Read more
Thực Hành Vô Ngã by Vô Ngã
Sách Thiền Sư Thích Nhất Hạnh
Đọc và download hàng trăm quyển sách của Thầy tại đây.
Giảng Luận Duy Biểu Học
Biết Rõ Sự Vận Hành Của Tâm
Chương 1. Thức Thứ Tám (Tàng Thức)
Bài Kệ 1. Đất Tâm
Tâm là đất gieo hạt
Mọi hạt giống gieo đầy
Tâm địa cũng chính là
Toàn thể hạt giống ấy
(The mind is the Field
In which all kinds of seeds are sown
What is callet the mind field
Is also the totality of these seeds)
Bài tụng này có nguồn
gốc trong nhiều tác phẩm. Chúng ta đã từng học kinh Tạp A Hàm (Samyutta Nikaya),
trong đó nói rất nhiều về hạt giống. Hạt giống tức là khả năng tiếp tục của các
pháp. Nếu chúng ta nhìn sâu vào thực tại, nhìn sâu vào sự sống và vào lòng sự vật,
thì ta thấy hạt giống trong nhiều hình thái khác nhau.
Câu thứ nhất của bài
tụng “Tâm là đất gieo hạt.” Nếu muốn giữ gìn những hạt giống, không để mất mát
đi thì phải có cái gì để cất chứa. Không có gì cất chứa hay bằng đất. Chúng ta
trồng những kinh giới, tía tô, đến mùa thu cây trổ hoa và hạt giống chín rơi xuống
đất. Nếu chúng ta bận việc, quên cất giữ chúng đi thì đất vẫn cất giữ cho chúng
ta. Đến tháng tư sang năm ta thấy lú nhú những cây tía tô, kinh giới nho nhỏ.
Vì vậy, đất có khả năng giữ gìn và bảo trì những hạt giống.
Danh từ Duy Thức là
năng tàng. Năng tàng là có khả năng có thể tàng trữ lại. Như là Tàng Cổ Viện là
nơi tàng trữ cất chứa những tác phẩm nghệ thuật trong quá khứ.
Tâm có tính năng
tàng. Năng là khả năng, công năng giữ gìn và tàng là bảo trì cất chứa, giữ gìn,
duy trì những hạt giống. Và hình ảnh tuyệt diệu, đã sử dụng, là đất.
Trong bài mởi đầu
kinh Địa Tạng có bài ca ngợi Đức Bồ Tát Địa Tạng rất hay: “Khế thủ từ bi đại
giáo chủ. Địa ngôn kiên hậu quãng hàm tàng.” Cuối đầu trước bậc Giáo chủ lớn đầy lòng từ bi. Đất có nghĩa là
(kiên) chắc chắn, vững bền, (hậu) dày, nó bao trùm, giữ gìn rất rộng rãi. Khả
năng của đất là có thể ôm, bao hàm, giữ gìn rất rộng rãi. Nhờ có tánh chất kiên
và hậu. Kiên là kiên cố, Hậu là dày, người có hậu là người có đức dày. Còn người
mà sáng thế này, chiều thế khác, gọi là người vô hậu. Đức Địa Tạng (Jiso,
Ksitigarpha) là người hay tìm những chốn địa ngục mà tới, để cứu giúp những kẻ
khổ đau.
Tạng là danh từ
(Store House), tàng (storing) là động từ cùng nghĩa. Ngôn ngữ Việt cũng dùng chữ
tâm địa. Tâm địa của người đó như vầy, như kia. Ta có Thiền Sư Thảo Đường, Tổ
Sư của một trong những phái thiền Việt Nam. Gốc người Trung Hoa, trước khi sang
Việt Nam, ngài có đi học với Thiền Sư Bách Trượng. Một hôm, khi Thầy Bách Trượng
đang giảng dạy cho đại chúng thì có một vị học trò đứng lên hỏi về con đường giải
thoát, giác ngộ…
Thầy Bách Trượng trả
lời bằng một câu thơ: “Tâm địa nhược thông, tuệ nhật tự chiếu.” Khi mà mặt đất
của tâm được cởi mở, thông suốt thì mặt trời trí tuệ tự nhiên chiếu tới. Khỏi
phải đi tìm mặt trời trí tuệ. Thí dụ mặt đất của tâm, nếu mà được thanh thản,
thì mặt trời trí tuệ tự nhiên tìm tới, nó chiếu, mình khỏi đi tìm, khỏi cực nhọc
chạy tới Làng Hồng để tìm.
Tâm địa là một danh từ rất phổ thông. Tâm là đất gieo hạt. Trong tâm ta không biết có bao nhiêu là hạt giống. Tâm của chúng ta có thể phát hiện đủ loại hạt giống, đủ loại hiện tượng. Hạt giống của Ma, hạt giống của Bụt. Hạt giống của Thánh Hiền, hạt giống của côn đồ, hạt giống của sự trung kiên, hạt giống của sự phản bội. Chúng ta có thể thành thánh nhân vì chúng ta có hạt giống thánh nhân trong lòng. Chúng ta cũng có thể trở thành đạo tặc vì có những hạt giống này trong lòng. Chúng ta có hạt giống của sự chung thủy trong lòng mà cũng có hạt giống của sự phản bội. Vấn đề là chúng ta biết chăm sóc hạt giống chung thủy thì chúng ta trở nên người chung thủy. Nếu chúng ta không chăm sóc hạt giống chung thủy thì ngày nào đó, chúng ta sẽ trở nên người phản bội. Phản bội cha mẹ, vợ chồng. Và vì vậy cho nên, tâm của mình chứa đựng trong lòng nó tất cả những hạt giống.
Khi người nào đó được
mô tả như người trung kiên. Chúng ta biết người đó là người trung kiên. Không
có nghĩa là trong người đó không có hạt giống của sự phản bội. Người có tâm niệm
cởi mở và tha thứ ta biết người đó có nhiều hạt giống cởi mở tha thứ nhưng điều
đó không có nghĩa là người đó không có sự hận thù và nhỏ nhen. Nhưng mà tại vì
những hạt giống đó quá nhỏ nên nó không phát hiện ra được. Khi một người đang
tươi cười vui vẻ, ta biết rằng người đó có rất nhiều hạt giống của niềm vui
nhưng điều đó không có nghĩa là người đó không có hạt giống của niềm đau. Nó có,
nhưng lúc đó chưa phát hiện. Vì vậy ta biết rằng tâm là đất gieo hạt. Mọi hạt
giống chứa đầy. Vậy thì trong một người phàm phu, có hạt giống của phàm phu, mà
cũng có hạt giống của thánh nhân. Ngược lại cũng vậy, trong một thánh nhân, có
nhiều hạt giống thánh nhân, nhưng cũng có hạt giống phàm phu. Nếu chúng ta cẩn
thận thì hạt giống phàm phu sẽ nhỏ đi, sẽ trở thành không quan trọng, nó không
bao giờ phát hiện được. Nếu chúng ta không cẩn thận thì những hạt giống phàm
phu sẽ được tưới tẩm và lớn lên.
Nếu ta để mỗi ngày có
người đến tưới tẩm hạt giống phàm phu, chúng ta cho phép những hạt giống phàm
phu của ta được tưới tẩm thì ta sẽ trở nên một người phàm phu. Điều này có thể
xảy ra rất nhanh chóng trong vòng vài tuần lễ. Không tưới thì thôi, tưới thì mọc
rất nhanh. Học tới đây cũng đủ cho ta tu tập rồi. Biết tưới tẩm, giữ gìn những
hạt giống tốt đẹp nơi ta và những người xung quanh ta. Khi gặp người xấu xa, đạo
tặc ta cũng không nản lòng vì biết thế nào trong người này cũng còn những hạt
giống thánh nhân mà vì có quá ít dịp tưới tẩm. Tu tập là làm sao để những hạt
giống tốt của mỗi người mà ta nghĩ là quá tệ được tưới tẩm.
“Tâm địa cũng chính
là toàn thể hạt giống ấy.”
Hai câu trên của bài
kệ nói về ý nghĩa Năng Tàng. Năng tàng là khả năng cất giữ. Hai câu dưới nói về
nội dung của sự cất giữ là Sở Tàng. Năng tàng là chủ thể của sự cất giữ và sở
tàng là đối tượng của sự cất giữ. Đó là hai phần của tâm. Tâm được nhận thức
làm hai phần: phần chủ thể và phần đối tượng.
Phần chủ thể tức là
khả năng cất giữ và phần đối tượng là đối tượng của sự cất giữ. Ví dụ ông giám
đốc của bảo tàng viện là người có bổn phận giữ gìn rất kỹ những đồ cổ của quốc
gia. Đó là năng tàng. Bảo tàng viện không phải chỉ là ông giám đốc và cái nhà cất
chứa đồ cổ mà bảo tàng viện còn gồm luôn các món đồ cổ đang được giữ gìn nữa.
Đó gọi là sở tàng, đối tượng của sự bảo trì.
Tâm của ta vừa là
năng tàng vừa là sở tàng. Tâm này là tâm căn bản gọi là Tàng Thức. Ta có định
nghĩa tâm là gì: Tâm là tàng thức.
Tâm có nhiều tác dụng
nhưng tác dụng đầu tiên là tàng. Tàng là cất giữ. Vừa nghe đến danh từ tang, ta
phải ý thức là tàng thức (Alayavijnana), gồm hai phần: phần chủ thể cất giữ và
phần đối tượng cất giữ.
Sở tàng gồm những hạt
giống được cất giữ như một đĩa cứng của máy điện não. Cất giữ rất màu nhiệm rất
kỹ lưỡng những hạt giống và nếu ta biết cách ta chỉ cần nhấn đúng nút thì nó hiện
ra đầy đủ hết, không khác gì một đĩa của máy điện não.
Tâm cũng còn một tên
khác là “nhất thiết chủng thức” (Sarvabkijaka), tức là cái thức chất chứa tất cả
hạt giống. Nó còn nhiều tên nữa. Tên kế là “ngã ái chấp tàng.” Lý do có tên này
là vì cái tàng thức này, cái tâm này có thể bị nô lệ, bị nhận lầm là cái ngã của
người ta. Chúng ta sẽ thấy là trong các thức, có một cái thức gọi là mạc na
(Manas). Anh ta cần có một cái gì để nhận là cái “ta” của anh. Nếu không có thì
anh ta khổ lắm. Vì vậy anh ta ôm quàng ôm xiên ôm lấy tàng thức và coi cái này
là của ta. Tàng thức vì vậy đôi khi bị kẹt. Tàng thức có khi bị kẹt và mất tự
do. Tàng thức là đối tượng của một chủ thể đang ôm ấp, đang yêu quý nó và cho
nó là mình. Trong tình yêu này, người yêu ở đây là thức thức bảy. Mạc na thức
và người được yêu là tàng thức, thức thứ tám. Tàng thức là đối tượng của sự
thương yêu, của sự ôm chặt do mạc na chủ trương và trong kinh gọi là ngã ái. Tự
nhiên mình (tàng thức) là đối tượng của sự ôm chặt. Cái phần chủ thể ôm chặt
đó, cái thức thứ bảy đó được gọi là ngã ái chấp. Còn thức thứ tám, cái thức bị
ôm chặt gọi là ngã ái tàng (the object of attachment as a self). Chấp là ghì chặt
lấy, làm cho nó dính vào như mủ mít.
Thành ra thức thứ
tám, thức căn bản có những tên sau đây: năng tàng, sở tàng, ngã ái chấp tàng và
nhất thiết chủng.
Tâm được ví dụ như đất.
Đất là một hình ảnh vi diệu để diễn tả về tâm. Ta có thiền sư Tăng Hội vào thế
kỷ thứ ba, Sơ tổ của Thiền Tông Việt Nam, lớn hơn tổ Bồ Đề Đạt Ma cỡ ba trăm tuổi.
Thiền sư Tăng Hội ví dụ tâm như biển (tâm hải), vì ngàn sông đều chảy về biển cả.
Bởi vì những gì chúng ta thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, chúng ta đau khổ, vui
sướng, đều trở về biển cả của tâm.
Vì vậy tâm của ta chứa
được nước của muôn sông. Nếu ta phân tích nước của đại dương thì chúng ta thấy
được nước của muôn ngàn con sông. Nhìn vào tâm thì biết hết, thấy hết. Đây là
hình ảnh đặc thù nói về tâm mà ta chỉ thấy ở giáo lý của Thầy Tăng Hội thôi.
Còn nói về tâm như đất thì cũng có nhiều người nói. Nói tâm như biển thì vào đầu
thế kỷ thứ ba, Thiền sư Tăng Hội nói trong bài tựa của kinh An Ban Thủ Ý do sư cô
Viên Quang dịch.
Khi mà chúng ta nói về
tâm như năng tàng, sở tàng, ngã ái chấp tàng, nhất thiết chủng thì ta mới chỉ
nói vài công dụng căn bản của tâm thôi. Tâm còn nhiều công dụng khác nữa. Đó là
những danh từ được sử dụng trong Đạo Phật Đại thừa. Đạo Bụt thời Bụt còn tại thế
thì được gọi là Đạo Bụt nguyên thỉ (Original buddhism, Primitive Buddhism). Sau
khi Bụt nhập diệt một trăm năm, thì đạo Bụt chia ra làm nhiều phái. Sau này ít
nhất là thành hai ba chục phái. Thời này gọi là Đạo Bụt bộ phái. Nó kéo dài tới
bốn năm trăm năm. Tới thế kỷ đầu trước Thiên Chúa giáng sanh thì ta bắt đầu có
Đạo Bụt Đại thừa. Vì có chữ Đại thừa nên có khi người ta gọi đạo Bụt Bộ Phái là
Tiểu thừa. Gọi như vậy là không được, đạo Bụt Bộ Phái không chịu đâu. Vì vậy
nói về lịch sử đạo Bụt ta có thể chia làm ba thời: thời đạo Bụt nguyên thỉ (khó
nhọc lắm mới phát hiện được vì nó bị che lấp bởi đạo Bụt Bộ Phái và đạo Bụt Đại
Thừa). Chúng ta phải học Đạo Bụt Bộ Phái và Đạo Bụt Đại Thừa cho giỏi thì ta mới
phát hiện được Đạo Bụt Nguyên Thỉ.
Đạo Bụt Nguyên Thỉ chỉ
có bốn mươi lăm năm trong thời Bụt tại thế và khoảng một trăm năm, sau khi Bụt
nhập Niết Bàn. Tất cả khoảng một trăm năm mươi đến hai trăm năm thôi. Sau đó có
sự chia rẽ giáo đoàn thành hai phái chính: Đại Chúng Bộ rất đông, và Thượng Tọa
Bộ. Sau đó có sự phân phái ra thành hai mươi bộ phái nữa, gọi là đạo Bụt bộ
phái, kéo dài bốn trăm năm. Rồi khoảng một trăm năm trước Thiên Chúa Giáng Sinh,
phát sinh Đạo Bụt Đại Thừa với cách nhìn mới, cái nhìn sâu về Đạo Bụt. Vì vậy,
muốn biết rõ Đạo Bụt Nguyên Thỉ thì phải nghiên cứu Đạo Bụt Bộ Phái và Đạo Bụt Đại
Thừa với tinh thần khoa học, với trái tim rất là rộng mở thì ta mới phát hiện
ra Đạo Bụt Nguyên Thỉ nguyên chất.
Những danh từ như năng tàng, sở tàng, ngã ái chấp tàng, nhất
thiết chủng được dùng trong Đạo Bụt Đại Thừa nhưng mà nội dung của nó cũng
có trong Đạo Bụt Nguyên Thỉ. Ví dụ như trong truyền thống Hữu bộ (Sarvastivada)
đóng đô ở Kashmire gần một ngàn năm, từ đó Đạo Bụt bộ phái được truyền sang
Trung Hoa, thì trong truyền thống Hữu Bộ (Savastivada) đóng đô ở Kashmire gần một
ngàn năm, từ đó Đạo Bụt Bộ Phái được truyền sang Trung Hoa, thì trong truyền thống
Hữu Bộ (Asti: có, vada: thuyết, ism) chủ trương rằng tất cả mọi cái đều có. Học
phái này sử dụng danh từ căn bản thức mulavijnana. Mula là căn bản, là gốc rễ.
Không dùng chữ Chủng, Nhất thiết chủng, mà dùng chử Căn bản là hạt giống là rễ.
Gốc rễ của tất cả mọi pháp đều có trong đó, có cả gọi là Căn Bản Thức.
Còn trong phía Đồng
Diệp bộ, Tamrasatiya (sau này là Theravada) có tên Hữu Phần Thức (hữu là sự có
mặt), Bhavangasota. Sota là dòng nước. Mà trong tàng thức của Phật giáo, Duy Thức
cũng ví dụ Thức cho một dòng nước. “Hằng chuyển như bộc lưu”: thường trôi chảy
như một dòng nước.
Trong những học phái
gọi là Đạo Bụt bộ phái cũng có những danh từ ý niệm tương đương về tàng thức.
Ta vừa mới nghe là trong Hữu bộ có danh từ Căn bản thức, nó tương đương với
tàng thức và trong Duy Thức Tam Thập Tụng (Ba Chục Bài Tụng Duy Thức của Thầy
Thế Thân) cũng có chữ Căn bản thức: “Y chỉ căn bản thức, ngũ thức tùy duyên
hiên, hoặc câu hoặc bất câu, như đào ba y thủy.” Vậy thì danh từ Căn bản thức
nó cũng có trong Ba Mươi Bài Tụng Duy Thức. Nếu có danh từ Căn bản thức thì
cũng có những từ không phải là Căn bản thức gọi là Chuyển thức. Tức là thức
chuyển hiện từ thức căn bản mà ra. Nó có cái thức căn bản, rồi lại có những thức
khác phát sinh, căn cứ từ thức căn bản mà ra. Tức là ta có thể hình thái nhận
thức, và nhận thức căn bản của chúng ta là Tàng. Rồi từ đó có những nhận thức
khác nữa. Chúng ta học như vầy không phải là học trong kinh mà là học trong tâm
của ta, học để nhìn vào tâm của ta để thấy cái vận hành của tâm ta như thế nào,
để nắm được cái tâm mà tu học, Giờ ta hãy coi cái địa vị của Căn bản thức ở
trong năm thành phần gọi là ngũ uẩn, năm yếu tố tạo nên con người của chúng ta.
Ví dụ ta vẽ trên bảng một vòng tròn tượng trưng cho một trái quít và năm múi
quít. Phân tích con người, chúng ta thấy trong đó có năm uẩn (skandax): (yếu tố,
tụ tập, chứa nhóm lại: heap, aggregates). Múi quít đầu tiên gọi là sắc (rupa),
phần sinh lý cơ thể chúng ta. Thân thể của tôi là sắc: tim, cang, tì, phế thận,
mắt, tai mũi lưỡi, thân là sắc (form, shape). Múi quít thứ hai là thọ, những cảm
thọ (feelings).
Ta biết rằng cảm thọ
của chúng ta gồm ba loại (cảm thọ dễ chịu gọi là lạc thọ như khi được ăn ngon
hay khi được khen, còn cảm thọ khó chịu như khi bị chê hay bị đau răng, gọi là
khổ thọ, và loại thứ ba là cảm thọ trung tính, gọi là xả thọ (không dễ chịu cũng
không khó chịu). Trong một ngày, chúng ta có không biết bao nhiêu là cảm thọ,
ta sống với một dòng sông cảm thọ. Người nào có nhiều lạc thọ là người có hạnh
phúc, nhưng mà lạc thọ nhiều khi chỉ là khổ thọ trá hình, nó sẽ đưa đến khổ thọ
khác. Ví dụ như khi mình uống rượu cay cay thì mình có cảm tưởng là lạc thọ,
nhưng sau đó thì lá gan của mình lãnh đủ hết. Thành ra khổ thọ dài dài. Suốt
hai mươi bốn giờ trong một ngày, không có lúc nào mà ta không có cảm thọ: Lạc
thọ, khổ thọ và xả thọ.
Hôm nay chúng ta chưa
học về Thọ. Chúng ta chỉ cần biết là không có lúc nào mà chúng ta không cảm thọ.
Chỉ cần nhớ là khi có một cảm thọ, ta có chánh niệm về cái thọ ấy hay không mà
thôi. Trong khi ngồi thiền, ta có thể có lạc thọ, khổ thọ và xả thọ. Thực tập
chánh niệm về những cảm thọ của mình, là khi có xả thọ, ta biết, có lạc hay khổ
thọ, ta cũng biết. Đó là biết sơ khởi, nhưng khi chánh niệm vững thì ta thấy được
bản chất, cái gốc rễ của xả thọ hay khổ thọ đó. Đó là thiền quán về cảm thọ,
mình nhận diện được cái thọ đó. Nhờ nhận diện ra nó, mình tiếp xúc với cái thọ
đó trong chiều sâu của nó, biết nó phát sinh từ gốc rễ nào, điều kiện nào. Tại
sao mà có cái lạc thọ đó hay cái khổ thọ đó? Người tu không bao giờ ngồi đó mà
chịu chết với cái khổ thọ hay lạc thọ của mình. Người tu không tự để cho lạc thọ,
khổ thọ, xả thọ nó kéo mình đi như lục bình trôi riu ríu trên dòng sông vậy.
Cái biết đó sẽ giúp mình tiếp xúc sâu sắc hơn để biết cái gốc rễ của nó mà chuyển
hóa về hướng nhẹ nhàng hơn, giải thoát hơn. Cái chìa khóa của sự tu học là như vậy,
mình nắm lấy cảm thọ của mình, mình không là nạn nhân của các cảm thọ đó.
Uẩn thứ ba là Tưởng,
tôi vẽ múi quít thứ ba. Tưởng đây không phải là tư tưởng (samjna) mà có nghĩa
là tri giác. Đây là một tác dụng trong những tác dụng chính của thức, nghĩa là
mình nhận biết được cái đối tượng của nhận thức mình. Ví dụ mình nhìn một cặp mắt
kiếng, mình biết rằng đây là một cặp mắt kiến. Đây là một tri giác (a
congition, a perception) tôi biết đây là tờ giấy, đây là Làng Hồng xóm Thượng,
chứ đâu phải là xóm Hạ, đây là khóa tu mùa đông. Tất cả những cái biết, cái nhận
thức đó gọi là Tưởng.
Thường ta cứ nghĩ là
không có tri giác, không có tưởng thì chúng ta chết rồi. Không đúng. Có những
sinh vật, nó không cần có tưởng mà nó vẫn sống, đôi khi nó còn sống vui hơn nữa.
Đó là sinh vật gọi là vô tưởng, phi tưởng. Có những trạng thái thiền định gọi
là Vô Tưởng Định. Điều đó không có nghĩa là mình không có đó. Mình không nhận
thức, nhưng mình có những cái khác. Nhận thức chỉ là một phần trên mặt của Thức
thôi. Có một cõi trời mà trong đó mình không cần nhận thức nhưng vẫn có mặt như
thường. Đó là cõi Trời Vô Tưởng (Vô Tưởng Thiên). Cõi trời đó, mình không cần
đi máy bay mới tới. Khi mình đạt tới một trạng thái thiền định nào đó, thì mình
có thể nhập vào vô tưởng thiên, không còn thấy, không còn nghe. Chúng ta thấy cái
hình một người, mà hai mắt và hai cái tai bít lại. Điều đó không có nghĩa là mình
chống lại tri giác nhưng trường hợp đó, mình ngưng tác động của Thức về tri
giác. Mình không có tri giác nữa. Nhưng mình có những cái khác.
Không có tri giác
không có nghĩa là mình không sống. Ví dụ khi mình đang ở vào trạng thái thiền định
chú tâm vào một cái nào mà không phải là tri giác đó, thì lúc đó mình không còn
tiếp nhận những đối tượng bên ngoài nữa, nhưng không có nghĩa là mình không có
mặt. Đôi khi mình có mặt vững chãi hơn. Thỉnh thoảng, trong một đám đông, những
cái mình thấy, mình nghe làm cho mình bị tán loạn và tuy rằng mình có đó nhưng
không còn vững chãi, không có mặt nữa. Đôi khi không nghe, không thấy nhưng có
mặt rất vững chãi. Thành ra trạng thái vô tưởng chưa chắc nó yếu mềm, vắng mặt,
hơn trạng thái hữu tưởng. Đó là một cái ý niệm thôi. Có nhiều người khổ quá vì
những cái họ nghe, thấy. Họ nói thà rằng tôi điếc và tôi mù đi thì tôi đỡ khổ
hơn “trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”
Tri giác (tưởng) là
cái thấy, cái biết của mình về một việc hay một sự kiện nào đó. Giữa cái Tưởng
với cái thực tại, luôn luôn có một khoảng cách. Phải tập chánh niệm, nhận diện,
nhìn sâu tiếp xúc tận gốc rễ từng sự kiện thì các tri giác của mình mới dần đi
gần thực tại. Bởi vì Bụt cho biết phần lớn những tri giác của ta đều sai lầm.
Hành (samskara) múi
quít thứ tư có nghĩa là những hiện tượng được tập hợp thành, tiếng Anh gọi là
formations.
Chư hành vô thường là
tất cả mọi hiện tượng được tập hợp nên đều là vô thường cả. Formations,
conditions, dharmas, những sự vật hình thành nên do nhân và duyên gọi là
formations. Ví dụ như hoa, lá được hình thành nên đều lo nhiều nhân và duyên (physiologica
formations). Nhưng múi quít thứ tư nói về tâm hành (citta samskara), tức là những
hiện tượng tâm lý thôi (mental formations). Thọ là những cảm thọ, tưởng là những
tri giác của chúng ta, hai thứ này cũng là những hiện tượng tâm lý của ta. Vậy
thì hành là gì? Hành là tất cả những hiện tượng tâm lý khác mà không phải thọ
và tưởng. Tại vì phạm trù về thọ và tưởng quan trọng quá nên chư Tổ chia nó nằm
riêng, thành hai múi quít riêng. Vì thật ra thọ cũng là hành mà tưởng cũng là
hành. Cái sợ, giận, buồn, vui, lo đều là hành cả.
Trong đạo Bụt Duy Thức
Đại Thừa có năm mươi mốt loại hành, như Thọ là một loại Hành và Tưởng là một
Hành khác. Những cái còn lại gồm bốn mươi chín hiện tượng tâm lý khác
(metalfomations hay mental concommittlences).
Múi quít thứ năm được
gọi là Thức (Vijnana). Khi ta chia trái quít ra làm năm múi thì mục đích là để
thực tập cho dễ, chứ không phải là để miêu tả thực tại mà thôi. Miêu tả thực tại
thì có nhiều cách. Nhà họa sĩ miêu tả con cá khác với nhà sinh vật học, khác với
người đầu bếp. Vấn đề ở đây không phải để miêu tả. Ta phân tích như vậy để hiểu
và thực tập. Vì vậy có khi ta chia trái quít làm hai múi thôi: sắc và danh
(mana &rupa). Có khi chia thành một múi thôi (thức). Thành ra có nhiều cách
chia. Mỗi cách chia đều có mục đích cả. Mục đích chia là để cho ta thực tập,
Danh là phần Tâm và Sắc là phần Thân. Khi chia làm hai thì ta có thể nối là
Thân và Tâm (soma & psicho: sinh tâm lý). Múi quít đầu thuộc về sắc (soma)
và bốn múi chót thuộc về danh (psicho). Danh đây không có nghĩa là tên gọi, nó
là Tâm.
Danh và Sắc là trái
quít hai múi. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là trái quit năm múi và một trái quít
không chia múi là Thức. Tất cả những phân tích đó là để đi tới một cái thấy rất
là chủ chốt. Nếu ta nhận thức rằng cái múi thứ nhất về sinh lý thì bốn cái múi
còn lại là về tâm lý. Ta có thể thấy rõ là ba cái múi đầu (thọ, tưởng, hành) là
tâm hiện khởi và múi chót là tâm căn bản.
Căn bản thức. Chúng
ta chỉ cần vẽ năm múi quít như vậy thôi, ta có thể thấy được đại khái thì múi
thứ năm là căn bản của những múi khác. Khi nói đến Năng tàng, Sở tàng, thì múi
thứ năm mới là tàng, chứ ba múi thọ, tưởng, hành kia hiện khởi rồi nó trở về.
Thọ, Tưởng, Hành là những dòng song, nó phát khởi từ múi quít thứ năm tức là Thức
và nó sẽ mang tất cả những hiện khởi của nó trở về Thức.
Giống như là TÂM HẢI,
biển cả của tâm thức (danh từ của Thầy Tăng Hội). Khi ta buồn vui, sung sướng,
khổ đau. Đó là những biểu hiện phía trên của tâm thức. Khi ta buồn hay vui,
cũng từ Căn Bản Thức mà phát hiện. Cho nên dù mình là Đạo Bụt Bộ Phái hay Đạo Bụt
Đại Thừa, thì mình cũng thấy múi quít thứ năm của Thức có tính cách Căn Bản Thức.
Nó có tính chất của đất.
Cây Tía Tô, cây Anh Đào dù cho nó vươn lên bao cao, có làm ra
bao nhiêu triệu hạt giống thì rốt cuộc rồi nó cũng trở về với đất và đất sẽ ôm
lấy nó. Dù ta có thấy cái này vui, cái kia buồn rầu, tất cả những cái đó đều trở
về với Căn Bản Thức dưới hình thức hạt giống. Vì vậy cho nên chữ thức là tâm
căn bản. Còn cảm thọ tri giác và 49 loại tâm hành khác đều là những biểu hiện của
tâm thức; từ tâm thức mà sinh khởi và sẽ trở về. Mang hết tất cả những vốn liếng
quy hướng cho tâm căn bản thức. Thành ra khi mình có niềm vui, thì mình mang niềm
vui ấy về nhà, mình nhẹ nhàng giải thoát, thì mình cũng đem những cái ấy về
nhà, về Căn Bản Thức.
Ta cẩn thận đừng đem
những cái tàn phá ngôi nhà mình. Căn Bản Thức, Tàng Thức, nó cất giữ tất cả những
hạt giống đó, đồng thời nó cũng là những hạt giống đó. Nó vừa là Năng tàng vừa
là Sở tàng. Và tới đây ta đi tới những danh từ rất căn bản. Tâm của ta gọi là
cittta, hình dung bởi đất và biển và những hiện tượng phát hiện từ tâm, nó giống
như hoa trái, cây cối phát hiện từ đất hoặc như những đợt sóng phát hiện từ biển,
những cái đó gọi là tâm sở (caitasika). Tâm gồm có (tâm vương) là citta và tâm
sở là caitaska. Khi mình nói về Tâm Vương citta thì nghĩ tới biển hay đất và
nghĩ đến Tâm Sở như cây cối hoa trái hay những đợt sóng. Một bên là gốc, một
bên là ngọn và tất cả đều phải trở về gốc.
Thức gồm có hai phần:
Tâm và Tâm Sở. Tâm như dòng sông và Tâm Sở là những giọt nước trong dòng sông.
Trong kinh chúng ta thấy có ba danh từ nói về tâm; tâm (citta), ý (mana) và thức
(vijnana). Trong kinh có khi dùng chữ Tâm, có khi dùng chữ Ý, có khi dùng chữ
Thức. Nhưng khi đi vào chuyên môn về Duy Thức thì mỗi chữ được dùng trong một trường
hợp quy định hẵn hòi. Về bản chất và nguồn gốc của đất và biển thì ta nên dùng
chữ TÂM (citta) nhiều hơn. Về phương diện tác dụng tri giác, cảm thọ, suy tư,
tưởng tượng, buồn đau, vui khổ thì ta nên dùng chữ THỨC (vijnana) và khi nói về
cái biển trung tâm, cái động lực làm phát hiện nhận thức của thức thì chúng ta
sử dụng danh từ Ý. Sau này ta sẽ thấy thức có tất cả tám tác dụng.
Tác dụng thứ nhất là
Tâm nó mang phận sự căn bản là duy trì, là Tàng. Tác dụng thứ hai là Ý, nó mang
tác dụng ôm ấp, ghì chặt, nắm giữ. Nó chính là anh chàng làm công tác ôm ấp, chấp
chặt của tình yêu đó. Nó là anh chàng chuyên môn ôm ghì lấy một cái gì mà cho
đó là cái ta, nó là mạt na thức. Anh chàng đó ta phải sờ mó được, bắt mạch được
và làm quen với nó. Ta đừng để cho anh chàng sống và hoạt động một mình. Ta phải
cho Chánh niệm đi chung với nó.
Và thức thứ sáu có
sáu tác dụng khác (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức).
Vì vậy cho nên phận sự của Tâm (citta) là Tàng. Sau này ta sẽ học một công dụng
của nó là Dị thục.
Công dụng của Ý là Tư
Lương (mentation). Tức là cả ngày cả đêm không lúc nào không nói. “Anh là tôi
đó, tôi là em đó, em là của tôi.” Đó là Ý (metation). Cái này là tôi, là thân
tôi, tâm tôi, danh dự của tôi. Động tới là không được. Những tự ái giận hờn
ganh tỵ, danh lợi đều xuất phát từ Tư Lương. Và cái tác dụng của thức là Liễu
Biệt. Liễu biệt cảnh tức là nhận thức được cảnh vật.
Thức có sáu cái, ý có
một và tâm có một. Tâm có tác dụng cất giữ duy trì và làm cho chín (dị thục) những
hạt giống của mình. Ý có tác dụng âm thầm, ôm chặt cái đó cho là của tôi, danh
dự của tôi bản ngã của tôi không được động tới. Liễu Biệt Cảnh có nghĩa là nhận
htức được cảnh vật bên ngoài. Khi mà chúng ta nói thức thì chúng ta thấy có ba
phạm trù, ba loại. Có khi gọi là Dị Thục, tức là Tàng Thức, có khi gọi là Tâm.
Hai là Tư Lương, là Ý. Thứ ba là Liễu Biệt Cảnh. Thức có ba tác dụng.
Tác dụng thứ nhất là
là tác dụng của thức Alaya, tác dụng thứ hai tác dụng của thức Mạt na và tác dụng
thứ ba là tác dụng của sáu thức còn lại, có năm thức cảm giác và thức thứ sáu
là Ý thức.
Ta phải luôn luôn nhớ
rằng ba loại thức này chia nhỏ ra thành tám, loại nào cũng phải được nhìn qua
Tâm và Tâm Sở. Cái nào được gọi là Tâm và cái nào được gọi là Tâm Sở. Tâm là
nói tổng quát, nói phần căn bản, Tâm Sở là nói về phần chi tiết, phần hiện tượng,
biểu hiện. Tuy là những chữ tâm và thức, mình dùng lộn xộn như vậy nhưng mà
mình hiểu, mỗi chữ nó có nghĩa đặc biệt của nó. Khi mà nói nó với tư cách căn bản
thì mình gọi là Tâm Vương (vua) và khi mình nó về hành tướng của nó và những tâm
lý nó biểu hiện ra thì gọi là Tâm Sở. Ví dụ như ý thức của mình khi nó buồn thì
Tâm Sở vui không biểu hiện. Điều đó không có nghĩa là ý thức chỉ là buồn không,
nó có vui nữa nhưng mà lúc đó nó ẩn đi, nó không phát hiện.
Có năm tâm sở, năm hiện
tượng tâm lý (Mehntal formations) hiện diện cùng khắp, đi theo đủ tám thức gọi
là năm Tâm Sở Biến Hành (universally operating) nó hiện hành, hoạt động
(sarvatraga) đủ cả ở nơi Tàng thức, Mạc na thức, và sáu loại thức cảm giác.
Năm Tâm Sở Biến hành:
Xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư là năm trong số 51 chàng tâm sở. Là người tu, ta phải
nhận diện cho được khi các anh chàng này xuất hiện.
Xúc (sparsa) tức là
tiếp xúc. Khi nào ta cũng học tiếp xúc hết. Xúc là sự xúc chạm giữa tâm và cảnh
vật, thân và cảnh vật, tâm và tâm. Mình có thể xúc chạm nỗi buồn của mình cũng như
những hiện tượng trong thiên nhiên. Nếu không có xúc thì không có nhận thức. Nếu
con mắt tôi mà không có tiếp xúc với tờ giấy thì tôi sẽ không có tri giác về tờ
giấy ấy. Cái tri giác đây là tờ giấy, nó có được là nhờ sự tiếp xúc giữa con mắt
tôi và tờ giấy, giữa cái nhận thức và đối tượng của sự nhận thức.
Tâm sở thứ hai là tác
ý (manaskara). Có chữ manas trong nầy là chú ý. Chàng nghe một mùi hương, chàng
thấy một sắc diện, chàng chú ý liền lập tức. Chàng thấy nó đang chú ý, nếu không
thì gặp nhau rồi thì cũng phớt lờ qua thôi. Tại sao nó chú ý? Mình phải tìm cái
gốc ở trong tàng thức. Tại sao mới gặp lần đầu mà đã chú ý rồi? Tại vì trong
tàng thức của mình nó chứa sẵn những âm thanh, những hình ảnh nào đó mà khi vừa
tiếp xúc đã bị nó hút hồn lập tức. Khi mình ở trong một cuộc triển lãm xem
tranh, hay là đi chợ mua áo quần hay là đi thăm một trung tâm bán cây cảnh, nó
cũng vậy, tất cả đã được an bài trong tàng thức rồi. Cho nên tới bức tranh đó,
không thể không mua được, tới cái áo đó là không thể nào đi được. Đi ra rồi lại
đi vô, tất cả đã được quyết định trong này hết rồi, không phải là mưu mô của
người làm áo đó. Như bên Mạc Tư Khoa, có anh chàng khoảng gần bốn mươi tuổi, anh
ta tới nghe Thầy giảng, đi học một ngày quán niệm và tới ngày hôm sau nữa thì
anh ta xin quy y với Thầy. Sau khi thọ năm giới rồi, thì anh ta tuyên bố một
câu: “Tôi biết mà, tôi biết từ năm tôi mười bốn tuổi là thế nào tôi cũng gặp Thầy
và tôi sẽ quy y với Thầy.” Anh ta cũng đã bốn mươi tuổi, mà năm mười bốn tuổi làm
gì mà đã gặp Thầy Nhất Hạnh và anh đã biết trước rồi thế nào tôi cũng gặp Thầy
Nhất Hạnh và sẽ quy y với Thầy. Đó là vì anh ta đã gặp Thầy, một ông Thầy mà
theo định nghĩa của tàng thức anh ta là phải như vầy, như vầy, tất cả đều được
viết trong sổ tàng thức của anh.
Anh ta nói một cách rất
cương quyết, chắc chắn như vậy. Đó là Tác ý. Tác ý là bổng nhiên mình chú ý đến
cái đó. Cái đó nó bắt mình được. Dính! Tự nhiên nó dính. Đâu phải dính cái xấu
thôi. Dính cái tốt nữa. Tại sao gặp Thầy lần đầu mà anh đã thương Thầy rồi, mà
đã biết rằng đây là Thầy mà mình đã kiếm từ mấy kiếp nay? Cái đó là Tác ý. Đối
với giáo pháp cũng vậy, đối với Bụt cũng vậy. Thương gia Cấp Cô Độc mới nghe chữ
Bụt thôi, chưa thấy Bụt mà đã dính. Nghe chữ Bụt mà thương quá, sướng quá, ông
ta ngủ không được, chờ đến sáng hôm sau để đi gặp Bụt liền. Đêm đó không ngủ, cứ
mơ mơ màng màng thức dậy và trông cho mau đến sang, để được đi gặp Bụt ở tu viện
Trúc Lâm. Thành ra cái hạt giống phước đức trong mình rất là quan trọng. Cùng đi
với một người khác tới Làng Hồng, người đó ba ngày sau bỏ Làng đi, còn mình thì
ở luôn, sự khác nhau, nó không nằm ở Làng Hồng đâu, mà nó nằm ở tàng thức.
Thọ (vedana)… Tưởng
(samjna)… Tư (centana). Tư đây không phải là suy nghĩ. Suy nghĩ trong danh từ đạo
Bụt là Tầm và Tứ. Nó là hai cái hành khác. Vitaka và viccara. Còn Tư ở đây là sức
mạnh quyết định. Tôi sẽ mua cái đó, tôi sẽ cưới cô ấy, nếu không thì tôi sẽ
không bao giờ cưới vợ hết. Đó là anh chàng Kim Trọng vừa thấy cô Kiều thì xúc,
tác ý, thọ, tưởng, tư liền tức thì. Nếu quý vị chưa đọc nguyên văn bằng chữ
Hán. Bản này rất tầm thường nhưng khi nó vào tay thi hào Nguyễn Du thì nó trở
nên rất tuyệt diệu. Trong bản chữ Hán, anh chàng Kim Trọng thấy nàng Kiều lần đầu
thì xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư liền ngay tức thì.
Nếu mà ta không lấy
được cô này thì suốt đời ta không lấy vợ nữa. Tư là một quyết định, một động lực
nó đưa mình dính hẳn. Tác ý mới là chủ ý thôi, dính thôi, nhưng Tư là một quyết
định hẳn hòi rồi. Tiếng Anh là volition. Đó là một thứ nghiệp rồi. Mình biết là
mình đi về hướng đó rồi. Nó có thể là tốt, nó có thể là xấu. Khi mà mình nghe tụng
giới Tiếp Hiện hoặc năm giới hoặc sa di, khi ta nghe, mình đã tác ý. Càng nghe
càng cảm nhận sự sâu sắc, nó đáp ứng được tiếng gọi sâu kín trong tâm thức của
mình thì mình sẽ có Tư. Mình phát nguyện mình sẽ thọ giới, mình tự nhủ mình
sinh ra là để thọ giới này. Tất cả những điều đó đều đã được ghi chép sẵn trong
tàng thức của mình. Vậy thì năm tâm sở này, nó luôn đi đôi với chúng ta. Thọ là
một tâm sở Biến hành, Tưởng là một tâm sở Biến hành. Hai tâm sở này quan trọng
vô cùng. Mình tu là phải đi theo Thọ và Tưởng. Hễ có Thọ là phải tiếp xúc với
Thọ, chứ đừng để cho Thọ và Tưởng đi ngang qua và bị lôi cuốn theo. Phải nhận
diện các Thọ và các Tưởng để thấy được cái bản chất, cái nguồn gốc của nó trong
tàng thức thì mình mới làm chủ được mình. Mình mới chuyển hóa được. Nếu quý vị
tới Làng Hồng thì quý vị phải biết công việc đó là công việc căn bản. Quý vị có
thể phục vụ đại chúng một cách tận tình. Quý vị có thể làm vườn rất giỏi, nấu
cơm rất hay, làm việc rất giỏi, làm việc không biết mỏi mệt, không kể gì thời
giờ của mình, làm được những điều cực nhọc nhất mà đại chúng bỏ không chịu làm.
Điều đó là điều hay nhưng điều đó là điều không phải là điều căn bản của Làng Hồng.
Điều căn bản là mỗi khi mình có Thọ và mình có Tưởng, thì mình biết phải tiếp
xúc với cái Thọ, Tưởng đó. Mình phải lấy ngọn đèn chánh niệm để soi cái Thọ và
cái Tưởng đó, để biết được nó, để nhận diện được nó. Lúc đầu thì chỉ nhận diện
nó mà thôi. Mình đang buồn đây nè: “Buồn ơi, chào mi.” Tức là mình dùng ngọn
đèn chánh niệm để nhận diện từng cái Thọ cái Tưởng của mình. Ban đầu thì nhận
diện nó, gọi tên được nó nhưng dần dần sẽ thấy được nội dung bản chất của nó.
Đó là việc chính phải làm ở Làng Hồng. Vì vậy trong khi rửa nồi, rửa chén, lặt
rau, nấu cơm, chặt củi, đốt lò, công việc chính của mình là phải luôn luôn nhận
diện Thọ và Tưởng. Tại vì Thọ là một dòng sông, Tưởng là một dòng sông, nó trôi
chảy mỗi ngày, đừng để nó trôi một mình, đừng để nó cuốn mình đi theo, mình phải
nhận diện từng cái Thọ, từng cái Tưởng.
Có Chánh niệm là có
Tuệ. Ban đầu ánh sáng của chánh niệm chỉ đủ cho mình nhận diện thôi nhưng từ từ
chánh niệm lớn lên thì mình thấy được mặt mũi, bản chất và gốc rễ của Thọ và Tưởng
đó, thì mình mỉm cười được. Khi mà mình mỉm cười được thì nó không làm lung lạc
được mình nữa, cái đó mới gọi là tu. Nếu không thì tới Làng Hồng để mà làm phước
thôi, làm công quả thôi. Đó chỉ là tu phước thôi, mà tu phước thì không đi xa
được bao nhiêu. Phải tu huệ. Tu huệ là phải có chánh niệm. Chánh niệm thì soi sáng
được. Nhưng mà khi mình tu huệ như vậy thì cũng có phước mà cái phước lại lớn
hơn cái phước kia nhiều lắm. Mình có thể làm bao nhiêu công tác lớn hơn cái phước
kia nhiều lắm. Mình có thể làm bao nhiêu công tác tại Làng nhưng nếu mà không
có Chánh niệm thì phước đó rất nhỏ. Nếu mình làm ít nhưng từng cử động đều làm
trong Chánh niệm, có Tuệ, thì cái phước đó mới lớn hơn nhiều. Ý nghĩa này chúng
ta đã học trong kinh Kim Cương.
Khi chùi nồi mà chùi
trong chánh niệm thì phước đức khó mà đo lường, nhưng nếu khi chùi nồi mà phiền
não thì phước đức chỉ to bằng cái nồi hay có khi nhỏ hơn cái nồi nữa. Thành ra
phận sự của người tu học là phải theo dõi dòng sông cảm thọ hay là dòng sông
tri giác. Tại vì tri giác của mình thường thường là sai lầm. Tri giác về mình
cũng rất là sai lầm nữa, chưa biết rõ mình là ai, thì không biết rõ được chiều
sâu của mình. Cái phòng khách của chính mình còn chưa biết rõ, huống chi là cái
nhà kho của mình nữa, trong khi đó mình không nhìn thấy được. Nếu mình thấy được
mình, thì mình sẽ chấm dứt được không biết bao nhiêu là sự giận hờn, đau khổ,
buồn rầu và trách móc. Tất cả những đau khổ của mình đều có gốc rễ trong căn bản
thức của mình cả. Vậy thì Thọ là Tâm hành, Tưởng là một Tâm hành, xúc, tác ý, tư
là ba Tâm hành trong số những Tâm hành còn lại. Tất cả những Tâm hành đều là
sóng. Mà sóng cũng chính là nước. Ngoài sóng thì không có nước, mà ngoài nước
thì không có sóng. Nước là Tâm vương còn sóng là Tâm sở. Tâm sở và Tâm vương là
hai cái, tuy hai mà một, tuy một mà hai.
Điều này nó đúng cho
cả tám thức. Tám thức chia làm ba loại Tâm, Ý và Thức: Citta, Manovijnana, Cita
Manavijnana. Đây là những danh từ được dùng trong kinh. Nhưng ở trong kinh, người
ta hay dùng chữ Duy Tâm (Citta Matrata) như trong kinh Hoa Nghiêm. Sau này chỉ
có những kinh như kinh Lăng Già mới dùng tới Duy Biểu, Duy Thức mà thôi. Trước
thì chỉ dùng tới danh từ Duy Tâm mà Duy Tâm cũng có nghĩa là Ý, cũng có nghĩa
là Thức.
Tâm đó bao gồm cả ý
và thức. Vì vậy cho nên ta cũng có danh từ Citta matra, là duy tâm, vijnanavada
là Duy Thức, vijnaptimatra là Duy Biểu. Có nhiều danh từ như vậy nên dùng cho
thống nhất. Tâm là dị thục, là năng tang, là sở tang, là ngã ái chấp tang, là
nhất thiết chủng. Ý là Tư lương, ghì ôm chặt, dính mắc vào.
Thức là Liễu biệt cảnh
tức là nhận thức về cảnh vật.
Trong 51 anh chàng
tâm sở kể trên, có những anh chàng rất hiền lành, tốt đẹp, lợi lạc cho sự giác
ngộ, giải thoát của mình, gọi là Tâm sở thiện; có những anh chàng không hiền,
anh chàng mà nếu mình cứ tưới tẩm và để cho người ta tưới tẩm, gọi là tâm sở
không hiền (trong kinh dùng chữ tâm sở không hiền chứ không dùng chữ ác), gọi
là Tâm sở bất thiện. Có những tâm sở không phải không hiền mà cũng không phải
hiền. Nó tùy thuộc từng hoàn cảnh, cho nên gọi là Tâm sở bất định. Trong trường
hợp suy nghĩ miên man, càng suy nghĩ là càng buồn rầu, cuống cuồng lên, là Tầm
Tứ lúc đó bất thiện. Nhưng có những khi, càng suy nghĩ càng thông suốt phấn chấn,
thấu rõ. Sự việc hiểu và thương thì tầm tứ lúc đó là tâm sở hiền. Đó là Tâm sở
bất định. Công đức của hai Thầy Vô Trước và Thầy Thế thân đối với Đại Thừa rất
là lớn. Thầy Vô Trước theo đại thừa đã lâu, trong khi Thầy Thế Thân đang còn nghiên
cứu học hỏi theo Đạo Phật Bộ Phái. Thầy Thế Thân rất giỏi về Hữu Bộ và Kinh Lượng
Bộ, Thầy đi con đường của Thầy và nghĩ rằng Đại Thừa không chính thống Phật
giáo. Thầy đã không đọc các tác phẩm Đại Thừa mà còn chê bai Đại Thừa rất nhiều.
Đêm đó trời có trăng,
Thầy đang đi thiền hành thì gặp người anh là Thầy Vô Trước đang ngắm trăng và đọc
bài kệ về Đại thừa. Và lúc ấy những hạt giống trong tàng thức của Thầy đã chín
mùi nên thầy tác ý, thọ, tưởng và tư luôn ngay lúc ấy, và Thầy chuyển sang Đại
Thừa một cách rất là im lặng.
Thầy hối hận là lâu
nay Thầy đã công kích Đại Thừa quá mạnh vì chưa thấy được giá trị của Đại Thừa.
Trong sách chép lại là Thầy hối hận và Thầy bẻ một cây ngứa, định cắt lưỡi của
Thầy. Nhưng thầy Vô Trước quay lại và hỏi: “Em đó hả? Đang làm gì vậy?” Thầy Thế
Thân nói: “Em hối hận quá, định cắt lưỡi của em để trừng phạt tội em đã nói xấu
Đại Thừa.” Thì Thầy Vô Trước nói “Em đừng có cắt cái lưỡi của em uổng lắm. Tại
vì biết bao nhiêu người, trong đó có anh, đang cần cái lưỡi của em để xiển
dương Đại Thừa.” Lúc đó Thầy Thế Thân mới giữ cái lưỡi đó lại và đã phục vụ Đại
Thừa một cách rất sâu sắc và hữu hiệu.
Mỗi người là một cây
đuốc rất là cự phách trong làng Phật giáo Đại Thừa Asanga: Vô Trước là không có
dính mắc, không có bị kẹt. Và người em đã đọc, đã chú thích Nhiếp Đại Thừa Luận
(Mahayansangraha). Vì vậy bản Nhiếp Đại Thừa Luận đã được dịch, chú giải bằng
chữ Hán rất nhiều lần và bản chú giải của Thầy Thế Thân cũng đã được Thầy Huyền
Trang dịch ra chữ Hán. Ta có bản dịch Nhiếp Đại Thừa Luận bằng chữ Hán.
Bản chữ Hán của Thầy
Huyền Trang. Bản chữ Pháp của Etienne Lamotte do trường Đại Học Louvain xuất bản
năm 1973 Editons Peters. Rất mong quý vị nên đọc ít nhất là một chương của Nhiếp
Đại Thừa Luận tên và Sở Tri Y, tức là thức thứ tám của mình. Tất cả những nhận
thức của mình đều có nền tảng trong thức thứ tám cả. Đây là lần đầu, ta mới biết
được cái gốc gác của Duy Thức học, lần đầu ta mới được hệ thống hóa. Ở Việt Nam
ta, có đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết có người anh là Thích Tịnh Hạnh cũng đi
tu và hai anh em đi tu rất thành công, rất xuất sắc, đều tu một chùa, rất
thương nhau và khi nhìn hai Thầy, người ta hay nghĩ đến hai Thầy Vô Trước và Thế
Thân.
Có một điều rất căn bản mà ta cần biết về thức là nhận thức luôn
luôn gồm chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Biết thì luôn luôn có người
biết và đối tượng được biết đến. Ý thức thì phải biết ý thức về cái gì. Đó là
điều căn bản ta cần biết để bắt đầu mà cũng để thực tập cho tới nơi tới chốn.
Điều này không dễ hiểu đâu, có thể ta chỉ mới hiểu chút xíu thôi. Vì vậy tôi
mong quý vị nuôi dưỡng ý thức chánh niệm đó, thực tập cho tinh chuyên và rồi một
ngày nào đó quý vị sẽ có trực nhận đích thực bằng kinh nghiệm sống của quý vị
chứ không phải bằng ý niệm.
Nhận thức thì luôn luôn
gồm chủ thể và đối tượng. Mình có khuynh hướng nghĩ rằng mình chỉ có cái chủ thể
nhận thức thôi, mình cất sẵn trong túi khi nào cần, đem cái chủ thể nhận thức
ra xài giống như cây thước bỏ trong túi. Muốn đo cái gì cứ lấy ra đo, dễ hiểu.
Ví dụ khi mình giận. Giận là một biểu hiện của tâm mình, nhưng biểu hiện thành
hai phần: Chủ thể giận là mình đang giận và đối tượng giận là những nguyên nhân
nào đó, hay ai đó bằng hành động hoặc lời nói nào đó, đã tưới tẩm những hạt giống
giận đang nằm ngủ trong tàng thức mình. Phải có chủ thể và đối tượng của cái giận.
Thành ra khi mình nói cái nhận thức của tôi hình như sai lầm. Phải nói cái nhận
thức của tôi về cái gì mới đúng. Một nhận thức phải được nhận diện khi chủ thể
và đối tượng chạm nhau và biểu hiện ra cái nhận thức đó. Có thể nó chỉ kéo dài
chừng một giây. Và trong thời gian biểu hiện đó, ta thấy có chủ thể và đối tượng
chạm nhau và biểu hiện ra cái nhận thức đó. Có thể nó chỉ kéo dài chừng một
giây hay ngắn hơn một giây. Và trong thời gian biểu hiện đó, ta thấy có chủ thể
và đối tượng, đồng thời phát sinh và cùng sinh. Như là khi có bên trái thì có
bên phải phát sinh đồng thời. Không bao giờ có một bên phải mà không có bên
trái. Và phút giây kế tiếp thì có thể có một nhận thức mới khác, phát sinh cũng
như trên, nhận thức kế tiếp này, cũng có hai phần vừa chủ thể nhận thức vừa đối
tượng nhận thức.
Vì đối tượng chuyển
biến nên chủ thể nhận thức dĩ nhiên cũng chuyển biến. Nhận thức có nhiều nhiệm
vụ vì vậy ta có thể nói nhận thức gồm một thức, hai thức, ba thức, bốn thức,
năm thức, sáu thức hay tám thức… Vì vậy nói thức chỉ có một cũng đúng, nói thức
có hai cũng đúng, nói ba cũng đúng, nói thức có tám hay có chín cũng đúng. Các
điều này không có chống đối nhau.
Ví dụ như khi mình
nói Thầy Nhất Hạnh có ba phần vừa là ông Thầy tu vừa là Thi sĩ vừa là Tác viên
xã hội vừa là người làm vườn. Nhưng lời tuyên bố đó không chống đối nhau. Vì vậy
có những nguồn tuệ giác khác nhau. Tùy theo tuệ giác và cách trình bày của người
diễn dịch về thức và những tuệ giác đó không hẳn chống đối nhau mà nó sẽ bổ túc
cho nhau.
Chúng ta nên biết vai trò căn bản nhất của tâm thức là giữ gìn,
bao trùm và giữ trọn vạn vật chung lại với nhau. Thông thường người ta vẫn nghĩ
là thức tức là khả năng phân biệt, tri giác, là hiểu, là tưởng tượng nhưng thật
ra khả năng căn bản nhất của tâm thức là giữ trọn vạn vật quy tụ chung vào nhau
để giữ gìn. Nếu khả năng giữ trọn chung vào nhau ấy mà không có, quý vị sẽ thấy
mọi vật bắt đầu tan rã. Giống như một khối nam châm nó hút vào nhau tất cả những
hạt giống, tất cả những kinh nghiệm, nó diễn tả một thứ tổng thể có hòa điệu nhịp
nhàng đó là vai trò căn bản của tâm thức. Vì vậy ta có danh từ kho chứa. Nhưng
tâm thức ở đây không có nghĩa chỉ là cái nhà kho.
Đôi khi mình gọi là
citta, là tâm. Đó là vai trò thứ nhất của tâm thức, vai trò thứ hai là như vầy.
Đôi khi tâm thức bị hiểu sai như là nó có một cái ngã riêng biệt. Vai trò thứ
hai của tâm thức là ôm lấy cái nhà kho và đồ đạt trong kho (alayavijnana: tàng
thức) như của riêng mình, cái phần này của tâm thức có cái tên là Manas (Mạt
na) và tàng thức (Alayavijnana) trở bổng trở thành nạn nhân của Manas. Tàng thức
đâu có muốn nhưng vẫn là nạn nhân của anh chàng quá chấp ngã Manas này. Rất nhiều
cách suy nghĩ, phán xét, suy đoán từ những tri giác của chúng ta đều sai lầm vì
chúng ta bị anh chàng Manas này ảnh hưởng, vì vậy khi kéo theo những hành động
sai lầm và những hậu quả sai lầm gây đau khổ dài dài cho ta. Đó là Ý (Mentation),
là biết, là luôn luôn tin rằng ôm ấp rằng mình có một cái ngã, cogitating,
always believing, always embracing, recongizing as a self, as it me, ti is
mine.
Vai trò thứ ba là vai
trò nhận thức về cuộc đời, về thiên nhiên, nhận thức về thân thể, về thế giới
và về nhiều thứ khác nữa. Đó là vai trò của sáu thức như nhãn thức, nhĩ thức, tỷ
thức, thiệt thức, thân thức và ý thức, sáu thức này mình gọi chung là thức
(vijnana) Mid: cita, manas and vijnana.
Bây giờ ta hãy quan
sát cây sồi trước mắt ta. Ta có khuynh hướng nghĩ rằng cây sồi, nó hiện hữu độc
lập với tâm thức ta. Ta lấy tâm thức ra mà nhận diện cây sồi. Cái mà ta có thể
chắc chắn là cây sồi ta đang quan sát chính là đối tượng của nhận thức và vì vậy
nó là một phần của nhận thức, bởi vì nhận thức có hai phần, phần chủ thể và đối
tượng và vì vậy cây sồi đang đứng trước mắt ta, nó thật ra đang đứng trong tâm
thức ta. Và khái niệm về thời gian không gian cũng vậy và những cái đó là đối
tượng của nhận thức của ta.
Nếu ta tin tưởng rằng
cây sồi nọ đang đứng trong không gian của ta. Nếu ta tin tưởng rằng cây sồi đang
đứng trong không gian và thời gian hoàn toàn độc lập với cái biểu hiện của tâm
ta thì không chắc đâu. Ta cần phải suy gẫm lại điều điều đó.
Tâm thức biểu hiện
thành hai phần, phần chủ thể và phần đối tượng. Và nếu mình tin rằng phân nửa của
nhận thức luôn luôn nằm trong mình, độc lập hẳn với phần kia thì ta sai lầm. Ví
dụ như ăn (chủ thể) thì ta phải nói rõ ăn cái gì (đối tượng). Uống (chủ thể), uống
cái gì (đối tượng). Nhận thức cũng vậy. Nhận thức (chủ thể) về cây sồi hay về
người nào hay sự kiện nào (đối tượng). Thành ra người mình thương hay mình ghét
đều là đối tượng của tâm thức mình. Giống như cây sồi vậy thôi. Người ấy không
là một thực thể độc lập với tâm thức mình. Mình có thể nói phần lớn cái người
kia là biểu hiện của tâm thức của chính mình. Ví dụ như khi mình bị tiếng sét
ái tình với ai đó. Cái đối tượng của sự yêu thương của mình, tức là hình ảnh của
người mình yêu đều hoàn toàn tự vẽ ra trong tâm mình, mình vẽ một hình ảnh về
người đó hoàn toàn xa lạ với thực tế người đó. Mình cần phải sống chung, nhìn
sâu thấy kỹ người đó, ba năm sau, sáu năm mình mới nhận ra rằng cái hình ảnh đó
hoàn toàn do mình tự dựng lên. Nhưng nếu mình khám phá ra những điều mà mình
không thấy lúc ban đầu thì đó cũng là đối tượng của cái nhận thức của mình.
Tâm thức của mình, nó
có phần cá biệt mà cũng có phần cộng đồng. Ví dụ về cái đẹp. Có những cái gì được
mình và một người khác xem là đẹp bởi vì có phần tâm thức cộng đồng chen vào.
Ví dụ như mình đi ban đêm mình thấy một con ma hay một con rắn và mình la hoảng
lên nhưng Sư anh mình nói đó chỉ là biểu hiện của tâm mình chứ không thật. Mình
tức lắm và mình dẫn sư em tới, Sư em cũng thấy y như mình. Nhưng Sư anh nói dù
hai hay ba bốn người thấy thì cũng là biểu hiện của tâm thức cộng đồng của các
em thôi. Chúng ta nên nhớ không phải ba bốn người, có khi hàng trăm ngàn người,
thị trường chứng khoáng ở Paris New York đều như thế cả, cứ suy luận, tính toán
hô hoán lên, tuyên truyền… Thế là giá cả tăng vọt hay hạ thấp từ vàng tới đô la,
tới các thứ khác. Chỉ cần suy luận tính toán rồi tạo thành một loại tâm thức cộng
đồng, ảnh hưởng dây chuyền, tạo không biết bao nhiều là đau khổ. Tâm thức cá
nhân và tâm thức cộng đồng là những gì ta sẽ từ từ học sau.
Kỳ trước chúng tôi vẽ
5 múi quít để chỉ năm uẩn trong ta: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Mỗi một nhóm
như một dòng sông biến chuyển không ngừng. Tu học là nhận diện và từng giọt nước
trong những dòng sông ấy. Ta tiếp xúc với thân, quán sát những gì xảy ra trong
thân. Kế đó là tiếp xúc với từng cảm thọ trong ta. Sự phát sinh của một cảm thọ,
sự chuyển biến của cảm thọ đó. Ta cũng tập tiếp xúc với từng tri giác trong tâm
hành. Ta cũng tập tiếp xúc thật sâu sắc, từng hiện tượng sinh và tâm lý. Bụt có
dạy ta phương pháp tiếp xúc rất sâu sắc từng hiện tượng. Điều này ta đã học bằng
cách sử dụng ba cái chìa khóa pháp ấn: Vô thường, Vô ngã và Niết bàn để mở khóa
thực tại. Vì vậy khi ta tiếp xúc với một hiện tượng trong dòng sông Sắc. Ta tiếp
xúc bằng Chánh Niệm. Bởi vì Chánh Niệm là năng lượng duy nhất mà mình có thể sử
dụng để tiếp xúc. Khi mình dùng Chánh Niệm để tiếp xúc thì mình thấy sâu hơn
cái đối tượng của nhận thức mình. Ví dụ như ta tiếp xúc với lá gan của ta. Nếu
ta tiếp xúc bằng chánh niệm, ý thức sự hiện diện lá gan mình. Khi mình tiếp xúc
với lá gan bằng chánh niệm, như thế thì lá gan cảm nhận được và nghe sướng lắm
vì được chú ý. Nếu ta tiếp xúc sâu hơn thì mình thấy được tính cách vô thường của
lá gan, chuyển biến không ngừng.
Gan mình mạnh khỏe hồi
ba tháng trước, không có nghĩa là nó mạnh hoài nếu mình không giữ gìn chăm sóc
nó. Đồng thời mình cũng thấy được tính cách vô ngã của lá gan. Sự khỏe mạnh của
lá gan tùy thuộc vào sự mạnh khỏe của nhiều yếu tố không phải là gan, như là một
bộ phận tiêu hóa của mình, như là các thức ăn thức uống của mình. Khi mình thấy
được tính cách vô thường và vô ngã của lá gan mình, và mình thấy được những khó
khăn của nó, và mình bắt đầu hiểu và thương và chăm sóc nó. Chỉ khi hiểu sâu sắc,
mình mới có thể chăm sóc lá gan mình kỹ lưỡng hơn. Thành ra khi ta dùng ba cái
chìa khóa mà Bụt trao để mở cửa thực tại về lá gan của ta, ta mới hiểu nó sâu sắc
và mới thương mà chăm sóc thật sự và hành động có thể chuyển hóa tình trạng của
lá gan mình.
Điều này cũng đúng với
lá phổi hay trái tim hay các bộ phận khác. Mình sẽ không hút thuốc, uống rượu
và ăn uống bừa bãi để làm mệt gan, dơ phổi, nghẽn tim… Nếu mình tiếp xúc sâu sắc
thì mình mới tiếp xúc được chìa khóa thứ ba là Niết bàn và khi đó mình mới đạt tới
tình trạng nhẹ nhỏm là không còn sợ hãi.
Vô thường và Vô ngã
giúp mình khám phá hiện tượng về mặt phần Tích môn. Và nếu mình tiếp xúc sâu hơn
mình sẽ tiếp xúc được Bản môn của lá gan mình. Phương pháp này có thể dùng để
tiếp xúc với các bộ phận khác của cơ thể, của cảm thọ, của tri giác và của tâm
hành.
Cảm giác đau buồn, cảm
giác buồn giận, lo lắng... tất cả những cảm thọ đều có thể được tiếp xúc bằng
chánh niệm và ta nên đem ba chìa khóa trên ra mà sử dụng, để mở khóa thực tại về
từng tâm hành. Như thế, ta mới có thấy sâu sắc về Vô thường, Vô ngã và Niết bàn
của từng tâm hành. Đó là cốt tủy của thiền tập theo lời Bụt dạy và sự thực tập
trở nên dễ dàng thôi. Chính sự nghiên cứu về tâm thức có thể gtiúp mình làm việc
này dễ hơn. Thiền sư Thường Chiếu nói rằng: “Nếu mình hiểu sự vận hành của tâm
thức mình thì sự tu học trở nên dễ dàng hơn nhiều.” Vì vậy khi ta học về sự vận
hành của tâm, điều này giúp cho sự thực tập tu học trở nên dễ dàng và hiệu quả
hơn nhiều.
Xem Tiếp Bài Kệ 2 – Quay Về Mục Lục
0 Đánh giá