Hai loại hạt giống đó không hẳn
nó chống bán nhau trong ta, có đánh giặc với nhau. Đừng có tưởng tượng là Niết
Bàn và sinh tử đang đánh giặc trong ta. Cũng giống như ta không nên tưởng hoa
và rác đang đánh giặc với nhau tại vì rác khác với hoa. Nhìn sâu thì ta thấy rằng
trong rác có hoa. Ta cũng biết trong hoa có rác nếu ta không khéo không sống
cho có chánh niệm thì hoa biến thành rác rất mau chóng. Không những trong hoa
có rác mà ngay trong rác cũng có hoa. Nhưng mà rác chưa biểu hiện đó thôi. Nếu
mình người phàm phu thì đợi mười ngày sẽ thấy hoa là rác. Còn người thực tập tỉnh
thức thì đã thấy ngay trong hoa có rác, ta thấy rác ngay trong tự tính bất nhị Niết
Bàn của nó. Thành ra người người mê nhìn hoa chỉ thấy hoa thôi, người ngộ thì
thấy trong hoa có rác. Không sợ rác gì hết, tại vì biết rằng nếu không có rác
thì làm gì có hoa. Thành ra khi cầm hoa trong tay thì biết ơn rác chớ không hẳn
mình phải thù rác. Vì vậy hoa không thù rác đâu, chỉ có mình u mê cho nên mình
mới thù rác.
Chúng ta nhìn Bụt và
nghĩ rằng Bụt với Ma là hai kẻ thù không nhìn mặt nhau. Đó là ta nhìn bằng con
mắt phàm tục. Nếu ta nhìn bằng con mắt tĩnh táo thì ta có thể thấy Bụt và Ma
Vương có thể nắm tay nhau đi thiền hành rất là thân ái. Ngày xưa tôi đã viết một
bài về cuộc viếng thăm Bụt của Ma Vương. Hồi đó Thầy A Nan chưa giỏi nên không
muốn Bụt gặp Ma nhưng bây giờ Thầy giỏi rồi. Trong khi Đại Thừa có nói “Niết
Bàn sinh tử thị không hoa” có nghĩa là Niết Bàn và Sinh Tử là hoa đốm giữa hư
không.
Trước hết là chính tại
ý niệm sai của mình cho là hai cái đó chống bán nhau. Thật ra mình phải sử dụng
chất liệu Sinh Tử để làm Niết Bàn và Niết Bàn làm chất liệu để làm ra Sinh Tử.
Cũng giống như hoa và rác. Nếu thấy được như vậy thì mình không còn sợ hãi nữa.
Trong tâm thức của
mình có chứa đựng những hạt giống của Niết Bàn và Sinh tử mà mình chỉ có thể
tìm Niết Bàn trong Sinh Tử thôi. Có một Thiền sư Việt Nam thời Lý, vào một hôm
tới hỏi Thầy: “Thầy dạy con phải tìm cảnh giới không sinh tử, vậy thì con phải
đi tìm cảnh giới không sinh tử ở đâu?” vị Thiền sư trả lời: “Con đi tìm ngay ở
chỗ sinh tử đó.” Tại vì anh trốn chạy rác nên không bao giờ anh tìm ra hoa cả.
Thành ra những cái buồn của mình có thể tạo ra sự an lạc hạnh phúc của mình.
Trong cái buồn, cái giận, cái khổ của mình, nếu mình biết sử dụng ba cái chìa
khóa mà Bụt trao cho là Vô thường, Vô ngã, Niết Bàn để mở cửa thực tại thì mình
sẽ tìm thấy Niết Bàn, vững chải, an ổn ngay trong cái sợ hãi, sầu khổ của mình.
Vì vậy trong Đại Thừa có câu: Phiền não tức Bồ đề.
Thường thường phiền
não là ngược lại với Bồ đề, là u mê tham giận, kiêu căng. Bồ đề là sự giác ngộ,
nhưng chính trong cái phiền não mình mới thấy được sự giác ngộ, an lạc, vững
chãi. Cho nên khi nói rằng tôi đi tìm an lạc, đi tìm Niết Bàn thì phải diệt cho
hết những phiền não của tôi đi, như vậy là người chưa thấy được nguyên tắc của
sự hành đạo. Như vậy là sai, giống như khi người làm vườn vừa có cọng rác nào
là đem vứt đi hết, cho tới khi muốn có phân để trồng trọt thì không còn gì. Như
vậy người đó không biết làm vườn. Khi biết được điều đó thì mình không còn sợ
phiền não nữa.
Hạt giống có nhiều loại:
sinh tử và Niết Bàn, mê, ngộ và khổ, vui. Chúng ta có hạt giống mê, nhưng cũng
có hạt giống ngộ. Nếu chúng ta ham tưới những hạt giống mê thì nó sẽ mọc lên
tươi tốt. Sống trong đời, ai mà không có đi qua những cơn mê. Nhưng những cơn
mê đó được nuôi dưỡng hoài bởi sự tưới tẩm. Nhưng mê hoài rồi thì cũng đến giai
đoạn tỉnh. Tỉnh tức là có Ngộ. Sở dĩ ta tỉnh được vì có những hạt giống ngộ
trong mình. Theo giáo lý Duy Biểu thì ta có hạt giống ngộ, ta đừng có lo. Đôi
khi những đau khổ do cơn mê, nó giúp ta tiếp xúc được những hạt giống của ngộ
nên chúng ta tỉnh dậy, mê và ngộ không hẳn là kẻ thù. Thường thường đại mê là đại
ngộ. Càng mê nhiều thì ngộ càng lớn. Đại nghi thì đại ngộ, đại mê thì đại tỉnh.
Chúng ta có hạt giống của mê ngộ và khổ vui. Hạt giống, đủ thứ khổ và đủ thứ hạt
giống của niềm vui. Những vui thật sâu sắc, những vui thật cạn cợt, che giấu những
nỗi khổ lâu dài.
Danh xưng và tướng trạng.
Danh xưng là một loại hạt giống. Tướng trạng là một loại khác. Danh xưng là tên
gọi của một sự vật. Trong tâm thức, tàng thức của ta, ta có đủ thứ hạt giống về
tên gọi, ví dụ ta có một hạt giống của tên gọi cái này là núi, cái kia là song,
người tỉnh là Bụt, người mê là Ma, người như vầy thì gọi là cha, người kia là mẹ.
Đó là những hạt giống về danh xưng. Đối với loài người những hạt giống về danh
xưng rất quan trọng.
Mỗi hạt giống về danh
xưng có thể làm phát khởi trong ta những hạt giống khác. Gọi là hạt giống về tướng
trạng. Danh xưng có gốc từ nhĩ thức (audio) và tướng trạng có gốc từ nhãn thức,
hình ảnh (visue).
Ví dụ trong tàng thức
chúng ta đang có hạt giống vừa danh xưng Paris mà cũng vừa tướng trạng Paris. Vừa
có người động đến chữ Paris tức là họ động đến hạt giống danh xưng Paris thì ta
có thêm về hình ảnh Paris như là tháp Eiffel, nhà thờ Notre Dame. Đó là hạt giống
tướng trạng đang nằm trong tàng thức ta đầy đủ hết. Đứng về phương diện Phật học
thì chúng ta có rất nhiều hạt giống về danh từ Phật giáo. Có những danh thì rỗng
nó không có nội dung, có những danh từ ta không hiểu hay hiểu lầm, ví dụ như
danh từ thức đó, ta chưa hiểu hoặc hiểu sai lầm về thức. Những tướng trạng, những
đối tượng của tri giác, nó nằm trong tâm thức của chúng ta có thể là nó rất xa rời
sự thực, có thể nó hoàn toàn do sự tạo dựng, tưởng tượng của tâm thức ta. Ta
không biết được không thấy được ranh giới giữa cái sự thực và những điều mà
mình tiếp nhận bằng tri giác. Ví dụ khi ta nói đến danh từ Bụt. Từ đó hiện ra từ
một hạt giống mà ta tiếp nhận khi nhìn một tượng Bụt lúc còn bé thơ, những điều
mà ta đọc được trong sách về Bụt. Nội dung của tri giác chúng ta về Bụt, nó được
cất chứa trong tâm chúng ta. Nhưng mà bụt đó có phải là Bụt tự than, hay là
hình ảnh của Bụt mà chúng ta có trong tâm và chúng ta gán cho đó là Bụt của thực
tại. Tại vì hồi ba bốn tuổi chúng ta có một ý niệm về Bụt. Nhưng ta đi vào chùa
được nghe dạy về Bụt thì cái ý niệm ngây thơ về Bụt biến mất và cho ta có ý niệm
rõ rệt hơn về Bụt nhưng chưa chắc ý niệm đó đã phù hợp với thực tại. Cho nên đối
tượng của những tri giác của chúng ta mà ta cất giữ trong tâm, có tính chất “Thức
biến”, tạo tác của tâm thức nhiều hơn sự thật. Ví dụ người mà ta thương, đối tượng
của sự thương yêu của chúng ta có thể là nó không giống với cái người trong thực
tại. Chúng ta tạo ra những hình ảnh này, hình ảnh nọ về người đó, chúng ta lý
tưởng hóa người đó, chúng ta thấy người đó đẹp hơn là trong thực tại.
Khi mà ta ghét cũng vậy,
ta tạo tác ra một hình ảnh về người ta ghét trong tâm ta. Nghe đến tên người đó
thì sân si đùng đùng nổi dậy và những hình ảnh dễ ghét của người đó nổi dậy.
Nhưng mà cái hình ảnh đó chưa chắc nó đã phù hợp với thực tại. Thành ra ta cất
chứa tất cả cái hình ảnh sai đó. Có thể ta đang sống trong một vũ trụ đầy dẫy
những sai lầm, ảo tưỏng vậy mà chúng ta cứ tưởng rằng chúng ta đang tiếp xúc thật
sự với thế giới, với loài người và những loài khác. Có thể là chúng ta rất
thương kính Bụt và ta nghĩ rằng khi gặp Bụt, ta sẽ lạy xuống liền và đi theo
Ngài không rời một giây phút nào hết, để nghe Ngài thuyết pháp dạy dỗ… nhưng có
thể rằng ngày mai chúng ta đi gặp bụt ở Sainte Foy thì chúng ta không thèm
nhìn, tại vì chúng ta có một hình ảnh về Bụt khác. Mà Bụt chúng ta gặp ở Sainte
Foy có thể là Bụt thật, nhưng chúng ta không thèm để ý tới. Bụt nói câu gì
chúng ta cũng cải lại, chúng ta nói ông nói tầm bậy tầm bạ, tại vì mình có
trong tâm những hạt giống tri giác sai lầm mà mình chắc mẩm là đúng. Ví dụ như
mình chắc mẩm là Bụt thì có hào quang, mặc áo vàng, khoát y thật đẹp. Tới chừng
khi gặp Bụt mặc áo sơ mi thì mình đâu có chịu. Bụt gì mà mặc áo sơ mi? Bụt gì mà
không có hào quang? Vì vậy cho nên ta nên biết cái tri giác, cái tưởng của
chúng ta đưa vào trong tâm thức chúng ta nhiều hạt giống về danh xưng về tướng
trạng và chúng ta sống với thế giới đó. Và chính vì cái thế giới mà chúng ta tự
tạo tác bằng những ảo giác đó, nó ngăn che không cho ta tiếp xúc với sự thật
khi sự thật đến gần.
Ngay chính nhận thức của ta đối với chúng ta cũng vậy. Ta có thể có một tri giác rất sai lầm về chính ta. Có khi ta thù ghét ta, ta khinh miệt ta mà thật ra có thể ta không như vậy. Ta có những khả năng, những tài ba những yếu tố mà ta, vì những trở lực ngăn che nào đó, ta không tiếp xúc được. Vì vậy, thường thường là ta có một cái hình ảnh rất méo mó về chính ta, rất méo mó về người và về sự vật.
Này nhé ta thử xem
xét vại cái kho tàng thức của ta xem có bao nhiêu danh từ (danh xưng) và hình ảnh
(tướng trạng) về người và về vật. Ví dụ như ông Bush. Ta biết gì về ông Bush?
Chúng ta có những tri giác trực tiếp nào về ông Bush? Những cái thương cái ghét
của chúng ta về ông Bush có rất nhiều. Đôi khi cũng cái thương ghét đó căn cứ
trên một ý niệm do sách báo do tuyên truyền mà có. Ta nghe nói về Lý Thường Kiệt,
về Tổng thống Miterand, về núi Alpes, núi Pyrenées, núi Phú Sĩ, về sông Cửu Long.
Tất cả những thứ đó đều có danh xưng và tướng trạng cả; và hễ chúng ta có danh
xưng thì chúng ta tin chắc rằng chúng ta có cái thực tại mà cái danh xưng đó đại
diện. Đó là điều rất sai lầm. Hễ chúng ta có cái danh xưng cất ở trong lòng ta
thì ta có ảo tưởng rằng ta có sự thật mà danh xưng đó đại diện. Tổng thống Bush
à? Tôi biết quá mà! Thật ra thì ta không biết gì hết về ông Bush. Mình chỉ có
tên ông Bush và một vài cái người nói qua nói lại về ông Bush. Bụt cũng có thể
như vậy. Có thể mình chưa biết được về Bụt ra sao cả. Mình chỉ nghe nói và có
danh từ về Bụt và dựng lên một hình ảnh về Bụt khác xa thực tại về Bụt.
Đối với chính mình
cũng vậy, chính mình cũng chưa biết thấu đáo về mình. Cho nên tập quán sát về
cái tưởng, về cái tri giác của mình rất quan trọng. Nước Pháp là một danh xưng.
Danh từ nước Pháp làm hiện trong ta một quốc gia, hình ảnh của quốc gia đó, tri
giác về quốc gia đó, đứng về phương diện lãnh thổ, dân chúng, tính tình, phong
tục, tập quán, kinh tế có thể ta không biết nhiều nhưng tại vì chúng ta có đặt
chân trên nước Pháp nên ta có cảm tưởng ta biết nước Pháp là cái gì. Có thể cái
biết đó rất sai lầm, rất xa lạ với cái thực tại nước Pháp.
Ngay chính nước Việt
Nam cũng vậy, có thể cái tri giác của chúng ta về nước Việt Nam rất là sai lạc,
nhưng ta cứ chắc là ta biết nước Việt Nam là gì. Tướng là hình ảnh về thực tại
mà hình ảnh đó ta nắm được là do tưởng, tức là tri giác (chủ thể). Tướng của
núi Phú Sĩ, núi Hy Ma. Tướng là tri giác và tướng là đối tượng của tri giác. Tri
giác ta có hai phần chủ thể và đối tượng. Đối tượng sai lạc thì chủ thể cũng
sai lạc. Đối tượng méo mó thì chủ thể cũng méo mó. Khi mà ta có tri giác sai lầm
thì nó tạo không biết bao nhiêu vấn đề. Chúng ta hiểu lầm, nhận lầm. Tất cả những
đau khổ của chúng ta đều phát sanh ra từ những nhận thức sai lầm của chúng ta về
sự vật. Chúng ta có được bao nhiêu đâu, chúng ta chỉ có một số danh từ về cái
đó. Còn hình ảnh mà ta có về cái đó thì quá xa lạ và sai lạc với sự thật về cái
đó. Vậy mà chúng ta cứ cương quyết là chúng ta biết rõ rồi, biết thật rồi,
chúng ta nắm vững về sự thật đó, là chúng ta biết tất cả rồi!
Tất cả những đau khổ
của chúng ta đều từ chỗ đó mà phát sinh, chỗ tri giác (Wrong Perceptions). Tri
giác sai lầm gây ra cảm thọ khổ đau. Người đó ghét mình, không có thèm nhìn
mình, người đó không công nhận sự có mặt của mình, người đó muốn tiêu diệt
mình. Toàn là những tạo tác cường điệu của tâm thức mà thôi. Cho nên Thiền tập
là để đi tới những tri giác chính xác hơn. Và nếu tin chắc tri giác mình là
đúng thì rất nguy hiểm. Luôn luôn phải khiêm nhường tự hỏi: tri giác tôi đã
chính xác chưa? Nó gần với sự thật được mấy mươi phần trăm? Luôn luôn phải cho
mình một không gian để cho tri giác mình được sâu sắc, vững chãi hơn.
Có hai loại tướng: tướng
riêng là tự tướng và tướng chung là cộng tướng. Có nhiều loại tướng. Có khi ta
nói đến sáu tướng, có khi nói đến bốn tướng và có khi nói đến hai tướng. Hôm
nay ta chỉ nói đến hai tướng thôi: tự tướng và cộng tướng. Ví dụ khi ta nói ngựa.
Ngựa là cộng tướng. Bất cứ con ngựa nào cũng đều được gọi là ngựa. Nhưng khi
người ta nói đến con Kiền Trắc hoặc Xích Thố thì nó đặc biệt, ta không coi là cộng
tướng được, vì chỉ có một con ngựa tên Kiền Trắc hay Xích Thố thôi. Trong triết
học Trung Hoa người ta nói ngựa trắng không phải là ngựa. Tại vì có nhiều loài
ngựa: ngựa ô, ngựa đen, ngựa vàng… ngựa trắng là một loại ngựa quá đặc biệt nó
không phải là ngựa nữa. Ngựa là cộng tướng nhưng ngựa trắng đã có tính cách tự
tướng rồi. Chúng ta sẽ đi từ từ vào ý niệm về tướng chung và tướng riêng trong những
bài sau.
Xem Tiếp Bài Kệ 3 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá